Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

B1 quan điểm của hồ chí minh về cơ cấu thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (131.59 KB, 17 trang )

MỤC LỤC
PHẦN I: MỞ ĐẦU........................................................................................................1
PHẦN II: NỘI DUNG...................................................................................................2
CHƯƠNG I: QUAN ĐIỂM HỒ CHÍ MINH VỀ CƠ CẤU KINH TẾ NHIỀU
THÀNH PHẦN TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở
VIỆT NAM................................................................................................................2
1.1. Lý luận của V.I.Lênin về cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ
quá độ ở Liên Xô...................................................................................................2
1.1.1. Khái niệm......................................................................................2
1.1.2. Các thành phần kinh tế..................................................................2
1.2. Quan điểm Hồ Chí Minh về cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trong thời
kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam........................................................................3
1.2.1.Tổng quan.......................................................................................3
1.2.2. Quan điểm Hồ Chí Minh về cơ cấu kinh tế nhiều thành phần
trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam.....................................................3
1.2.3. Tư tưởng HCM về việc phát triển các thành phần kinh tế trong
thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam...............................................................6
CHƯƠNG II: SỰ VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ CƠ
CẤU THÀNH PHẦN KINH TẾ TRONG VIỆC PHÁT TRIỂN THÀNH PHẦN
KINH TẾ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY.......................................................................7
2.1. Đối với thành phần kinh tế công..................................................................7
2.2. Đối với thành phần kinh tế tư nhân.............................................................8
2.3. Thành phần kinh tế hỗn hợp........................................................................8
CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO..............................11
3.1. Củng cố vai trò chủ đạo của kinh tế quốc doanh......................................11
3.2. Phát huy tiềm năng hiện có.........................................................................12
3.3. Tiến hành đồng bộ những giải pháp vĩ mô................................................13
PHẦN III: KẾT LUẬN...............................................................................................15
TÀI LIỆU THAM KHẢO..........................................................................................16



PHẦN I: MỞ ĐẦU
Trong nền kinh tế quá độ của thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa Xã hội ở nước ta
hiện nay do trình độ phát triển chưa cao, chưa đồng đều của lực lượng sản xuất mà còn
tồn tại khách quan cả chế độ sở hữu tư nhân (chế độ tư hữu) với nhiều hình thức sở
hữu như: hình thức sở hữu tư nhân của cá thể, của hộ gia đình, của tiểu chủ, của nhà tư
bản(sở hữu tư nhân tư bản), của tập đoàn tư bản… và cả chế độ sở hữu xã hội (chế độ
công hữu) với các hình thức sở hữu như: sở hữu tồn dân, sở hữu nhà nước, sở hữu tập
thể…, đồng thời cịn có hình thức sở hữu hỗn hợp là hình thức sở hữu đan xen các
hình thức sở hữu trong cùng một đơn vị kinh tế. Đó là cơ sở tồn tại của nhiều thành
phần kinh tế.
Nền kinh tế Việt Nam đang chuyển sang hoạt động theo cơ chế thị trường có sự
quản lý của nhà nước. Sự nghiệp đổi mới kinh tế dịi hỏi phải nhanh chóng tiếp cận
những lý luận và thực tiễn quản lý kinh tế của nhiều nước trên thế giới. Quá trình đổi
mới kinh tế cần có những cán bộ kinh tế có kiến thức có phương pháp thích hợp với
kinh tế thị trường.
Để làm được điều đó chúng ta cần phải phát triển nền kinh tế nhiều thành phần
theo định hướng XHCN. Đây là giải pháp cơ bản để chuyển từ sản xuất nhỏ lên sản
xuất lớn ở Việt Nam hiện nay. Do đó, sau một thời gian tìm hiểu, tác giả đã lựa chọn
đề tài “ Quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ cấu thành phần kinh tế trong thời kỳ
quá độ lên Chủ nghĩa Xã hội ở Việt Nam. Sự vận dụng quan điểm trên của Đảng
trong việc phát triển thành phần kinh tế ở nước ta hiện nay” để có cái nhìn sâu và
rộng hơn.

1


PHẦN II: NỘI DUNG
CHƯƠNG I: QUAN ĐIỂM HỒ CHÍ MINH VỀ CƠ CẤU KINH TẾ
NHIỀU THÀNH PHẦN TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA
XÃ HỘI Ở VIỆT NAM

1.1. Lý luận của V.I.Lênin về cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá
độ ở Liên Xô
1.1.1. Khái niệm
Trước hết, chúng ta cần hiểu danh từ “quá độ” có nghĩa là trong chế độ hiện
thời có những thành phần, những bộ phận của chủ nghĩa tư bản và của CNXH. Như
vậy thì việc hiện diện của cơ cấu kinh tế nhiều thành phần là một đặc điểm kinh tế của
thời kỳ quá độ.
Nội chiến tại nước Nga kết thúc vào cuối năm 1920 và sự kiện thay đổi chính
sách “kinh tế cộng sản thời chiến” bởi “chính sách kinh tế mới” vào đại hội lần thứ X
đã đánh dấu bước chuyển mình của nước Nga sang một chế độ mới.
Thực tế, Lênin đã đề cập đến việc thay đổi chính sách kinh tế một cách tồn
diện từ năm 1981. Ông đã chỉ rõ: “Nếu giai cấp vô sản giành được chính quyền ở một
nước tư bản chủ nghĩa phát triển cao, thì chỉ cần thay nhà nước tư sản bằng nhà nước
vô sản và kế thừa kỹ thuật đại tư bản chủ nghĩa được xây dựng trên những phát minh
mới nhất của khoa học hiện đại là có các điều kiện để xây dựng chủ nghĩa xã hội”.
1.1.2. Các thành phần kinh tế
Ông đã nêu ra những thành phần kinh tế ở nước Nga Xô Viết trong tập “Bàn về
thuế lương thực”, bao gồm:
“ 1. Kinh tế nông dân kiểu gia trưởng,nghĩa là một phần lớn có tính chất tự
nhiên.
2. Sản xuất hàng hóa nhỏ (trong đó bao gồm đại đa số nơng dân bán lúa mì).
3. Chủ nghĩa tư bản tư nhân.
4. Chủ nghĩa tư bản nhà nước.
5. Chủ nghĩa xã hội.”
Năm thành phần kinh tế trên được Lênin liệt kê theo thứ tự có chủ đích, nhằm
đưa ra các thành phần từ thấp đến cao, phù hợp với quá trình tự nhiên của lịch sử trong
sự phát triển của lực lượng sản xuất. Bên cạnh đó, thứ tự này còn phản ánh mức độ
thân cận của các thành phần kinh tế với kinh tế XHCN. V.I. Lênin coi chủ nghĩa tư
2



bản nhà nước là sự chuẩn bị điều kiện vật chất đầy đủ cho chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa
tư bản nhà nước là một bước tiến so với thế lực tự phát tiểu tư hữu. Trong giai đoạn
đầu thời kỳ quá độ, thành phần kinh tế XHCN mới chỉ là hạt mầm mới nhú lên. Điều
quan trọng nhất là phải chăm bón cẩn thận, sát sao những hạt mầm đó để nó lớn dần
lên và sẽ tiến tới giữ địa vị thống trị nền kinh tế của đất nước. Tóm lại, việc phát triển
từ kinh tế nơng dân kiểu gia trưởng lên đến CNXH là tư tưởng nhất quán trong quan
điểm của Lênin. Tuy rằng mấy năm sau, Lênin qua đời, tư tưởng của ơng trong “chính
sách kinh tế mới” đã sớm bị dừng lại, không được phát triển tồn nhưng nó cũng đã
đóng vai trị to lớn trong việc giúp nhà nước Liên Xô khôi phục nền kinh tế đã bị chiến
tranh tàn phá nặng nề và sau đó phát triển lực lượng sản xuất ở Nga.
1.2. Quan điểm Hồ Chí Minh về cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ
quá độ lên CNXH ở Việt Nam.
1.2.1.Tổng quan
Trên cơ sở vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin, HCM đã
đúc kết riêng cho mình và diễn đạt quan niệm của bản thân về CNXH ở Việt Nam trên
một số mặt nào đó của nó như kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội… HCM quan niệm
mục tiêu cao nhất của CNXH là nâng cao đời sống của nhân dân. Để đạt được mục
tiêu đó, Người đã phân tích và xác định cụ thể mục tiêu của từng lĩnh vực của đời sống
xã hội: “Trong lĩnh vực kinh tế, theo HCM chế độ chính trị của CNXH phải được bảo
đảm và đứng vững trên cơ sở nền kinh tế vững mạnh”. Người rất coi trọng động lực
kinh tế “phát triển kinh tế, sản xuất kinh doanh, giải phóng mọi năng lực sản xuất, làm
cho mọi người, mọi nhà trở nên giàu có, ích nước lợi dân, gắn liền kinh tế với kỹ thuật,
kinh tế với xã hội.”
Nội dung kinh tế được được HCM nêu lên qua các mặt: lực lượng sản xuất,
quan hệ sản xuất, cơ chế quản lý kinh tế. Người nhấn mạnh đến việc tăng năng suất lao
động trên cơ sở tiến hành cơng nghiệp hóa XHCN. Đó là q trình chuyển đổi nền
kinh tế Việt Nam từ kinh tế nông nghiệp và thủ cơng sang máy móc cơng nghiệp là
chính. Đây là sự nghiệp toàn dân, tất cả các thành phần kinh tế cần tham gia, đặc biệt
là kinh tế Nhà nước. Chủ tịch HCM cho rằng "công nghiệp và nông nghiệp là như hai

chân của nền kinh tế nước nhà. Chân phải thật vững thật khỏe, thì kinh tế mới tiến bộ
thuận lợi và nhanh chóng".
1.2.2. Quan điểm Hồ Chí Minh về cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá
độ lên CNXH ở Việt Nam
Theo HCM, Việt Nam từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên CNXH,
không thông qua giai đoạn phát triển chủ nghĩa tư bản sẽ nảy sinh nhiều mâu thuẫn
3


trong các lĩnh vực đời sống xã hội, đặc biệt là mâu thuẫn giữa nhu cầu phát triển cao
của đất nước theo hướng tiến bộ và thực trạng kinh tế - xã hội, cơ sở hạ tầng quá yếu ở
nước ta. Chính vì vậy, HCM đã đưa đưa ra quan điểm về cơ cấu tổ chức kinh tế nhiều
thành phần, theo thực trạng đất nước,tập trung phát triển kinh tế tạo đà quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Trong “Thường thức chính trị” (1953) và “Báo cáo Dự thảo Hiến pháp” (1959)
tư tưởng Hồ Chí Minh về cơ cấu kinh tế nhiều thành phần nói chung, từng thành phần
kinh tế nói riêng được thể hiện rất đầy đủ. Bên cạnh đó, tư tưởng của Bác cịn được thể
hiện khá rõ ràng trong tuyển tập “Hồ Chí Minh tồn tập” (12 tập). Hồ Chí Minh đã chỉ
ra rằng: Con đường lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam có thể khác với Liên Xơ: “Có
nước thì đi thẳng đến chủ nghĩa xã hội (cộng sản) như Liên Xơ. Có nước thì phải kinh
qua chế độ dân chủ mới, rồi tiến lên chủ nghĩa xã hội (cộng sản) - như các nước Đơng
Âu, Trung Quốc, Việt Nam ta…”.
Có thể hiểu, “chế độ dân chủ mới” theo lời HCM là chế độ tương ứng với thời
kỳ quá độ lên CNXH của nước ta hiện nay. Điều này được người lý giải rằng: “... đặc
điểm to lớn của thời kỳ quá độ là một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên CNXH
không phải kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa". HCM đã phân tích: “Trong
sự nghiệp xây dựng CNXH, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta chưa có kinh nghiệm,
nhất là trên lĩnh vực kinh tế. Đây là công việc hết sức mới mẻ đối với Đảng ta nên phải
vừa làm, vừa học và có thể vấp váp, thiếu sót. Xây dựng xã hội mới bao giờ cũng khó
khăn, phức tạp hơn đánh đổ xã hội cũ đã lỗi thời”.

Đối với cơ cấu kinh tế, HCM đề cập đến cơ cấu các thành phần kinh tế và cơ
cấu ngành, cơ cấu kinh tế vùng, lãnh thổ. Hồ Chí Minh là người đầu tiên chủ trương
phát triển cơ cấu kinh tế nhiều thành phần ở nước ta trong suốt quá trình quá độ lên
CNXH. Trước cuộc kháng chiến năm 1953, theo quan điểm của HCM cơ cấu gồm 6
thành phần là:
1.

Kinh tế địa chủ phong kiến bóc lột địa tô:

Thuộc chế độ xã hội phong kiến. Trong cơ cấu này, người nông dân phải làm
như một nô lệ, mướn ruộng của địa chủ phong kiến, cày cấy và lao động rồi nộp tô
nhưng không được sở hữu ruộng đất cịn giai cấp địa chủ khơng phải lao động, là giai
cấp được “ngồi mát ăn bát vàng”, nhà cao cửa rộng, cuộc sống xa hoa, phú quý. Tuy
nhiên, HCM không chủ trương xóa bỏ hình thức kinh tế này mà thực hiện việc giảm
tơ, nhằm giữ mối đại đồn kết tồn dân tộc, thu hút một số lượng địa tơ u nước, theo
cách mạng, đóng góp tiền của, cơng sức cho cuộc cách mạng giải phóng dân tộc.
2.

Kinh tế quốc doanh (thuộc chế độ CNXH vì là của chung nhân dân)

4


Là lực lượng kinh tế của Nhà nước, thuộc về tồn dân, phục vụ lợi ích xã hội...
Là thành phần kinh tế dựa trên sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Các đơn vị, doanh
nghiệp ngoài quốc doanh bao gồm: doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH, công ty Cổ
phần, công ty liên doanh và các đơn vị theo hình thức Hợp tác xã. Thành phần kinh tế
này ra đời đóng một vai trị to lớn trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm
lược. Theo HCM, kinh tế quốc doanh là “nền tảng và sức lãnh đạo của kinh tế dân chủ
mới. Cho nên chúng ta phải ra sức phát triển nó và nhân dân ta phải ủng hộ nó”(5).

3.

Kinh tế hợp tác xã (nó là nửa CNXH, và sẽ tiến đến CNXH) :

Là phương thức tổ chức hoạt động kinh tế, đời sống xã hội văn minh. Các thành
viên trong xã hội đều được hưởng lợi, khơng ai bị bỏ lại phía sau.
4.

Kinh tế cá thể của nông dân và của thủ công nghệ:

Họ thường tự túc ít có gì bán và cũng ít khi mua gì. Đó là một thứ kinh tế lạc
hậu.
5.

Kinh tế tư bản tư nhân:

Là thành phần kinh tế mà sản xuất kinh doanh dựa trên cơ sở chiếm hữu tư
nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất và bóc lột sức lao động làm thuê. Đây là
thành phần kinh tế của giai cấp tư sản dân tộc. Tuy giai cấp này ở nước ta còn bị chèn
ép bởi tư bản nước ngồi vì mới ra đời nhưng “về mặt sản xuất so với chế độ phong
kiến thì chế độ tư bản là một tiến bộ to”(5). Họ có nhiều tư duy tiến bộ, năng lực phát
triển mạnh “cho nên, chính phủ cần giúp họ phát triển. Nhưng họ phải phục tùng sự
lãnh đạo của kinh tế quốc gia, phải phù hợp với lợi ích của đại đa số nhân dân”.
6.

Kinh tế tư bản quốc gia:

Là thành phần kinh tế do nhà nước và nhà tư bản góp vốn kinh doanh, do nhà
nước lãnh đạo, tư bản tư nhân là tư bản chủ nghĩa, tư bản nhà nước là XHCN. Nó sẽ
tồn tại lâu dài trong thời kỳ “quá độ lên CNXH”.

Cho đến sau khi miền bắc giải phóng, hồn thành cách mạng dân tộc dân chủ,
chế độ địa chủ phong kiến bị đánh đổ. Người cho rằng: “Trong chế độ dân chủ mới, có
năm loại kinh tế khác nhau:
A - Kinh tế quốc doanh (thuộc chủ nghĩa xã hội, vì nó là của chung của nhân
dân).
B - Các hợp tác xã (nó là nửa chủ nghĩa xã hội, và sẽ tiến đến chủ nghĩa xã hội).
C - Kinh tế của cá nhân, nơng dân và thủ cơng nghệ (có thể tiến dần vào hợp tác
xã, tức là nửa chủ nghĩa xã hội).
5


D - Tư bản của tư nhân.
E - Tư bản của nhà nước (…).
Trong năm loại ấy, loại A là kinh tế lãnh đạo và phát triển mau hơn cả, cho nên
kinh tế ta sẽ phát triển theo hướng chủ nghĩa xã hội chứ không theo hướng chủ nghĩa
tư bản”.
Trên đây là năm thành phần cơ cấu kinh tế tồn tại xuyên suốt thời kỳ quá độ vì
vậy chúng ta cần xây dựng chính sách hợp lý nhằm tối ưu lợi ích kinh tế, giúp phát
triển nền sản xuất của xã hội.
1.2.3. Tư tưởng HCM về việc phát triển các thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ
lên CNXH ở Việt Nam
Người cũng nêu ra trong báo cáo Hiến pháp trước Quốc Hội: “Trong nước ta
hiện nay có những hình thức sở hữu chính về tư liệu sản xuất như sau:
- Sở hữu của Nhà nước tức là của toàn dân.
- Sở hữu của hợp tác xã tức là sở hữu tập thể của nhân dân lao động.
- Sở hữu của người lao động riêng lẻ.
- Một ít tư liệu sản xuất thuộc sở hữu của nhà tư bản.
Mục đích của chế độ ta là xóa bỏ các hình thức không xã hội chủ nghĩa, làm
cho nền kinh tế gồm nhiều thành phần phức tạp trở nên một nền kinh tế thuần nhất,
dựa trên chế độ sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể. ”

HCM đã đưa sở hữu XHCN đứng ở vị trí cao nhất, đó là nền tảng cho kinh tế ở
xã hội mới, là điểm tựa cho Nhà nước nhân dân. Đối với việc giải quyết vấn đề mối
quan hệ giữa các hình thức sở hữu, giữa các thành phần kinh tế, phương châm chỉ đạo
của Chủ tịch Hồ Chí Minh là: “Chúng ta phải phát triển thành phần kinh tế quốc doanh
để tạo nền tảng vật chất cho chủ nghĩa xã hội và thúc đẩy việc cải tạo xã hội chủ nghĩa.
- Hợp tác hóa nơng nghiệp là khâu chính thúc đẩy cơng cuộc cải tạo xã hội chủ
nghĩa ở miền Bắc. Kinh nghiệm qua chứng tỏ rằng hợp tác hóa nơng nghiệp ở nước ta,
cần phải trải qua hình thức tổ đổi cơng và hợp tác xã sản xuất nơng nghiệp. Đó là việc
rất cần thiết(…).
- Đối với người làm nghề thủ công và lao động riêng lẻ khác, Nhà nước bảo hộ
quyền sở hữu về tư liệu sản xuất của họ, ra sức hướng dẫn và giúp đỡ họ cải tiến cách
làm ăn, khuyến khích họ tổ chức hợp tác xã sản xuất theo nguyên tắc tự nguyện.
6


- Đối với những nhà tư sản công thương, Nhà nước khơng xóa bỏ quyền sở hữu
về tư liệu sản xuất và của cải khác của họ; mà ra sức hướng dẫn họ hoạt động nhằm
làm lợi cho quốc kế dân sinh, phù hợp với kế hoạch kinh tế của Nhà nước. Đồng thời
Nhà nước khuyến khích và giúp đỡ họ cải tạo theo chủ nghĩa xã hội bằng hình thức
cơng tư hợp doanh và những hình thức cải tạo khác.”
Tóm lại, tất cả những quan điểm trên đã cho chúng ta thấy sự nhạy bén trong
việc nắm bắt và vận dụng cũng như đầu óc tính tốn tài ba, lỗi lạc của HCM. Nếu như
nói Lênin là người đặt nền móng cho lý luận về cơ cấu kinh tế nhiều thành phần thì
HCM là người đầu tiên sau Lênin vận dụng nó trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Những
đóng góp của Người đã tạo ra những thành tựu to lớn trong công cuộc phát triển kinh
tế, xây dựng nước nhà.
CHƯƠNG II: SỰ VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ
CƠ CẤU THÀNH PHẦN KINH TẾ TRONG VIỆC PHÁT TRIỂN
THÀNH PHẦN KINH TẾ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
Trong nền kinh tế quá độ của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện

nay do trình độ phát triển chưa cao, chưa đồng đều của lực lượng sản xuất mà còn tồn
tại khách quan cả chế độ sở hữu tư nhân (chế độ tư hữu) với nhiều hình thức sở hữu
như: hình thức sở hữu tư nhân của cá thể, của hộ gia đình, của tiểu chủ, của nhà tư bản
(sở hữu tư nhân tư bản), của tập đoàn tư bản… và cả chế độ sở hữu xã hội (chế độ
cơng hữu) với các hình thức sở hữu như: sở hữu toàn dân, sở hữu nhà nước, sở hữu tập
thể…, đồng thời cịn có hình thức sở hữu hỗn hợp là hình thức sở hữu đan xen các
hình thức sở hữu trong cùng một đơn vị kinh tế. Đó là cơ sở tồn tại của nhiều thành
phần kinh tế. Đối mặt với điều đó, Đảng và nhà nước ta ln có những chính sách phù
hợp đối với từng thành phần kinh tế.
2.1. Đối với thành phần kinh tế công
Thành phần kinh tế công bao gồm các doanh nghiệp nhà nước, giữ vị trí, vai trị
then chốt trong nền kinh tế. Chủ thể của thành phần kinh tế này là Nhà nước (được
Nhân dân ủy quyền). Nhà nước thông qua Ủy ban quản lý vốn nhà nước tại doanh
nghiệp đầu tư vốn (cả vốn bằng hiện vật và vốn bằng tiền) cho các doanh nghiệp nhà
nước (DNNN) thơng qua hợp đồng tín dụng. Ban Lãnh đạo DNNN được giao quyền
quản lý, sử dụng vốn một cách hiệu quả theo cơ chế thị trường. Các DNNN tập trung
phát triển trong những ngành và lĩnh vực then chốt, thiết yếu; những địa bàn quan
trọng và quốc phòng, an ninh; những lĩnh vực mà doanh nghiệp thuộc các thành phần
kinh tế khác không đầu tư. Các DNNN hoạt động theo cơ chế thị trường, lấy hiệu quả
kinh tế làm tiêu chí đánh giá chủ yếu, tự chủ, tự chịu trách nhiệm và cạnh tranh bình
đẳng với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác theo quy định của pháp
7


luật. Bảo đảm công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình của DNNN. Nhà nước
khơng can thiệp vào hoạt động của DNNN, mà Nhà nước thông qua những hợp đồng
kinh tế để đặt hàng cho DNNN sản xuất những hàng hóa có vai trị quan trọng đến
quốc kế dân sinh, kể cả những hàng quân sự, quốc phòng. Nhà nước chỉ đóng vai trị là
"nhạc trưởng", "bà đỡ", quản lý vĩ mô nền kinh tế, chứ không can thiệp vào hoạt động
sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp, kể cả DNNN. DNNN phải tự chịu trách

nhiệm về kết quả sản xuất - kinh doanh của mình... Cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao
chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của DNNN trên nền tảng công nghệ hiện đại,
năng lực đổi mới sáng tạo, quản trị doanh nghiệp theo chuẩn mực tiên tiến của quốc tế,
thực sự hoạt động theo cơ chế thị trường, nhằm huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu
quả các nguồn lực xã hội, bảo toàn, phát triển vốn nhà nước tại doanh nghiệp...
2.2. Đối với thành phần kinh tế tư nhân
Thành phần kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế. Chủ thể
của thành phần kinh tế này là các chủ sở hữu tư nhân như: các hộ kinh doanh cá thể,
các hộ tiểu chủ, các chủ tư nhân, các nhà tư bản, các tập đoàn tư bản... với các loại
hình kinh doanh tương ứng như hộ sản xuất, kinh doanh cá thể (hộ nông dân, hộ tiểu thủ công nghiệp, hộ kinh doanh dịch vụ...), chủ trang trại, hộ tiểu chủ, doanh nghiệp tư
nhân, doanh nghiệp tư nhân tư bản (tư bản trong nước và tư bản ngoài nước), tập đoàn
tư bản. "Hoàn thiện cơ chế, chính sách khuyến khích, tạo thuận lợi phát triển mạnh
kinh tế tư nhân ở hầu hết các ngành và lĩnh vực kinh tế...". Hoàn thiện thể chế, tạo
thuận lợi phát triển kinh tế tư nhân thực sự trở thành một động lực quan trọng của nền
kinh tế. Thúc đẩy hình thành, phát triển các tập đồn kinh tế tư nhân mạnh, có cơng
nghệ hiện đại, năng lực quản trị tiên tiến của thế giới. Hồn thiện chính sách hỗ trợ
phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa. Ngày nay, phân công lao động đã phát triển theo
chi tiết sản phẩm, do đó doanh nghiệp khơng cần quy mơ lớn vẫn có thể áp dụng cơng
nghệ tiên tiến, hiện đại. Đồng thời, với công nghệ kỹ thuật số, mạng Internet, máy tính
điện tử, robot, trí tuệ nhân tạo... có thể kết nối để tạo thành sự hợp tác ở quy mô lớn
trong việc sản xuất sản phẩm, mà không cần tập trung đông lao động vào một địa
điểm.
2.3. Thành phần kinh tế hỗn hợp
Thành phần kinh tế hỗn hợp (một phần trong đó là chủ nghĩa tư bản nhà nước
theo cách gọi của V.I.Lênin) bao gồm các công ty, các doanh nghiệp, các hợp tác xã,
các tổ chức kinh tế được hình thành trên cơ sở liên kết các chủ sở hữu khác nhau với
nhau: giữa chủ thể kinh tế công và chủ thể kinh tế tư nhân trong nước; giữa chủ thể
kinh tế công và chủ thể kinh tế tư nhân nước ngoài; giữa các chủ thể kinh tế tư nhân
trong nước với nhau; giữa chủ thể kinh tế tư nhân trong nước và chủ thể kinh tế tư
8



nhân nước ngồi... để thúc đẩy phát triển mọi hình thức liên kết sản xuất kinh doanh,
cung cấp hàng hóa, dịch vụ theo mạng sản xuất và chuỗi giá trị thị trường nhằm tiếp
nhận, chuyển giao, tạo sự lan tỏa về công nghệ tiên tiến và quản trị hiện đại, nâng cao
giá trị gia tăng và mở rộng thị trường tiêu thụ. Loại hình tổ chức sản xuất - kinh doanh
thường là công ty liên doanh, công ty hợp doanh, cơng ty cổ phần, cơng ty trách nhiệm
hữu hạn có từ hai chủ sở hữu trở lên, các loại hình hợp tác xã...
Khuyến khích hình thành các tập đồn kinh tế đa sở hữu có đủ khả năng tham
gia mạng sản xuất và chuỗi giá trị khu vực, toàn cầu. Điểm chung của các loại hình tổ
chức sản xuất - kinh doanh này là đối tượng sở hữu gồm tài sản hữu hình và vơ hình
của các tổ chức sản xuất - kinh doanh được hình thành từ sự đóng góp của các chủ sở
hữu riêng theo nguyên tắc tự nguyện và cùng có lợi. Mỗi chủ sở hữu được hưởng lợi
ích khi cơng ty, doanh nghiệp hỗn hợp này hoạt động có hiệu quả hoặc chịu trách
nhiệm khi bị thua lỗ tương ứng với tỷ lệ tài sản đóng góp. Ngồi tài sản đóng góp từ
các chủ sở hữu, cịn có các tài sản từ các nguồn khác (được hỗ trợ, tài trợ, được cho,
tặng, hoặc từ kết quả sản xuất - kinh doanh tích lũy lại...) thuộc sở hữu chung của các
thành viên trong tổ chức kinh tế này. Các tổ chức sản xuất - kinh doanh hỗn hợp thuộc
loại này có điều lệ hoạt động và bầu ra Ban Lãnh đạo theo nguyên tắc nhất định do
Điều lệ công ty, doanh nghiệp, hợp tác xã quy định, để thay mặt các chủ sở hữu quản
lý, điều hành, sử dụng có hiệu quả tài sản chung của tổ chức sản xuất - kinh doanh,
mang lại lợi ích cho các chủ thể và đóng góp vào lợi ích chung.
Có quy chế chặt chẽ ràng buộc trách nhiệm của những người trong Ban Lãnh
đạo được ủy quyền quản lý sản xuất - kinh doanh với kết quả, hiệu quả hoạt động của
tổ chức sản xuất - kinh doanh. Loại hình tổ chức sản xuất - kinh doanh hỗn hợp rất đa
dạng, từ các tập đoàn đa quốc gia, xuyên quốc gia đến các công ty cổ phần, công ty
trách nhiệm hữu hạn, có quy mơ nhỏ. Xếp các loại hình hợp tác xã cũng thuộc thành
phần kinh tế hỗn hợp vì các hợp tác xã cũng dựa trên sự đóng góp tài sản, vốn của các
chủ sở hữu tư nhân, của những người sản xuất hàng hóa nhỏ và hoạt động như các tổ
chức sản xuất - kinh doanh hỗn hợp. V.I.Lênin coi hợp tác xã của những công nhân

văn minh là hợp tác xã XHCN (ở nước ta chưa có loại hình hợp tác xã này), cịn hợp
tác xã của những người sản xuất nhỏ vẫn tôn trọng sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất
là một loại hình kinh tế hỗn hợp...
Đối tượng sở hữu của các thành phần kinh tế chỉ bao hàm các tài sản hữu hình
và vơ hình đang được sử dụng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các loại hình
tổ chức kinh doanh khác nhau và mang lại lợi ích kinh tế cho các chủ sở hữu, đồng
thời góp phần vào lợi ích chung. . "Mọi doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế đều
phải hoạt động theo cơ chế thị trường, bình đẳng và cạnh tranh theo pháp luật". Thực
9


hiện nhất quán một chế độ pháp lý kinh doanh cho các doanh nghiệp, khơng phân biệt
hình thức sở hữu, thành phần kinh tế.
Toàn bộ tài sản quốc gia (như đất đai và các tài nguyên gắn với đất đai, vùng
biển, đảo và các tài nguyên gắn với vùng biển, đảo, vùng trời và các tài nguyên gắn
với vùng trời, ngân sách nhà nước và các nguồn vốn khác mà Nhà nước huy động
được, các loại quỹ dự trữ...) thuộc về sở hữu tồn dân thì khơng thuộc thành phần kinh
tế nào cả. Nhân dân giao quyền, ủy quyền cho Nhà nước là đại diện chủ sở hữu, cho
Nhà nước thống nhất quản lý bằng pháp luật và có trách nhiệm sử dụng hiệu quả toàn
bộ tài sản quốc gia thuộc sở hữu toàn dân nhằm tạo ra những điều kiện mang tính chất
nền tảng, điều kiện vật chất - kỹ thuật, điều kiện tài chính, xây dựng và phát triển kết
cấu kinh tế-xã hội... chung cho sự phát triển bình đẳng của các thành phần kinh tế và
cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Nhà nước không thuộc thành phần kinh
tế nào cả. Các tài sản quốc gia thuộc sở hữu toàn dân này, nếu các chủ thể thuộc các
thành phần kinh tế muốn sử dụng thì phải thực hiện theo cơ chế thị trường thông qua
đấu giá, thông qua hợp đồng với cơ quan quản lý nhà nước một cách công khai, minh
bạch, bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Nhà nước được Nhân dân ủy quyền để
thực hiện vai trò "người nhạc trưởng", vai trò "bà đỡ" cho sự phát triển của các thành
phần kinh tế, cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Vai trò kinh tế của Nhà
nước là tạo môi trường pháp lý, tạo môi trường kinh tế, tạo môi trường xã hội, cung

cấp các dịch vụ cơng, hàng hóa cơng, tạo "sân chơi" bình đẳng để các thành phần kinh
tế phát triển. Nhà nước không "thiên vị", không "nghiêng" về thành phần kinh tế nào
cả. Nhà nước đóng vai trị định hướng, xây dựng, hồn thiện thể chế kinh tế; sử dụng
các cơng cụ, chính sách, nguồn lực của Nhà nước để điều tiết nền kinh tế… Nhà nước
tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch, lành mạnh, thơng thống, theo cơ
chế thị trường để các thành phần kinh tế cùng huy động và sử dụng có hiệu quả mọi
nguồn lực của xã hội vào phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Và vì vậy, mà các
doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế không chỉ mang lại lợi ích cho các chủ sở
hữu của mình, mà cịn phải đóng góp vào lợi ích chung của đất nước và thực hiện trách
nhiệm xã hội. Nhà nước với tư cách đại diện chủ sở hữu toàn dân, được Nhân dân ủy
quyền, thay mặt Nhân dân quản lý, điều hành, sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực, mọi
tài sản thuộc sở hữu toàn dân tạo các điều kiện nền tảng, định hướng, dẫn dắt, thúc đẩy
các thành phần kinh tế phát triển theo mục tiêu chung là phát triển kinh tế - xã hội đất
nước nhanh, bền vững, toàn diện, sáng tạo, bao trùm, để đất nước vững bước đi lên
CNXH. Nhà nước với vai trị chủ thể có trách nhiệm tạo tất cả những điều kiện nền
tảng cho phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, cho sự phát triển của các thành phần

10


kinh tế, Nhà nước giữ vị trí quyết định, vai trò chủ đạo trong phát triển hệ thống kinh
tế quốc dân, trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Các thành phần kinh tế là các bộ phận cấu thành của nền kinh tế quốc dân thống
nhất đều bình đẳng với nhau và bình đẳng trước pháp luật. Giữa các thành phần kinh tế
có quan hệ tương hỗ với nhau, hợp tác và cạnh tranh bình đẳng với nhau. Các thành
phần kinh tế đều có vị trí, vai trị quan trọng khác nhau và gần tương đương nhau;
nhưng thành phần kinh tế công với các DNNN "tập trung vào những lĩnh vực then
chốt, thiết yếu; những địa bàn quan trọng và quốc phòng, an ninh; những lĩnh vực mà
doanh nghiệp thuộc các thành phần khác không đầu tư", thì thành phần kinh tế cơng
giữ vị trí, vai trò then chốt, thành phần kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của

nền kinh tế trong phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Kinh tế cơng cùng với kinh
tế tư nhân là nịng cốt để phát triển nền kinh tế có tính tự chủ cao. Các chủ thể thuộc
các thành phần kinh tế cùng hợp tác, cạnh tranh bình đẳng, bình đẳng trước pháp luật,
cùng nhau huy động và sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực xã hội đóng góp vào sự phát
triển kinh tế - xã hội chung của đất nước với mục tiêu chung "dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh.
CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO
3.1. Củng cố vai trò chủ đạo của kinh tế quốc doanh
Đây là vấn đề có tính ngun tắc, những bước đi và biện pháp phải đối mới.
Đổi mới trước tiên và cấp bách là sửa chữa bước đi sai lầm trước đây bằng giải pháp
xác định lại phạm vi kinh tế quốc doanh. Trước đây chúng ta đã phát triển kinh tế quốc
doanh tràn lan, tạo nên quá trình xã hội hố (XHH) hình thức, do vậy đến nay phải lựa
chọn lại theo hướng giảm bớt số cơ sở KTQD hiện có. Đấy là vấn đề dễ đạt được sự
nhất trí nhưng giữ lại cái gì, giảm bớt ở chỗ nào và bằng biện pháp nào không phải là
việc đơn giản, vì nó khơng chỉ là vấn đề kinh tế mà cịn là vấn đề chính trị và xã hội.
Giải quyết vấn đề kinh tế quốc doanh đang là một trong những nội dung lớn của
đường lối đổi mới kinh tế của nhiều nước, do vậy đã có hàng loạt biện pháp được áp
dụng. ở ấn Độ đã tiến hành hiện đại hoá và đa dạng hoá sản xuất, sử dụng và bảo
dưỡng máy móc thiết bị đúng tiêu chuẩn kỹ thuật nhằm nâng cao công việc sử dụng
công suất các cơ sở quốc doanh, cho phép các xí nghiệp quốc doanh tự chủ về vốn đầu
tư, xây dựng mục đích và kinh doanh sản xuất, sửa đổi giá cho phù hợp, bãi bỏ hình
thức trợ cấp giá, nâng cao trình độ quản lý của lãnh đạo xí nghiệp và học vấn của công
nhân. ở Inđônêxia đã áp dụng các biện pháp đánh giá và phân loại hệ thống xí nghiệp
quốc doanh, đổi mới cơ chế bằng cách thực hiện cơ chế hoạch toán chặt chẽ, cắt giảm
các khoản trợ cấp không cần thiết, cải tổ bộ máy kết hợp với phong trào quần chúng
11


chống tham nhũng chuyển một bộ phận KTQD sang tư nhân. Ngồi ra Inđơnêxia cịn
áp dụng biện pháp chế hố các đạo luật hoá văn bản về KTQD.

Như vậy, việc sử lý KTQD các nước đã áp dụng nhiều biện pháp, sở dĩ như vậy
vì khơng có biện pháp nào hồn chỉnh cả, mỗi biện pháp vừa có mặt tích cực vừa có
mặt hạn chế. Chỉ có trên cơ sở sử dụng nhiều biện pháp mới tạo ra được sức mạnh
tổng hợp, chúng ta phải kết hợp nó để hạn chế thấp nhất những tiêu cực, tăng các mặt
tích cực để KTQD đạt hiệu quả mong muốn.
3.2. Phát huy tiềm năng hiện có.
Muốn phát triển sản xuất thì ngun lý muôn thủa là phải tăng xuất đầu tư,
trước hết là đầu tư về tài chính. Nguồn tài chính này trong dân khá lớn nhưng chưa
được sử dụng để phát triển sản xuất, để các nguồn này có thể góp phần tăng thêm suất
đầu tư cho sản xuất kinh doanh cần phải có hàng loạt các biện pháp.
Có thể bắt đầu ngay từ tên gọi. Không nên xuất phát từ KTQD để đặt tên cho
các thành phần kinh tế (TPKT) khác, gọi là “ngoài quốc doanh”. Trong nền kinh tế
nhiều thành phần cho dù kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo thì vẫn phải đảm bảo
tính bình đẳng của các thành phần kinh tế và thực chất mỗi thành phần kinh tế là một
bộ phận cấu thành của nền kinh tế quốc dân thống nhất, khơng có bộ phận này là
“trong” cịn các bộ phận khác là “ngồi”. Thay đổi cách gọi cũng là giải pháp xoá đi
tâm lý tự ti, bi quan của các thành phần kinh tế khác mà một thời họ đã bị chèn ép,
lãng quên.
Việc cải tạo các thành phần kinh tế phải được tiến hành theo nguyên tắc tự
nguyện và trên cơ sở hoàn cảnh XHH thực tế. Giải pháp đạt hiệu quả cao chính là
khơng cơ lập các thành phần kinh tế với nhau mà phải sử dụng các hình thức hợp
doanh, đan xen các hệ sử dụng khác nhau vào trong cùng một lĩnh vực, thậm chí trong
cùng một cơng ti, xí nghiệp. Các xí nghiệp hợp doanh giữa nhà nước và tư nhân, giữa
hợp tác xã (HTX) và tư nhân, giữa nhà nước và HTX, tư nhân cần phải trở thành một
trong các hình thức cơ bản tổ chức các đơn vị sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế
nhiều thành phần. Trong sản xuất nơng nghiệp, do tính đặc thù của nó nên ngồi việc
phải giải quyết tốt quyền sở hữu ruộng đất lâu dài cho hộ nơng dân. cịn phải chuyển
kinh tế HTX hiện nay thành kinh tế nông trại. Kinh tế hộ nhận khốn là cơ sở hình
thành kinh tế nông trại và các tổ chức nông trại. Đây cũng đang là xu hướng chung của
nền nông nghiệp thế giới. Trong điều kiện nước ta hiện nay, không gian tổ chức các

nông trại lớn và chưa vội hợp tác nhiều nơng trại với nhau. Có thể mỗi nhóm chỉ nên
5-20 hộ tự nguyện góp ruộng đất, lao động và tiền vốn để sản xuất kinh doanh. Ngồi
ra cịn có các hình thức hợp tác khác như : Các nông trại chung nhau mua “đầu vào”
12


hoặc chung nhau bản hoặc chung nhau bản “đầu ra” hoặc cũng thể hợp tác kinh doanh.
Tổ chức nông trại và sự hợp tác giữa các nơng trại chính là hình thức HTX nơng
nghiệp theo mơ hình mới cần đạt được.
3.3. Tiến hành đồng bộ những giải pháp vĩ mơ
Hồn thiện nhanh chóng hệ thống tài chính và ngân hàng bằng những công
nghệ kỹ thuật nghiệp vụ hiện đại, đảm bảo thơng suốt trong và ngồi nước. Đại bộ
phận, các khoản thanh toán, ngân hàng phải đảm đương được qua bộ máy của mình;
sử dụng tiền mặt chỉ ở mức hạn chế. Tín dụng ngân hàng phải thực hiện đi vay để cho
vay chứ không dựa vào nguồn phát hành và chủ yếu đảm bảo cho kinh tế quốc doanh
như hiện nay. Hoạt động tài chính cũng phải được đổi mới, lấy thu lương chi, thu đủ
và chi đúng. Trong điều kiện nguồn thu có hạn, khơng nên chi q khả năng bằng cách
vay nợ nước ngoài và phát hành. Điều đó chỉ dẫn đến “lạm phát” thì khơng thể nâng
cấp bất cứ ngành nào, lĩnh vực nào, do đó cần phải từ bỏ ngay ý định nâng cấp ngành
này hay lĩnh vực kia bằng lạm phát. Lâu nay, tài chính nước ta thường chạy theo nhu
cầu chi quá lớn của một số ngành, một số lĩnh vực trong khi nguồn thu hạn hẹp. Đây
rõ ràng không thực tế. Do đó chống lạm phát khơng đạt được mục tiêu đề ra - phải
nhanh chóng xây dựng được một thị trường đầy đủ. Ơ nước ta hiện nay còn thiếu
nhiều trung tâm quan trọng của nền sản xuất hàng hoá như : Thị trường vốn, thị trường
lao động ...
Thời đại ngày nay, thông tin được coi là yếu tố của lực lượng sản xuất. Thông
tin là sức mạnh của quyền lực. Do vậy, phải hồn thiện các hệ thống thơng tin kỹ thuật
phục vụ cho các nhà doanh nghiệp và phát huy dân chủ hoá trong dời sống kinh tế. Hệ
thống thơng tin của nước ta hiện nay cịn rất yếu và tổ chức chưa hợp lý, thông tin bị
chia cắt, số người hiểu biết về thông tin chưa nhiều. Để đổi mới hoạt động này phải có

hoạt động thơng tin kinh tế là một ngành dịch vụ, trong đó tất có các thành phần kinh
tế cá thể và cần thiết tham gia.
Xây dựng đội ngũ các doanh nghiệp giỏi, các nhà quản lý vĩ mơ có tài, đồng
thời liên kết họ lại. Cái thiếu hụt lớn nhất của chúng ta hiện nay là ở chỗ : Chúng ta đội
ngũ cán bộ khá đông đảo nhưng chất lượng không phù hợp với q trình đổi mới kinh
tế. Có một bộ phận quá quen với cơ chế quản lý cũ, đến nay hồn tồn khơng có đủ
khả năng thích ứng với cơ chế mới, một bộ phận khác chưa được đào tạo trước khi bố
trí vào các vị trí then chốt trong các đơn vị sản xuất kinh doanh. Tóm lại là đại bộ phận
số cán bộ hiện có phải đựợc bố trí, sắp xếp và đào tạo lại. Về chính sách sử dụng cán
bộ thì mạnh dạn phải được coi là một trong những phương châm chủ yếu nếu khơng
muốn nói là số một.
13


Nhanh chóng phổ cập nghề cho người lao động. Mỗi năm nước ta có trên một
triệu thanh niên đến tuổi lao động. Hệ thống trường chuyên nghiệp hiện mỗi năm chỉ
đào tạo được 20 vạn người, chủ yếu là lao động chính qui, dài hạn theo yêu cầu của
nhà nước. Như vậy phần lớn thanh niên đến tuổi lao động khơng được đào tạo nghề,
do đó vấn đề tiếp thu đào tạo và bồi dưỡng họ phải được đặt ra. Hướng ưu tiên, đầu tư
của thế giới hiện nay là lao động có kĩ thuật chứ khơng phải là sử dụng lao động khơng
có kĩ thuật. Giá cả sức lao động sẽ như những năm trước đây, những sản phẩm hàn hố
có thị trường lớn là sản phẩm có hàm lựơng chất xám và khoa học kỹ thuật cao.

14


PHẦN III: KẾT LUẬN
Như vậy, cùng với quá trình tổng kết kinh nghiệm và phát triển sáng tạo lý luận
về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta đã bước đầu tìm ra
những biện pháp, bước đi mang tính quy luật của quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội.

Một trong những biện pháp đó, xét về mặt kinh tế, là phát triển nền kinh tế nhiều thành
phần. Để nền kinh tế nhiều thành phần phát triển theo đúng định hướng xã hội chủ
nghĩa, một mặt, chúng ta phải tạo môi trường phát triển thuận lợi, đảm bảo tính độc
lập, tự chủ của các thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước phải thực sự đóng vai
trị chủ đạo; mặt khác, chúng ta phải tăng cường vai trò của Đảng và Nhà nước trong
lãnh đạo, quản lý kinh tế.
Thực tế những năm qua cho thấy chủ trương của Đảng và Nhà nước đã và đang
phát huy hiệu quả góp phần to lớn vào cơng cuộc đổi mới tồn diện, cơng nghiệp hố
hiện đại hố. Thổi một luồng sinh khí mới, sức sống mới vào sự phát triển kinh tế của
đất nước vì vậy chủ trương này cần phải phát huy hết những điểm mạnh khắc phục hết
những điểm cịn thiếu xót.
Để làm được điều này Đảng, nhà nước rất cần những hiểu biết của mọi người
đặc biệt là những sinh viên kinh tế - những người sẽ nắm lấy những nơi quan trọng của
nền kinh tế quốc dân.
Đất nước ta hiện nay đang trên đà phát triển mở ra nhiều vận hội mới tuy nhiên
cũng đã đặt ra rất nhiều thách thức đòi hỏi Đảng, nhà nước và nhân dân ta phải sáng
suốt hơn nữa tỉnh táo hơn nữa trong việc lựa chọn đường đi nước bước cho mình. Tuy
nhiên, chúng ta có cơ sở để tin tưởng rằng Đảng và nhân dân ta sẽ khắc phục được
những khó khăn để hồn thành cơng cuộc cơng nghiệp hố, hiện đại hố xây dựng đất
nước.

15


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn Kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII,
Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội 2016, tr. 107-108
2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn Kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XII,
Văn phịng Trung ương Đảng, Hà Nội 2016, tr. 105
3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn Kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII,

Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội 2016, tr. 106
4. V.I. Lê nin, toàn tập, tập 43, Nxb Tiến Bộ, Matxcva, 1978, tr. 248
5. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn Kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ X, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 83
6. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn Kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII,
Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội 2016, tr. 105
7. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn Kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XII,
Văn phịng Trung ương Đảng, Hà Nội 2016, tr. 107-108
8. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn Kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII,
Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội 2016, tr. 106
9. C. Mác- Ph. Ănghen: Toàn tập, tập 23, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993,
tr. 19

16



×