Tải bản đầy đủ (.docx) (42 trang)

Hậu quả của tham nhũng đối với sự phát triển kinh tế việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (205.9 KB, 42 trang )

MỤC LỤC
PHẦN I: LỜI MỞ ĐẦU..................................................................................1
PHẦN II: NỘI DUNG.....................................................................................2
CHƯƠNG I: MỘT SỐ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ THAM NHŨNG.........2
1.1. Khái niệm tham nhũng....................................................................2
1.2. Hành vi và một số phương thức thực hiện hành vi tham nhũng. 2
1.2.1. Khái niệm về hành vi tham nhũng..............................................2
1.2.2. Đặc điểm của hành vi tham nhũng..............................................2
1.2.3. Động cơ tham nhũng...................................................................3
1.2.4. Mục đích tham nhũng..................................................................4
1.3. Tác hại của tham nhũng..................................................................4
1.3.1. Tham nhũng là kẻ thù của nhân dân............................................4
1.3.2. Tham nhũng gây tổn hại to lớn về mặt kinh tế cho sự phát triển
xã hội.....................................................................................................5
1.3.3. Tham nhũng phá hoại đội ngũ cán bộ, tầm thường hoá hệ thống
pháp luật, là nguyên nhân liên quan trực tiếp đến sự sống còn của Nhà
nước.......................................................................................................6
1.4. Nguyên nhân của tệ tham nhũng..................................................11
1.4.1. Nguyên nhân gây ra tham nhũng có nhiều, nhưng ngun nhân
đầu tiên có tính chất sâu xa, bản chất là do chế độ người bóc lột người
sinh ra..................................................................................................11
1.4.2. Hệ thống pháp luật, cơ chế chính sách ở nước ta còn nhiều kẽ
hở.........................................................................................................12
1.4.3. Do những sai lầm khuyết điểm trong hoạt động của một số cơ
quan Đảng và Nhà nước......................................................................13
i


1.4.4. Những yếu kém trong công tác tổ chức cán bộ do sự buông
lỏng, yếu kém trong quản lý Nhà nước...............................................14
1.4.5. Do bản chất của nền kinh tế thị trường.....................................15


1.4.6. Trình độ dân trí..........................................................................15
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG VÀ HẬU QUẢ CỦA THAM NHŨNG
ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ VIỆT NAM HIỆN NAY........16
2.1. Thực trạng vấn đề tham nhũng và cơng tác phịng chống tham
nhũng hiện nay......................................................................................16
2.1.1. Thực trạng tham nhũng hiện nay...............................................16
2.1.2. Thực trạng cơng tác đấu tranh phịng, chống tham nhũng hiện
nay.......................................................................................................20
2.1. Ảnh hưởng tiêu cực của tham nhũng...........................................24
2.1.1. Tác hại của tham nhũng đối với ngân sách...............................24
2.1.2. Tác hại của tham nhũng đối với kinh tế tư nhân.......................26
2.1.3. Tác hại của tham nhũng đối với nền kinh tế như thế nào?........27
2.1.4. Tác hại của tham nhũng đối với người dân như thế nào?.........28
2.1.5. Tác hại của tham nhũng đối với phát triển đất nước như thế
nào?.....................................................................................................30
CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU
QUẢ CHỐNG THAM NHŨNG HIỆN NAY..........................................31
3.1. Biến quyết tâm chính trị thành hành động thực tiễn trong
phòng, chống tham nhũng và mở rộng thêm nội hàm đấu tranh.....31
3.2. Hồn thiện hệ thống chính sách, pháp luật để “không thể tham
nhũng, không dám tham nhũng, không cần tham nhũng”................33
3.3. Xây dựng đội ngũ cán bộ có đạo đức, năng lực, liêm chính.......34
ii


3.4. Nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ quan các cấp về phòng,
chống tham nhũng.................................................................................35
3.5. Thực hiện nghiêm cơ chế, chính sách về cơng tác tổ chức - cán
bộ.............................................................................................................35
3.6. Xử lý nghiêm minh, kịp thời các vụ án, vụ việc tham nhũng;

nâng cao hiệu quả thu hồi tài sản tham nhũng...................................36
KẾT LUẬN....................................................................................................37
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................38

iii


PHẦN I: LỜI MỞ ĐẦU

Pháp luật nước Việt Nam những năm gần đây đẩy mạnh phòng, chống
tham nhũng. Với việc ra đời và có hiệu lực của luật phịng chống tham nhũng
2018, nước ta đang đổi mới dần dần pháp luật về tham nhũng. Trên cơ sở, tiếp
thu kế thừa những tư duy pháp lý sáng suốt của luật cũ, phù hợp hơn với hoàn
cảnh thực tiễn và bắt kịp những đổi thay của thực trạng trong nước thì các nhà
làm luật đã cho ra đời một văn bản pháp luật tồn diện. Bên cạnh đó cũng cịn
những văn bản khác phải kể đến nghị định số 59/2019/NĐ-CP quy định một
số điều và biện pháp thi hành luật phòng chống tham nhũng và các văn bản
của Đảng. Trên cơ sở quyết tâm chống tham nhũng, lãnh phí và tiêu cực cao,
Đảng và nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, đường lối sáng suốt để tránh
thiệt hại đáng kể cho nhân dân nói chung. Trong những năm gần đây, thiệt hại
vật chất của tham nhũng ngày càng hiện hữu. Cũng vì vậy mà tác hại về kinh
tế của tham nhũng xảy ra là vơ cùng lớn. Vì tham nhũng là việc trục lợi để lấy
tiền công làm của riêng nên bao giờ khi có tham nhũng xảy ra cũng kéo theo
hậu quả kinh tế, đây được xem như hậu quả dễ thấy nhất của tham nhũng.

1


PHẦN II: NỘI DUNG
CHƯƠNG I: MỘT SỐ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ THAM NHŨNG

1.1. Khái niệm tham nhũng
Theo Từ điển Tiếng Việt thì: “Tham nhũng là lợi dụng quyền hành để
nhũng nhiễu dân và lấy của”.
Tham nhũng là hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn, vị thế xã hội của
viên chức Nhà nước để làm trái pháp luật hoặc lợi dụng các sơ hở của pháp
luật kiếm lợi cho bản thân, gây hại cho xã hội, cho công dân. Pháp lệnh chống
tham nhũng ngày 26-2-1998 cũng ghi rõ trong điều 1: “Tham nhũng là hành
vi của những người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ và quyền hạn
đó để tham ơ, hối lộ hoặc cố ý làm trái pháp luật vì động cơ vụ lợi, gây thiệt
hại cho tài sản Nhà nước, tập thể và cá nhân, xâm phạm hoạt động đúng đắn
của các cơ quan, tổ chức. Tham nhũng là vật cản lớn nhất của tiến trình phát
triển xã hội, là nguy cơ trực tiếp liên quan đến sự sống còn của các Nhà
nước”.
Mặc dù được thể hiện theo những cách khác nhau song tham nhũng
được hiểu khá thống nhất trong văn hoá pháp lý ở các nước trên thế giới, đó là
việc lợi dụng vị trí, quyền hạn thực hiện hành vi trái pháp luật nhằm trục lợi
cá nhân hay nói một cách khác tham nhũng là việc sử dụng hoặc chiếm đoạt
bất hợp pháp công quyền hay nguồn lực tập thể.
1.2. Hành vi và một số phương thức thực hiện hành vi tham nhũng
1.2.1. Khái niệm về hành vi tham nhũng
Hành vi tham nhũng là hành vi thoả mãn đầy đủ các dấu hiệu pháp lý
của một cấu thành tội tham nhũng đã được pháp luật qui định, đó là các hành
vi có ý thức, có chủ định.

2


1.2.2. Đặc điểm của hành vi tham nhũng
Hành vi tham nhũng là hành vi của một cá nhân hoặc một nhóm người
trong đó có kẻ cầm đầu, nó thường tạo thành từ các nhóm người có quan hệ

thân quen, họ hàng và gần đây trên thế giới lại hình thành các hành vi tham
nhũng có tính tổ chức của nhiều người dựa trên lợi ích ích kỷ của họ. Loại
hành vi này đang có xu hướng tăng lên rất mạnh mang lại hậu quả rất nghiêm
trọng và có hai đặc trưng nổi bật: một là xuất hiện dưới phương thức tổ chức
có đặc trưng khác với hoạt động cá nhân, loại này được gọi là tham nhũng
siêu ngạch với những hình thức chủ yếu như biển lậu thuế có tổ chức, bn
lậu có tổ chức, làm giả có tổ chức, vơ vét tổ chức, xâm chiếm có tổ chức biểu
hiện chủ yếu là xâm chiếm vốn của Nhà nước, hai là được sự hoàn thiện với
sự tham gia của quyền lực của một tổ chức nhất định để đạt được mục đích
thu được lợi ích hoặc lợi nhuận siêu ngạch .
Về hình thức tham nhũng chủ yếu vẫn thơng qua các hành vi tham ô,
hối lộ, lộng quyền, sách nhiễu, dùng quyền lực để mưu tư lợi, dùng tiền tài
làm càn vi phạm pháp luật, dùng tiền tài thao túng quyền lực, chiếm đoạt
quyền lực….
Về thủ đoạn, các hành vi tham nhũng được hình thành bằng nhiều cách:
kết cấu bên trong, móc ngoặc ngồi nước cùng với sự hỗ trợ của các phương
tiện kỹ thuật phức tạp đã làm cho hoạt động tham nhũng ngày một trở nên
khó bị phát hiện .
Về lĩnh vực: Đối tượng mà các hoạt động tham nhũng săn đuổi nói
chung tập trung vào nơi có tiền bạc, nguồn lực, quyền hạn, hợp đồng, tài
chính, chức vụ, cơ hội, …cho nên các lĩnh vực có tỷ lệ thành án cao trên thế
giới ngày nay vẫn là các ngành ngân hàng, tài chính, thương mại, xuất nhập
khẩu, dự trữ quốc gia, giao thông vận tải, bưu điện, xây dựng, các đề án nước
ngoài, các nơi cấp phép hoạt động hoặc thơng qua thủ tục hành chính, các cửa
khẩu …
3


1.2.3. Động cơ tham nhũng
Động cơ tham nhũng được hình thành từ các yếu tố cơ bản như lòng

tham, ham muốn vật chất, lòng ham địa vị và quyền lực cao, muốn làm giàu
một cách nhanh chóng, muốn có cuộc sống và lối sống hơn người về lợi ích
hoặc cịn do nhiều yếu tố như thiếu bản lĩnh, thiếu ý chí, dễ sa ngã dẫn đến sự
khơng chấp nhận sự mất cân đối giữa nhu cầu tiêu dùng với khả năng thu
nhập và địa vị cơng việc của mình. Từ đây có thể phác hoạ một cách khái quát
về tham nhũng và các yếu tố cấu thành của hành vi tham nhũng theo công
thức sau:
C(Tham nhũng) = M (Quyền lực) + D (Tuỳ ý định đoạt) –
A(Trách nhiệm)
Hành vi tham nhũng = lợi ích của người có quyền + sự sơ hở, yếu kém
trong quản lý Nhà nước (Sự lỏng lẻo khơng nghiêm của pháp luật )
1.2.4. Mục đích tham nhũng
Mục đích của hành vi tham nhũng là cái đích mà người phạm tội đặt ra
trong óc mình và mong muốn đạt đến bằng hành vi phạm tội và khi có điều
kiện khách quan cho phép thực hiện thì nó dễ trở thành hiện thực.
1.3. Tác hại của tham nhũng
1.3.1. Tham nhũng là kẻ thù của nhân dân.
Hồ Chủ Tịch đã từng nhận định: “Tham nhũng là kẻ thù nguy hiểm của
nhân dân, của bộ đội và của chính phủ vì nó khơng mang gươm mang súng
mà nó nằm trong các tổ chức của ta để làm hỏng ta. Nó làm hỏng tinh thần
trong sạch và ý chí khắc khổ của cán bộ ta. Nó phá hoại đạo đức cách mạng ta
là cần- kiệm - liêm - chính”.
Tham nhũng cịn gây ra tác hại làm giảm sút lòng tin của công dân đối
với bộ máy và công chức, viên chức Nhà nước, triệt tiêu động lực cơ bản nhất
của sự phát triển. Điều này đã được V.I. Lênin khuyến cáo: “Nếu có cái gì đó
4


có thể triệt tiêu được chủ nghĩa xã hội thì đó chính là tham nhũng, quan liêu”.
Đây cũng là bài học hàng đầu mà Đảng ta rút ra tại đại hội lần thứ 6. Đó là bài

học lấy dân làm gốc, dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra. Đây cũng là
bài học mà ông cha ta đã truyền lại cho con cháu. Trần Quốc Tuấn đã từng
nói: “Người dân vốn khơng hài lịng, sợ ta thì khinh địch, sợ địch thì khinh ta,
để dân khinh là mất nước”.
1.3.2. Tham nhũng gây tổn hại to lớn về mặt kinh tế cho sự phát triển xã hội
Tham nhũng gây tổn hại to lớn về mặt kinh tế cho sự phát triển xã hội
kéo lùi sự phát triển tuỳ theo quy mơ và mức độ gây hại của nó. Tham nhũng
đã gây thiệt hại vật chất hàng ngàn tỷ đồng, hàng trăm triệu đơ la của Nhà
nước. Chi phí kinh tế của tham nhũng là rất khó xác định nhưng một số cơng
trình nghiên cứu đã đưa ra đó là:
+ Tăng từ 3-10% cho giá của một giao dịch để đẩy nhanh giao dịch.
+Một mức tổn thất tới 50% nguồn thu từ thuế của chính phủ do hối lộ
và tham nhũng.
Một số minh chứng điển hình về tác hại của tham nhũng đối với nền
kinh tế: chỉ riêng tổng thống của nước Công gô (Zaire cũ) với số tiền tham
nhũng trong các năm cầm quyền lên tới 9-10 tỷ USD, bằng 70% số nợ nước
ngoài của nước này.Tại Việt Nam với mức thu nhập bình quân đầu người vào
khoảng 400 USD/năm nhưng những vụ tham nhũng gây thiệt hại nghiêm
trọng về kinh tế vẫn diễn ra hàng năm điểm hình như vụ án Minh Phụng EPCO đã chiếm đoạt hơn 3.547 tỷ đồng và 25,4 triệu USD của Nhà nước.
Ngoài ra tính đến khi vụ án bị khởi tố ngân sách Nhà nước còn bị thiệt hại
115 tỷ đồng và 596.303 USD là phí bảo lãnh và lãi phát sinh của các khoản
thiệt hại nói trên. Bên cạnh đó cịn là những vụ gây thiệt hại nhiều đến tiền
của Nhà nước và nhân dân như vụ Tamexco đã thiệt hại 500 tỷ đồng, dệt Nam
Định khoảng 900 tỷ đồng… Đặc biệt hiện nay tình trạng tham nhũng ở Việt
5


Nam gây thiệt hại về kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ trong đầu tư xây dựng cơ
bản, hoàn thuế giá trị gia tăng,lạm dụng quyền lực để bản thân và gia đình
tham nhũng …

1.3.3. Tham nhũng phá hoại đội ngũ cán bộ, tầm thường hoá hệ thống pháp
luật, là nguyên nhân liên quan trực tiếp đến sự sống còn của Nhà nước
Tác hại của tham nhũng không chỉ dừng lại ở phương diện thiệt hại vật
chất hàng ngàn tỷ đồng, hàng trăm triệu USD của Nhà nước mà tham nhũng
sẽ làm tầm thường hoá hệ thống pháp luật của Nhà nước, kỷ cương xã hội
không thể giữ vững, gây mất đồn kết nội bộ, làm giảm uy tín của Đảng và
Nhà nước trước nhân dân và là cơ hội để cho kẻ thù pháp hoại, xâm lược. Nếu
các nhà hành pháp mà tự mình phá hoại luật pháp thì làm sao có thể duy trì
được phép nước. Những kẻ tham nhũng chính là những tên đầu trị trong việc
làm tê liệt hệ thống hành pháp là cho Nhà nước trở thành đối lập và gánh
nặng cho công dân.
Tham nhũng tất yếu dẫn đến phá hoại đội ngũ cán bộ Nhà nước bởi vì
những kẻ tham nhũng sẽ lừa dối và hư hoá cấp trên làm cho bộ máy trở thành
quan liêu, chúng sẽ tăng cường đưa thêm kẻ xấu vào guồng máy và triệt hại
đội ngũ viên chưa tốt. Những kẻ tham nhũng chính là những tên phá hoại từ
bên trong của hệ thống hành pháp quốc gia.Tham nhũng sẽ làm cho quần
chúng mất đi sự tin tuởng vào đường lối lãnh đạo của Đảng và Nhà nước và
đây cũng là nguyên nhân căn bản nhất dẫn đến thất bại của Đảng và Nhà
nước.
Chính với những tác hại to lớn kể trên cũng như nhiều tác hại do bệnh
tham nhũng tạo ra, nhiều nước đã coi tham nhũng là quốc nạn của đất nước, là
giặc nội xâm nguy hiểm.Trong các văn kiện đại hội VIII, IX Đảng ta khẳng
định: Nạn tham nhũng đang là một nguy cơ trực tiếp quan hệ đến sự sống cịn
của hệ thống chính trị. Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã có nhiều biện pháp
khắc phục, song hiệu quả còn thấp. Phải tiến hành đấu tranh kiên quyết,
6


thường xuyên và có hiệu quả chống tham nhũng trong bộ máy Nhà nước,
trong tất cả các ngành, các cấp từ Trung ương đến cơ sở. Kết hợp những biện

pháp cấp bách với những giải pháp có tầm chiến lược nhằm hồn thiện cơ
chế, chính sách, kiện tồn tổ chức, chấn chỉnh công tác quản lý, khắc phục sơ
hở, vừa xử lý nghiêm kịp thời mọi vi phạm, tội phạm, huy động và phối hợp
chặt chẽ mọi lực lượng đấu tranh nhằm ngăn chặn, đẩy lùi và loại trừ tham
nhũng. Thủ trưởng cơ quan đơn vị, cán bộ chủ chốt các cấp phải gương mẫu
đi đầu trong đấu tranh chống tham nhũng, trước hết là đối với bản thân. Đấu
tranh chống tham nhũng phải gắn liền với đấu tranh chống bn lậu, lãng phí,
quan liêu, tập trung vào các hành vi tham ơ, chiếm đoạt làm thất thốt tài sản
Nhà nước, đòi hối lộ, đưa và nhận hối lộ.
Tham nhũng đã có từ rất lâu trong lịch sử lồi người, có thể từ thời kỳ
xuất hiện những hình thức ban đầu của Nhà nước. Do tác hại của tham nhũng
là vơ cùng lớn nên việc phịng chống tham nhũng ln được coi là nhiệm vụ
bức xúc hàng đầu của các quốc gia. Tuy nhiên gần đây một quan điểm trái
ngược đã xuất hiện cho rằng tham nhũng không thể không nhất qn với phát
triển, và đơi khi nó thậm trí còn thúc đẩy phát triển. Những người nêu ra quan
điểm hiện đại này đã phủ một đám mây mơ hồ lên vấn đề tham nhũng. Chẳng
hạn họ cho rằng định nghĩa về tham nhũng rất khác nhau giữa các nền văn
hố, hàm ý rằng những gì bị coi là tham nhũng ở phương Tây sẽ được lý giải
một cách khác trong khuôn khổ những tập quán của các nền kinh tế mới nổi.
Những người theo chủ nghĩa xét lại cũng nều đặc trưng về những hiệu ứng
của tham nhũng đối với tăng trưởng kinh tế, đây là những lý luận mơ hồ. Dựa
trên thực tế là, cho đến gần đây một số “con hổ” châu Á vẫn trải qua tăng
trưởng kinh tế phi thường lẫn tham nhũng ở mức độ cao. Cuối cùng người ta
cho rằng hiệu ứng của những cải cách thị trường đến tình trạng tham nhũng là
khơng rõ ràng.

7


Chủ đề trọng tâm của luận điểm “dầu bôi trơn bánh xe” là hối lộ có thể

là một cách làm có hiệu quả để vượt qua những qui định phiền hà và những
hệ thống pháp luật vơ tích sự. Cách lập luận này khơng thể khởi nguồn cho
những mơ hình mang tính học thuật phức tạp, mà cịn hợp pháp hố cách ứng
xử của các cơng ty tư nhân sẵn sàng hối lộ cho được việc. Khi xem xét sâu
hơn lập luận này có rất nhiều lỗ hổng. Nó lờ đi quyền tự do làm theo ý mình
vốn rất lớn mà nhiều chính trị gia và quan chức, nhất là ở các xã hội tham
nhũng, có được trong việc tạo dựng, gia tăng và giải thích các quy định phản
tác dụng. Do đó thay vì bơi trơn những bánh xe kêu cót két của một nền hành
chính vững chắc, tham nhũng lại trở thành thứ tiếp sức cho những quy định
quá đáng và tuỳ tiện. Đây là một cơ chế mà nhờ đó tham nhũng tự ni sống
chính bản thân nó.
Một biến thái kinh tế phức tạp của lập luận “dầu bơi trơn là tích cực” là
quan điểm cho rằng hối lộ cho phép cung cầu hoạt động. Quan điểm này kiên
định rằng trong cuộc đặt giá cạnh tranh để có được một hợp đồng mua hàng
cuả chính phủ, người hối lộ nhiều nhất sẽ giành phần thắng và công ty có chi
phí thấp nhất sẽ có khả năng chịu đựng số tiền hối lộ lớn nhất. Điều đó chỉ
hay về lý thuyết nhưng lại không đúng.
Thứ nhất, bằng cách chỉ tập trung vào tệ hối lộ lập luận này khơng tính
đến tham nhũng là ăn cắp các nguồn lực cơng cộng, làm suy yếu tính ổn định
kinh tế vĩ mơ. Khơng những thế những người nhận hối lộ có xu thế chuyển
những đồng tiền tham nhũng được vào các tài khoản ở nước ngồi. Ví dụ theo
cách này Nigiênia đã tổn thất hàng tỷ tiền ngân sách trong những thập kỷ vừa
qua.
Thứ hai, việc giả định năng lực đấu thầu cao nhất bắt nguồn từ khía
cạnh hiệu quả - chi phí là khơng đúng, thay vào đó nó thường gắn với chất
lượng dưới mức tiêu chuẩn.
8


Thứ ba, các chính trị gia hiếm khi chịu làm đối tượng của một khoản

chi trả bất hợp pháp trong cuộc đấu thầu cạnh tranh, trái lại họ đòi tiền hối lộ
một cách kín đáo từ những đối tượng mà họ tin là sẽ được giữ bí mật.
Thứ tư, việc nhìn nhận hối lộ như một cơ chế làm cân bằng cung cầu
khơng tính đến thực tế là nhiều hàng hố cơng cộng khơng nên được phân
phối cho những người đặt giá cao nhất,thay vào đó mục tiêu của các chương
trình xố đói giảm nghèo là phân bổ cac nguồn lực theo sự cần thiết của
những người nhận.
Cuối cùng quan điểm cung và cầu về tham nhũng cho rằng những kẻ
hối lộ nhận được những hàng hoá mà họ đã phải trả tiền cho chúng, điều này
không phải lúc nào cũng đúng vì khơng thể cưỡng chế thi hành các giao dịch
tham nhũng bằng luật pháp. Một trường phái “ biện hộ cho tham nhũng” lý
luận rằng hối lộ có thể làm tăng hiệu quả bằng cách giảm đáng kể thời gian
cần thiết cho các thủ tục xin phép và công việc giấy tờ. Vấn đề đối với lý lẽ
“đồng tiền đi trước” này nằm ở giả định rằng cả hai phía đều thực sự tham gia
vào vụ việc và khơng địi hỏi thêm tiền hối lộ. Ở Ấn Độ một công chức cấp
cao được hối lộ không thể giải quyết các thủ tục xin phép nhanh hơn được
một chút nào vì có nhiều người trong giới quan liêu cùng tham gia vào q
trình đó, nhưng ơng ta sẵn sàng đưa ra giải pháp làm chậm trễ quá trình cấp
giấy phép đối với các công ty đối thủ. Ngay cả trong những xã hội mà vô vàn
các qui định phản tác dụng đã được tạo ra nhằm moi của hối lộ vẫn phải có
một hạt nhân của các luật lệ và các qui định phục vụ những mục tiêu xã hội
hữu ích. Những bộ luật đơn giản và minh bạch về xây dựng, những qui định
hợp lý về môi trường, những qui định rõ ràng nhằm đảm bảo sự lành mạnh
của hệ thống ngân hàng và những qui định nghiêm ngặt về mua bán hạt nhân,
ma tuý….là cần thiết trong bất cứ một xã hội nào. Trong bối cảnh này lý lẽ
tham nhũng như chất dầu bôi trơn là đặc biệt nguy hiểm vì tiền hối lộ sẽ phục

9



vụ cho việc giày xéo lên những qui định như vậy và làm tổn hại các mục tiêu
xã hội .
Một yếu tố khác góp phần vào nạn hối lộ là quyền tự do định đoạt của
các chính trị gia trong việc hạn chế sự tiếp cận các đối thủ cạnh tranh tiềm
năng vào thị trường dành cho những kẻ hối lộ. Khối lượng “ dầu bôi trơn” đã
gia cố những cấu trúc độc quyền khổng lồ. Thông lệ tham nhũng cố hữu của
những hệ thống tài chính được giám sát một cách yếu kém và việc có tay
trong đã góp phần những cuộc khủng hoảng kinh tế vĩ mô ở Anbani, Bungari
và mới đây là ở các nước Đông Á.
Hối lộ, tìm kiếm tiền tơ cũng địi hỏi một chi phí kinh tế lớn. Tài năng
được sử dụng khơng đúng chỗ vì những việc làm có tiềm năng thu được
những khoản đút lót sinh lợi thu hút những người mà lẽ ra đã chấp nhận
những phần thưởng tài chính khiêm tốn hơn do những nghề nghiệp thực sự có
ích mang lại. Các quan chức tham nhũng đưa ra những quyết định tồi tệ về
mặt công nghệ, việc ủng hộ những dự án khơng đạt tiêu chuẩn, phức tạp, địi
hỏi vốn lớn song dễ hớt được những món tiền lớn hơn. Do đó một hợp đồng
lớn về quốc phịng hay cơ sở hạ tầng có thể được ủng hộ hơn việc xây dựng
hàng trăm trường tiểu học và trạm y tế. Tai hại hơn các quan chức cho phát
triển nhiều dự án “voi trắng” (cồng kềnh, chi phí cao) khơng có ích gì mà chỉ
làm giầu cho một số quan chức và một số nhà cung cấp. Tình trạng khơng
hoạt động của bốn nhà đối tác mới đây ở Lagos, Nigieria là một ví dụ. Khơng
những thế các nhà thầu và các quan chức dính líu vào các hoạt động tham
nhũng gây ra những chi phí khổng lồ về thời gian và năng suất bỏ ra. Việc
thương lượng những vụ làm ăn và những khoản thanh toán bất hợp pháp, đảm
bảo bí mật của chúng và đề phịng những rủi ro luôn hiện hữu là sẽ không
nhận được những chữ ký và giấy phép đã được hứa hẹn đều là những công
việc mất thời gian, cả sự cần thiết phải đàm phán lại hay hối lộ thêm cho một
quan chức khác nữa như vẫn từng xảy ra, cũng tốn thời gian không kém. Trên
10



thực tế bằng chứng từ nhiều quốc gia cho thấy mối quan hệ cùng chiều giữa
mức độ hối lộ và lượng thời gian mà một doanh nghiệp phải dành cho các
quan chức Nhà nước. Một cuộc điều tra năm 1993 đối với hơn 1.500 doanh
nghiệp ở 49 quốc gia cho thấy: chẳng hạn như ở Ucraina các ông chủ công ty
mất nhiều tiền hối lộ phải dành thời gian cho các quan chức và chính trị gia
nhiều hơn gần một phần ba so với những người hối lộ ít. Những công ty hối lộ
nhiều cũng phải mất 75 tuần công lao động mỗi năm trong thời gian quản lý
cho việc thương lượng với các quan chức so với con số trung bình hàng năm
là 22 tuần cơng lao động của các doanh nghiệp hối lộ ít. Thêm vào đó các số
liệu thu được từ hơn 3.600 doanh nghiệp ở 69 nước chứng tỏ rằng ở những
nước có tình trạng tham nhũng cao hơn các doanh nghiệp thường dành một
phần lớn hơn trong thời gian quản lý cho các quan chức. Ngoài ra cuộc điều
tra cũng cung cấp bằng chứng cho thấy ở những nơi mà tệ hối lộ phổ biến hơn
thì chi phí vốn và chi phí đầu tư của các doanh nghiệp có xu hướng cao hơn

Như vậy tác hại của tham nhũng là vô cùng lớn và đặc biệt nguy hiểm
đối với tất cả các quốc gia. Tham nhũng đã trở thành “quốc tế nạn” là một
trong những vấn đề toàn cầu mà tất cả các quốc gia đều có trách nhiệm cùng
tham gia giải quyết.
1.4. Nguyên nhân của tệ tham nhũng
Những năm qua cuộc đấu tranh tham nhũng của Đảng và Nhân dân ta
diễn ra rất quyết liệt và đã thu được kết quả bước đầu song đến nay có thể nói
nạn tham nhũng vẫn chưa được đẩy lùi một cách cơ bản. Tình hình vẫn diễn
ra phức tạp, có nơi có chiều hướng gia tăng với những thủ đoạn hết sức tinh
vi, có trường hợp câu kết, móc nối ngang dọc giữa các phần tử thối hố biến
chất trong các cơ quan Nhà nước và ngồi xã hội, rất khó phát hiện làm cho
cuộc đấu tranh chống tham nhũng hết sức khó khăn. Vậy do những nguyên
nhân chủ yếu nào ?
11



1.4.1. Nguyên nhân gây ra tham nhũng có nhiều, nhưng ngun nhân đầu tiên
có tính chất sâu xa, bản chất là do chế độ người bóc lột người sinh ra.
Hồ Chủ Tịch đã nói: “Tham ơ, lãng phí, quan liêu là những xấu xa của
xã hội cũ. Nó do lịng tư lợi ích kỷ, hại nhân dân mà ra, nó do chế độ người
bóc lột người mà ra.”
Một đặc điểm nổi bật của sự vận động xã hội, khác với mọi sự vận
động vật chất khác trong tự nhiên ở chỗ con người hành động đều tính đến lợi
ích hoặc mục đích tư lợi ích kỷ nào đó. Bởi vậy chế độ tư hữu chính là cơ sở
tư tưởng của các hành vi tham nhũng, khơng có tư tưởng tư lợi ích kỷ sẽ
khơng có hành vi tham nhũng thiệt người lợi mình.
1.4.2. Hệ thống pháp luật, cơ chế chính sách ở nước ta còn nhiều kẽ hở
Hệ thống pháp luật
Trong đấu tranh phòng chống tham nhũng, pháp luật được coi là
phương tiện cứng rắn nhất và không thể thiếu được. Lịch sử đấu tranh chống
tham nhũng trên phạm vi toàn thế giới cho thấy, nếu thiếu phương tiện pháp
luật thì cuộc đấu tranh này chỉ là cuộc chiến nửa vời dọa tham nhũng chứ
không diệt được tham nhũng. Vai trò của pháp luật trong đấu tranh chống
tham nhũng được thể hiện ở nhiều nội dung khác nhau, từ việc xác định thế
nào là tham nhũng, các loại hành vi tham nhũng, các biện pháp phòng ngừa,
các loại chế tài cho tới hình thức và biện pháp xử lý tham nhũng. Ở một cách
phân chia tương đối, pháp luật liên quan đến tham nhũng được sử dụng trên
hai phương diện: Phòng ngừa tham nhũng và xử lý tham nhũng.
Nhiều cán bộ, công chức không nắm được những quy định cơ bản trong
pháp Lệnh chống tham nhũng và những quy định của Bộ luật hình sự về tội
tham nhũng. Ở nhiều cơ quan, lãnh đạo không muốn tổ chức triển khai thực
hiện pháp luật về chống tham nhũng trong đơn vị mình bởi vì nó động chạm
đến chính bản thân người lãnh đạo đó. Từ thực trạng đó mà trên thực tế nhiều
người có hành vi tham nhũng song khơng ý thức được đầy đủ hành vi của

12


mình. Một số người khác cũng do khơng hiểu biết pháp luật mà chưa thấy
được trách nhiệm của mình trong việc phát hiện, tố cáo hành vi tham nhũng.
Tình trạng bao che xử lý nội bộ cịn phổ biến. Khơng ít vụ án tham
nhũng đang bị điều tra bỗng nhiên bị đình chỉ. Nhiều vụ án đưa ra xét xử song
hình phạt cịn nhẹ, chưa đủ tính răn đe, phịng ngừa. Đặc biệt trong thời gian
qua đã xuất hiện không ít trường hợp chính những cán bộ được giao nhiệm vụ
trực tiếp đấu tranh xử lý tội phạm có hành vi tham nhũng lại là người có hành
vi tham nhũng. Ở một số địa phương đã nảy sinh tình trạng một số người có
chức vụ, quyền hạn can thiệp vào hoạt động đấu tranh chống tham nhũng của
cơ quan bảo vệ pháp luật. Rõ ràng, sự thiếu nghiêm minh công bằng trong
việc xử lý người có hành vi tham nhũng đã trở thành một trong những nguyên
nhân làm cho tình trạng tham nhũng chưa có chiều hướng thuyên giảm
Cơ chế chính sách
Nhiều chế độ chính sách cịn mang tính ban phát, nên chưa loại trừ
được cơ chế xin-cho, tạo ra một tầng lớp độc quyền, đặc lợi và những tiêu cực
khó kiểm sốt. Một chế độ đãi ngộ cán bộ, cơng chức cịn mang tính bao cấp
như đất đai, nhà ở, phương tiện…dẫn tới việc vận dụng tuỳ tiện. Tiền lương
chưa đảm bảo cuộc sống nên việc tìm thêm nguồn thu nhập khác trở thành
phổ biến. Chính hệ thống pháp luật không chuẩn xác, do xử phạt tội tham
nhũng quá nhẹ
Cơng tác cải cách hành chính đạt hiệu quả chưa cao. Nạn sách nhiễu
tham nhũng đang tạo nên rào cản trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
1.4.3. Do những sai lầm khuyết điểm trong hoạt động của một số cơ quan
Đảng và Nhà nước
Tệ tham nhũng nói chung và các tội phạm có tính chất tham nhũng phát
triển phổ biến và gây hậu quả hết sức nghiêm trọng như hiện nay chủ yếu và
trước hết do những sai lầm, khuyết điểm trong hoạt động của nhiều cơ quan

13


Đảng và Nhà nước và do sự thoái hoá biến chất của một bộ phận cán bộ,
Đảng viên.
Ý thức tự phê bình và phê bình của cán bộ, đảng viên cịn yếu. Biểu
hiện cụ thể là chưa có cán bộ, đảng viên nào phạm pháp hoặc có hành vi tham
nhũng, tiêu cực, lãng phí được phát hiện do kết quả của phê bình và tự phê
bình trong nội bộ. Một số vụ việc có liên quan đến tham nhũng, tiêu cực, lãng
phí bị quần chúng, cơng luận phát hiện, tố giác, song các tổ chức đảng liên
quan, tổ chức đảng cấp trên, các cơ quan thanh tra, kiểm tra hoặc khơng biết
hoặc biết nhưng khơng tích cực ngăn chặn để những hành vi đó phát triển
thành những vụ án nghiêm trọng.
Các ý kiến đồng tình với việc xác định những nguyên nhân dẫn đến
việc “chưa tạo ra được những chuyển biến cơ bản trong công tác xây dựng
Đảng cũng như trong việc nâng cao chất lượng của các tổ chức đảng và của
đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là chưa ngăn chặn và đẩy lùi được tệ tham
nhũng, lãng phí” mà hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khoá IX
đã chỉ ra. Cụ thể là, ở khơng ít nơi, sự chỉ đạo của các cấp uỷ chưa kiên quyết,
chưa tập trung đúng mức, một số cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp chưa tự
giác phê bình và tự phê bình, chưa làm gương cho cán bộ, đảng viên trong
đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, việc xử lý một số vụ việc nổi cộm
chưa nghiêm, vẫn cịn có biểu hiện” trên nhẹ, dưới nặng “, nhiều cấp uỷ, tổ
chức đảng chưa thực sự dựa vào dân, chưa coi trọng tiếp thu ý kiến phê bình
của dân để xây dựng, chỉnh đốn Đảng, một số chủ trương, biện pháp, quy chế,
chính sách nhằm ngăn ngừa, đấu tranh chống tệ tham nhũng, lãng phí quy
định chưa hợp lý, chặt chẽ, có tính khả thi chưa cao, cịn ít hiệu quả, thiếu sự
phân công phối hợp chỉ đạo việc chống tham nhũng một cách có hiệu lực,
hiệu quả.
Cơng tác kiểm tra Đảng, thanh tra, kiểm sát của các cơ quan chức năng

của Nhà nước chưa được tiến hành thường xuyên, liên tục, còn nhiều yếu
14


kém. Ở nhiều nơi, công tác kiểm tra của Đảng chưa chú ý kiểm tra, khắc phục
tệ quan liêu.
1.4.4. Những yếu kém trong công tác tổ chức cán bộ do sự buông lỏng, yếu
kém trong quản lý Nhà nước.
Đây là nguyên nhân quan trọng làm phát sinh các tội có tính chất tham
nhũng. Đảng ta chỉ rõ: cơng tác cán bộ vừa bảo thủ, vừa trì trệ về nhiều mặt,
vi phạm các nguyên tắc đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng, đề bạt cán bộ. Việc đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ nhất là cán bộ kinh tế từ trước đến nay chưa được coi
trọng đúng mức, chưa đáp ứng được nhu cầu về phát triển kinh tế thị trường.
Việc bố trí cán bộ ở nhiều cấp, nhiều ngành vẫn còn tư tưởng bè cánh, phe
phái. Công tác đề bạt cán bộ cịn bị chi phối bởi cách nhìn chủ quan, phiến
diện, chưa chính xác trong phương pháp đánh giá, lựa chọn cán bộ. Cơng tác
xử lý cán bộ thường có khuynh hướng hữu khuynh. Tình trạng tuỳ tiện, muốn
xử lý nội bộ, xử lý nhẹ còn khá phổ biến. Đặc biệt Đảng ta khẳng định giáo
dục là quốc sách hàng đầu nhưng chính mục tiêu này bị bng lỏng. Tham
nhũng một phần được mang theo vào nhà trường, được “rèn” ngay khi thi
tuyển vào và “luyện” trong quá trình ở nhà trường, những nơi có mơi trường
giáo dục thấp kém, những cán bộ đã lọt qua môi trường đào tạo như thế
không thể là những hạt giống tốt, càng không thể là hạt nhân chống tham
nhũng. Sự sai lầm trong bố trí, sử dụng cán bộ và bng lỏng quản lý, thiếu
kiểm tra, đánh giá cán bộ, thiếu kiểm soát cho nên trước sự cám dỗ của những
lợi ích vật chất một bộ phận cán bộ, Đảng viên đã bị tha hoá.
1.4.5. Do bản chất của nền kinh tế thị trường
Ngày nay sự phát triển của kinh tế thị trường là không thể phủ nhận
được, tuy nhiên do bản chất của nền kinh tế thị trường, của việc tự do hoá
cạnh tranh cũng là một trong những nguyên nhân gây ra tệ tham nhũng. Trong

nền kinh tế thị trường vai trò của đồng tiền được đặt lên rất cao. Có khơng ít

15


tổ chức, cá nhân vì những mục tiêu riêng để tồn tại trong sự canh tranh khốc
liệt đã dùng mọi thủ đoạn trong đó thủ đoạn hối lộ được sử dụng rất phổ biến.
1.4.6. Trình độ dân trí
Nhìn chung trình độ dân trí cịn thấp nên nhân dân chưa có nhiều khả
năng tham gia quản lý Nhà nước, kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ
quan Nhà nước và của cán bộ, công chức. Mặc dù gần đây đã có quy chế dân
chủ, song nhìn chung việc thực hiện còn nhiều hạn chế 7. Cuộc đấu tranh
chống tệ tham nhũng động chạm đến những cán bộ có chức có quyền, có khi
động chạm đến cả một tập thể ngành, cơ quan đơn vị, động chạm đến lợi ích
thiết thực, đến thể diện, uy tín của cán bộ. Hơn nữa, tệ tham nhũng vẫn còn cơ
sở kinh tế, xã hội để tồn tại. Vì thế cuộc đấu tranh chống tệ tham nhũng là
một q trình lâu dài, rất khó khăn phức tạp.
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG VÀ HẬU QUẢ CỦA THAM
NHŨNG ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ VIỆT NAM HIỆN
NAY
2.1. Thực trạng vấn đề tham nhũng và cơng tác phịng chống tham nhũng
hiện nay
2.1.1. Thực trạng tham nhũng hiện nay
Theo Phong vũ biểu Tham nhũng Việt Nam năm 2019, Tham nhũng
diễn ra ngày càng tinh vi, phức tạp, khó phát hiện do các đối tượng tham
nhũng thường có chức vụ, quyền hạn, có trình độ hiểu biết pháp luật, quan hệ
rộng, liên kết với nhau thành các nhóm lợi ích. Đây là trở lực lớn đối với quá
trình đổi mới đất nước và làm xói mịn lịng tin của Nhân dân đối với Đảng,
Nhà nước. Hiện nay, một số vụ tham nhũng có yếu tố nước ngồi đã phần nào
làm ảnh hưởng đến sự nhìn nhận của quốc tế về tình hình tham nhũng ở Việt

Nam, trở thành một trong những vấn đề bức xúc của xã hội, là một nguy cơ
gây mất ổn định chính trị, xã hội.

16


Cơng tác phịng, chống tham nhũng (PCTN) đang có bước tiến mạnh
mẽ với nhiều chủ trương, giải pháp đột phá, đi vào chiều sâu, từ đó từng bước
kiềm chế, ngăn chặn tham nhũng, góp phần quan trọng giữ vững ổn định
chính trị, phát triển kinh tế – xã hội. Nổi bật là đẩy mạnh việc xây dựng, hoàn
thiện thể chế trên các lĩnh vực đời sống. Nhiều quy định của Đảng, pháp luật
của Nhà nước về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, quản lý kinh tế – xã hội, PCTN
được ban hành và tổ chức thực hiện nghiêm túc, vừa để giáo dục, phòng ngừa,
ngăn chặn, vừa là căn cứ để phát hiện, xử lý tiêu cực, tham nhũng.
Từ năm 2013 đến 2019, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban
Bí thư đã ban hành hơn 200 văn bản về xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống
chính trị và PCTN. Đảng đồn Quốc hội, Ban Cán sự đảng Chính phủ đã lãnh
đạo, chỉ đạo nâng cao chất lượng, đẩy nhanh tiến độ xây dựng, hồn thiện
pháp luật, thể chế hóa đầy đủ, kịp thời các quan điểm, chủ trương của Đảng
về quản lý kinh tế – xã hội và PCTN; từng bước hạn chế nguyên nhân phát
sinh tiêu cực, tham nhũng, “lợi ích nhóm”. Cụ thể: Quốc hội đã sửa đổi, bổ
sung, ban hành mới 259 luật, pháp lệnh, nghị quyết, nhất là Luật PCTN, Bộ
luật Tố tụng hình sự, Bộ luật Hình sự, Luật Giám định tư pháp, Luật Tố cáo,
Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, Luật Tiếp cận thơng tin… Chính
phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành 1.172 nghị định, 966 nghị quyết, 488
quyết định; các bộ, ngành, địa phương đã ban hành gần 88 ngàn văn bản để
triển khai thực hiện chủ trương, quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước
về PCTN.
Các cơ quan thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử đã nỗ lực, tập
trung lực lượng, tăng cường phối hợp trong phát hiện, điều tra, xử lý các vụ

án, vụ việc về tham nhũng; nhiều vụ án tham nhũng, kinh tế nghiêm trọng,
phức tạp mà dư luận xã hội đặc biệt quan tâm đã được tập trung đẩy nhanh
tiến độ điều tra, truy tố, xét xử. Việc xét xử được đổi mới theo hướng công
khai, dân chủ, minh bạch, theo đúng quy định của pháp luật, khơng có vùng
17



×