Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

Tài liệu Luận văn tốt nghiệp "Một số giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động tiêu thụ sản phẩm tại các liên doanh ô tô trong bối cảnh toàn cầu hoá" docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (836.56 KB, 84 trang )

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP

Một số giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động
tiêu thụ sản phẩm tại các liên doanh ô tơ
trong bối cảnh tồn cầu hố


Khố luận tốt nghiệp

Đỗ Mai Hịa - Lớp A1 CN9

MỤC LỤC
Trang
LỜI MỞ ĐẦU
Chương I: Tồn cầu hố và hội nhập kinh tế Quốc tế của Việt Nam

7

I. Một số vấn đề về tồn cầu hố

7

1. Tồn cầu hố và chiến lược của các nước đang phát triển
1.1. Các nước đang phát triển trong cơn lốc tồn cầu hố
1.1.1. Bất bình đẳng - mảng tối của bức tranh tồn cầu hố
1.1.2. Giáo dục - Phương thuốc hữu hiệu làm giảm bất bình đẳng
1.2. Tồn cầu hố mang tính hai mặt
1.2.1 Những cơ hội khi tham gia tồn cầu hố
1.2.2 Những thách thức khi tham gia tồn cầu hố
1.3 Tồn cầu hố gắn liền với xu thế khu vực hoá


7
7
10
12
13
13
16
17

2. Hội nhập kinh tế Quốc tế của Việt Nam - thuận lợi và khó khăn
2.1 Q trình hội nhập kinh tế Quốc tế trong những năm gần đây
2.2 Một số thuận lợi và khó khăn
2.2.1 Thuận lợi
2.2.2 Khó khăn, thách thức chủ yếu

19
19
21
21
23

Chương II: Công nghiệp ô tô Việt Nam trong bối cảnh tồn cầu hố

26

1. Cơng nghiệp ơ tơ thế giới
1.1 Lịch sử hình thành và phát triển
1.2 Nền cơng nghiệp ơ tơ thế giới trong bối cảnh tồn cầu hố
1.3. Thị trường ô tô thế giới hiện tại
2. Hiện trạng ngành công nghiệp sản xuất và lắp ráp ô tô ở Việt Nam

trong bối cảnh tồn cầu hố
2.1. Hiện trạng ngành công nghiệp sản xuất và lắp ráp ô tô ở Việt Nam
2.2. Các doanh nghiệp sản xuất và lắp ráp ô tô ở Việt Nam

26
26
28
30
31

3. Hoạt động tiêu thụ sản phẩm ở các doanh nghiệp liên doanh sản

38

31
33

xuất và lắp ráp ơ tơ tại Việt Nam
3.1. Tình hình thị trường tiêu thụ ô tô Việt Nam trước năm 1990
3.2. Tình hình thị trường tiêu thụ ơ tơ Việt Nam từ khi có các liên doanh ơ tơ
3.2.1. Nhu cầu thị trường ô tô ở Việt Nam
3.2.2. Khả năng đáp ứng nhu cầu của các liên doanh ô tô
3.2.3. Đối tượng khách hàng

38
40
40
41
43


4. Khả năng cạnh tranh của các liên doanh sản xuất và lắp ráp ô tô
trong nước
4.1.Cạnh tranh giữa xe lắp ráp trong nước với xe nguyên chiếc nhập ngoại
4.2.Cạnh tranh giữa các xe lắp ráp trong nước với nhau

44
44
46
1
Trang


Khố luận tốt nghiệp

Đỗ Mai Hịa - Lớp A1 CN9

4.2.1. Đối với xe tải nhẹ
4.2.2. Đối với xe du lịch 7 chỗ
4.2.3. Đối với xe hai cầu 7 chỗ
4.2.4. Đối với xe du lịch 12 chỗ
4.2.5. Đối với xe du lịch 7 chỗ
4.2.6. Đối với xe du lịch 5 chỗ

46
46
47
47
48
48


Chương III: Một số giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động tiêu
thụ sản phẩm của các liên doanh sản xuất và lắp ráp ô tô tại Việt
nam - Nghiên cứu điển hình tại Xí nghiệp liên doanh sản xuất ơ tơ
Hịa Bình

51

I. Phân tích thực trạng hoạt động tiêu thụ sản phẩm của VMC

51

1. Phân tích kết quả tiêu thụ sản phẩm
1. 1.Sản phẩm của VMC
1.2.Phân tích kết quả tiêu thụ sản phẩm của VMC

51
51
54

2. Phân tích các hoạt động hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm của VMC
2.1. Hoạt động điều tra nghiên cứu thị trường
2.2. Chiến lược sản phảm
2.3. Chiến lược giá cả
2.4. Chính sách phân phối sản phẩm
2.5. Khuyếch trương sản phẩm
2.6. Chích sách hậu mãi

59
59
59

61
63
65
67

3. Khả năng năng cạnh tranh của VMC

68

II. Định hướng sản xuất kinh doanh của xí nghiệp liên doanh VMC

69

1. Phương hướng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp

69

1.1 Những thuận lợi:

69

1.2. Những khó khăn:

70

2. Mục tiêu, phương hướng sản xuất kinh doanh của VMC

72

III. Giải pháp thúc đẩy hoạt động tiêu thụ sản phẩm


73

1. Tăng cường công tác điều tra nghiên cứu thị trường

73

2. Nâng cao chất lượng, đa dạng hoá sản phẩm để giữ uy tín với khách hàng

74

3. Xây dựng chính sách giá cả linh hoạt

76

4. Quản lý hiệu quả và phát triển mạng lưới tiêu thụ sản phẩm

77

2
Trang


Khố luận tốt nghiệp

Đỗ Mai Hịa - Lớp A1 CN9

5. Thực hiện các hoạt động hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm

79


5.1. Hoạt động khuyếch trương sản phẩm

79

5.2. Tổ chức tốt hoạt động bảo hành bảo dưỡng sau bán

80

IV. Các điều kiện đảm bảo thực hiện tại Xí nghiệp liên doanh sản
xuất ơ tơ Hồ Bình

81

1. Điều kiện về cơng nghệ và kỹ thuật sản xuất

81

2. Điều kiện về vốn kinh doanh

82

3. Điều kiện về tổ chức và nhân sự

82

3
Trang



Khố luận tốt nghiệp

Đỗ Mai Hịa - Lớp A1 CN9

DANH MỤC BẢNG BIỂU:
BẢNG:
Bảng 1:

Tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm và mức độ thay đổi của khối lượng
mậu dịch thế giới (%)

Bảng 2:

Vốn đầu tư nước ngoài vào các khu vực năm 2002.

Bảng 3:

Số lượng tiêu thụ ô tô tại một số nước ASEAN

Bảng 4:

Sản lượng ô tô của 11 liên doanh sản xuất và lắp ráp tại VN từ năm 1998 2002

Bảng 5:

Kết quả tiêu thụ của các liên doanh sản xuất ô tô ở Việt Nam từ năm 1998 2002.

Bảng 6:

Tỷ trọng khách hàng mua xe theo nhóm


Bảng 7:

Thống kê lượng tiêu thụ của xe nguyên chiếc nhập khẩu.

Bảng 8:

Thống kê lượng tiêu thụ của xe lắp ráp trong nước.

Bảng 8:

Danh mục xe tải nhẹ

Bảng 9:

Danh mục xe tải nhẹ

Bảng 10:

Danh mục xe hai cầu 7 chỗ

Bảng 11:

Bảng thống kê các loại xe 5 chỗ sản xuất tại Việt Nam

Bảng 12:

So sánh số lượng xe lắp ráp và tiêu thụ từ 1999 - 2002

Bảng 13:


Cơ cấu sản phẩm tiêu thụ chủ yếu

Bảng 14:

Tỷ trọng tiêu thụ theo nhóm khách hàng

Bảng 15:

Tiêu thụ các sản phẩm chính

Bảng 16:

Kết quả tiêu thụ sản phẩm của VMC và Đại lý VMC

Bảng 16:

Giá bán một số loại xe của VMC tại thời điểm tháng 12/2002.

Bảng 17:

Chi phí cho các hoạt động xúc tiến bán hàng từ 1999 - 2002

4
Trang


Khố luận tốt nghiệp

Đỗ Mai Hịa - Lớp A1 CN9


LỜI MỞ ĐẦU
Hiện ở Việt Nam có 14 liên doanh sản xuất và lắp ráp ô tô được cấp giấy phép hoạt
động, trong đó 11 liên doanh đã đi vào hoạt động và có sản phẩm tiêu thụ trên thị trường,
02 liên doanh đang tiến hành xây dựng nhà xưởng và chuyển giao công nghệ, 1 liên doanh
đã bị giải thể.
Ngành công nghiệp ô tô Việt Nam đang phát triển trong một xu thế chung của tồn
thế giới - đó là xu thế tồn cầu hố. Hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực đang là một vấn
đề nóng bỏng buộc các nhà hoạch định chính sách phải dày cơng suy nghĩ để làm sao có
được kết quả tốt nhất, phù hợp nhất. Một trong những bước đi đầu tiên trong quá trình hội
nhập là những cam kết của khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA/CEPT). Công nghiệp
ô tô Vịêt nam cũng phải tìm ra con đường đi riêng của mình. Khi những cam kết này được
thực hiện, ơ tô của các nước ASEAN sẽ tràn sang Việt Nam. Và với lợi thế của nhũng
nước đi trước, họ sẽ chiếm ưu thế so với ngành công nghiệp ô tô non trẻ của chúng ta.
Ở các doanh nghiệp, tiêu thụ sản phẩm là giai đoạn cuối cùng của quá trình sản xuất
kinh doanh, là yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Khi sản phẩm
của doanh nghiệp được tiêu thụ tức là nó được người tiêu dùng chấp nhận. Sức tiêu thụ sản
phẩm của doanh nghiệp thể hiện uy tín của doanh nghiệp, chất lượng sản phẩm, sự thích
ứng với nhu cầu người tiêu dùng và sự hồn thiện các hoạt động dịch vụ. Nói cách khác
tiêu thụ sản phẩm phản ánh đầy đủ những điểm mạnh và điểm yếu của doanh nghiệp đồng
thời nó thể hiện cả ba mục tiêu: lợi nhuận, vị thế và an toàn.
Trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh ngày càng gay gắt bắt buộc mỗi doanh
nghiệp phải nỗ lực hết sức để tồn tại và phát triển thì việc tiêu thụ sản phẩm càng có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng. Nó là cơ sở để hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
được tiến hành thường xuyên, liên tục, có hiệu quả nhằm đưa doanh nghiệp phát triển hơn
nữa. Điều này đòi hỏi mỗi doanh nghiệp phải tự xác định cho mình phương hướng, cách
thức tiêu thụ thích hợp với khả năng và điều kiện của doanh nghiệp mình.
Đẩy mạnh hoạt động tiêu thụ sản phẩm, chiếm thị phần lớn luôn là mục tiêu phấn
đấu chung của tất cả các liên doanh ô tô hiện đang hoạt động tại Việt Nam. Nó có ý nghĩa
rất lớn đối với sự phát triển của các liên doanh và còn đối với sự phát triển của ngành công

nghiệp ô tô non trẻ trong nước cũng như sự phát triển của đất nước trong những năm tới.
5
Trang


Khố luận tốt nghiệp

Đỗ Mai Hịa - Lớp A1 CN9

Theo gợi ý của khoa Kinh tế Ngoại thương - Trường đại học Ngoại thương và nguyện
vọng cá nhân được tìm hiểu vấn đề này, tôi đã chọn đề tài: "Một số giải pháp nhằm thúc
đẩy hoạt động tiêu thụ sản phẩm tại các liên doanh ô tô trong bối cảnh tồn cầu hố"
- Nghiên cứu điển hình tại Xí nghiệp Liên Doanh Sản Xuất Ơ tơ Hồ Bình".
Khố luận này tập trung trình bày khái quát một số yếu tố về tồn cầu hố và hội
nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam cũng như thực trạng ngành công nghiệp ô tô thế giới,
thị trường ô tô Việt Nam trong bối cảnh tồn cầu hố; phân tích khả năng đáp ứng thị
trường từ đó đưa ra giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động tiêu thụ sản phẩm cho các doanh
nghiệp sản xuất và lắp ráp ô tô trong nước. Tuy nhiên do khả năng cịn hạn chế nên bản
khóa luận này không tránh khỏi những khiếm khuyết. Tôi rất mong nhận được sự góp ý
của các thầy cơ giáo và đồng nghiệp để bản khố luận của tơi được hồn chỉnh hơn.
Nội dung chính của khố luận gồm có 3 chương:
Chương I:

Tồn cầu hố và hội nhập kinh tế Quốc tế của Việt Nam

Chương II:

Nền công nghiệp ô tô Việt Nam trong bối cảnh tồn cầu hố

Chương III: Một số giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động tiêu thụ


sản phẩm của các liên

doanh sản xuất và lắp ráp ô tô tại thị trường Việt Nam - Nghiên cứu điển hình
tại Xí nghiệp liên doanh sản xuất ơ tơ Hịa Bình.

Tơi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với cô giáo Thạc sĩ Đặng Thị Lan, thầy giáo Tiến sĩ
Nguyễn Mạnh Tuấn - Khoa Kinh tế Ngoại thương - Trường Đại học Ngoại thương, các
bạn đồng nghiệp và anh Võ Hồng Anh đã giúp đỡ nhiệt tình trong khâu tìm kiếm tài liệu,
số liệu để tơi có thể hồn thành bản khố luận này.

CHƯƠNG I
TỒN CẦU HỐ VÀ HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
CỦA VIỆT NAM
6
Trang


Khố luận tốt nghiệp

Đỗ Mai Hịa - Lớp A1 CN9

I. Một số vấn đề về tồn cầu hóa
1. Tồn cầu hoá và chiến lược của các nước đang phát triển
1.1. Các nước đang phát triển trong cơn lốc toàn cầu hóa
Chúng ta biết rằng chủ nghĩa tư bản đã tạo ra sự phát triển của sản xuất mà chưa
nền văn minh nào trước đó đạt được. Cùng với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, các cuộc
chiến tranh giành giật thị trường cũng khơng ngừng bùng nổ. Chính từ những cuộc chiến
tranh này mà các nước tư bản đã triển khai một sức mạnh kinh tế, quân sự bao trùm thế
giới. Như vậy, có thể nói thời đại quốc tế hóa đã được mở ra trong vũ lực và bóc lột đối với

các vùng thuộc địa. Vào thế kỷ XIX đế quốc Anh có sự phát triển mạnh, khống chế hầu
như toàn bộ thế giới. Cho đến đầu thế kỷ XX nước Anh kiểm sốt các đường giao thơng
hàng hải quốc tế và khống chế nhiều vùng thuộc địa với 1/5 diện tích trái đất. Sự hội nhập
của các thị trường thuộc địa vào thị trường thế giới đã đưa đến sự biến động về luồng di
dân và giao lưu phát triển kinh tế. Thời kỳ này bên cạnh hoạt động hàng hóa hữu hình là sự
gia tăng hoạt động xuất khẩu vốn dưới dạng tư bản cho vay. Vào nửa sau thế kỷ XIX, mậu
dịch giữa các nước mà trung tâm đặt tại Luân Đôn đã trở thành một hệ thống thống nhất
sau khi các quốc gia chính ở Châu Âu đã chính thức cơng nhận chế độ bản vị vàng.
Một đặc trưng nổi bật của các nước đang phát triển trong bối cảnh tồn cầu hố
hiện nay là sự khan hiếm và thiếu sót của tài nguyên con người và thể chế cần thiết cho
phát triển. Vì vậy, đặc điểm quan trọng của các nước này là tăng trưởng kinh tế đôi khi
không đồng hành với phát triển kinh tế, do những bất bình đẳng trong phân phối thu nhập
và do phúc lợi xã hội như giáo dục, y tế, giao thông, môi trường...chậm được cải thiện.
Tăng trưởng kinh tế không đi liền với phát triển là một vấn đề rất đáng lưu ý, vì nó
cho thấy tồn cầu hố khơng phải là một q trình tự phát mà là một quá trình áp đặt, dưới
nhiều hình thức khác nhau, cái gọi là "chủ nghĩa tự do mới" (neo - liberalism) của các nước
tư bản lớn, lên những nước phát triển. Để hiểu rõ hơn vấn đề này, chúng ta hãy cùng quay
lại với bối cảnh quan hệ kinh tế quốc tế cuối những năm 1980, khi ngân sách của các nước
Mỹ, Anh thâm hụt nghiêm trọng. Những năm cuối nhiệm kỳ của tổng thống Ronald
Reagan và suốt nhiệm kỳ của tổng thống George Bush, do chính sách chạy đua vũ trang
với Liên Xô, ngân sách của thâm hụt khoảng 200 tỷ USD mỗi năm. Trong thời kỳ đó, Mỹ
và các nước đồng minh phương Tây đã ép các nước nghèo phải tuân thủ nghiêm ngặt các

7
Trang


Khố luận tốt nghiệp

Đỗ Mai Hịa - Lớp A1 CN9


điều khoản bất bình đẳng trong các mối quan hệ kinh tế với họ, đồng thời ra các điều kiện
bất bình đẳng trong quan hệ viện trợ và đầu tư nước ngồi.
Đến năm 1989, chính phủ Mỹ cùng với Ngân hàng thế giới (WB) và Quỹ tiền tệ
quốc tế (IMF) nhất trí đi tới cái gọi là "Sự đồng thuận Oasinhtơn" (The Washington
Concencus), bao gồm 10 chính sách lớn - mà IMF gọi là điều kiện tiên quyết - nhằm định
nghĩa mơ hình phát triển kinh tế mới mà chính quyền Mỹ và đồng minh bắt buộc các nước
đang phát triển phải thi hành để cải cách và thúc đẩy phát triển nền kinh tế. Điều này có
nghĩa là, Mỹ dùng các thể chế quốc tế WB và IMF để thu hẹp thâm hụt kinh tế thành tăng
trưởng kinh tế theo mơ hình của Mỹ. Mơ hình này dựa trên hai vấn đề chủ yếu sau: một là
ổn định kinh tế vĩ mơ mà trong đó giảm lạm phát và giảm thâm hụt ngân sách là mục tiêu
hàng đầu; hai là cải cách cơ cấu kinh tế bằng tự do hoá mậu dịch, tự do hố tài chính, tư
nhân hố và thu nhỏ một cách dứt khốt vai trị của nhà nước trong nền kinh tế.
Trên lý thuyết thì tự do hố thương mại và tài chính giúp gia tăng hiệu quả kinh tế
và về lâu dài nó đẩy mạnh hợp tác kinh tế quốc tế. Trên thực tế, tự do hố, đặc biệt là tự do
hố tài chính, làm lợi nhiều nhất cho nhóm thu nhập cao, làm tài sản của họ ngày một gia
tăng, dựa trên việc đầu tư những tài sản đã có. Tự do hố giúp họ có những cơ hội đầu tư
với lợi nhuận cao và nhanh chóng rút ra khỏi cuộc chơi khi rủi ro đến gần, do họ là một
trong số ít người được trang bị tri thức đầy đủ về thị trường và có khả năng nắm bắt, xử lý
thơng tin hơn các bộ phận khác trong cộng đồng. Khi kinh tế suy thối, nhóm thu nhập
thấp ln là nhóm bị tổn thương nhiều nhất do những khoản tiết kiệm ít ỏi của họ buộc
phải đem ra để trả nợ nước ngoài, phần cịn lại của các khoản tiết kiệm này thì lại bị mất
mát lớn do đồng tiền trong nước mất giá.
Tư nhân hố, nếu thi hành một cách dân chủ, cơng khai, tơn trọng pháp luật, có
giám sát của chính quyền và nhân dân, thì có thể đem lại lợi ích chung cho nền kinh tế
cũng như cho nhóm có thu nhập thấp. Nhưng ở nhiều nước, tư nhân hoá đã làm cho phân
hoá giàu nghèo thêm sâu sắc. Trường hợp điển hình là ở Nga, vì vấn đề tham nhũng được
"hợp pháp hố" qua tư nhân hố. Vì thế, nếu chính sách tư nhân hố khơng được thi hành
với mục đích tạo thêm bình đẳng cho xã hội thì về lâu dài sẽ làm cho bất bình đẳng ngày
càng trầm trọng.

Bảng 1 - Tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm và mức thay đổi của khối lượng mậu dịch
thế giới (%).
Các năm

Mức tăng mậu dịch thế giới

Mức tăng trưởng kinh tế
8
Trang


Khố luận tốt nghiệp

1981 - 1990

Đỗ Mai Hịa - Lớp A1 CN9
(%)
4,7

thế giới (%)
3,4

4,6
4,7
3,9
9,1
9,4
6,8
9,9
3,6

4,3
6,3
6,5
6,2

1,8
2,5
2,7
4,0
3,8
4,3
4,2
2,5
3,0
3,5
3,7
4,0

(tính trung bình trong suốt thời kỳ)

1991
1992
1993
1994
1995
1996
1997
1998
1999
2000

2001
2002*

Nguồn: World Economic Review, 10/2002; * Số liệu dự báo
Trong cơ cấu của nền thương mại thế giới hiện nay xuất hiện một loại hình bn
bán mới về hàng hóa và dịch vụ dựa trên tốc độ phát triển chóng mặt của ngành cơng nghệ
thơng tin - đó là thương mại điện tử. Với lợi thế trong giao dịch thanh toán, quản lý vv...,
thương mại điện tử đã nhanh chóng được phổ biến và áp dụng trong các thương vụ ở các
quy mô khác nhau. Với thương mại điện tử các hoạt động thương mại tồn cầu sẽ thực sự
gắn bó chặt chẽ với nhau, đó sẽ là cơng cụ đắc lực của tồn cầu hóa kinh tế.
Một vấn đề khác là thị trường lao động quốc tế được mở rộng. Trong xu thế tồn
cầu hóa hiện nay, dưới tác động của sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật đã mở ra
cho con người khả năng giao lưu, tiếp cận các thơng tin, nâng cao trình độ dân trí. Vì vậy
con người có thể tiếp cận được nhiều các cơ hội việc làm hơn ở các nước khác nhau. Bên
cạnh đó, bản thân sự bành trướng của các công ty xuyên quốc gia đã là nhân tố hạn chế sự
dịch chuyển lao động quốc tế. Song chính điều đó lại càng tạo ra sự gắn kết chặt chẽ của
thị trường lao động quốc tế chứ không phải là ngược lại. Lao động ở các quốc gia đang
phát triển được thu hút vào chi nhánh các công ty xuyên quốc gia.
1.1.1. Bất bình đẳng - mảng tối trong bức tranh tồn cầu hố
Hiển nhiên q trình tồn cầu hóa gắn liền với chủ nghĩa tư bản dựa trên sự phát
triển của khoa học kỹ thuật tạo ra sự phát triển sản xuất mạnh mẽ. Và chính trong sự phát
triển sản xuất với mục tiêu lợi nhuận các tổ chức độc quyền cạnh tranh nhau gay gắt. Kết
quả là hình thành những liên minh độc quyền không chỉ trong phạm vi quốc gia mà trên
phạm vi quốc tế.

9
Trang


Khố luận tốt nghiệp


Đỗ Mai Hịa - Lớp A1 CN9

Sau khi chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ, phạm vi ảnh
hưởng của chủ nghĩa tư bản được mở rộng. Các nước đế quốc mưu toan lợi dụng xu thế
tồn cầu hóa để nhằm xóa bỏ các nước xã hội chủ nghĩa cịn lại. Rõ ràng là xét về logic và
lịch sử thì tồn cầu hóa là một xu thế tất yếu, là kết quả của sự phát triển lực lượng sản
xuất, của kinh tế thị trường, song cũng cần phải thấy toàn cầu hóa hiện nay khơng phải
khơng có tính chất chính trị do việc tham gia vào tồn cầu hóa xuất phát từ các lợi ích khác
nhau, đơi khi đối nghịch nhau giữa các chủ thể của chính q trình tồn cầu hóa.
Sự tác động to lớn của Mỹ đối với quá trình tồn cầu hóa bắt nguồn từ sự chi phối
của Mỹ đối với các lĩnh vực quyền lợi cơ bản của thế giới ngày nay, đó là sức mạnh về
kinh tế, khoa học công nghệ và về quân sự. Những điều này khẳng định vai trò siêu cường
số một, chi phối phần quan trọng đối với quan hệ kinh tế quốc tế.
Thừa nhận sự chi phối của chủ nghĩa tư bản đối với q trình tồn cầu hóa hiện
nay, thừa nhận tính chính trị của q trình tồn cầu hóa khơng có nghĩa là chúng ta tẩy
chay, từ chối tham gia tồn cầu hóa mà ngược lại phải đấu tranh vì tồn cầu hóa hướng tới
sự tiến bộ và phát triển của nhân loại. Tham gia vào tồn cầu hóa khơng chỉ có Mỹ và các
nước tư bản mà cịn có hàng loạt các quốc gia trên thế giới trong đó có các quốc gia đang
trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Do vậy q trình tồn cầu hóa khơng phải đơn giản
là sự phổ biến các giá trị của chủ nghĩa tư bản mà là quá trình đấu tranh sàng lọc mà trong
đó các giá trị văn minh nhân đạo của loài người sẽ được chấp nhận và trong quá trình ấy những gì
là tiến bộ sớm muộn sẽ được phát huy. Đây cũng là quy luật phát triển chung của xã hội.
Từ những năm cuối thập kỷ 70 đến nay, chúng ta đã được chứng kiến sự tăng
trưởng kinh tế ngoạn mục của các nước Đông Á và một số nước Mỹ La tinh như Braxin,
Mêhicô....Sự tăng trưởng này, bên cạnh những yếu tố trong nước, cịn dựa trên chiến lược
tồn cầu hố mà Mỹ vừa viết kịch bản vừa làm tổng đạo diễn. Việc khuyến khích kinh tế
thị trường phát triển trên quy mơ tồn thế giới đã giúp một số nhóm giàu có của các nước
phát triển nắm được những nguồn lực quan trọng nhất của xã hội. Sự tập trung nguồn lực
đó vào tay một số nhóm người nhất định đã làm gia tăng nhanh chóng mức độ bất bình

đẳng trong các quốc gia này. Thu nhập của nền kinh tế tập trung vào các nhóm trẻ ở thành
thị - những người có cơ hội nắm bắt tri thức và thông tin nhanh chóng của Mỹ và các nước
phương Tây. Nhiều người cho rằng bất bình đẳng trong thu nhập là điều tích cực giúp cho
nền kinh tế phát triển mạnh. Nhưng đây là cách nhìn sai lạc lớn nhất của các nhà kinh tế
học trong hơn 40 năm qua về liên hệ giữa bình đẳng và tăng trưởng kinh tế. Trước hết họ
cho rằng sự bất bình đẳng dĩ nhiên là tốt vì nó là động cơ thúc đẩy mọi người làm việc tích

10
Trang


Khố luận tốt nghiệp

Đỗ Mai Hịa - Lớp A1 CN9

cực hơn và do đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Nhưng nhiều nghiên cứu từ giữa thập kỷ 90
đến nay đã chứng minh rằng sự bất bình đẳng ở các nước trên thế giới đã có ảnh hưởng
tiêu cực đối với tăng trưởng kinh tế trong các nước ấy trong vòng 150 năm qua.
Các con số thống kê cho thấy, bất bình đẳng thường gia tăng nhanh hơn ở các nước
đang phát triển. Bên cạnh đó, mức độ chênh lệch của các nhóm nghèo giữa các nước phát
triển và các nước đang phát triển rất lớn và ngày càng tăng. Nếu tính theo chỉ số phát triển
con người của Chương trình phát triển Liên hợp quốc (UNDP) dựa trên ba tiêu chuẩn cơ
bản là giáo dục, thu nhập và tuổi thọ thì mức độ bất bình đẳng cịn nghiêm trọng hơn
nhiều. Tính đến năm 1995, chỉ số phát triển con người của Thái Lan đứng thứ 59 trên thế
giới, của Inđônêxia là 96, của Malaixia là 98, của Việt Nam là 122. Điều này chứng tỏ cái
gọi là "thần kỳ kinh tế" của châu Á chưa đến được với đông đảo người dân ở đây.
Tuy nhiên, nếu khơng có tăng trưởng kinh tế thì số người nghèo càng đơng hơn và
việc xố đói giảm nghèo càng khó duy trì. Mặt khác, nếu không giải quyết được một phần
nào vấn đề phân hóa giàu nghèo thì khơng thể đảm bảo phát triển kinh tế dài hạn. Bất bình
đẳng cản trở phát triển kinh tế và hiệu quả của nền kinh tế vì nó làm giảm bớt sự hăng say

của con người trong quá trình làm việc cũng như tiết kiệm và đầu tư. Bên cạnh đó, bất bình
đẳng cịn gây cho người dân cảm giác về một thể chế bất công, phi hiệu qủa, ảnh hưởng
đến tiến trình phát triển kinh tế dài hạn.

1.1.2. Giáo dục - Phương thuốc hữu hiệu giảm bất bình đẳng.
Trong thời đại kinh tế tồn cầu hố dựa trên tri thức và thơng tin, thì giáo dục là tài
sản cịn q hơn đất đai vì nó giúp con người cải thiện thu nhập nhanh chóng. Đối với một
nước ít đất nhưng gần 80% dân số là nơng dân như Việt Nam thì giáo dục là tài sản q
báu mà Nhà nước có thể phân phối cơng bằng cho họ được. Chất lượng giáo dục của nước ta
ít nhất phải bằng các nước trong khu vực thì mới có khả năng cải thiện thu nhập cho người
dân. Giáo dục là một trong những việc có hiệu quả nhất để xố đói giảm nghèo và giảm bớt
phân hố giàu nghèo.
Trong thập kỷ vừa qua, nhiều nghiên cứu về phát triển trên thế giới đã chứng minh
rằng nguồn lực con người, với chất lượng và số lượng giáo dục, là một trong những nhân
tố quan trọng nhất giúp tăng trưởng kinh tế được lâu dài. Giáo dục làm tăng kỹ năng nhận
thức và những kỹ năng khác, qua đó làm tăng năng suất lao động. Hơn thế nữa, phân bố
11
Trang


Khố luận tốt nghiệp

Đỗ Mai Hịa - Lớp A1 CN9

giáo dục một cách công bằng cũng giúp làm giảm bớt sự bất bình đẳng trong thu nhập một
cách hữu hiệu nhất. Thực tế đã chứng minh, cùng số lượng nguồn lực con người ban đầu,
nước nghèo tăng trưởng kinh tế nhanh hơn nước giàu và do đó qua một thời gian, mức thu
nhập của các nước có mức giáo dục giống nhau sẽ bằng nhau.
Nghiên cứu của một nhóm các nhà kinh tế do Nancy Birdsall làm chủ nhiệm đã cho
thấy, các nước có thu nhập cao thì hai phần ba của tổng số bất bình đẳng trong lương bổng

gây ra. Bất bình đẳng cao trong thu nhập gia đình làm cho những hộ nghèo không đủ
phương tiện đầu tư cho giáo dục con cái, dù họ biết rằng đầu tư vào giáo dục sẽ thu lợi
nhuận lớn trong tương lai. Những gia đình nghèo cần phải dùng thu nhập của họ để sống
qua ngày đoạn tháng nên họ không thể đầu tư vào giáo dục cho con cái.
Birdsall dựa trên số liệu của Ngân hàng thế giới để so sánh các nước Đơng Á và
các nước khác có mức thu nhập trung bình trên đầu người bằng nhau nhưng có mức độ bất
bình đẳng trong thu nhập cao hơn để chỉ ra ảnh hưởng của bất bình đẳng trong thu nhập tới
tỷ lệ học sinh đến trường là rất lớn. Bên cạnh đó, ơng cũng cho biết bất bình đẳng cao
trong thu nhập cũng ảnh hưởng sâu sắc tới cung và cầu giáo dục trong nền kinh tế. Nếu các
chính phủ tài trợ giáo dục phổ thơng cho nhiều trẻ em trong tuổi đi học, thì gánh nặng thuế
sẽ chuyển dịch từ nhóm có thu nhập thấp sang nhóm thu nhập cao hơn, dẫn tới sự phân bổ
nguồn lực công bằng hơn. Tuy nhiên, để tránh gánh nặng thuế, các nhóm thu nhập cao sẽ
chống các biện pháp tài trợ giáo dục phổ thơng và tìm cách để chuyển các nguồn tiền tài
trợ này cho giáo dục đại học và sau đại học, nơi mà con em của họ sẽ được lợi nhiều nhất.
Nếu thu nhập được phân bố đồng đều hơn, thì thuế dùng để tài trợ cho giáo dục phổ thông
cũng được chia đồng đều hơn, do đó sự chống đối của các nhóm thu nhập cao sẽ yếu hơn.
Birdsall cũng chỉ ra rằng tuy ngân sách cho giáo dục tính theo phần trăm GDP ở
châu Mỹ Latinh không thấp hơn các nước Đông Á, nhưng tỷ lệ ngân sách được phân bổ
cho giáo dục phổ thông lại thấp hơn Đông Á. Một nghiên cứu cho biết rằng chi phí cho
một sinh viên đại học lớn gấp 50 lần chi phí cho một học sinh cấp tiểu học. Một ví dụ
tương phản giữa châu Mỹ Latinh và Đông Á là trường hợp của Venezuela và Hàn Quốc.
Năm 1985 Venezuela dành 43% ngân sách giáo dục cho đại học và sau đại học trong khi
Hàn Quốc chỉ dành có 10%. Ngân sách dành cho giáo dục tính theo phần trăm GDP của
Venezuela cao hơn (4,3%) ở Hàn Quốc (3%) nhưng sau khi trừ đi phần chi phí cho giáo
dục đại học và sau đại học, phần ngân sách cho giáo dục phổ thông ở Hàn Quốc là 2,5%
GDP, trong khi Venezuela chỉ là 1,3%. Do đó, ở Đơng Á, một số lượng lớn các trẻ em
nghèo được hưởng ngân sách cho giáo dục phổ thông, trong khi ở châu Mỹ Latinh, số

12
Trang



Khố luận tốt nghiệp

Đỗ Mai Hịa - Lớp A1 CN9

lượng nhỏ các con cái nhà giàu được lợi. Đây là lý do tại sao trẻ em nghèo ở châu Mỹ
Latinh ít có cơ hội học phổ thơng hơn và chất lượng giáo dục thấp hơn khu vực Đơng Á.
Tóm lại tồn cầu hố đang tạo một sân chơi bình đẳng cho các nước nghèo. Và để
giảm bớt sự bất bình đẳng này, bên cạnh việc kêu gọi xây dựng luật chơi mới bình đẳng
hơn cho tồn cầu hố, các nước đang phát triển phải nỗ lực nhiều hơn nữa trong phát triển
kinh tế, trong đó cải cách giáo dục và vấn đề quan trọng hàng đầu.
1.2. Tồn cầu hố mang tính hai mặt
Việc tham gia vào tồn cầu hóa kinh tế sẽ tạo ra cho các bên tham gia những cơ
hội, đồng thời nó cũng đặt ra những thách thức. Có ý kiến cho rằng tồn cầu hóa là "con
dao hai lưỡi" có thể tạo ra những xung lực làm tăng tốc độ phát triển kinh tế, góp phần
nâng cao đời sống của người dân nhưng nó cũng có thể làm xói mịn nền văn hóa và chủ
quyền quốc gia, đe dọa sự ổn định kinh tế xã hội.
1.2.1. Những cơ hội của tham gia tồn cầu hóa
Đề cập đến những cơ hội của tham gia tồn cầu hóa có rất nhiều ý kiến, thậm chí có
nhiều người tuyệt đối hóa những ưu thế do tồn cầu hóa mang lại. Tuy nhiên vận dụng nó
như thế nào cịn phụ thuộc vào năng lực và thực trạng của mỗi quốc gia. Có thể nêu ra một
số cơ hội sau:
- Tồn cầu hóa nền kinh tế phá bỏ những cản trở, những rào ngăn cách giữa các
quốc gia, mở ra những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển kinh tế quốc tế, từ đó các quốc
gia có thể tận dụng cơ hội phát triển cho thị trường bên ngoài. Một thực tế hiển nhiên là
khơng một quốc gia nào có đủ các điều kiện xây dựng một nền kinh tế nội địa hiệu quả mà
khơng xét đến thị trường bên ngồi, cho dù đó là những nước khổng lồ như Mỹ, Nga,
Trung Quốc, Nhật bản. Chính Nga và Trung Quốc trước kia đã chủ trương tạo lập một nền
kinh tế tự chủ bao gồm tất cả các ngành, các lĩnh vực cần thiết cho nhu cầu sản xuất và đời

sống nhân dân. Cơ cấu kinh tế đó khơng những đã khơng đem lại hiệu quả mà còn làm
chậm tốc độ tăng trưởng, lãng phí tài nguyên và kết cục đã phải có những cải cách mở cửa
hướng đến xây dựng một cơ cấu kinh tế phù hợp, gắn sản xuất nội địa với nhu cầu của thị
trường quốc tế, đặc biệt chú ý phát triển những ngành có lợi thế xuất khẩu.
- Tồn cầu hóa kinh tế mở ra khả năng cho các quốc gia chậm phát triển tham gia
vào hệ thống phân cơng lao động quốc tế, từ đó hình thành một cơ cấu kinh tế - xã hội hiệu
quả, đẩy nhanh tiến trình hiện đại hóa.

13
Trang


Khố luận tốt nghiệp

Đỗ Mai Hịa - Lớp A1 CN9

- Q trình tồn cầu hóa tạo cơ hội cho các quốc gia tiếp cận với nguồn vốn và
công nghệ kỹ thuật, trình độ quản lý cao. Ngày nay, trong nền kinh tế toàn cầu cùng với
việc mở cửa thị trường làm cho quan hệ trao đổi mua bán hàng hóa dịch vụ gia tăng mạnh
mẽ là dòng lưu chuyển của vốn, của công nghệ cũng được mở rộng và đẩy nhanh. Tham
gia vào tồn cầu hóa các quốc gia khơng chỉ tận dụng được thị trường mà cịn có thể thu
hút, sử dụng các dòng vốn quốc tế. Điều này có ý nghĩa quan trọng đặc biệt đối với các
quốc gia đang phát triển, nơi đang rất cần vốn và trình độ quản lý tiên tiến. Vì vậy, có thể
thấy tồn cầu hóa vừa là điều kiện vừa là nhân tố kích thích sự phát triển của khoa học
cơng nghệ. (xem bảng 2).

Bảng 2 - Vốn đầu tư nước ngoài vào các khu vực năm 2002:

Các khu vực
Thế giới

Các nước công nghiệp
Tây Âu
Bắc Mỹ
Các nước công nghiệp khác
Các nước đang phát triển
Achentina, Braxin, Mêhicô
Các nước Mỹ Latinh khác
Trung Quốc (cả Hongkong)
Đông Á *
Các nước châu Á khác
Châu Phi
Các nước đang phát triển khác

Số lượng vốn đầu tư
3.578
2.491
1.267
872
245
1.104
257
126
228
222
94
60
11

Đơn vị: tỷ USD
Tỷ lệ (%)

100
69,6
35,4
24,4
6,8
30,8
7,2
3,5
6,3
6,2
2,6
1,7
0,3

* Đông Á gồm: Inđônêxia, Hàn Quốc, Malaixia, Philipines, Singapore, Đài Loan, Thái
Lan
Nguồn: UNCTAD , World Investment Report, 2002
- Hội nhập vào các tổ chức kinh tế toàn cầu và khu vực cho phép các quốc gia
thành viên được hưởng những ưu đãi về thuế quan, hàng hóa có thể nhanh chóng tiếp cận
được thị trường thế giới. Đối với các nước đang phát triển thì hội nhập vào các tổ chức
14
Trang


Khố luận tốt nghiệp

Đỗ Mai Hịa - Lớp A1 CN9

kinh tế quốc tế cũng chính là tham gia vào diễn đàn cho phép mình bình đẳng bày tỏ quan
điểm bảo vệ lợi ích chính đáng của mình. Việc hội nhập vào các tổ chức khu vực và toàn

cầu, về thực chất là sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế. Điều này vơ hình chung tạo ra cơ chế
đảm bảo an toàn trong hoạt động kinh doanh. Với thực tế đó tồn cầu hóa cũng sẽ góp
phần gia tăng xu thế hịa bình hợp tác và phát triển. Tham gia hội nhập cũng đòi hỏi phải
mở cửa thị trường, phá bỏ các rào cản. Như vậy muốn hội nhập phải nâng cao năng lực
cạnh tranh, tăng năng suất lao động.
-Toàn cầu hóa kinh tế thực chất là q trình mở cửa hội nhập của quốc gia. Trong
quá trình hội nhập, các quốc gia đều nhanh chóng được tiếp nhận những thơng tin tri thức
mới góp phần nâng cao trình độ dân trí, tạo cơ sở nền tảng cho dân chủ phát triển. Trong
môi trường bảo hộ, đặc biệt với nền kinh tế "khép kín" khó có thể tiếp nhận và áp dụng
những thông tin tri thức mới. Ngày nay, sự hiện diện của mạng Internet đã nhanh chóng
lan truyền thơng tin tồn cầu, sự ngăn cách khơng gian hầu như khơng cịn ý nghĩa. Với
các phương tiện thơng tin và giao thơng hiện đại, con ngưịi ở các vùng xa xôi hẻo lánh
cũng tiếp cận được những tri thức văn hóa thế giới. Tồn cầu hóa đưa lại điều kiện giao lưu
hội nhập của con người giữa các nền văn hóa, khơng những con người hiểu nhau hơn mà
cịn góp phần nâng cao giá trị văn hóa truyền thống, xóa bỏ những hủ tục phi nhân văn, mở
ra điều kiện phát triển cho con người và cho sự chung sống hịa bình của các nền văn hóa.
1.2.2. Những thách trong q trình tham gia tồn cầu hóa
- Tồn cầu hóa đã không phân phối công bằng các cơ hội và lợi ích giữa các khu
vực, quốc gia, trong mỗi quốc gia và từng nhóm dân cư. Trên thực tế, trong tồn cầu hóa
những nước phát triển giàu có, những cá nhân giàu có mới được hưởng phần lớn những lợi
thế. Vì vậy, tồn cầu hóa đã làm gia tăng tình trạng bất cơng, làm sâu sắc sự phân hóa giàu
nghèo. Hiện nay, các quốc gia phát triển chiếm 20% dân số thế giới, nắm 73% khối lượng
buôn bán trao đổi tài sản và dịch vụ, 58% đầu tư trực tiếp nước ngoài và 91% số người sử
dụng Internet. Hầu như tuyệt đại đa số bộ phận các công ty xuyên quốc gia, thế lực chính
của tồn cầu hóa thuộc về các quốc gia phát triển. Cùng với sự gia tăng của q trình tồn
cầu hóa sự chênh lệch thu nhập giữa 20% dân số giàu nhất với 20% dân số nghèo nhất
cũng tăng lên mạnh mẽ. Tỷ lệ này năm 1960 là 30/1, năm 1990 là 60/1 và năm 2001 là
77/4. Tổng tài sản của 367 tỷ phú trên thế giới hiện nay không thua kém thu nhập của 3,1
tỷ người ở các nước nghèo. Vấn đề đặt ra là phải chăng tồn cầu hóa càng gia tăng thì thế
giới càng phân hóa? Thực tế này đặt ra yêu cầu cần phải đấu tranh cho một q trình tồn

cầu hóa với mục tiêu nhân bản hơn.

15
Trang


Khố luận tốt nghiệp

Đỗ Mai Hịa - Lớp A1 CN9

- Khi hội nhập, kỹ thuật công nghệ hiện đại được du nhập tạo ra khả năng nâng cao
năng suất, đồng thời dịng sản phẩm hàng hóa dịch vụ của các nước phát triển có lợi thế
cũng sẽ lấn át sản phẩm của các quốc gia kém phát triển hơn. Điều này đã dẫn đến việc
cạnh tranh gay gắt làm nảy sinh vấn đề phá sản, thất nghiệp, làm trầm trọng thêm các vấn
đề xã hội vốn đã rất nan giải ở các quốc gia chậm phát triển. Tuy nhiên, khi nhìn nhận vấn
đề này cũng cần nhận thấy một thực tế là do áp lực cạnh tranh buộc các doanh nghiệp phải
đổi mới làm ăn có hiệu quả hơn. Ở đây gắn liền với vai trò của doanh nghiệp là vai trò của
nhà nước trong việc hỗ trợ cho các doanh nghiệp.
- Tồn cầu hóa mở ra cơ hội tranh thủ nguồn lực bên ngồi, song chính điều đó lại
bao hàm khả năng phụ thuộc vào hệ thống phân công lao động quốc tế, nếu như không xác
định được một chiến lược phát triển phù hợp dựa trên cơ sở phát huy nội lực là chính.
- Tồn cầu hóa cho phép tận dụng các nguồn lực để rút ngắn quá trình phát triển,
song nó bao hàm khả năng khơng bền vững trong phát triển. Có thể có tăng trưởng nhưng
lại kèm theo những hậu quả về mặt môi trường xã hội. Điều này phụ thuộc rất lớn vào
chính sách phát triển và hiệu quả của bộ máy quản lý nhà nước. Thực trạng của nhiều quốc
gia trong đó có Việt Nam, việc mở cửa du nhập các thành tựu công nghệ, nguồn vốn
v.v...để phát triển, song công nghệ lạc hậu, ô nhiễm môi trường, vốn thất thoát cùng các tệ
nạn xã hội khác gia tăng. Do vậy, nếu khơng có sự kiểm sốt, nguy cơ trở thành bãi thải
cơng nghệ đối với các nước tiếp nhận công nghệ không phải xa vời. Ngay Việt Nam theo
thống kê gần đây việc nhập khẩu máy móc cơng nghệ trong những năm vừa qua có đến

50% thuộc loại đã lạc hậu, có những máy móc đã hết khấu hao, thậm chí có loại được sản
xuất từ những năm 20. Với tình trạng nhập công nghệ như vậy các quốc gia đi sau đã chịu
thua thiệt lớn, nguy cơ tụt hậu ngày càng tăng.
- Tồn cầu hóa cịn đặt ra những hậu quả phi kinh tế. Đó là vấn đề phổ biến lan tràn
nhanh các dịch bệnh, đặc biệt HIV/ AIDS. Do toàn cầu hóa luồng di chuyển lao động, du
lịch giao lưu gia tăng mạnh, theo đó dịch bệnh cũng có khả năng lây lan nhanh. Đồng thời
đó cũng cịn là sự phổ biến của các loại hình văn hóa ngoại lai với lối sống trái ngược thuần
phong mỹ tục, làm băng hoại đạo đức con người. Mạng Internet là phương tiện thông tin
tuyệt vời và nó cũng là con đường xâm thực về mặt văn hóa khá nguy hiểm nếu khơng có
cách quản lý hiệu quả.
1.3. Tồn cầu hóa kinh tế gắn liền với xu thế khu vực hóa.

16
Trang


Khố luận tốt nghiệp

Đỗ Mai Hịa - Lớp A1 CN9

Nét mới và là một trong những đặc trưng của xu thế tồn cầu hóa kinh tế hiện nay là
nó diễn ra cùng với xu thế khu vực hóa. Trong quan hệ với tồn cầu hóa thì xu thế khu vực
hóa được xem là bước chuẩn bị để tiến tới toàn cầu hóa, mặt khác xu thế khu vực hóa hiện
nay phản ánh một thực trạng co cụm nhằm bảo vệ những lợi ích tương đồng giữa một vài
nước trước những tác động tiêu cực do tồn cầu hóa đặt ra.
Khu vực hóa có nhiều mức độ khác nhau, từ một vài nước và lãnh thổ đến nhiều
nước tham gia vào một tổ chức khu vực địa lý. Hiện nay có các tổ chức đáng chú ý như
Liên minh châu Âu (EU); Khu vực thương mại tự do ASEAN (AFTA); Diễn đàn kinh tế
hợp tác châu Á - Thái Bình Dương (APEC); Khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ (NAFTA);
Tổ chức hợp tác khu vực Nam Á (SAARC)....EU - tổ chức liên kết khu vực ở trình độ cao

nhất, và AFTA - tổ chức liên kết khu vực mà chính Việt Nam chúng ta đang là một thành
viên.
Với việc thực hiện liên kết AFTA rõ ràng năng lực hội nhập của ASEAN vào nền
kinh tế thế giới sẽ gia tăng. Bởi lẽ, việc mở rộng buôn bán tự do trong khu vực sẽ bảo vệ và
nâng cao vị thế của ASEAN đối với các khu vực khác. Qua hợp tác nội bộ sẽ góp phần
giảm bớt sự lệ thuộc vào các tổ chức và quốc gia bên ngoài và sự hợp tác này sẽ tạo đà cho
việc tham gia hợp tác trong không gian mở rộng hơn như APEC và WTO. Với những lợi
thế rõ rệt của AFTA, tại Hội nghị ngoại trưởng ASEAN tháng 7/1994 họp tại Thái Lan các
quốc gia thành viên đã quyết định đẩy nhanh tiến trình AFTA nhằm kết thúc vào 2003 chứ
khơng phải 2008 như kế hoạch ban đầu.
Sự phát triển ngày càng mạnh của ASEAN được khẳng định qua Hội nghị thượng
đỉnh không chính thức họp tại Kuala Lumpur với việc đặt AFTA trong tầm nhìn 2020 và
điều này được cụ thể hóa trong Tuyên bố Hà Nội và chương trình hành động. Các hoạt
động của ASEAN đang tập trung chú ý soạn thảo các chương trình giúp đỡ các quốc gia
cịn kém phát triển nhằm bố trí lại cơ cấu kinh tế, đào tạo nguồn nhân lực; tạo lập các tam
giác phát triển giữa các quốc gia có vị trí gần nhau; thực hiện thúc đẩy tự do hóa tài chính
gắn với tự do hoá về đầu tư, thương mại; đưa ra ý tưởng về đồng tiền chung của khu vực
làm cơ sở thanh toán nội bộ, giảm lệ thuộc vào đồng USD; tạo lập cơ sở cho sự phát triển
bền vững, hướng tới một mơ hình phát triển phù hợp với điều kiện trong mỗi nước cũng
như điều kiện khu vực và thế giới đầu thế kỷ 21.
Động lực gia tăng xu thế khu vực hoá trong giai đoạn hiện nay xuất phát từ mục
đích phát huy những lợi ích so sánh, những nét tương đồng của các quốc gia trong mỗi
nhóm khu vực. Đồng thời xu thế khu vực hố cịn được đẩy mạnh bởi xu thế tồn cầu hố
17
Trang


Khố luận tốt nghiệp

Đỗ Mai Hịa - Lớp A1 CN9


cịn được đẩy mạnh bởi chính xu thế tồn cầu hố gia tăng mạnh mẽ vượt trước cả việc
hoàn thiện những định chế tồn cầu để quản lý q trình này.
Tồn cầu hoá kinh tế về bản chất là đi đến tự do hoá các yếu tố sản xuất trên phạm
vi tồn cầu nhằm phục vụ lợi ích của các dân tộc. Tuy vậy do những khác biệt về trình độ
phát triển, về nguồn lực sản xuất đã đưa lại những lợi ích khác nhau khi tham gia vào q
trình này. Để khắc phục điều đó các quốc gia có những điểm tương đồng tìm đến nhau tạo
lập các tổ chức kinh tế, tạo cho nhau những điều kiện thuận lợi hơn các quy định quốc tế
hiện hành. Như vậy về trình độ hợp tác hố khu vực hiện nay cao hơn so với tồn cầu hố.
Tuy vậy khu vực hố chỉ là tạm thời, nó ra đời trên cơ sở một trình độ phát triển nhất định
của tồn cầu hố, là bước tất yếu trên đường đi tới toàn cầu hoá. Hợp tác hoá kinh tế khu
vực càng phát triển sẽ là điều kiện và động lực cho toàn cầu hoá kinh tế.
Thực trạng phát triển hiện nay cho thấy tồn cầu hố mới chỉ ở giai đoạn đầu. Để
tiến tới một thế giới tồn cầu hố, lồi người cịn phải phấn đấu lâu dài để loại bỏ những
khác biệt trên những bình diện khác nhau. Tồn cầu hố và khu vực hố là xu hướng tất
yếu, nó xuất hiện và gia tăng gắn liền với sự phát triển của lực lượng sản xuất, đặc biệt là
khoa học công nghệ. Điều này cũng có nghĩa hội nhập quốc tế và khu vực là yêu cầu tất
yếu của phát triển. Vấn đề là hội nhập ra sao? Tiến trình và cách thức thế nào để tận dụng
được những mặt tích cực, hạn chế tác động tiêu cực của những xu thế trên.

2. Hội nhập kinh tế Quốc tế của Việt Nam - Thuận lợi và khó khăn

Trên thực tế nền kinh tế Việt Nam mới hội nhập kinh tế quốc tế ở mức độ và quy
mô hạn chế. Do nhu cầu phát triển nền kinh tế hiện tại và trong tương lai cũng như xu thế
phát triển chung của thế giới đã đến lúc chúng ta cần phải đẩy nhanh quá trình hội nhập
kinh tế khu vực và thế giới.
2.1. Quá trình hội nhập quốc tế trong những năm gần đây
Trong suốt quá trình hình thành và phát triển của dân tộc ta, thực ra chưa bao giờ
chúng ta tách khỏi nền kinh tế thế giới. Trước khi nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà
(nay là Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam) ra đời, chúng ta đã tham gia vào tiến trình

kinh tế thế giới, tuy nhiên đó là quá trình bị động khi mà nền kinh tế của chúng ta chịu sự
chi phối của chủ nghĩa thực dân. Sau khi nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà ra đời, do
điều kiện chiến tranh nên việc phát triển kinh tế rất hạn chế. Quan hệ của Việt Nam với
18
Trang


Khố luận tốt nghiệp

Đỗ Mai Hịa - Lớp A1 CN9

khu vực Đông Nam Á kể từ sau 1945 đến trước khi thực hiện đổi mới bị ngưng trệ. Khi đó
chúng ta chỉ quan hệ với các nước XHCN mà đáng chú ý là việc tham gia vào khối SEV
(Hội đồng tương trợ kinh tế). Song bản thân việc tham gia vào SEV cũng không phải xuất
phát từ yêu cầu tất yếu của phân công hợp tác về mặt kinh tế đối với Việt Nam. Từ cuối
thập kỷ 70, đất nước ta lâm vào tình trạng khó khăn, cơ chế kinh tế cũ khơng cịn tác dụng,
cơ chế mới chưa hình thành. Viện trợ từ bên ngoài giảm trong khi các thế lực thù địch
trong và ngoài nước chống phá trên mọi phương diện. Gần suốt thập kỷ 80 chúng ta loay
hoay tìm cách khắc phục song khơng những khơng hiệu quả mà cịn làm cho tình trạng khó
khăn phức tạp thêm.
Đại hội Đảng VI đã mở ra phương cách mới, chúng ta đã bắt đầu chuyển sang cơ
chế thị trường. Cùng với những đổi mới bên trong, chúng ta cũng thực hiện từng bước
chuyển hướng chiến lược trong kinh tế đối ngoại, từng bước hội nhập vào nền kinh tế thế
giới. Tiếp tục tinh thần đổi mới đó, các Đại hội Đảng VII và VIII cùng các Nghị quyết của
Hội nghị Trung ương đều có chú ý đến các vấn đề hội nhập quốc tế.
Trải qua hơn một thập kỷ từng bước hội nhập chúng ta đã có được những kết quả
bước đầu trên các mặt thương mại, đầu tư, ngoại giao..., phá bỏ thế cô lập, tạo ra môi
trường cùng hợp tác phát triển với các đối tác trên thế giới. Về ngoại thương, chúng ta đã
mở quan hệ kinh tế với 150 quốc gia và lãnh thố trên thế giới. Từ 1990 đến 2000 tổng giá
trị xuất khẩu của Việt Nam tăng gần 5 lần, trong khi đó tổng giá trị nhập khẩu tăng hơn 4

lần. Trên thực tế kết thúc năm 2000 kim ngạch xuất khẩu và nhập khẩu gần như ngang
bằng. Trong cơ cấu hàng hoá cũng có chuyển biến tích cực, tăng dần những hàng hoá đã
qua chế biến. Trong lĩnh vực thu hút vốn nước ngoài chúng ta cũng đạt được những kết
quả đáng khích lệ. Tính đến tháng 9/2000 chúng ta đã thu hút gần 36 tỷ USD FDI của hơn
70 quốc gia và lãnh thổ trên thế giới, trong đó đầu tư vào công nghiệp xây dựng đạt gần
53%. Cùng với vốn FDI chúng ta cịn tiếp nhận một lượng khơng nhỏ nguồn vốn ODA
thực sự có ý nghĩa quan trọng trong phát triển cơ sở hạ tầng. Tính ra mức vốn nước ngoài
hiện nay chiếm khoảng 32% tổng vốn đầu tư xã hội. Tỷ lệ đóng góp của khu vực có vốn
đầu tư nước ngoài trong GDP đều tăng lên qua các năm.
Cùng với việc mở cửa thu hút vốn nước ngoài, gia tăng xuất khẩu, các doanh
nghiệp Việt Nam cũng đã mạnh dạn đầu tư ra nước ngoài, kể cả vào những nước phát triển
như Nhật Bản. Tính cho đến nay các doanh nghiệp Việt Nam đã có 27 dự án đầu tư ra
nước ngoài với tổng số khoảng 8 triệu USD, tập trung chủ yếu trong lĩnh vực chế biến thực

19
Trang


Khố luận tốt nghiệp

Đỗ Mai Hịa - Lớp A1 CN9

phẩm, thương mại, dịch vụ và xây dựng. Đồng thời những năm 90 chúng ta đã ký các hợp
đồng lao động đưa hơn 8 vạn lao động ra nước ngoài làm việc.
Thực ra để đạt được những kết quả như trên trong những năm qua Việt Nam đã có
nhiều đổi mới cải thiện môi trường đầu tư, đặc biệt là Luật đầu tư, mặc dù còn phải điều
chỉnh song đã được thừa nhận là luật cởi mở, có sức thu hút đối với FDI. Chúng ta cũng có
nhiều đổi mới trong lĩnh vực tài chính tiền tệ, điều chỉnh các mức thuế theo hướng ngày
một tự do hơn.
Kết quả hội nhập còn được thể hiện rõ ở việc gia nhập và tham gia vào những hoạt

động kinh tế khu vực và toàn cầu. Chúng ta đã trở thành thành viên của ASEAN, APEC,
có quan hệ chặt chẽ với các tổ chức chuyên môn của UN, IMF, WB và ADB. Đặc biệt
chúng ta đã từng bước bình thường hố quan hệ ngoại giao và thương mại với Mỹ, đã ký
kết hiệp định thương mại Việt - Mỹ và đang xúc tiến gia nhập WTO.
Việc hội nhập tích cực, chủ động như trên đã góp phần quan trọng vào thành tựu
kinh tế - xã hội những năm đổi mới vừa qua. Không những phá vỡ được thế bao vây cơ lập
mà cịn nâng cao vị thế của Việt Nam trong khu vực cũng như trên trường quốc tế. Tuy
vậy, cũng cần thấy là bên cạnh những kết quả, tiến trình hội nhập của Việt Nam trong
những năm qua cũng đã và đang đặt ra nhiều vấn đề ở cả tầm vĩ mô và vi mô cần phải suy
nghĩ và giải quyết để tiếp tục hội nhập ngày càng hiệu quả hơn.
2.2. Một số thuận lợi và khó khăn.
2.2.1. Những thuận lợi
- Đảng và Nhà nước đã có những chủ trương và chính sách nhất quán cho việc chủ
động tham gia vào tiến trình khu vực hố và tồn cầu hố, nhờ đó chúng ta sẽ đẩy nhanh
được quá trình hội nhập. Về xu thế không thể tránh khỏi đối với sự phát triển của việc
tham gia tồn cầu hố thực chất có ý nghĩa rất lớn đối với sự nghiệp đổi mới, hội nhập của
Việt Nam. Từ nhận thức này, trong những năm qua các chính sách phát triển kinh tế đối
nội và đối ngoại đều theo hướng tự do hoá, tất nhiên còn phụ thuộc vào thực lực của mỗi
lĩnh vực.
- Tham gia vào tồn cầu hố chính là nhằm tranh thủ những điều kiện quốc tế để
khai thác các tiềm năng kinh tế nước nhà, phục vụ cho việc nâng cao đời sống nhân dân.
Việt Nam là quốc gia có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú nhưng chưa được khai
thác hiệu quả. Nguồn tài nguyên này còn là sức thu hút đối với các cơng ty nước ngồi.

20
Trang


Khố luận tốt nghiệp


Đỗ Mai Hịa - Lớp A1 CN9

Trên cơ sở các nguồn tài nguyên, chúng ta có thể xác lập cơ cấu ngành kinh tế với những
sản phẩm có tính cạnh tranh đáp ứng nhu cầu thị trường thế giới.
- Việt Nam hiện nay tuy là quốc gia đang phát triển, là một trong những nước
nghèo nhất thế giới, song nước ta được đánh giá cao về chỉ số nguồn nhân lực. Với thị
trường gần 80 triệu dân, trong đó tỷ lệ người trong tuổi lao động khá cao, có trình độ văn
hố, cần cù lao động và đặc biệt là giá lao động rẻ. Đó là lợi thế so sánh có ý nghĩa trong
q trình tham gia hội nhập. Trong điều kiện nền kinh tế thế giới đang chuyển sang nền
kinh tế trí tuệ, khoa học - công nghệ phát triển mạnh, trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp
chi phối mọi lĩnh vực kinh tế xã hội, nhưng cũng khơng thể thay thế được vai trị của
nguồn nhân lực lao động. Trong thực tế nhiều công ty nước ngoài vào Việt Nam, một trong
những lý do quan trọng là tận dụng nguồn nhân lực lao động dồi dào, rẻ và có khả năng
tiếp thu cơng nghệ mới.
- Chúng ta đẩy nhanh tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế trong điều kiện đất nước
hồ bình, chính trị xã hội ổn định. Đây là điều kiện quan trọng tiên quyết để phát triển kinh
tế, mở rộng quan hệ đối ngoại. Hơn nữa, nó đảm bảo vai trị định hướng trong hội nhập
quốc tế. Sự ổn định về kinh tế xã hội cho phép tập trung toàn thể sức lực của nhân dân cho
phát triển đất nước. Trong những năm qua chúng ta không những phát huy tốt nguồn nhân
lực trong nước mà còn thu hút được sự đóng góp khơng nhỏ của kiều bào ta ở nước ngoài
cùng với một lượng vốn lớn của nước ngoài đổ vào Việt Nam. Sự ổn định chính trị xã hội
thực sự là yếu tố quan trọng tạo ra môi trường kinh doanh lành mạnh tăng thu hút đối với
đầu tư.
Trong những năm qua Việt Nam cũng đã gia tăng quan hệ với Liên Hiệp Quốc,
IMF, WB. Cho đến nay đã hơn 20 năm Việt Nam tham gia vào LHQ. Sự tham gia này cho
phép Việt Nam nhận được sự giúp đỡ của LHQ trong nhiều lĩnh vực, đồng thời qua đó
Việt Nam cũng đóng góp vào sự phát triển của tổ chức này. Ngày nay chúng ta đã tham gia
tích cực vào các hoạt động của LHQ và có quan hệ chặt chẽ với các tổ chức của LHQ như
UNDP, UNFPA, UNICEF, UNHCR v.v...
Ngoài ra, Việt Nam cũng đã tham gia hội nhập tích cực dưới hình thức quan hệ

song phương. Đáng chú ý là quan hệ của ta với Nhật, Mỹ và các nước thành viên EU.
Riêng Nhật Bản và các thành viên EU là những quốc gia có quan hệ khá thuận lợi đối với
Việt Nam. Nhật Bản luôn là quốc gia cung cấp ODA lớn nhất, bạn hàng thương mại lớn
nhất và là một trong ba nhà đầu tư hàng đầu ở Việt Nam. Đối với EU, Việt Nam cũng là
một trong những quốc gia nhận tài trợ chính từ EU. Tháng 7/1995 Việt Nam và EU đã ký
21
Trang


Khố luận tốt nghiệp

Đỗ Mai Hịa - Lớp A1 CN9

hiệp định khung về hợp tác. Trong quan hệ với Mỹ, Việt Nam ln tỏ ra thiện chí. Năm
1994 Mỹ bãi bỏ lệnh cấm vận với Việt Nam và đặc biệt là tháng 7/2001 Hiệp định Thương
mại Việt - Mỹ đã được ký kết góp phần gia tăng quan hệ Việt - Mỹ cũng như quan hệ của
Việt Nam với thế giới.
Có thể nói sự phát triển kinh tế trở thành mục tiêu chiến lược của mỗi quốc gia,
trong đó hợp tác là cách thức chủ yếu và ổn định là điều kiện cần thiết để phát triển. Với sự
phát triển mạnh mẽ về kinh tế dưới tác động của khoa học kỹ thuật đã làm cho phân công
lao động quốc tế ngày càng sâu sắc, các quốc gia ngày một gắn bó, phụ thuộc vào nhau.
Tuy vậy hợp tác lại đi liền với cạnh tranh. Sự cạnh tranh diễn ra trong sự ràng buộc, xâm
nhập lẫn nhau, các quốc gia không thể phát triển nếu đứng tách riêng trong điều kiện tồn
cầu hố ngày nay.

2.2.2. Những khó khăn, thách thức chủ yếu
- Về mặt kinh tế, trình độ phát triển của ta so với quốc tế còn thấp và lạc hậu. Hiện
nay, 75% lao động làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp. Cho đến năm 1999 nền kinh tế
nước ta về bản chất vẫn là nền kinh tế nông nghiệp, trong đó khu vực nơng nghiệp chiếm
25,4% GDP, cơng nghiệp chiếm 34,5% và dịch vụ chiếm 40,1%. Trong khi đó ở các nước

phát triển, tỷ trọng khu vực nông nghiệp giảm mạnh, chỉ cịn khoảng 3% GDP, cơng
nghiệp cũng giảm dần chỉ còn khoảng 20% GDP, khu vực dịch vụ thì đặc biệt phát triển,
nhất là lĩnh vực thơng tin. Nhìn chung trong nền kinh tế Việt Nam hiện nay, công nghệ là
vô cùng lạc hậu, chậm hơn so với thế giới từ 50 - 100 năm. Hệ thống thiết bị kỹ thuật ở hầu
hết các doanh nghiệp lạc hậu hơn so với mức trung bình của thế giới từ 2 - 3 thế hệ, thậm
chí có những lĩnh vực từ 5 - 6 thế hệ. Chính vì vậy năng suất lao động của ta thấp, sản
phẩm sẽ có giá thành cao, khơng có sức cạnh tranh. Sự yếu kém còn thể hiện ở chỗ cơ cấu
mặt hàng xuất khẩu cũng khơng có tính cạnh tranh. Hiện chúng ta chủ yếu xuất khẩu
nguyên liệu và các sản phẩm sơ chế như dầu thô, gạo, cao su, chè, cà phê.. .Các sản phẩm
cơng nghiệp, nhất là những sản phẩm có hàm lượng cơng nghệ cao ít, sức cạnh tranh yếu.
Chúng ta biết rằng chủ thể tham gia thực sự vào hội nhập là các doanh nghiệp.
Trong khi đó các doanh nghiệp của ta còn nhỏ và yếu. Yếu cả về khả năng quản lý kinh
doanh lẫn năng lực sản xuất. Hiện nay trong 6000 doanh nghiệp Nhà nước chỉ có khoảng
5% làm ăn thực sự có hiệu quả hơn, nhưng phần tuyệt đại bộ phận cũng là doanh nghiệp
vừa và nhỏ, khả năng về vốn và công nghệ cũng bị hạn chế. Trong khi đó, cơ chế chính
sách khuyến khích bộ phận kinh tế này cũng chưa tạo ra cho họ mơi trường thuận lợi. Đó
22
Trang


Khố luận tốt nghiệp

Đỗ Mai Hịa - Lớp A1 CN9

là chưa kể hệ thống thuế của ta, nhiều doanh nghiệp còn kêu quá cao dẫn đến giá thành
sản phẩm của họ cao, giảm năng lực cạnh tranh.
Năng lực cạnh tranh kém là nguy cơ lớn khi đẩy nhanh nhịp độ hội nhập. Để hội
nhập có hiệu quả vấn đề là làm sao phải nâng cao được năng lực cạnh tranh thì các doanh
nghiệp mới có thể đứng vững được trước sự xâm nhập của hàng hố bên ngồi và từ đó
mới có thể vươn ra được thị trường thế giới. Vì vậy, nhà nước cũng như các doanh nghiệp

cần có chính sách để nâng cao hiệu quả kinh doanh, tăng năng lực cạnh tranh, xem đó là
nhiệm vụ hàng đầu hiện nay nếu không sẽ không thể chạy kịp với lịch trình hội nhập vào
AFTA.
- Nền kinh tế thị trường thế giới hiện nay đã phát triển trong khi đó chúng ta mới
chuyển sang kinh tế thị trường, vì vậy, các yếu tố của thị trường cũng chỉ mới hình thành ở
bước đầu chưa phát triển. Hơn nữa nền kinh tế thị trường thế giới hiện nay đang nằm dưới
sự chi phối của các công ty xuyên quốc gia. Hội nhập, chúng ta phải tham gia vào các định
chế khu vực và toàn cầu. Các luật chơi chúng ta chưa thơng thạo, thậm chí kiến thức kinh
tế thị trường cịn bất cập. Thách thức này bộc lộ khá rõ trong quá trình hội nhập vừa qua.
Do mới chuyển sang kinh tế thị trường mà trình độ cán bộ quản lý còn yếu. Hội nhập đặt ra
yêu cầu cao đối với các nhà quản lý doanh nghiệp, bên cạnh kiến thức, năng lực kinh
doanh còn phải hiểu biết về kinh tế quốc tế, tổ chức và hoạt động của các thể chế kinh tế
quốc tế, các cam kết mà Việt Nam và các quốc gia khác đã thoả thuận.. . Có thể nói nhìn
chung các doanh nghiệp Việt Nam chưa đáp ứng được yêu cầu này.
- Muốn hội nhập tốt một trong những điều kiện quan trọng là có bộ máy điều hành
có hiệu quả. Tình trạng tham nhũng khơng hiệu quả của bộ máy điều hành trên thực tế đã
làm nản lịng các nhà kinh doanh nước ngồi. Riêng trong lĩnh vực tiếp nhận đầu tư nước
ngồi theo ơng Shunzo Osawa thuộc công ty thép Vinakyoei Steel đã phải chờ 3 năm mới
nhận được giấy phép đầu tư. “Mặc dù luật đầu tư ở Việt Nam tự do hơn nhiều nước châu
Á khác nhưng Việt Nam thiếu một hệ thống hành chính hồn chỉnh để thực hiện luật này”
- Ơng Eri Habu giám đốc tư vấn đầu tư quốc tế thuộc công ty Tomatsu nhận xét. Rõ ràng
bộ máy hành chính của ta cần được cải cách tích cực để hội nhập có hiệu quả.
- Cùng với cải cách hành chính, chúng ta phải có hệ thống luật lệ chính sách thống
nhất phù hợp với thông lệ quốc tế mà vẫn đảm bảo được chủ quyền quốc gia. Đây cũng là
cái khó của ta khi tham gia tồn cầu hố.
- Để đẩy nhanh hội nhập, vấn đề đặt ra là phải có chiến lược tổng thể về hội nhập
kinh tế quốc tế gắn với chiến lược phát triển kinh tế xã hội. Chúng ta thấy các quốc gia
23
Trang



Khố luận tốt nghiệp

Đỗ Mai Hịa - Lớp A1 CN9

láng giềng đều có chiến lược phát triển hợp tác kinh tế quốc tế với cam kết về lộ trình tự do
hoá. Chúng ta trong những năm vừa qua vừa hội nhập vừa nghe ngóng đề điều chỉnh các
cam kết. Đành rằng ta chưa có kinh nghiệm cùng với nhiều ràng buộc khác về an ninh
chính trị song cũng phải có chiến lược tổng thể về hội nhập để các cấp, các ngành, các
doanh nghiệp có phương hướng xác định, chủ động tham gia hội nhập.
- Phải thấy rằng trong quá trình hội nhập vừa qua khơng phải mọi người đều đã
hiểu và nhận thức được yêu cầu phải mở cửa hội nhập. Trong những năm qua hàng hóa
ngoại tràn vào Việt Nam đã phần nào kéo theo cả nếp sống "sùng ngoại". Khoảng cách
phân hoá giầu nghèo ngày càng tăng đi liền với tệ nạn xã hội nổi lên chưa từng thấy làm
ảnh hưởng sâu sắc đến thuần phong mỹ tục, đến bản sắc dân tộc. Có thể nói những hậu quả
kéo theo quá trình hội nhập đang là thách thức lớn của nước ta hiện nay. Nếu đẩy nhanh
hội nhập mà khơng có cơ chế chính sách đi kèm để giải quyết các hiện tượng này thì hội
nhập khơng hẳn đã hiệu quả, đã thành công.
Trong thời đại ngày nay không thể phát triển nếu không hội nhập, không tham gia
vào q trình tồn cầu hố. Tồn cầu hố đã, đang và sẽ diễn ra từng giờ từng phút khơng
chỉ trên phạm vi tồn thế giới mà trong khn khổ hạn hẹp của bản khố luận này chúng ta
khơng thể đề cập hết mọi khía cạnh được. Ở chương sau, chúng ta sẽ đi sâu vào một ngành
cụ thể đang đặt ra khá nhiều vấn đề cần phải giải quyết và một phần nào đó chúng ta sẽ
đứng trên góc độ của tồn cầu hóa, của q trình hội nhập kinh tế để xem xét ngành nghề
này - đó là ngành Cơng nghiệp Ơ tơ Việt Nam. Để có thể hiểu và phân tích cặn kẽ về
ngành cơng nghiệp ô tô Việt Nam, thiết nghĩ chúng ta cũng nên điểm qua đơi nét về lịch sử
hình thành và phát triển của nền công nghiệp ô tô thế giới trong bối cảnh tồn cầu hố hiện
nay.

24

Trang


×