Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

những bước phát triển đột biến của giao lưu văn hoá trong bối cảnh toàn cầu hoá

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (167.03 KB, 20 trang )

Bài tập lớn học kỳ - Môn Đại cương văn hố Việt Nam
A.LỜI MỞ ĐẦU
Giao lưu văn hóa là một quy luật của thời đại, là hiện tượng phổ biến của xã
hội lồi người. Nhờ giao lưu văn hố đúng hướng mà các nước chậm phát triển
có cơ hội trở thành nước phát triển. Trong mọi hoạt động văn hóa Ðảng và Nhà
nước ta bao giờ cũng nêu cao định đề biện chứng : kế thừa truyền thống tốt đẹp
của dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Trong q trình giao lưu văn
hóa với các nước phát triển, chúng ta đã tiếp thu nhiều tác phẩm tiêu biểu và
nhiều kinh nghiệm sáng tạo. Giao lưu văn hoá giúp giới thiệu lịch sử, đất nước,
con người, văn hóa Việt Nam với thế giới và giúp ngăn ngừa và đấu tranh chống
sự xâm nhập các sản phẩm văn hóa độc hại. Trong bối cảnh tồn cầu hố, quả
thực giao lưu văn hố đã có những bước phát triển đột biến và Việt Nam đã làm
những gì để tiếp thu tinh hoa văn hố nhân loại và giữ gìn bản sắc văn hố dân
tộc chính là đề tài mà em chọn trong bài viết này.
Trong qua trình làm bài, bài viết của em cịn nhiều thiếu xót, em mong nhận
được sự góp ý của thầy cơ và các bạn. Em xin chân thành cảm ơn!

B.NỘI DUNG
I. Giao lưu và tiếp biến trong tiến trình văn hố
Khái niệm giao lưu và tiếp biến văn hóa là hiện tượng xảy ra khi những
nhóm người (cộng đồng, dân tộc) có văn hóa khác nhau giao lưu tiếp xúc với
nhau tạo nên sự biến đổi về văn hóa của một hoặc cả hai nhóm. Giao lưu văn hóa
tạo nên sự dung hợp, tổng hợp và tích hợp văn hóa ở các cộng đồng. Ở đó có sự
kết hợp giữa các yếu tố "nội sinh" với yếu tố "ngoại sinh" tạo nên sự phát triển
văn hóa phong phú, đa dạng và tiến bộ hơn. Giao lưu và tiếp biến văn hóa là sự
tiếp nhận văn hóa nước ngồi bởi dân tộc chủ thể. Q trình này ln đặt mỗi
dân tộc phải xử lý tốt mối quan hệ biện chứng giữa yếu tố "nội sinh" và "ngoại
sinh". Trong lĩnh vực văn hóa chỉ có khái niệm "giao lưu và tiếp biến văn hóa"

MSV 351558 - Lớp NO3 – Nhóm 4


1


Bài tập lớn học kỳ - Môn Đại cương văn hố Việt Nam
chứ khơng có khái niệm "hội nhập văn hóa". Thuật ngữ hội nhập chỉ sử dụng cho
các lĩnh vực ngồi văn hóa, chẳng hạn như kinh tế...
Trước xu thế tồn cầu hóa, Đảng ta u cầu phải "Làm cho văn hóa thấm
sâu vào từng khu dân cư, từng gia đình, từng người, hồn thiện hệ giá trị mới của
con người Việt Nam, kế thừa các giá trị truyền thống của dân tộc và tiếp thu tinh
hoa văn hóa của lồi người, tăng sức đề kháng chống văn hóa đồi trụy, độc hại.
Nâng cao tính văn hóa trong mọi hoạt động kinh tế, chính trị, xã hội và sinh hoạt
của nhân dân"(Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2006, tr 213)
Như vậy giao lưu và tiếp biến văn hoá có vai trị hết sức quan trọng trong
tiến trình phát triển văn hoá của một dân tộc. Nhưng giao lưu như thế nào, tiếp
biến như thế nào để vừa giữ gìn, bảo tồn, vừa phát triển văn hố dân tộc. Đó là
câu hỏi lớn đặt ra cho chúng ta nhất là trong thời đại ngày nay.
II. Những bước phát triển đột biến của giao lưu văn hố trong bối cảnh
tồn cầu hố.
Giao tiếp liên văn hóa chính là sự giao tiếp giữa các nền văn hóa, giữa các
cộng đồng văn hóa khác nhau với những phương thức sống và thế giới quan khác
nhau. Bản thân sự giao tiếp liên văn hóa khơng phải là một hiện tượng mới mẻ,
mà đã trải qua lịch sử hàng ngàn năm, gắn liền với số phận của tất cả các dân
tộc, các cộng đồng người trên thế giới. Cho đến nay, khi bước vào thế kỷ XXI,
nhân loại đã đạt được những thành tựu to lớn về khoa học và công nghệ. Nhờ các
phương tiện truyền thông hiện đại, nhờ mạng internet, điện thoại di động, điện
thoại truyền hình, nhờ vơ số các kênh truyền thanh và truyền hình quốc tế, nhờ
sự phát triển mạnh mẽ của kỹ nghệ giao thông nội địa và quốc tế, nhất là kỹ nghệ
hàng không, v.v., cơ hội giao lưu, giao tiếp đối thoại, học hỏi lẫn nhau giữa các
nền văn hóa và các cộng đồng văn hóa trên khắp hành tinh ngày càng gia tăng

mạnh mẽ. Trong bối cảnh ấy, tồn cầu hóa đã trở thành một xu thế lịch sử không
MSV 351558 - Lớp NO3 – Nhóm 4

2


Bài tập lớn học kỳ - Môn Đại cương văn hố Việt Nam
thể tránh khỏi, lơi cuốn tất cả các dân tộc, các nền văn hóa trên thế giới. Ngày
nay, thế giới đang bộc lộ khuynh hướng đa dạng hoá các nền văn hoá và phát
triển được xem như là sự gia tăng trong giao lưu toàn cầu một cách chặt chẽ.
Những nghiên cứu liên văn hoá cũng như nghiên cứu về các nền văn minh thế
giới đã trở thành một ngành nghiên cứu ngày càng phát triển với tính cách một
khoa học liên ngành được giới học thuật quốc tế rất quan tâm.
Văn hoá theo nghĩa rộng (bao gồm văn hoá tinh thần, văn hoá hệ thống, văn
hoá vật chất) là ý nghĩa cụ thể của văn minh; còn văn hố theo nghĩa hẹp là triết
học với tính cách hạt nhân lý luận và hình thái tinh thần của văn minh chính là
hiện thân của hệ tư tưởng thời đại (tinh thần thời đại).
Trong quá trình lịch sử lâu dài, các dân tộc trên thế giới đã sáng tạo nên
những nền văn hoá, những truyền thống, những niềm tin, những giá trị riêng biệt
của họ; đã sinh thành những nền văn minh lâu đời và đa sắc. Theo quan điểm
tồn diện về lịch sử, một hình thức văn minh không thể khởi phát và tiến bộ
trong sự tự khép kín và tách biệt. Xu thế chủ đạo trong tiến trình vận động của
nền văn minh thế giới là các nền văn minh khác nhau luôn được làm phong phú
và phát triển trong sự giao lưu hài hoà và học tập lẫn nhau. Giao lưu liên văn hoá
đã trở thành một động lực thúc đẩy sự tiến triển của các nền văn minh thế giới
qua mọi thời đại.
Xem xét lịch sử phương Tây, chúng ta thấy rằng, nền văn minh Hy Lạp - La
Mã cổ đại tiếp diễn hơn một ngàn năm chính là nguồn gốc của văn minh Tây Âu,
thậm chí là của tồn bộ nền văn minh phương Tây. Nó đã xác lập cơ sở vững
chắc cho truyền thống lý tính khoa học và đặc trưng nhân văn trong nền văn

minh phương Tây. Tuy nhiên, sự tiến hoá của nó khơng được hiểu là sự tự khép
kín và tự cơ lập. Cho dù có những khác biệt rõ ràng giữa nền văn minh Hy Lạp La Mã cổ đại với các nền văn minh phương Đông (Cận Đông và Bắc Phi), song,
chính nền văn minh Hy Lạp - La Mã đã tiếp thu những thành quả tốt đẹp của các
MSV 351558 - Lớp NO3 – Nhóm 4

3


Bài tập lớn học kỳ - Môn Đại cương văn hố Việt Nam
nền văn minh phương Đơng, sớm đạt được những kết quả văn hố đa sắc thơng
qua giao lưu liên văn hố với các nền văn minh phương Đơng và nhờ đó, cảm
hứng của các dân tộc Hy Lạp - La Mã đã được thổi bùng lên. Minh triết đa quốc
tịch của cả các vùng phương Tây lẫn các vùng phương Đông đã hội tụ lại với
nhau và tạo thành nền văn hoá Hy Lạp - La Mã rực rỡ. Tư tưởng khoa học và tôn
giáo của Tây Á và Ai Cập cịn góp phần đáng kể vào sự hình thành và phát triển
của triết học Hy Lạp cổ điển. Điều đặc biệt là, những thành tựu nổi bật về thiên
văn học, toán học, thần thoại ở Ai Cập và Babilon đã thực hiện chức năng động
cơ cho sự nảy sinh của triết học Hy Lạp và tôn giáo có liên quan. Sự giao lưu
tồn thế giới giữa văn hóa phương Đơng và văn hố phương Tây chính là đặc
điểm chủ yếu của các nền văn minh Hy Lạp và La Mã. Triết học Hy Lạp - La Mã
hậu kỳ còn tiếp nhận một cách trực tiếp hơn những ảnh hưởng từ tri thức khoa
học, từ các tôn giáo khác nhau và từ triết học tôn giáo của thế giới phương Đông.
Hầu như tất cả những học thuyết của các trường phái triết học chủ yếu đều mang
đặc điểm của các nền văn hố hội tụ phương Đơng và phương Tây. Cụ thể là,
đạo Do Thái và Cơ Đốc giáo sơ kỳ trong nền văn hố Hêbrơ, hình mẫu đặc biệt
của nhất thần luận, đã đồng quy [converge] một cách dần dần với triết học Hy
Lạp và La Mã, đưa triết học Hy Lạp - La Mã hậu kỳ đến một kết cục hợp nhất
với tơn giáo. Nhờ có sự đồng quy như vậy mà thần học và triết học Cơ Đốc giáo
mới gây nên những ảnh hưởng mạnh mẽ và lâu dài đối với văn minh phương
Tây.

Trong những giai đoạn khác nhau của nó, cũng nhờ vào sự giao lưu liên văn
hố dưới nhiều hình thức, nền văn minh rực rỡ và trải nhiều thế kỷ của Trung
Hoa, với khả năng thâu tóm một cách khái quát những cái xa lạ và hướng đến hài
hoà, đã liên tục hấp thu những thành quả tốt đẹp trên nhiều mặt của văn minh
bên ngoài để tự làm giàu và phát triển chính mình. Ngay từ thế kỷ đầu tiên,
Trung Quốc, Ấn Độ, Trung Đông và châu Âu đã khai phá và mở rộng “con
MSV 351558 - Lớp NO3 – Nhóm 4

4


Bài tập lớn học kỳ - Môn Đại cương văn hoá Việt Nam
đường tơ lụa trên đất liền và “con đường tơ lụa trên biển”. Sự giao lưu liên văn
hoá đa dạng thường xuyên của họ, trong đó có giao lưu về kinh tế và tinh thần,
đã thúc đẩy một cách có hiệu quả tiến bộ chung của nền văn minh Trung Hoa
cũng như một số nền văn minh khác ở châu Á và châu Âu. Trong sự giao lưu
liên văn hoá giữa Trung Quốc và Ấn Độ kể từ triều Hán và triều Đường, Phật
giáo và triết học Phật giáo đã được truyền bá trong tầng lớp dân thường cũng
như giới tri thức. Sự giao lưu đó đã làm nảy sinh một số trường phái Phật giáo và
triết học Phật giáo mang đặc trưng Trung Hoa (chẳng hạn như trường phái Thiên
Thai tông, Pháp Tướng tông, Hoa Nghiêm tông, Thiền tông v.v. ), những cái đã
trở thành bộ phận của truyền thống văn hoá Trung Quốc. Sự thẩm thấu lẫn nhau
của chúng và sự hấp thu Khổng giáo cũng như Đạo giáo nguyên nghĩa đã ảnh
hưởng đáng kể đến sự tiến hoá của triết học và truyền thống văn hố Trung Hoa.
Đây là một thí dụ về giao lưu liên văn hố thành cơng. Kể từ đời Đường ở thế kỷ
thứ VII đã xuất hiện giao lưu liên văn hố thành cơng, hài hồ giữa văn minh
Trung Hoa và văn minh Hồi giáo. Cho đến nay, một nhà thờ Hồi giáo mang
phong cách Trung Hoa vẫn tồn tại ở Tây An - một thủ đô cổ xưa của Trung
Quốc; nó vẫn giữ được bút tích của hồng đế nhà Đường. Trong nhà thờ này,
chúng ta có thể tìm thấy sự giao lưu và sự hồ hợp giữa văn hố truyền thống

Trung Hoa với văn hố tơn giáo của đạo Hồi. Từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII,
nhờ có giao lưu liên văn hoá giữa Trung Quốc và thế giới phương Tây được thực
hiện bởi các nhà truyền giáo tới Trung Quốc, giới trí thức Trung Quốc bắt đầu
tiếp xúc và hiểu được tư tưởng triết học cũng như tư tưởng khoa học của Hy
Lạp; và, cùng với Matteo Ricci, một nhà truyền giáo người ý có tên Trung Quốc
là Lý Mã Đậu, họ đã nghiên cứu so sánh giữa Khổng học với học thuật phương
Tây. Mặt khác, một số nhà truyền giáo đã xuất khẩu rất nhiều kinh điển Trung
Hoa ngược trở lại châu Âu. Văn minh Trung Hoa đã đóng vai trị tích cực trong
thời Khai sáng Pháp thế kỷ XVIII và được các nhà trọng nông đặc biệt ca ngợi.
MSV 351558 - Lớp NO3 – Nhóm 4

5


Bài tập lớn học kỳ - Môn Đại cương văn hố Việt Nam
Lý tính khoa học và tinh thần nhân văn của triết học và văn hoá phương Tây, đặc
biệt là những tư tưởng về khoa học và dân chủ, được Nghiêm Phục và các triết
gia Trung Quốc khác truyền bá vào đất nước này từ cuối thế kỷ XIX, đã đóng vai
trị quan trọng trong việc khai sáng cho Trung Quốc hiện đại.
Từ tấm gương lịch sử trên đây, chúng ta có thể rút ra kết luận: sự xung đột
giữa các nền văn minh trên thế giới chỉ là nhất thời, ln có tính huỷ hoại, nó
khơng phải là động lực cho sự phát triển văn hố; chỉ có sự giao lưu hồ bình và
đồng quy hài hồ giữa các nền văn minh khác nhau mới là xu thế chủ đạo của
tiến bộ nhân loại và là một động lực quan trọng cho phát triển văn hoá. Sự phát
triển về mặt lịch sử của nhân loại là quá trình thường xuyên trao đổi, đồng quy
và cách tân giữa các nền văn minh khác nhau. Tất cả những nền văn minh khác
nhau trong lịch sử nhân loại đều đã và đang góp phần vào tiến bộ nhân loại tuỳ
theo phong cách riêng của mình. Thế giới ngày nay nên tránh và loại trừ nguy cơ
xung đột văn minh. Sự khác biệt về hệ tư tưởng, về hệ thống xã hội và mơ hình
phát triển khơng được trở thành rào cản đối với sự giao lưu văn minh thế giới,

thậm chí không được trở thành nguyên nhân của sự đối lập. Hồ bình và phát
triển lợi ích chung là xu hướng có tính bản chất và là giá trị của tồn nhân loại
trên hồn cầu này. Nói cụ thể hơn, điều quan trọng là cần ủng hộ sự giao lưu liên
văn hóa hợp lý và thực hiện sự thống nhất hài hoà dựa trên sự đa dạng về văn
minh và văn hố vì tiến bộ chung của các nền văn minh thế giới.
Bản báo cáo Hành tinh đa văn hoá của Nhóm chuyên gia quốc tế thuộc
UNESCO đã chỉ rõ: “Tương lai của nhân loại không thể được mô tả như là sự
thống nhất mà khơng có đa dạng hay đa dạng mà khơng có thống nhất. Thách
thức đối với tất cả những người đương thời là xây dựng một thế giới như vậy, và
trên tất cả là thách thức đối với những nền văn hoá làm cơ sở cho thế giới quan
và hệ giá trị của họ”(l). Trong xu thế tồn cầu hố thế giới ngày nay, điều cần
tránh là việc biến các nền văn minh đa dạng thành sự đồng quy về một nền văn
MSV 351558 - Lớp NO3 – Nhóm 4

6


Bài tập lớn học kỳ - Môn Đại cương văn hoá Việt Nam
minh độc nhất và khiến cho các nền văn hố trở nên thuần nhất. Chúng ta nên
duy trì sự đa dạng hiện tồn của các nền văn minh và văn hoá. Mặt khác, điều cần
thiết là thúc đẩy đối thoại giữa các nền văn minh khác nhau, gia tăng sự hiểu biết
lẫn nhau, loại bỏ những hố sâu ngăn cách nào đó, hồ giải những đối kháng,
chống lại “xung đột giữa các nền văn minh”, từ đó hiện thực hoá sự thống nhất
của các nền văn minh và văn hố cũng như thực hiện tồn cầu hố về nhân tính
dựa trên cả sự đa dạng và sự thống nhất của các nền văn minh thế giới. Giao lưu
liên văn hố hợp lý chính là con đường quan trọng để đạt được mục tiêu cao quý
này.
Bất kỳ nền văn hố nào cũng khơng thể gạt bỏ truyền thống văn hoá đã tiến
hoá ở mức độ nhất định. Sự thấu hiểu liên văn hoá cũng bao hàm sự thấu hiểu
lẫn nhau giữa hai kiểu truyền thống văn hoá động là “văn hố bản địa” và “văn

hố bên ngồi”. Chú giải học triết học của H.G.Gadamer khẳng định rằng, truyền
thống - với tính cách là hợp lưu của những định kiến được lưu giữ bởi lịch sử chính là tiền đề cho hành vi thấu hiểu mang tính người, đồng thời con người
cũng tham dự vào sự tiến hoá của truyền thống thông qua hoạt động lý giải và
thấu hiểu sáng tạo của họ. Chúng ta có thể áp dụng quan điểm này để lý giải
rằng, hai truyền thống khác nhau của “văn hóa bản dài và “văn hố bên ngồi”
đều đạt được sự hợp lưu và hoà hợp của hai tầm nhìn trong sự thấu hiểu lẫn nhau
của chúng, do đó thúc đẩy sự tiến hố của chính mình trong sự giao lưu liên văn
hóa.
Tính liên văn hố là một thuộc tính bản chất, là chức năng của thấu hiểu
liên văn hoá và cũng là kết quả của giao lưu liên văn hóa. Một mặt, nó biểu thị
một vai trị trung gian xuất hiện trong sự tương tác và lý giải đối với “văn hoá
bản địa” và “văn hoá bên ngồi”, nó giống như quy tắc “trung dung” của Nho
giáo. Mặt khác, nó có nghĩa là hai nền văn hố khác nhau tạo nên sự “đồng tâm
chéo” nào đó trong khi cùng lý giải, xây dựng lẫn nhau và thực hiện sự đồng
MSV 351558 - Lớp NO3 – Nhóm 4

7


Bài tập lớn học kỳ - Môn Đại cương văn hoá Việt Nam
nhất trong đa dạng văn hoá. Giao lưu liên văn hoá làm cho các quan hệ phức tạp
của sự tương đồng và dị biệt đan xen vào nhau, biểu hiện thành một số phương
thức như tính bù trừ, tính cân xứng hay bất hồ và bất cân xứng. Nếu khơng có
giao lưu, sự bất hồ và bất cân xứng thái quá - những cái tiêu biểu cho tính liên
văn hoá tiêu cực - rất dễ dẫn đến xa cách, thậm chí là xung đột giữa các nền văn
hố khác nhau. Việc tìm kiếm những tương đồng trong khi vẫn duy trì khác biệt,
“hài hồ trong đa dạng”, nói lên tính liên văn hố tích cực, hợp lý, được hiểu như
là mục tiêu đích thực của giao lưu liên văn hố. Điều này cũng có nghĩa là thực
hiện sự đồng nhất của các nền văn minh đa dạng, thúc đẩy sự cộng tồn hài hoà
và tiến bộ chung của các nền văn minh thế giới. Chúng ta hãy xem xét một thí

dụ: những học thuyết triết học của Khổng Tử và Xơcrát, vốn có ảnh hưởng sâu
sắc đối với truyền thống văn minh Trung Quốc và phương Tây, cho đến ngày
nay có cả sự đồng nhất lẫn tính đặc thù. Điều đó nói lên rằng, cả truyền thống
triết học Trung Quốc lẫn truyền thống triết học phương Tây trong hai nền văn
minh đều có thể thấu hiểu, chuyên chở lẫn nhau và đều thực hiện được tính liên
văn hố tích cực trong giao lưu liên văn hố.
Tâm thế liên văn hoá là một tâm thế để con người ứng xử với mối quan hệ
giữa “văn hoá bản địa” và “văn hố bên ngồi” trong hoạt động thực tiễn liên
văn hoá. Tâm thế liên văn hoá hợp lý phải tuân thủ nguyên tắc đạo đức của giao
lưu liên văn hoá sao cho nó thành cơng và có hiệu quả. Trong bối cảnh tồn cầu
hố và thách thức đối với nền văn hoá đa nguyên, việc xác lập tâm thế liên văn
hoá hợp lý là điều đặc biệt quan trọng và những nghiên cứu về đạo đức học quốc
tế có liên quan đến giao lưu liên văn hoá cần được đào sâu hơn nữa. Tuy nhiên,
chúng ta có thể khẳng định ba nguyên tắc đạo đức cơ bản của sự giao lưu:
Thứ nhất là sự tôn trọng lẫn nhau. Chúng ta đang sống trong một xã hội
giao lưu tồn cầu hố và trong bối cảnh ràng buộc lẫn nhau, đang hoạt động
trong điều kiện của những sự phát triển và những nền văn hoá đa dạng cũng như
MSV 351558 - Lớp NO3 – Nhóm 4

8


Bài tập lớn học kỳ - Môn Đại cương văn hoá Việt Nam
trong sự giao lưu giữa các truyền thống văn hố khác nhau. Sự tơn trọng lẫn
nhau đối với các truyền thống văn hoá dân tộc là tiền đề đầu tiên của sự giao lưu
liên văn hoá. Các nền văn hố đa dạng đều bình đẳng với nhau, dù ở đất nước
nào, lớn hay nhỏ; đều phải tôn trọng truyền thống văn hoá của bên kia và thừa
nhận vai trị quan trọng của nó trong việc duy trì bản sắc của nền văn hố dân
tộc. Chỉ có thừa nhận tâm thế tơn trọng lẫn nhau thì mới có thể đạt đến sự thấu
hiểu liên văn hoá lẫn nhau. Điều này có thể đưa đến sự chung sống hồ bình giữa

các nền văn minh thế giới thay vì xung đột, đối thoại thay vì đối kháng, giao lưu
hài hồ thay vì ghê sợ và cơ lập và từ đó thực hiện được sự “hài hồ trong khác
biệt” như là tính liên văn hố tích cực.
Thứ hai là sự khoan dung lẫn nhau. Bên cạnh thái độ tôn trọng nền văn hố
bên ngồi, giao lưu liên văn hố tích cực cịn đòi hỏi một tâm thế khoan dung đối
với nền văn hoá ấy. Khoan dung là yêu cầu nguyên thuỷ của giao lưu liên văn
hố, là nhân tố mang tính cấu thành và biểu hiện tính liên văn hóa tích cực. Nó
biểu thị một sự thừa nhận hai chiều và chấp nhận khác biệt của bên kia. Khoan
dung đối với cái “khác” cũng là khoan dung đối với cái “ngã”. Điều này cịn có
nghĩa là khơng được áp đặt bất cứ cái gì mà cái “khác” khơng thể chấp nhận.
Đây chính là nguyên tắc vàng như lời của Khổng Tử: “Điều khơng muốn xảy ra
với mình thì cũng đừng làm với người khác”. Khoan dung lẫn nhau thay vì ghê
sợ có thể đem lại cơ sở cho giao lưu và thấu hiểu lẫn nhau, có thể đem đến đối
thoại bình đẳng và lành mạnh giữa các nền văn hoá và văn minh khác nhau thay
vì đối kháng hay xung đột.
Thứ ba là sự cộng tác với nhau. Hình thức cộng tác này khơng chỉ có nghĩa
là cùng xác định những ứng xử trong giao lưu với nhau mà còn biểu thị sự tương
tác hài hoà, chủ động và sự thẩm thấu giữa “văn hóa bản địa” với “văn hóa bên
ngồi”, sự đồng quy của hai tầm nhìn, sự nghiên cứu và sử dụng tham chiếu lẫn
nhau, sự hấp thụ những nhân tố có ích từ đối tác để làm giàu và phát triển nền
MSV 351558 - Lớp NO3 – Nhóm 4

9


Bài tập lớn học kỳ - Môn Đại cương văn hố Việt Nam
văn hố của chính mình vì tiến bộ chung của các nền văn minh khác nhau. Tất
nhiên, sự hấp thụ văn hố bên ngồi như thế khơng phải là sự chuyển giao hay
cấy ghép máy móc bởi, nếu như vậy, nó sẽ gây nên sự cứng nhắc và đoạn tuyệt
với văn hố bản địa. Cả hai phía đều phải chuyển tải những nhân tố hợp lý, có

ích của bên kia vào bối cảnh của mình, sửa đổi và phát huy chúng, làm cho
chúng trở nên hữu ích đối với sự phát triển chung, cách tân nền văn hoá của
mình vá thực hiện một cách thực sự tính đồng nhất và tính liên văn hố tích cực
của các nền văn minh đa dạng trên thế giới.
Triết học là hạt nhân lý luận của văn hoá, là linh hồn sống của nền văn minh
và đóng vai trị quan trọng trong tiến trình của các nền văn minh thế giới.
III. Việt Nam đã làm những gì để tiếp thu tinh hoa văn hố nhân loại
và giữ gìn bản sắc dân tộc.
Để giữ gìn, kế thừa, phát triển bản sắc văn hóa dân tộc, chúng ta cần đẩy
mạnh hơn nữa việc xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc, thực sự coi đó vừa là mục tiêu vừa là động lực phát triển kinh tế - xã
hội. Văn hóa dân tộc là một chỉnh thể đồ sộ, phong phú bao gồm tri thức, tư
tưởng, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, pháp luật, phong tục, tập quán, truyền
thống… nó vừa là “trầm tích” của tình cảm và ý thức dân tộc trong quá khứ, vừa
là kết tinh của tinh thần thời đại và định hướng giá trị của dân tộc. Mỗi dân tộc
có cách giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc của mình. Cần phải có thái độ biện
chứng “gạn đục, khơi trong” những giá trị văn hóa dân tộc. Văn hóa ln là hệ
thống mở, những giá trị đích thực tiêu biểu cho cốt cách, phẩm chất dân tộc Việt
Nam cần phải được bồi đắp nội dung mới cho phù hợp với thời đại, những mặt
hạn chế cần phải được khắc phục, đổi thay. Những giá trị bên ngồi đã được
“Việt Nam hố”, được các thế hệ con người Việt Nam thâu lượm, chọn lọc biến
“cái của người”, thành “cái của ta” cũng là văn hóa dân tộc. Chủ nghĩa Mác - Lênin khơng phải do dân tộc ta sản sinh ra, nó là kết tinh văn hóa nhân loại đã được
MSV 351558 - Lớp NO3 – Nhóm 4

10


Bài tập lớn học kỳ - Môn Đại cương văn hoá Việt Nam
dân tộc ta tiếp thu và trở thành điều cốt lõi của nền văn hóa Việt Nam tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc, càng cần phải kiên định hơn nữa trong bối cảnh mới.

Văn hóa khắc họa bản sắc và phương thức tồn tại của một cộng đồng, khiến
cộng đồng ấy có một đặc thù riêng. Như vậy, văn hóa mang bản sắc dân tộc. Và
yếu tố dân tộc là yếu tố quyết định nhất của một nền văn hóa. Bản sắc văn hóa
dân tộc là cái "hồn", là sức sống nội sinh, là cái thẻ căn cước của mỗi dân tộc, để
phân biệt dân tộc này với dân tộc khác, từ đó nó có thể biểu lộ một cách trọn vẹn
nhất sự hiện diện của mình trong quá trình giao lưu và hội nhập.
Trải hàng nghìn năm lịch sử, dân tộc Việt Nam đã rèn đúc, tơi luyện cho
mình nhiều phẩm chất tốt đẹp. Đó là năng lực chế ngự thiên nhiên, tư duy độc
lập, tự chủ, sáng tạo trong chống giặc ngoại xâm; sự hình thành một hệ giá trị cốt
lõi của văn hóa dân tộc với tinh thần yêu nước, ý chí độc lập tự cường, tinh thần
đoàn kết, ý thức cố kết cộng đồng gắn kết cá nhân – gia đình – làng xã – Tổ
quốc; lòng nhân ái, sự khoan dung, trọng nghĩa tình đạo lý, lấy nhân nghĩa làm
gốc; trách nhiệm của cá nhân đối với cộng đồng nhà – làng – nước; trọng dân, đề
cao dân, lấy dân làm gốc; hòa hợp đề hòa đồng, cần cù, khiêm tốn, giản dị trong
lối sống,… Tất cả tạo thành nhân cách của con người và được nhân dân làm
thành nhân cách, cốt cách của dân tộc Việt Nam.
Bản sắc văn hóa Việt Nam là tố chất được hợp luyện cùng chiều với lịch sử
đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. Bản sắc đó khơng phải
là một hằng số, là những giá trị bất biến, mà có những giá trị mới được hình
thành, bồi tụ trong quá trình hội nhập, tiếp biến giữa các nền văn hóa.
Tùy theo cách tiếp cận và vấn đề nghiên cứu để có thể rút ra những kinh
nghiệm của việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, đóng cửa hay mở cửa trong
quá trình giao lưu, hội nhập.
Trước hết, phải nhận thức văn hóa là đối thoại, là sự xâm nhập, đan xen,
trao đổi, tác động qua lại và có chút pha trộn giữa các yếu tố nội sinh và ngoại
MSV 351558 - Lớp NO3 – Nhóm 4

11



Bài tập lớn học kỳ - Môn Đại cương văn hố Việt Nam
sinh. Bản thân khái niệm văn hóa dù theo nghĩa này hay nghĩa khác, cũng đều
thể hiện quan hệ với mình, với người, với sự việc, giữa dân tộc và nhân loại. Văn
hóa là biết cách xử sự, xử thế. Các nền văn hóa ln tiếp nhận lấy nhau, vay
mượn của nhau. Mọi nền văn hóa đều thuộc về di sản chung của nhân loại. Văn
hóa của giai đoạn sau thường là sự phát triển hợp quy luật của tổng số những
kiến thức mà lồi người đã tích lũy ở các giai đoạn trước. Khơng có nền văn hóa
nào trên thế giới lại tuyệt đối đơn lẻ, thuần khiết và không bị ảnh hưởng bởi bất
cứ nền văn hóa nào khác. Điều này đúng với mọi thời đại.
Đời sống của một con người, một cộng đồng, một dân tộc hay xã hội, tự
bản thân nó là khơng ngừng phát triển, tự tái tạo và biến đổi không ngừng trong
tiến hóa của lịch sử. Sự trao đổi và phát triển đó bị ngưng trệ – dù vơ thức hay
hữu thức – đều làm tổn thương và xói mịn các giá trị của đời sống, là điều tồi tệ
nhất. Những bài học và kinh nghiệm thành công và không thành công của Việt
Nam và thế giới thời cổ, trung, cận đại đều được đo bằng việc có giao lưu hội
nhập với thế giới hay co vào cố thủ, đóng kín, khước từ giao lưu.
Việc mở mang đầu óc với thế giới bên ngồi là một địi hỏi khách quan,
một quy luật của sự hưng thịnh tiến bộ và phát triển. Ngăn trở hoặc làm trái quy
luật sẽ dẫn tới thất bại.
Không kể tới những sự cách biệt do các yếu tố địa lý như bị ngăn cách bởi
đại dương, sa mạc, bởi khí hậu khốc liệt làm cho một số nền văn minh cổ đại từ
chỗ phát triển cao đi tới chỗ trì trệ, suy tàn, cịn lại đều chủ yếu do sự xung đột,
cưỡng chế áp đảo. Triều đại Mãn Thanh ở Trung Quốc, triều Nguyễn ở Việt
Nam là những ví dụ điển hình về chính sách "bế quan tỏa cảng" trước sức mạnh
áp đảo của văn minh phương Tây. Kết quả là càng đóng kín bao nhiêu thì càng
trở nên trì trệ bấy nhiêu, cuối cùng cũng khơng thể đóng cửa. Ngược lại, bài học
của Nhật Bản chủ trương mở cửa, ứng xử phù hợp với các nền văn minh khác là

MSV 351558 - Lớp NO3 – Nhóm 4


12


Bài tập lớn học kỳ - Môn Đại cương văn hố Việt Nam
những hình ảnh sống động, mẫu mực của việc giao lưu, hội nhập trên cơ sở giữ
gìn bản sắc văn hóa dân tộc.
Hai là, khơng mở mang đầu óc với thế giới bên ngồi thì sớm hay muộn
cũng sẽ suy thối. Nhưng cũng khơng phải cứ mở mang là phát triển và tiến bộ.
Vấn đề còn ở chỗ là cách thức mở mang, giao lưu với thế giới như thế nào. Là
vấn đề có tính quy luật cơ bản của đời sống con người, nhưng nếu tiếp cận tốt thì
kết quả sẽ tốt, và ngược lại.
Một câu hỏi lớn đặt ra cho việc tiếp cận khoa học là tại sao trong lịch sử có
những bài học thành cơng và khơng thành cơng? Vẫn cùng một nền văn hóa với
những giá trị hàng đầu như tinh thần yêu nước, chủ nghĩa dân tộc độc lập, tâm lý
và ý thức tôn vinh cộng đồng, nhưng tại sao từ nửa cuối thế kỷ XIX đến đầu thế
kỷ XX phong trào giải phóng dân tộc Việt Nam khơng giành được thắng lợi? Sau
này tại sao ta lại thắng thực dân Pháp, thắng đế quốc Mỹ? Nếu trả lời vì đối
phương vấp phải một nền văn hóa mà họ khơng thể nào hiểu được, khơng thể
nào thắng được thì chưa hồn tồn có sức thuyết phục, nói cách khác chỉ là mới
đúng một phần. Nếu cho rằng, vì chính sách đóng cửa (đương nhiên vì sợ hãi sự
áp đảo, cưỡng chế của thực dân phương Tây dưới danh nghĩa "khai hóa") thì
cũng mới đúng một nửa, thậm chí chưa được một nửa. Thực tế lịch sử cho thấy,
cũng có những bài học về chính sách đóng cửa dẫn tới sự thành cơng(1) trong
thời cận đại sự phát triển của Nhật Bản tưởng như một nghịch lý, bởi vì bắt đầu
từ "cú hích" đóng cửa dẫn đến sự thành công của cải cách Minh Trị sau này.
Điều đó cho thấy, khơng nên hiểu một cách đơn giản rằng, cứ có một nền văn
hóa mang bản sắc riêng khơng trộn lẫn với nền văn hóa các nước khác là tự khắc
thành công. Hoặc cứ mở cửa là ắt phát triển. Bài học hôm nay là, phải "biết mình
biết người", biết cách mở cửa, thậm chí như Nhật Bản là biết cả cách "đóng cửa
một cách chủ động có chọn lựa nhằm khuyến khích sự phát triển các ngành trong

nước, phục hưng sản xuất và điều tiết ngoại thương".
MSV 351558 - Lớp NO3 – Nhóm 4

13


Bài tập lớn học kỳ - Môn Đại cương văn hố Việt Nam
Ba là, "biết mình biết ta" để giữ gìn và chắt lọc, biết "mở cửa", "đóng cửa"
thì ắt thành công.
Trước hết, phải nhận thức đầy đủ về một bối cảnh quốc tế mới sẽ cịn nhiều
biến động. Đó là q trình phát triển nhanh, mạnh và tồn cầu hóa trên nhiều lĩnh
vực như thơng tin, khoa học và cơng nghệ, thương mại,… Nó tạo ra khả năng
trao đổi trí tuệ, thơng tin cực nhanh về thời gian, cực rộng về địa bàn và phong
phú từ nhiều nguồn. Một chân trời văn hóa và kiến thức tạo cho các cộng đồng
xích lại gần nhau đang mở ra trước các dân tộc. Mặt khác là nguy cơ san bằng và
đồng nhất hóa các hệ thống giá trị và tiêu chuẩn, đe dọa làm suy kiệt khả năng
sáng tạo của các nền văn hóa. Kinh tế thị trường trong xu thế tồn cầu hóa có xu
hướng biến di sản văn hóa (vật thể và phi vật thể) thành hàng hóa, kể cả bản thân
con người.
Trong bối cảnh đó, cần phải tỉnh táo nhận thức về mình. Khơng ai có thể
phủ nhận được sức mạnh và giá trị trường tồn của bản sắc văn hóa Việt Nam (2).
Nhưng có phải sức mạnh đó là vơ biên hay vẫn có giới hạn? Có những khuyết tật
mà trước đây chưa bộc lộ hay bộc lộ ít, nay thì lộ rõ hơn. Hiện tượng trong lịch
sử có lúc phương Đơng bị phương Tây áp đảo, thậm chí bị ngược đãi và làm
nhục. Song ở một chừng mực nào đó thì văn hóa Phương Đơng đã làm sáng mắt
cho họ một bài học về quy luật cái mạnh đối với cái yếu. Trong quy luật đó,
khơng thể khơng bàn tới việc văn hóa phương Tây đi tiên phong về những lý
tưởng cách mạng: tiến bộ, tự do, dân chủ, đặt chữ trí lên trên hết, lấy lý tính và
khoa học làm tiêu chuẩn chân lý. Phải thừa nhận rằng, trước kia cũng như hiện
nay chúng ta đang thấp kém về mặt vật chất và khoa học tự nhiên, khoa học kỹ

thuật. Về khoa học xã hội và nhân văn cũng có những nét tương tự. Chẳng hạn,
phương Đơng đề ra "đức trị" trong khi cịn những non kém về "pháp trị". Chúng
ta phải dám nhìn thẳng vào sự thật, giác ngộ về những yếu kém và lạc hậu của
mình. Tuy nhiên sự mạnh, yếu cũng là cái nhìn tương đối, trong những giai đoạn
MSV 351558 - Lớp NO3 – Nhóm 4

14


Bài tập lớn học kỳ - Môn Đại cương văn hố Việt Nam
và hồn cảnh lịch sử cụ thể nhất định. Bởi vì xét đến cùng thì những mặt tinh
thần và giá trị đạo đức là những cái quan trọng hơn những cái khác. Theo tinh
thần của UNESCO, "phân tích đến cùng sự phát triển của xã hội chính là sự phát
triển của văn hóa"; "sự thăng hoa của văn hóa là đỉnh cao nhất của sự phát triển".
Bốn là, điều cần quan tâm hiện nay là, với tư duy văn hóa đổi mới của Đảng
Cộng sản Việt Nam: "Bảo vệ bản sắc dân tộc phải gắn kết với mở rộng giao lưu
quốc tế, tiếp thụ có chọn lọc những cái hay, cái tiến bộ trong văn hóa các dân tộc
khác"(3) thì chúng ta phải nhận thức như thế nào và làm gì để giữ gìn, phát huy
bản sắc văn hóa dân tộc trong q trình giao lưu hội nhập? Có thể nêu lên một số
khía cạnh cho sự lựa chọn mơ hình phát triển Việt Nam như sau:
1.Khơng e ngại sự áp đảo của tồn cầu hóa, khơng "dị ứng" với mọi biểu
hiện của văn hóa nhân loại. Thâm nhập vào thế giới một cách chủ động, tự tin, tự
nhiên, sẵn sàng đối thoại với các nền văn hóa với tư duy đa dạng văn hóa là một
tất yếu của giao lưu, hợp tác. Muốn vậy phải trên cơ sở lấy văn hóa dân tộc làm
gốc. Chỉ trên cơ sở nhận thức đúng đắn, đầy đủ việc giữ gìn, phát huy cốt cách
văn hóa dân tộc mới đi tới được văn hóa nhân loại.
2. Kinh tế và có kiến thiết kinh tế rồi thì văn hóa mới kiến thiết được và đủ
điều kiện phát triển được. Ngược lại, văn hóa phải đứng trong kinh tế và chính
trị, thúc đẩy kinh tế và chính trị phát triển. Như vậy, trong khi đẩy mạnh cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa, cùng với phát triển kinh tế vẫn phải có niềm tin và biện

pháp tích cực để phát triển văn hóa tinh thần, không theo kiểu dàn hàng ngang để
tiến, mà bằng tư duy "lấy tinh thần chiến thắng vật chất", "đem văn minh (đồng
nghĩa với văn hóa) thắng bạo tàn".
3.Phải xuất phát từ tư duy phương Đơng được đánh dấu bởi hồi bão tìm
kiếm tính thống nhất của vũ trụ, sự hài hòa giữa những mâu thuẫn. Để giao lưu,
hội nhập phải có một thái độ "cầu đồng tồn dị", tìm mẫu số chung thay vì khoét
sâu sự cách biệt. Nếu giữa thế kỷ XX, Hồ Chí Minh đã tìm thấy điểm chung của
MSV 351558 - Lớp NO3 – Nhóm 4

15


Bài tập lớn học kỳ - Môn Đại cương văn hố Việt Nam
Khổng Tử, Các Mác, Giê-su, Tơn Dật Tiên là mưu cầu hạnh phúc cho loài
người, mưu cầu phúc lợi cho xã hội, thì đến cuối thế kỷ XX nhân loại lại tìm
thấy một lý tưởng chung ở Hồ Chí Minh là hướng con người Chân – Thiện –
Mỹ, đem lại hạnh phúc, tự do cho nhân loại. Trong mối quan hệ Đông – Tây, dân
tộc và nhân loại, cần phải xác định có cái chung và cái riêng, vật chất và tinh
thần, nội sinh và ngoại sinh để tập trung giải quyết sự cân bằng, hài hòa giữa các
yếu tố.
4.Có "vay" thì phải có "trả". "Vay" thì phải sáng tạo và không được trở
thành kẻ bắt chước. "Trả" thì phải xứng đáng là một dân tộc trong số ít của thế
giới có nền văn hóa tiêu biểu. Giới thiệu văn hóa, đất nước, con người Việt Nam
với thế giới, làm phong phú thêm nền văn hóa nhân loại vừa là trách nhiệm, vừa
là vinh dự. Suy cho cùng, "giúp bạn cũng chính là giúp mình". Q trình "vay"
và "trả" qua lại lẫn nhau giúp ta có điều kiện giao lưu hội nhập, tạo nên tiên tiến
và hiện đại song vẫn rất truyền thống (Việt Nam) nếu chúng ta ln có ý thức và
niềm tự hào về các dân tộc.
5.Giữ gìn bản sắc văn hóa của dân tộc là một ý thức chính trị, và ý thức
chính trị của dân tộc, xây dựng tâm lý cộng đồng với nội dung cao cả là tinh thần

độc lập tự cường, tự chủ lại là biểu hiện cao nhất và trước hết của văn hóa. Trước
đây bản sắc văn hóa của dân tộc với tinh thần yêu nước, chủ nghĩa dân tộc, tinh
thần dân tộc tự chủ về chính trị đã khẳng định sức mạnh của phong trào giải
phóng thì nay lại càng cần phải như vậy. "Một dân tộc không tự lực cánh sinh
mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì khơng xứng đáng được độc lập"(4).
6. Tiếp thu tồn diện, nhưng có chọn lọc qua "màng lọc" bản sắc văn hóa
Việt Nam. Nhà văn hóa kiệt xuất Hồ Chí Minh chỉ rõ, cái gì bổ ích và cần thiết,
cái gì tốt và hay thì ta phải học lấy, tiếp nhận để làm giàu cho văn hóa Việt Nam,
một nền văn hóa hợp với khoa học và hợp với cả nguyện vọng của nhân dân. Nói

MSV 351558 - Lớp NO3 – Nhóm 4

16


Bài tập lớn học kỳ - Môn Đại cương văn hố Việt Nam
như vậy để thấy khơng phải mọi thứ mới lạ đều bổ ích. Cái gì mới mà hay thì
tiếp thu, cịn cái mới mà lai căng, xấu xa thì cương quyết loại bỏ.
Phải thường xuyên bồi bổ cho lịch sử – văn hóa với ý nghĩa là cội rễ của
dân tộc, cái vốn của riêng mình. Điều cơ bản và trước hết là phải làm kỳ được
việc thường xuyên bồi bổ cho lịch sử – văn hóa, để cho cốt cách văn hóa dân tộc
thấm sâu vào tâm lý quốc dân. Một khi sao nhãng cơng việc đó thì tự mình sẽ
đánh mất mình. Nhưng trong nội hàm giữ gìn bản sắc đã chứa đựng phát huy,
giao lưu, trao đổi, xâm nhập và hội nhập các giá trị văn hóa rồi: Bởi vì văn hóa
là đối thoại và đa dạng vì phát triển. Nhà văn hóa lớn G. Nê-ru (Ấn Độ) hồn
tồn có lý khi cho rằng, "người ta khơng thể sống cho một mình với cội rễ".
Thậm chí cội rễ đó cũng sẽ khơ héo nếu nó khơng vươn ra dưới mặt trời và
khơng khí tự do; chỉ khi đó cội rễ mới mang dinh dưỡng đến cho anh. Chỉ khi đó
cuộc sống mới đâm cành trổ hoa"(5).
Kết hợp chặt chẽ việc tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại đấu tranh chống

lại sự xâm nhập của văn hóa độc hại. Đó là mối quan hệ giữa giữ gìn bản sắc với
tiếp thu tinh hoa, giữa truyền thống – tiếp biến và đổi mới, để bồi bổ cho một nền
văn hóa dân tộc cường tráng, với các yếu tố nội sinh sung mãn.
7.Quá trình giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc cũng là q trình xâm nhập văn
hóa, q trình tự thân vận động, tự ý thức, tự khám phá, tự tái tạo từ ta và từ
người. Cái khó ở đây là, làm thế nào để có được sự cơng bằng giữa gốc rễ và hoa
lá trên cành; giữa yếu tố nội sinh và ngoại sinh khi các yếu tố đó ln có mối
quan hệ biện chứng. Câu trả lời phải được tiếp tục suy nghĩ từ quá khứ và thực
tiễn hôm nay. Nhưng trước mắt chúng tôi vẫn phải trở lại, vận dụng sáng tạo và
phát triển những luận đề của Hồ Chí Minh trong sự nghiệp giải phóng: "Chủ
nghĩa dân tộc là động lực lớn của đất nước… Người ta sẽ khơng làm gì được cho
người An Nam nếu không dựa trên các động lực vĩ đại, và duy nhất của đời sống
xã hội của họ". "Phải trông ở thực lực. Thực lực mạnh, ngoại giao sẽ thắng lợi.
MSV 351558 - Lớp NO3 – Nhóm 4

17


Bài tập lớn học kỳ - Môn Đại cương văn hoá Việt Nam
Thực lực là cái chiêng và ngoại giao là cái tiếng. Chiêng có to tiếng mới lớn".
"Đem sức ta mà giải phóng cho ta", "Muốn người ta giúp cho thì trước mình phải
tự giúp lấy mình đã". Về văn hóa, cần hiểu đó là sự bảo tồn, chấn hưng nền văn
hóa dân tộc để làm cơ sở định hướng cho việc mở rộng giao lưu văn hóa quốc tế.
Đồng thời phải kết hợp một cách chặt chẽ, khoa học, tinh tế, có lý có tình giữa
"pháp trị" – mà đặc biệt là vai trò quản lý của Nhà nước đối với các lĩnh vực
kinh tế – xã hội – với "đức trị" mà chủ yếu là giáo dụctính nhân văn, đạo đức. Ở
một ý nghĩa nào đó, là kết hợp giữa "xây" và"chống", trong đó "xây" là nhiệm vụ
chủ yếu và lâu dài. Phải nhận thức con người là điểm xuất phát cũng là mục tiêu
của sự phát triển. Phải đào tạo con người cả về nhân cách và về trí tuệ. Trong
nhân cách có trí tuệ. Trí tuệ càng cao, nhân cách càng phải lớn. Chỉ có nhận thức

như vậy mới tạo nên một Việt Nam ổn định, phát triển bền vững trong quá trình
giao lưu, hội nhập.

MSV 351558 - Lớp NO3 – Nhóm 4

18


Bài tập lớn học kỳ - Môn Đại cương văn hố Việt Nam

C.KẾT LUẬN
Ta có thể nhận thấy, việc giao lưu văn hố trong bối cảnh tồn cầu hố đã
có những bước phát triển đột biến, từ những thời xa xưa, con người đã biết giao
lưu văn hoá để mở rộng nền văn minh cho thế giơi. Khi thời đại mới,vấn đề đó
lại càng trở nên phổ biến, giúp cho các nước chậm phát triển có cơ hơị trở thành
các nước phát triển. Thực tế cho thấy, trong thời kỳ hội nhập, Việt Nam cũng
không thể nào ngoại trừ xu thế riêng đó, giao lưu hội nhập trong bối cảnh tồn
cầu hố là điều tất yếu, nhưng “hồ nhập nhưng khơng hồ tan”, tiếp thu văn hoa
lớn của nhân loại nhưng vẫn giữ gìn bản sắc dân tộc đó chính là một vấn đề được
nói đến trong thời điểm hiện nay.

MSV 351558 - Lớp NO3 – Nhóm 4

19


Bài tập lớn học kỳ - Môn Đại cương văn hoá Việt Nam

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. vanhoa.vn

2. cadaovietnam. Org
3. dantri.com
4. Giao tiếp liên văn hoá trong bối cảnh tồn cầu hố, một số vấn đề đê về
triết học – TS. Nguyễn Vũ Hảo – nxb Khoa học xã hội

MSV 351558 - Lớp NO3 – Nhóm 4

20



×