Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

Giao tiếp liên văn hóa trong bối cảnh toàn cầu hóa thách thứccơ hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (72.74 KB, 11 trang )

I. MỞ ĐẦU
Làn sóng tồn cầu hóa đã tác động đến tất cả các quốc gia trên thế giới,
đem đến cả cơ hội và thách thức mới đối với phát triển tồn cầu, trong đó có
phát triển văn hóa. Trong bối cảnh Việt Nam đang tiến hành sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, việc lựa chọn mơ hình phát triển văn hóa phù hợp là
hết sức quan trọng.
Tồn cầu hóa đã ảnh hưởng to lớn đến sự phát triển của các quốc gia,
đồng thời biến giao lưu, hội nhập văn hóa quốc tế trở thành một xu thế khách
quan. Ảnh hưởng của tồn cầu hóa đến văn hóa các quốc gia ln có cả mặt tích
cực và tiêu cực, cơ hội và thách thức. Vấn đề đặt ra là trước những cơ hội và
thách thức ấy, văn hóa của mỗi quốc gia sẽ thích ứng thế nào và phát triển ra
sao? Làm sao để lựa chọn mơ hình văn hóa phù hợp với những chuyển động của
lịch sử và thực tiễn phát triển đất nước?
Bước vào thiên niên kỷ thứ ba chúng ta đang chứng kiến những thay đổi
lớn diễn ra trên thế giới: đó là q trình tồn cầu hóa, sự bùng nổ thơng tin,
những tiến bộ khoa học cơng nghệ cao, đặc biệt là Internet, đó tạo ra những cơ
hội chưa từng có cho con người với xã hội. Tầm nhìn con người hiện đại vươn
xa ra thế giới bên ngồi, khơng cịn bó hẹp trong làng xóm, xã hội, đất nước
mình, nhờ đó tri thức được mở mang ra mọi lĩnh vực đời sống xã hội, văn hóa,
chính trị. Bên cạnh đó mâu thuẫn sắc tộc và tôn giáo xảy ra nhiều nơi, nảy sinh
những luồng tư tưởng dân tộc hẹp hòi, chủ nghĩa cực đoan, chủ nghĩa sơ vanh
nước lớn tái hiện. Do đó qua quá trình học tập và tìm hiểu, tác giả đã chọn đề tài
“ Giao tiếp liên văn hóa trong bối cảnh tồn cầu hóa: thách thức- cơ hội” để
có cái nhìn sâu và rộng hơn.


II. Một số khái niệm cơ bản về giao tiếp văn hóa
Giao tiếp liên văn hóa chính là sự giao tiếp giữa các nền văn hóa, giữa các
cộng đồng văn hóa khác nhau với những phương thức sống và thế giới quan
khác nhau. Bản thân sự giao tiếp liên văn hóa khơng phải là một hiện tượng mới
mẻ, mà đã trải qua lịch sử hàng ngàn năm, gắn liền với số phận của tất cả các


dân tộc, các cộng đồng người trên thế giới.
Giao tiếp liên văn hóa xuất hiện khi có ít nhất hai người đến từ hai nền
văn hóa hoặc hai tiểu văn hóa khác nhau trao đổi thông tin bằng các ký hiệu
ngôn từ hoặc phi ngôn từ. Nền văn hóa có thể là văn hóa của một quốc gia, dân
tộc, khu vực như văn hóa Nhật Bản, Việt Nam, Bắc Mỹ, Trung Đơng.
III. Vai trị và chức năng của giao tiếp liên văn hóa
Giao tiếp liên văn hóa được xem là một hiện tượng tất yếu của q trình
tồn cầu hóa, hội nhập quốc tế mà khơng một nền văn hóa nào có thể đứng
ngồi. Việc giao thoa văn hóa giúp cho mỗi nền văn hóa tiếp nhận những “luồng
gió” văn hóa mới, tiến bộ để làm phong phú, sâu sắc hơn giá trị văn hóa của
mình, đồng thời mở ra cơ hội quảng bá hình ảnh và những giá trị văn hóa của
mình ra bên ngoài. Do vậy, các quốc gia đều quan tâm, nghiên cứu quy luật, tác
động của giao tiếp liên văn hóa nhằm vận dụng những giá trị tích cực của giao
thoa văn hóa vào hoạch định chính sách ngoại giao văn hóa của nước mình.
Ở Việt Nam, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc, kế thừa truyền thống tốt đẹp của dân tộc, đồng thời tiếp thu tinh hoa văn
hóa nhân loại là một nội dung xun suốt trong q trình hoạch định chính sách
của Đảng và Nhà nước ta. Vì vậy, việc nghiên cứu một cách tổng quan, sâu sắc
hiện tượng giao tiếp liên văn hóa, q trình giao thoa văn hóa trên thế giới và
vận dụng lý luận, thực tiễn giao thoa văn hóa một cách hiệu quả vào việc hoạch
định chính sách ngoại giao văn hóa trong điều kiện, hồn cảnh trong nước, bối
cảnh quốc tế là một việc làm hết sức cần thiết.


Tồn cầu hố và truyền thơng tồn cầu đang làm cho giao tiếp liên văn
hố của các quốc gia có sự khác về cơ bản so với các giai đoạn trước. Nền văn
minh tin học với công nghệ thông tin và truyền thông hiện đại đã và đang làm
cho môi trường mới trở nên phức tạp, bất định và thường xun biến đổi. Ví dụ,
khoa học và cơng nghệ làm thay đổi quan niệm về không gian, thời gian; tạo ra
một xã hội số hóa, xa lộ thơng tin, làm rút ngắn khoảng cách giao lưu, quy mơ

và hình thức giao lưu văn hóa... Điều đó buộc con người phải tự biến đổi để
thích nghi và sáng tạo.
Các quốc gia, dân tộc ngày càng phải hướng đến những tiêu chuẩn chung
trong đánh giá, kể cả các tiêu chí trong thể thao, âm nhạc, các giá trị tinh thần
như nhân quyền, dân chủ... Việc ra đời và hoàn thiện của các công ước quốc tế
đã hướng các dân tộc phải chấp nhận những giá trị chung, như: sở hữu trí tuệ,
nhân quyền, đa dạng văn hóa, thống nhất văn hố, bảo vệ di sản văn hóa... Sự
tác động này địi hỏi các quốc gia thay đổi nhận thức và hành động thực tiễn:
phải tìm những lợi thế của mình để cạnh tranh (vốn, nguồn nhân lực, vốn văn
hóa, tài nguyên thiên nhiên…); coi trọng sự liên kết khu vực dựa trên những
điểm tương đồng, để tạo sức cạnh tranh; các sáng tạo của các dân tộc phải vừa
mang bản sắc, vừa phải hướng đến những giá trị chung của nhân loại.
Những xu hướng đang làm thay đổi thế giới hiện nay là: tồn cầu hố
kinh tế, khả năng liên kết tồn cầu, tính minh bạch trong giao dịch và sự thích
nghi xã hội, hiện đại hoá nền văn hoá của mỗi dân tộc. Các quốc gia đang tập
trung theo hướng: đầu tư cho lĩnh vực văn hố nhằm quảng bá hình ảnh dân tộc,
con người, văn hố của đất nước mình; đầu tư phát triển giáo dục, giáo dục quốc
tế, tạo điều kiện cho người nước ngồi sang đất nước mình du học; đầu tư mở
các trung tâm văn hoá của quốc gia mình ở nước khác; đầu tư cho lĩnh vực thể
thao, âm nhạc, các sự kiện văn hố, tơn vinh các vận động viên, ca sỹ; tôn trọng
sự thống nhất trong đa dạng, đối thoại, thân thiện; đề cao giá trị đạo đức gia
đình, giá trị xã hội; phát triển truyền thông...


So với trước đây, giao tiếp liên văn hoá diễn ra với nhiều hình thức mới.
Giao lưu, tiếp biến văn hóa chủ yếu được diễn ra thơng qua thơng tin đại chúng;
xuất nhập khẩu văn hóa phẩm; tín ngưỡng, tơn giáo; xuất nhập khẩu lao động,
du lịch, di dân nhập quốc tịch khác, du học; hợp tác giữa các chính phủ thông
qua các các dự án, nghị định về văn hóa, các cơng ước về văn hóa... Giao lưu,
tiếp biến văn hố mang tính thường xun, cập nhật hơn.

Thứ hai, các quốc gia cùng bị chi phối bởi những đặc điểm mới giao tiếp
liên văn hố. Đó là sự gia tăng áp lực từ các nền văn hóa của các nước phát triển
đối với các nước chưa phát triển; xu hướng vừa đấu tranh, vừa hợp tác giữa các
quốc gia, dân tộc; vấn đề bảo vệ sự đa dạng văn hóa, chống chủ nghĩa đế quốc
về văn hóa; giao lưu, tiếp biến văn hóa gắn với sự trao đổi hàng hóa văn hóa và
phát triển của nền cơng nghiệp, dịch vụ văn hóa, gắn với truyền thơng tồn cầu,
gắn với lợi ích kinh tế và chính trị.
Cũng có ý kiến chưa đồng tình với cách hiểu quá nhấn mạnh về áp đặt
văn hoá, xâm lăng văn hoá trong giao lưu và tiếp biến văn hoá giữa các quốc gia
hiện nay. Cho rằng văn hố là tự thân, văn hóa khơng phải là ý thức của tôi, của
anh hay của bất kỳ ai, mà thuộc về con người một cách tự nhiên, chính vì thế mà
sự hội nhập về mặt văn hóa là q trình con người đi tìm ngơn ngữ chung cho
một cuộc sống chung. Nhưng dù thế nào thì giao lưu và tiếp biến văn hoá cũng
đang diễn ra với tốc độ nhanh, quy mơ tồn cầu và tác động sâu sắc tới các lĩnh
vực của đời sống xã hội, thúc đẩy hội nhập văn hóa quốc tế ngày càng toàn diện.
Các quốc gia, dân tộc buộc phải thay đổi nhận thức và xây dựng, phát triển hệ
thống chính sách văn hố cho phù hợp.
IV. Đánh giá 6 mơ hình giao tiếp liên văn hóa
Từ luận điểm cho rằng các mơ hình, chuẩn mực và lí thuyết hiện hành về
năng lực giao tiếp liên văn hóa đều phần lớn do các học giả Âu-Mĩ thiết kế, thiết
lập và phát triển, Miike (2003) đã khẳng định ‘[…] hệ hình nổi trội của nghiên
cứu năng lực giao tiếp liên văn hóa khơng thể thốt khỏi các thiên kiến ngơn
ngữ, văn hóa, học thuật của tư tưởng Âu châu trung tâm (Eurocentrism)’.


Tác giả quan niệm rằng năng lực liên văn hóa cần được nhìn nhận, trước
hết, trong mối tương liên và tương tác với hành hiện liên văn hóa: khơng chỉ các
bình diện của năng lực liên văn hóa tương liên, tương tác nội tại mà, quan trọng
hơn, chúng phải được hành hiện hóa trong các sự kiện và tình huống giao tiếp
liên văn hóa cụ thể để kiểm chứng, điều chỉnh và củng cố các bình diện của năng

lực đó.
Thứ hai, năng lực liên văn hóa cần được nhìn nhận như ‘một hệ thống,
hay chí ít, một cơ chế có tính hệ thống, ở dạng thế năng bao gồm các yếu tố cấu
thành [nhận thức, phẩm chất, thái độ, kiến thức, kĩ năng] cùng các dạng thức,
cách thức kết nối [quan hệ tương liên, tương tác/q trình vận hành] hồn chỉnh
và sẵn sàng chuyển sang dạng động năng [khả năng] khi được kích hoạt trong
mơi trường tương tác liên văn hóa [hành hiện]. Nói một cách hình ảnh, ‘Năng
lực’ nói chung nên được ví như một mạng điện (hệ thống) có dịng điện chạy
qua (kiến thức, kĩ năng ...) và ở trạng thái sẵn sàng (khả năng) kích hoạt các
thiết bị điện (hành hiện)’ (Nguyễn Quang, 2016). Xét theo trục ‘Tâm-ÝHànhKhẩu’, năng lực thiên về ‘Tâm-Ý’ và hành hiện thiên về ‘Hành-Khẩu’ hay,
nói theo Hymes (1972) và Balboni & Caon (2014), năng lực thuộc về ‘trí não’
(mind) và hành hiện thuộc về ‘thế giới’ (world).
Thứ ba, vì con người tiên thiên vốn mang bản chất kép, không chỉ là sinh
thể xã hội (phải tương tác) mà còn là sinh thể ý thức (phải tư duy), nên nền tảng
của năng lực giao tiếp liên văn hóa phải là nhận thức (nhận thức bản thể, tự nhận
thức văn hóa, nhận thức giao văn hóa, nhận thức liên văn hóa, nhận thức nguy
cơ). Nhận thức đúng sẽ giúp ta tích tụ các phẩm chất cần có, hình thành các thái
độ tích cực, thụ đắc các kiến thức phong phú, phát triển các kĩ năng tồn diện
(năng lực giao tiếp liên văn hóa) để tham gia vào các sự kiện giao tiếp cụ thể
(hành hiện giao tiếp liên văn hóa). Các trải nghiệm hành hiện, đến lượt chúng,
lại góp phần điều chỉnh các kĩ năng, kiểm định các kiến thức, khẳng định các
thái độ tích cực, nâng cao các phẩm chất nhân văn và củng cố các nhận định
đúng đắn của năng lực liên văn hóa.


Thứ tư, năng lực giao tiếp liên văn hóa là một khái niệm động. Do vậy,
mơ hình của nó phải là mơ hình động: khơng chỉ là mơ hình ý niệm (conceptual
model), mơ hình tổ chức (organisational model) mà cịn phải là mơ hình vận
hành (operational model); và nếu xét đến vận hành, ta không thể tách năng lực
(competence) ra khỏi hành hiện (performance) bởi vì chúng tương sinh, tương

liên và tương tác (như đã đề cập ở luận điểm thứ nhất).
V. Cơ hội phát triển
Việt Nam có nền văn hóa đa sắc tộc mà tiến trình lịch sử cũng là q trình
tích hợp văn hóa tộc người để phát triển văn hoá quốc gia. Lịch sử giao lưu, tiếp
biến văn hóa cũng diễn ra hết sức đặc thù, đó là giao lưu, tiếp xúc văn hoá
thường gắn với tiếp biến chính trị.
Những bước ngoặt lịch sử này đã đặt văn hoá dân tộc trong mối quan hệ
biện chứng của hai mặt đối lập. Một mặt, đó là nguy cơ bị đồng hố về chính trị,
mất độc lập, chủ quyền, nguy cơ bị đồng hố, mất bản sắc, bị hồ tan văn hoá.
Mặt khác, đây cũng là thời cơ để Việt Nam được tiếp xúc, thu nhận những giá trị
của các nền văn hố khác (văn hóa Đơng Nam Á; văn hóa Hán; văn hóa Ấn Độ;
văn hóa Pháp và phương Tây; văn hóa xã hội chủ nghĩa và thế giới hiện nay).
Bài học kinh nghiệm và bản lĩnh tiếp xúc, tiếp biến văn hố thành cơng của ơng
cha ta cần phải được nghiên cứu và kế thừa.
Hai là, tác động của giao tiếp liên văn hóa, tiếp biến văn hoá thế giới đến
phát triển văn hoá dân tộc hiện nay
Về thời cơ: sự tác động này góp phần nâng cao vị thế văn hố Việt Nam
trong q trình phát triển, từ vị thế, ý thức và mục đích của chủ thể. Việt Nam
với tư cách là một quốc gia độc lập, tự do, một dân tộc có chủ quyền, có ý thức
về bản sắc và bản lĩnh trong quá trình tham gia giao lưu và hội nhập văn hố.
Đặc điểm này hoàn toàn khác với tư cách giao lưu và tiếp biến với văn hoá
Trung Hoa và với văn hoá Pháp và phương Tây trong lịch sử.


Qua giao tiếp liên văn hóa, thế giới hiểu được Việt Nam là quốc gia có cội
nguồn lịch sử văn hố lâu đời, nền văn hố đó đã được hình thành và trải qua
bao thăng trầm, tiếp biến. Thế giới cũng nhận thức được một nền văn hố Việt
Nam ln hướng đến những giá trị nhân văn, vì hồ bình và độc lập tự do,
“Khơng có gì q hơn độc lập tự do” (Hồ Chí Minh). Văn hố truyền thống Việt
Nam là nền văn hố bao dung, cởi mở, hồ đồng, có khả năng chuyển hố

những giá trị của nền văn hoá khác.
Phát triển văn hoá Việt Nam đã và đang hướng đến một nền văn hoá hiện
đại và hội nhập quốc tế. Trước hết đó là sự chủ động, giao lưu, hợp tác quốc tế
để phát triển văn hoá dân tộc. Việt Nam đã tiếp thu tư tưởng, quan điểm của thế
giới về vai trị của văn hố và phát triển văn hoá để phát triển bền vững con
người và xã hội. Vai trị của văn hố được nhận thức là nền tảng tinh thần của xã
hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội; bảo
đảm sự gắn kết giữa phát triển kinh tế và phát triển văn hoá, phát triển kinh tế là
trọng tâm, xây dựng Đảng là then chốt, phát triển văn hoá là nền tảng tinh thần
của xã hội; phát triển văn hoá và con người Việt Nam để phát triển bền vững đất
nước trong giai đoạn mới.
Thời cơ cũng đưa đến cơ hội để Việt Nam đổi mới tư duy về phát triển
văn hóa trong cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập quốc tế
ngày càng sâu rộng. Việt Nam trong phát triển nền văn hố mới có cơ hội để
chuyển giao vốn, khoa học kỹ thuật, công nghệ, kinh nghiệm hiện đại hóa nền
văn hóa dân tộc. Đây cũng là cơ hội để chúng ta tiếp cận thị trường hàng hóa và
dịch vụ văn hóa, tham gia thị trường văn hố phẩm quốc tế bình đẳng. Xuất,
nhập khẩu văn hóa tăng, đáp ứng nhiều nhu cầu văn hóa khác nhau, tiếp thu tinh
hoa của nhiều nền văn hóa khác, thúc đẩy sự sáng tạo mới.
VI. Thách thức
Trước hết là từ phương diện giá trị. Quá trình giao tiếp liên văn hóa, tiếp
biến văn hố trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay, vẫn là làm sao để khỏi
chệch hướng phát triển văn hoá: giữa giá trị xã hội, đạo đức, thẩm mỹ với giá trị


thương mại. Mặt khác, Việt Nam cũng như nhiều nước chưa phát triển, đang
phải chịu sự áp đặt trên thị trường văn hoá phẩm, chịu sự lấn lướt của các quốc
gia đang có ngành cơng nghiệp văn hố phát triển. Thứ ba, đó là nguy cơ sự tụt
hậu ngày càng xa về trình độ phát triển văn hố. Về cơ bản, Việt Nam hiện vẫn
đang là nước nghèo, phát triển ở trình độ thấp, quy mơ kinh tế nhỏ.

Nhận thức được sự tác động của giao lưu, tiếp biến văn hoá trong bối
cảnh mới cũng là cơ sở để nhận biết chính xác những yếu kém, bất cập trong
phát triển văn hố. Từ góc nhìn giao lưu, tiếp biến văn hố, trước hết đó là “loạn
chuẩn văn hố”.
Đó cịn là sự thụ động, bất lực trong việc tiếp nhận, tiếp biến và vận dụng
các giá trị văn hoá của thế giới để phát triển văn hoá dân tộc và hội nhập. Đội
ngũ cán bộ làm văn hố khơng am hiểu văn hoá dân tộc và thế giới. Tư tưởng
“vọng ngoại” đi liền với tâm lý mặc cảm, tự ti văn hoá; chạy theo giá trị kinh tế
trong phát triển văn hố. Tình trạng thương mại hóa, câu khách hoặc chạy theo
thị hiếu tầm thường, quá chú trọng chức năng giải trí, coi nhẹ giá trị nhân văn và
tính phản biện xã hội của nghệ thuật diễn ra khá phổ biến. Hoạt động quảng bá,
giới thiệu các giá trị văn hoá Việt Nam ra thế giới còn lộn xộn, tự phát.
Cùng với tình trạng trên, các nhà nghiên cứu cũng cảnh báo rằng, còn
nguy hại hơn cái phản giá trị (dễ nhận biết), là chúng ta đang bị đầu độc bởi
những sản phẩm thị trường tầm thấp. Nếu cứ chạy theo xu hướng thị trường tầm
tầm, chiều theo thị hiếu liệu chúng ta có xây dựng, phát triển được nền văn hố
tiên tiến, đậm bản sắc để hội nhập khơng? Chắc là khơng.
Trong các ngun nhân, có sự bất cập trong quản lý văn hoá. Sự bất cập
thể hiện ở chỗ không chặt chẽ, bất hợp lý, không khả thi từ việc xây dựng và ban
hành, thực thi hệ thống thể chế văn hoá và các dự án văn hoá. Thực tế nhiều
thập niên qua cho thấy các dự án về giáo dục đào tạo, điện ảnh, nghệ thuật, kinh
doanh dịch vụ văn hoá, xây dựng các thiết chế văn hoá… đầu tư nhiều, nhưng
hiệu quả rất thấp.



KẾT LUẬN
Bản thân sự giao tiếp liên văn hóa khơng phải là một hiện tượng mới mẻ,
mà đã trải qua lịch sử hàng ngàn năm, gắn liền với số phận của tất cả các dân
tộc, các cộng đồng người trên thế giới. Cho đến nay, khi bước vào thế kỷ XXI,

nhân loại đã đạt được những thành tựu to lớn về khoa học và công nghệ. Nhờ
các phương tiện truyền thông hiện đại, nhờ mạng internet, điện thoại di động,
điện thoại truyền hình, nhờ vơ số các kênh truyền thanh và truyền hình quốc tế,
nhờ sự phát triển mạnh mẽ của kỹ nghệ giao thông nội địa và quốc tế, nhất là kỹ
nghệ hàng không, v.v., cơ hội giao lưu, giao tiếp, đối thoại, học hỏi lẫn nhau
giữa các nền văn hóa và các cộng đồng văn hóa trên khắp hành tinh ngày càng
gia tăng mạnh mẽ. Trong bối cảnh ấy, tồn cầu hóa đã trở thành một xu thế lịch
sử không thể tránh khỏi, lôi cuốn tất cả các dân tộc, các nền văn hóa trên thế
giới. Do vậy, giao tiếp liên văn hóa đã trở thành một bộ phận không thể tách rời
của đời sống xã hội đương đại, trở thành lĩnh vực được nhiều ngành khoa học
quan tâm nghiên cứu, như nhân học, văn hóa học, sử học, xã hội học, tâm lý
học, v.v., đặc biệt là triết học liên văn hóa (the intercultural Philosophy).


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê Đức Thụ (2003). Cá thể ngôn ngữ dân tộc trong miêu tả so sánh-đối
chiếu văn hóa NgaViệt / Luận án TSKH. Matxcơva.
2. Koxtomarov V. (2008). Lời giới thiệu (trong cuốn X.G.Ter-Minaxova.
Chiến tranh và hịa bình của ngơn ngữ và văn hóa. Nxb.: Slovo, Matxcơva).
3. Phan Ngọc (1994). Văn hóa Việt Nam và cách tiếp cận mới. Nxb.: Văn
hóa-Thơng tin, Hà Nội.
4. Nguyễn Quang (2004). Một số vấn đề giao tiếp nội văn hóa và giao văn
hóa. Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.



×