Tải bản đầy đủ (.doc) (38 trang)

Trọng yếu và qui trình đánh giá trọng yếu trong kiểm toán BCTC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (236.85 KB, 38 trang )

MỤC LỤC
DANH MỤC SƠ ĐỒ VÀ BẢNG BIỂU…………………………………...3
LỜI MỞ ĐẦU………………………………………………………………4
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ TRỌNG YẾU TRONG KIỂM
TOÁN VÀ QUY TRÌNH ĐÁNH GIÁ TRỌNG YẾU TRONG KIỂM
TOÁN BÁO CÁO TÀI CHÍNH…………………………………………...5
1.1 Lý luận chung về trọng yếu trong kiểm toán báo cáo tài chính………5
1.1.1 Khái niệm trọng yếu trong kiểm toán báo cáo tài chính……………...5
1.1.2 Các tiêu chuẩn đánh giá tính trọng yếu trong kiểm toán BCTC……...7
1.1.3 Rủi ro kiểm toán và mối quan hệ giữa trọng yếu và rủi ro kiểm toán
trong kiểm toán BCTC………………………………………………14
1.2 Quy trình đánh giá trọng yếu trong kiểm toán báo cáo tài chính….18
1.2.1 Ước lượng ban đầu về tính trọng yếu……………………………….19
1.2.2 Phân bổ ước lượng ban đầu về trọng yếu cho các khoản mục……....21
1.2.3 Ước lượng tổng số sai sót trong khoản mục………………………...23
1.2.4 Ước tính sai số kết hợp của toàn bộ BCTC………………………....23
1.2.5 So sánh sai số tổng hợp ước tính với ước lượng ban đầu (hoặc đã điều
chỉnh) về tính trọng yếu……………………………………………..23
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VỀ ĐÁNH GIÁ TRỌNG YẾU TRONG
KIỂM TOÁN BCTC CỦA CÁC CÔNG TY KIỂM TOÁN ĐỘC LẬP
TẠI VIỆT NAM…………………………………………………………..25
2.1 Thực trạng đánh giá trọng yếu trong kiểm toán BCTC của một số công
ty kiểm toán độc lập tại việt nam………………………………………….25
2.1.1 Ước lượng ban đầu về mức trọng yếu………………………………..25
2.1.2 Phân bổ ước lượng ban đầu về tính trọng yếu cho các khoản mục trên
BCTC……………………………………………………………………....26
2.1.3 Ước tính tổng số sai sót trên từng khoản mục ………………………28
Trần Thị Phúc Kiểm toán 48C
1
2.1.4 Ước tính tổng số sai phạm trên toàn bộ BCTC………………………30
2.1.5 So sánh sai số tổng hợp ước tính với ước lượng ban đầu ( hoặc đã điều


chỉnh) về tính trọng yếu …………………………………………………...30
2.2 Thực trạng chung về việc đánh giá trọng yếu trong kiểm toán báo cáo
tài chính của các công ty kiểm toán độc lập tại việt nam………………...31
CHƯƠNG 3: NHẬN XÉT VÀ CÁC GIẢI PHÁP VỀ VIỆC ĐÁNH GIÁ
TRỌNG YẾU TRONG KIỂM TOÁN BCTC DO CÁC CÔNG TY
KIỂM TOÁN ĐỘC LẬP VIỆT NAM THỰC HIỆN…………………...33
3.1 Nhận xét về việc dánh giá trọng yếu trong kiểm toán BCTC do các công
ty kiểm toán độc lập việt nam thực hiện……………………………33
3.1.1 Những kết quả đạt được …………………………………………….33
3.1.2 Những điểm còn tồn tại ……………………………………………...34
3.2 Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác đánh giá trọng yếu trong
kiểm toán BCTC do các công ty kiểm toán độc lập việt nam thực hiện…35
KẾT LUẬN………………………………………………………………..37
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………...38
Trần Thị Phúc Kiểm toán 48C
2
DANH MỤC SƠ ĐỒ VÀ BẢNG BIỂU
Sơ đồ 1.1 : Các bước trong qui trình đánh giá trọng yếu
Bảng 1.1 : Chỉ đạo chung về quy mô trọng yếu Công ty Hillsburg
Hardware
Bảng 2.1 : Bảng tính mức trọng yếu của AASC
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
BCTC : Báo cáo tài chính
KTV : Kiểm toán viên
KT : Kiểm toán
Trần Thị Phúc Kiểm toán 48C
3
LỜI MỞ ĐẦU
Trong những năm vừa qua, song hành cùng sự phát triển vượt bậc của
nền kinh tế thị trường là sự ra đời và phát triển ngày càng lớn mạnh của

nhiều doanh nghiệp trong và ngoài nước. Chính sự phát triển của các doanh
nghiệp này là động lực khiến cho ngành kiểm toán nói chung và kiểm toán
độc lập nói riêng đóng vai trò ngày càng quan trọng trong nền kinh tế. Nhu
cầu của người sử dụng báo cáo kiểm toán luôn ở mức lý tưởng, còn khả
năng đáp ứng của kiểm toán viên thì bị giới hạn bởi nhiều yếu tố trong đó
quan trọng nhất là sự chi phối của yếu tố thời gian và chi phí. Nói điều này
không có nghĩa là kiểm toán viên có thể lấy đây làm nguyên cớ để thực hiện
các cuộc kiểm toán hời hợt, kém chất lượng mà ngược lại người kiểm toán
phải thực hiện các thủ tục kiểm toán sao cho không những đảm bảo mà còn
phải ngày càng nâng cao chất lượng cuộc kiểm toán. Do báo cáo kiểm toán
chỉ có thể chứng nhận là BCTC “Trung thực và hợp lý trên mọi khía cạnh
trọng yếu” nên bản thân những người kiểm toán viên cũng phải có một “cột
mốc” đo lường mức độ sai lệch thế nào gọi là chấp nhận được để từ đó tiến
hành cuộc kiểm toán sao cho đảm bảo báo cáo tài chính không còn có sai
lệch trọng yếu. Mức sai lệch có thể chấp nhận đó là mức trọng yếu. Đối với
người kiểm toán mức trọng yếu như kim chỉ nam giúp họ lập kế hoạch kiểm
toán, thực hiện các thủ tục kiểm toán phù hợp và từ đó đưa ra ý kiến kiểm
toán thích hợp mà vẫn đảm bảo được tính hữu hiệu và hiệu quả của cuộc
kiểm toán.
Chính vì lẽ đó, em đã chọn đề tài “Trọng yếu và qui trình đánh giá
trọng yếu trong kiểm toán BCTC”. với mong muốn được tìm hiểu sâu hơn
về vấn đề này

Trần Thị Phúc Kiểm toán 48C
1
Đề tài này sẽ gồm có ba phần chính sau:
Phần 1: Lý luận chung về trọng yếu trong kiểm toán và qui trình đánh giá
trọng yếu trong kiểm toán báo cáo tài chính.
Phần 2: Thực trạng về đánh giá trọng yếu trong kiểm toán báo cáo tài chính
của các công ty kiểm toán độc lập tại Việt Nam.

Phần 3: Nhận xét và các giải pháp về việc đánh giá trọng yếu trong kiểm
toán BCTC do các công ty kiểm toán độc lập việt nam thực hiên.
Trong quá trình nghiên cứu được sự giúp đỡ tận tình của cô giáo Th.s
Nguyễn Thị Lan Anh đã giúp em hoàn thành đề án này. Em xin chân thành
cảm ơn cô giáo.
Trần Thị Phúc Kiểm toán 48C
2
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ TRỌNG YẾU TRONG KIỂM
TOÁN VÀ QUY TRÌNH ĐÁNH GIÁ TRỌNG YẾU TRONG KIỂM
TOÁN BÁO CÁO TÀI CHÍNH
1.1 Lý luận chung về trọng yếu trong kiểm toán báo cáo tài chính
1.1.1 Khái niệm trọng yếu trong kiểm toán báo cáo tài chính
Theo Từ điển tiếng Việt, “Trọng yếu là một tính từ để chỉ sự quan
trọng thiết yếu. Một sự vật hay một địa danh được đi kèm với trọng yếu đều
mang ý nghĩa quan trọng”. Trong mỗi lĩnh vực khác nhau, trọng yếu lại
mang một ý nghĩa cụ thể riêng.
Từ điển thuật ngữ kế toán - kiểm toán Anh -Việt ghi: “Trọng yếu là một
phạm trù dùng để chỉ vai trò then chốt của các thông tin mà nếu bỏ qua hoặc
hiểu sai nó có thể gây ảnh hưởng đối với quyết định của người sử dụng báo
cáo tài chính. Tính trọng yếu thường được xem xét cả về mặt định tính và
định lượng của sai phạm”. Khái niệm này đã chỉ ra quá trình đánh giá tính
trọng yếu cần phải được xem xét toàn diện trên cả “mặt định lượng và định
tính của sai phạm”, tức là xem xét cả về quy mô và bản chất của sai phạm
đó.
Trong văn bản chỉ đạo kiểm toán quốc tế số 25 (IAG 25) về trọng yếu
và rủi ro trong kiểm toán có nêu: “trọng yếu là khái niệm về tầm cỡ và bản
chất của sai phạm (kể cả bỏ sót) của thông tin tài chính hoặc đơn lẻ hoặc
từng nhóm mà trong bối cảnh cụ thể nếu dựa vào các thông tin này để xét
đoán thì sẽ không chính xác hoặc rút ra kết luận sai lầm”.
Trong kế toán, “trọng yếu” là một trong mười hai nguyên tắc kế

toán chung được thừa nhận. Nguyên tắc này chỉ rõ: “trong quá trình xem xét,
đánh giá BCTC nên chỉ chú trọng đến những vấn đề mang tính trọng yếu,
quyết định bản chất và nội dung của sự vật, không quan tâm tới các yếu tố
có ít tác dụng trong báo cáo tài chính”. Cách tiếp cận của nguyên tắc này đã
Trần Thị Phúc Kiểm toán 48C
3
cho thấy bản chất của trọng yếu. Khi thông tin quyết định “bản chất và nội
dung của sự vật” thay đổi thì “bản chất và nội dung của sự vật” đó sẽ thay
đổi, do vậy quyết định của người sử dụng thông tin cũng thay đổi.
Như vậy, nhìn chung trọng yếu xét trong mối quan hệ với nội dung
kiểm toán có thể hiểu là khái niệm chung chỉ tầm cỡ và tính hệ trọng của
phần nội dung cơ bản của kiểm toán có ảnh hưởng tới tính đúng đắn của việc
nhận thức, đánh giá đối tượng kiểm toán và việc sử dụng thông tin đá đánh
giá đó để ra quyết định quản lí. Trên góc độ của người sử dụng thông tin, nói
một cách đơn giản, một thông tin quan trọng và cần phải trình bày nếu có
khả năng ảnh hưởng tới quyết định của người sử dụng
1.1.2 Các tiêu chuẩn đánh giá tính trọng yếu trong kiểm toán BCTC
• Tính trọng yếu biểu hiện qua quy mô của các khoản mục
Quy mô của một sai phạm trên khoản mục, nghiệp vụ là một nhân tố
quan trọng để xác định tính trọng yếu của sai sót.Tuy nhiên, trong kiểm toán
khó có thể ấn định con số cụ thể về tầm cỡ cho những điểm cốt yếu của nội
dung kiểm toán, đặc biệt khi có yếu tố tiềm ẩn. Vì vậy, ranh giới của quy mô
khác nhau của đối tượng kiểm toán được xét chủ yếu trong quan hệ với mức
độ ảnh hưởng của các khoản mục, các nghiệp vụ đến kết luận kiểm toán từ
đó tới việc ra quyết định của người sử dụng thông tin đã được kiểm toán.
Quy mô của tính trọng yếu được xem xét trên hai góc độ: quy mô tuyệt đối
và quy mô tương đối.
Quy mô tuyệt đối là một con số tuyệt đối thể hiện mức quan trọng mà
không cần nhắc thêm bất kỳ một yếu tố nào khác. Tuy nhiên, trên thực tế
một quy mô tuyệt đối không phải là một con số trọng yếu đối với tất cả các

khách hàng kiểm toán. Nó có thể là trọng yếu đối với các doanh nghiệp này
nhưng sẽ không thể coi chắc chắn là trọng yếu nếu như xét đối với doanh
Trần Thị Phúc Kiểm toán 48C
4
nghiệp khác. Do đó trọng yếu là một khái niệm tương đối hơn là một khái
niệm tuyệt đối.
Quy mô tương đối là mối quan hệ tương quan giữa đối tượng cần đánh
giá với một số gốc. Số gốc thường khác nhau đối với mỗi tình huống. Chẳng
hạn, với báo cáo kết quả kinh doanh, số gốc có thể là doanh thu, thu nhập
thuần hoặc bình quân thu nhập của mấy năm gần đây. Hoặc với bảng cân đối
kế toán, số gốc có thể là tài sản ngắn hạn hoặc tổng tài sản. Thông thường ,
chỉ tiêu thu nhập thuần là chỉ tiêu được người sử dụng BCTC quan tâm nhất.
Do vậy, các KTV thường sử dụng số gốc là thu nhập thuần. Tuy nhiên, việc
sử dụng số gốc là thu nhập thuần sẽ không hiệu quả nếu như khách hàng
kiểm toán kinh doanh bị hoà vốn hoặc thua lỗ tại năm kiểm toán. Khi đó,
kiểm toán viên có thể thay số gốc bằng chỉ tiêu khác như doanh thu, bình
quân thu nhập mấy năm gần đây.
Ngoài ra, khi xem xét về quy mô của tính trọng yếu, kiểm toán viên cần
phải chú ý không chỉ quy mô tuyệt đối hay quy mô tương đối mà còn phải
cân nhắc cả sự ảnh hưởng luỹ kế của đối tượng xem xét. Theo đoạn 07,
chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 320 về “tính trọng yếu trong kiểm toán”:
“KTV cần xem xét tới khả năng có nhiều sai sót là tương đối nhỏ nhưng
tổng hợp lại có ảnh hưởng trọng yếu đến BCTC, như: một sai sót trong thủ
tục hạch toán cuối tháng có thể trở thành một sai sót trọng yếu nếu như sai
sót đó cứ tiếp tục tái diễn vào mỗi tháng”. Có nhiều sai phạm khi xem xét
chúng một cách cô lập thì chúng không đủ trọng yếu do quy mô nhỏ. Song
nếu KTV cộng dồn tất cả những sai phạm sẽ phát hiện thấy sự liên quan và
tính hệ thống của sai phạm và khi đó phát hiện tính trọng yếu của chúng.
Khi xác định tính trọng yếu trên phương diện quy mô của khoản mục,
nghiệp vụ, để đạt được hiệu quả cao nhất KTV cần quán triệt các nguyên tắc

cơ bản sau:
Trần Thị Phúc Kiểm toán 48C
5
Thứ nhất, quy mô trọng yếu phải được xác định. Tuỳ đối tượng cụ thể
(các bảng BCTC hay toàn bộ hệ thống kế toán hay thực trạng tài chính nói
chung) và khách thể kiểm toán (đơn vị kinh doanh công nghiệp, nông
nghiệp, xây lắp, thương mại, sự nghiệp…) và cần có sự am hiểu về tài chính
kế toán của khách thể kiểm toán.
Thứ hai, quy mô của các khoản mục, nghiệp vụ không chỉ xét về quy
mô bằng con số tuyệt đối mà phải trong tương quan với toàn bộ đối tượng
kiểm toán. Về định lượng đó là những tỉ lệ của các khoản mục, nghiệp vụ so
với một cơ sở để tính toán như tổng số tài sản, tổng doanh thu, lợi tức chưa
tính thuế… tuỳ quan hệ cụ thể với đối tượng cụ thể của kiểm toán có thể tính
riêng biệt hay cộng dồn các nghiệp vụ, các khoản mục cụ thể hay những sai
sót có liên quan.
Thứ ba, quy mô trọng yếu còn tuỳ thuộc vào từng cuộc kiểm toán có
đối tượng và mục tiêu khác nhau, chẳng hạn, kiểm toán tài chính hay kiểm
toán hiệu quả với chức năng xác minh hay tư vấn… chẳng hạn, đối với mục
tiêu quyền và nghĩa vụ, KTV luôn xác định một sự sai phạm không quá lớn
của khách hàng trong việc kê khai và nộp thuế cho Nhà nước là trọng yếu.
ngoài ra cần có sự am hiểu về tài chính kế toán của khách thể kiểm toán, các
quy định của pháp luật…
Như vậy, quy mô hay tầm cỡ của trọng yếu phụ thuộc vào rất nhiều yếu
tố khác nhau. Mặc dù không có một chuẩn mực chung nào quy định về qui
mô trọng yếu, nhưng thông thường các hãng kiểm toán quy định qui mô
trọng yếu trong chính sách của mình. Ví dụ như quy định về quy mô trọng
yếu theo đường lối chung của công ty Hillsburg Hardware như sau:
Trần Thị Phúc Kiểm toán 48C
6
Bảng 1.1: Chỉ đạo chung về quy mô trọng yếu

Công ty Hillsburg Hardware
Đối tượng kiểm
toán
Chắc chắn
không trọng
yếu
Có thể trọng yếu Chắc chắn
trọng yếu
Bảng cân đối kế
toán
SP <10% TTS 10% tts < sp < 15% TTS SP >15%
TTS
Báo cáo kqkd SP <5% LTT 5% ltt < sp < 10% LTT SP > 10%
LTT
Hàng tồn kho SP <2% HTK 2% HTK < sp < 3%
HTK
SP > 3 %
HTK
Trong đó: SP– sai phạm
TTS - tổng tài sản
LTT – lãi trước thuế
HTK – hàng tồn kho
Trong đó, đối với bảng cân đối kế toán, các sai phạm ở dưới mức tối
thiếu là 10% tổng thì được coi là chắc chắn không trọng yếu, các sai phạm
lớn hơn mức tối đa là 15% tổng tài sản thì được coi là chắc chắc trọng yếu.
Còn các sai phạm nằm trong khoảng 10% đến 15% tổng tài sản được coi là
có thể trọng yếu. Tổng số sai sót với báo cáo kết quả kinh doanh và hàng tồn
kho cũng được xem xét tương tự.
Khi đánh giá về trọng yếu, KTV không chỉ quan tâm đến quy mô mà
còn phải xem xét về bản chất của các khoản mục, nghiệp vụ để đưa ra những

quyết định đúng đắn nhất.
1.1.2.2. Tính trọng yếu biểu hiện qua bản chất của khoản mục, nghiệp vụ
Khái niệm trọng yếu gắn liền với tính hệ trọng của vấn đề xem xét.
Theo nguyên tắc kiểm toán quốc tế số 25, mục 07 quy định: “KTV xem lại
cả về mặt định tính và định lượng những sai sót mà mình quan tâm. Vì xét
Trần Thị Phúc Kiểm toán 48C
7
về định tính, các sai phạm có thể làm nảy sinh các vấn đề liên quan khác.
KTV cần đề phòng các sai phạm dù nhỏ nhưng có tính dây chuyền, ảnh
hưởng nghiêm trọng đến BCTC. Ví dụ một khoản thanh toán không hợp
pháp của một khoản mục tương đối quan trọng có thể coi là một sai lầm
nghiêm trọng nếu sai phạm này có tính dây chuyền dẫn đến các sai phạm về
công nợ, lỗ, tài sản và doanh thu. Một ví dụ khác về sai phạm mang tính
định tính: sự mô tả không đúng đắn, không xác đáng về chế độ kế toán có
thể dẫn đến việc những người sử dụng thông tin tài chính hiểu sai về bản
chất của vấn đề”
Như vậy, việc xác định tính trọng yếu chỉ mang lại hiệu quả khi KTV
căn cứ vào đặc điểm, đặc thù của doanh nghiệp, bản chất của các khoản
mục, nghiệp vụ. Khái niệm trọng yếu gắn liền với tính hệ trọng của vấn đề
xem xét. Đánh giá tính trọng yếu trong mối quan hệ với bản chất của các
khoản mục, nghiệp vụ thường xảy ra hai trường hợp:
Thứ nhất, các khoản mục, nghiệp vụ chứa đựng khả năng gian lận cao:
Với cùng một quy mô tiền tệ, gian lận thường được chú trọng hơn sai
sót bởi gian lận thường làm người ta nghĩ đến tính trung thực và độ tin cậy
của Ban giám đốc và những người có liên quan. Do đó, hành vi gian lận nào
cũng được coi là trọng yếu bất kể quy mô của nó là bao nhiêu. Các khoản
mục, nghiệp vụ có gian lận hoặc chứa đựng khả năng gian lận thường bao
gồm:
- Các nghiệp vụ đấu thầu và giao thầu, giao dịch không hợp pháp. Các
giao dịch không hợp pháp luôn bị pháp luật ngăn cấm.Trong thực tế, các

nghiệp vụ đấu thầu và giao thầu thường xuyên có gian lận vì có sự móc
ngoặc giữa chủ đầu tư hoặc cơ quan chỉ định thầu với bên nhận thầu nhằm
thu lợi bất chính, do đó sự gian lận này phải luôn được chú ý xem xét trong
quá trình kiểm toán, đặc biệt là kiểm toán công trình xây dựng cơ bản.
Trần Thị Phúc Kiểm toán 48C
8
- Các nghiệp vụ về thanh lý tài sản. Nghiệp vụ này sẽ xảy ra gian lận
khi công ty có chính sách bán ưu đãi tài sản thanh lý cho một số đối tượng,
thường là các nhân viên trong công ty. Khi đó thường xảy ra sự gian lận về
tình trạng và giá trị còn lại của máy móc, thiết bị … nhằm định giá thanh lý
thấp, công ty bị thiệt hại còn các đối tượng được mua ưu đãi sẽ hưởng lợi.
- Các nghiệp vụ về tiền mặt. Tiền mặt là loại tài sản có tính thanh khoản
cao nhất nhưng cũng dễ dàng xảy ra gian lận nhất. Quá trình gian lận đối với
các nghiệp vụ tiền mặt phát sinh từ khâu lập chứng từ cho đến khâu thanh
toán. Vì vậy quản lý tốt tiền mặt là một vấn đề khó khăn.
- Các nghiệp vụ mua bán và thanh toán. Có thể khẳng định đây là loại
nghiệp vụ thường xuyên phát sinh các gian lận nghiêm trọng như mua bán
khống những vẫn hợp lý hoá chứng từ, thoả thuận ngầm giữa bộ phận thu
mua với nhà cung cấp để hưởng lợi cá nhân …
- Các nghiệp vụ bất thường. Mặc dù không phát sinh thường xuyên
nhưng khả năng gian lận tiềm ẩn của các nghiệp vụ này luôn ở mức cao. Vì
vậy, KTV luôn phải chú ý tác động của các nghiệp vụ này đến BCTC khi nó
phát sinh.
- Các nghiệp vụ phân chia quyền lợi. Khoản mục lợi nhuận luôn chứa
đựng khả năng gian lận cao và bất kỳ sai sót đối với khoản mục này cũng
được xác định là nghiêm trọng. Trong quá trình phân chia lợi nhuận, các cá
nhân luôn có xu hướng thu lợi nhiều hơn cho mình, vì vậy KTV cần căn cứ
vào cơ sở phân chia lợi nhuận để tìm ra các gian lận.
- Các nghiệp vụ cố ý bỏ ngoài sổ sách. Bản thân hành vi cố ý bỏ ngoài
sổ sách đã là biểu hiện của sự gian lận nghiêm trọng. Chẳng hạn khi một

nghiệp vụ bán hàng cố ý không được ghi nhận thì khả năng doanh thu của
lượng hàng bán đó đã bị tham ô rất dễ xảy ra.
Trần Thị Phúc Kiểm toán 48C
9
- Các nghiệp vụ xảy ra vào cuối kỳ kế toán hoặc thuộc loại nghiệp vụ
mới phát sinh. Thời gian chuyển giao giữa niên độ kế toán mới và niên độ kế
toán cũ thường xảy ra gian lận vì kế toán thường thực hiện bút toán điều
chỉnh cho phù hợp với kế hoạch mà công ty đã đặt ra. Khi đó sẽ xảy ra
trường hợp các nghiệp vụ phát sinh cuối năm nay nhưng được ghi nhận vào
năm sau và các nghiệp vụ phát sinh đầu năm sau nhưng cố ý ghi nhận vào
năm nay…
- Các khoản mục có sửa chữa. Trong kế toán, việc sửa chữa các sai sót
phải tuân theo những quy tắc nhất định. Mặc dù vậy, ktv vẫn phải luôn nghi
ngờ thích đáng về lý do của hành vi sửa chữa. Bởi vì, chứng từ khoản mục
có sửa chữa rất có thể là hành vi gian lận của kế toán hoặc sự chỉ đạo từ phía
Ban giám đốc cho kế toán mà không có những căn cứ hợp lý.
Thứ hai, các nghiệp vụ thường xảy ra các sai sót hệ trọng, bao gồm:
- Các khoản muc, nghiệp vụ có sai sót ở quy mô lớn hoặc có chênh lệch
lớn so với kỳ trước hoặc với các căn cứ đối chiếu (dự toán, kế hoạch …). Để
phát hiện các sai sót này đòi hỏi kết quả kỳ trước hoặc các căn cứ đối chiếu
phải được xác định một cách hợp lý, chuẩn xác.
- Các nghiệp vụ vi phạm nguyên tắc kế toán và pháp lý nói chung. Tuy
nhiên sự vi phạm này phải xuất phát từ nguyên nhân không do lỗi cố ý. Nếu
vi phạm bắt nguồn từ việc cố ý thì hành động đó phải bị coi là gian lận chứ
không phải là sai sót và mức độ ảnh hưởng của nó sẽ nghiêm trọng hơn.
- Các khoản mục, nghiệp vụ có sai sót lặp lại nhiều lần. Ví dụ, khoản
mục doanh thu là khoản mục thường hay xảy ra sai sót về thời điểm ghi
nhận doanh thu. Đặc biệt nếu doanh thu của hàng xuất khẩu thì việc sai sót
trong thời điểm ghi nhân doanh thu sẽ tạo ra các khoản chênh lệch khi qui
đổi ra vnđ vì tỷ giá ngoại tệ luôn thay đổi. Qui mô của các sai sót này có thể

Trần Thị Phúc Kiểm toán 48C
10
không đủ lớn nhưng do lặp lại nhiều lần nên ảnh hưởng cộng dồn hay luỹ kế
của nó phải được đánh giá là nghiêm trọng.
- Các khoản mục, nghiệp vụ có ảnh hưởng trọng yếu đến kỳ sau. Khoản
mục chi phí trả trước dài hạn là một ví dụ điển hình cho trường hợp này.
Nếu có sai sót trong việc ghi nhận giá trị của khoản mục này thì quá trình
phân bổ chi phí không những chỉ ảnh hưởng tới kỳ kinh doanh hiện tại mà
còn ảnh hưởng đến các kỳ kinh doanh tiếp theo.
- Các khoản mục, nghiệp vụ là đầu mối hoặc hậu quả liên quan đến
nhiều khoản mục, nghiệp vụ khác. Khi có sai sót xảy ra ở các khoản mục
đầu mối này sẽ gây ra phản ứng dây chuyền dẫn đến sai sót ở các khoản mục
khác, vì vậy sai sót đó phải bị đánh giá là trọng yếu. Chẳng hạn nếu có sai
sót ở khoản mục chi phí sản xuất sẽ dẫn đến sai sót ở khoản mục hàng tồn
kho, khoản mục giá vốn hàng bán và từ đó dẫn đến sai sót ở khoản mục lợi
nhuận. Mặt khác, các sai sót ở khoản mục lợi nhuận thường bị đánh giá là
nghiêm trọng vì nó liên quan trực tiếp đến nghĩa vụ của doanh nghiệp đối
với nhà nước. Do đó, sai sót ở khoản mục chi phí sản xuất được xác định là
trọng yếu.
Như vậy để đánh giá toàn diện tính trọng yếu, KTV phải xem xét trên
cả mặt định tính và định lượng. Về nguyên tắc, KTV không được bỏ sót
khoản mục, nghiệp vụ nào. Tuy nhiên, KTV vẫn có xu hướng tập trung
nhiều hơn vào các khoản mục có sai sót hệ trọng hay khoản mục chứa đựng
khả năng gian lận cao. Bản thân khái niệm trọng yếu tự nó đã đặt ra yêu cầu
xác định nội dung kiểm toán với nguyên tắc không được bỏ sót các khoản
mục có quy mô lớn và có tính hệ trọng. Nếu vi phạm nguyên tắc này sẽ tạo
ra rủi ro kiểm toán
1.1.3. Rủi ro kiểm toán và mối quan hệ giữa trọng yếu và rủi ro kiểm toán
• . Rủi ro kiểm toán
Trần Thị Phúc Kiểm toán 48C

11
Trong kiểm toán nói chung và kiểm toán tài chính nói riêng, cũng như
khái niệm “trọng yếu”, rủi ro kiểm toán (Audit Risk – AR) là một vấn đề
quan trọng, kết hợp cùng với kết quả đánh giá trọng yếu để xây dựng nên
một kế hoạch kiểm toán hợp lí. Vì vậy, việc hiểu rõ và quản lý tốt rủi ro
kiểm toán là yếu tố quyết định trong việc hạn chế rủi ro kinh doanh của các
công ty kiểm toán.
Từ điển thuật ngữ kiểm toán - kế toán Anh - Việt ghi: “rủi ro kiểm toán
là một phạm trù dùng để chỉ trường hợp KTV đã đưa ra một ý kiến kiểm
toán không phù hợp với BCTC. BCTC đã được kiểm toán vẫn chứa đựng
những sai lầm nghiêm trọng”.
Trong các văn bản hướng dẫn (chỉ đạo) kiểm toán quốc tế, rủi ro được
định nghĩa như sau: “ rủi ro kiểm toán là những rủi ro mà KTV có thể mắc
phải khi đưa ra những nhận xét không xác đáng về các thông tin tài chính và
đó là sai sót nghiêm trọng”.
Do đối tượng kiểm toán là những thông tin được kiểm toán qua nhiều
giai đoạn bằng các bộ máy kiểm toán khác nhau nên rủi ro kiểm toán cũng
được xác định tương ứng với đối tượng kiểm toán từng loại: rủi ro tiềm tàng,
rủi ro kiểm soát, rủi ro phát hiện.
 Rủi ro tiềm tàng (Inherent Risk - IR):
là khả năng tồn tại các sai phạm trọng yếu trong bản chất các đối tượng
kiểm toán (chưa tính đến sự tác động của bất cứ hoạt động kiểm toán nào kể
cả kiểm soát nội bộ). Mức rủi tiềm tàng phụ thuộc vào đặc điểm tình hình
kinh doanh của khách thể kiểm toán, loại hình kinh doanh và cả năng lực
nhân viên của khách thể kiểm toán. KTV không tạo ra và cũng không kiểm
soát rủi ro kiểm soát, họ chỉ có thể đánh giá chúng.
Để đánh giá rủi ro tiềm tàng, KTV có thể dựa vào các yếu tố ảnh hưởng
như bản chất kinh doanh của khách hàng, tính trung thực của BGĐ, kết quả
Trần Thị Phúc Kiểm toán 48C
12

×