Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Bước đầu tìm hiểu từ ngữ xưng gọi trong tiếng pà thẻn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (146.35 KB, 5 trang )

T¹p chÝ Khoa häc & C«ng nghÖ
-
Sè 2
(
46
) Tập 2
/
N¨m 2008


10

BƯỚC ĐẦU TÌM HIỂU TỪ NGỮ XƯNG GỌI TRONG TIẾNG PÀ THẺN
Nguyễn Thu Quỳnh

(Trường ĐH Sư phạm-ĐH Thái Nguyên)

1. Đặt vấn đề
Pà Thẻn (còn có các tên gọi khác là Pà Hưng, Mèo Đỏ, Mèo Hoa, Mèo Lài, Mán Pa
Sèng, Mán Pa Teng, Bát Tiên Tộc...) là một trong 54 dân tộc ở nước ta, có dân số là 5.569
người (1999), cư trú chủ yếu ở hai tỉnh Hà Giang và Tuyên Quang. Với số dân thuộc loại rất ít,
lại sống xen kẽ với các dân tộc khác (Kinh, Tày, Hmông…), dân tộc Pà Thẻn hiện đang có nguy
cơ mất dần những nét bản sắc trong văn hoá của mình hoặc bị pha trộn với các dân tộc khác.
Tiếng Pà Thẻn cũng đứng trước tình trạng này: được sử dụng ít dần ở thế hệ trẻ, phạm vi giao
tiếp có xu hướng bị thu hẹp, mức độ sử dụng ít đi, không có ngôn ngữ văn học… Chính vì vậy
việc nghiên cứu tiếng Pà Thẻn có thể góp một phần giúp ngôn ngữ này thoát khỏi sự tiêu vong.
Tuy nhiên, việc tìm hiểu ngôn ngữ Pà Thẻn từ trước đến nay chưa nhận được nhiều sự quan tâm
đúng mức. Người đầu tiên nghiên cứu về tiếng Pà Thẻn ở Việt Nam là Nguyễn Minh Đức với
bài viết Bước đầu tìm hiểu tiếng nói và chữ viết Pà Hưng (Pà Thẻn)(1972) - đề cập đến một vài
nét về ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp và chữ viết của ngôn ngữ Pà Thẻn. Tại Hội thảo quốc tế về
Việt Nam học (15 - 17/7/1998), các tác giả J. A. Edmondson, K. J. Gregerson và Nguyễn Văn


Lợi cũng trình bày báo cáo với nhan đề Vài khía cạnh của ngôn ngữ các dân tộc thiểu số ở miền
cực bắc Việt Nam: Dân tộc Đồng, Thuỷ, Pà Thẻn của hai tỉnh Tuyên Quang, Hà Giang. Mục
đích của nhóm tác giả trên là tìm kiếm ngôn ngữ nguyên bản của các dân tộc ở miền cực bắc
Việt Nam, trong đó có dân tộc Pà Thẻn. Trong phạm vi của bài viết này, chúng tôi xin trình bày
những hiểu biết ban đầu về từ ngữ xưng gọi, một khía cạnh nhỏ trong tiếng Pà Thẻn - vấn đề mà
lâu nay chưa được nhà nghiên cứu nào để tâm tìm hiểu.
2. Kết quả nghiên cứu
“Xưng gọi” hiểu theo nghĩa phổ thông, là cách tự xưng đối với bản thân và gọi người
khác, để biểu thị tính chất của mối quan hệ với nhau trong giao tiếp. Cũng như trong rất nhiều
các ngôn ngữ khác, để thể hiện hành vi “xưng gọi” người Pà Thẻn cũng tự gọi (xưng) bản thân
(ngôi thứ nhất- chủ thể của lời nói), gọi người nghe (ngôi thứ hai - người đối thoại với mình),
gọi sự vật, hiện tượng khác người nói và người nghe (ngôi thứ ba), với sự phân biệt cơ bản là số
ít và số nhiều. Ngoài các từ ngữ xưng gọi thực thụ (hay còn gọi là “chính danh, chính hiệu, đích
thực”), người Pà Thẻn còn dùng các danh từ thân tộc, tên riêng, thậm chí cả cách gọi trống
không… Những cách gọi không thực thụ này hết sức linh hoạt, phù hợp với hoàn cảnh, quan hệ
và ý định của người nói. Sau đây tác giả xin trình bày những nhận xét bước đầu về hệ thống các
từ ngữ người Pà Thẻn dùng để xưng gọi.
2.1. Từ ngữ xưng gọi thực thụ
Dân tộc Pà Thẻn chưa có chữ viết theo hệ Latin. Để tiện trình bày, trong bài viết chúng tôi
dùng chữ Quốc ngữ để “phiên âm” (trừ một vài âm đặc biệt phải dùng kí hiệu phiên âm quốc tế - IPA).
Để tự gọi mình (ngôi thứ nhất - số ít), người Pà Thẻn dùng từ vòng. Ngôi thứ nhất số
nhiều có sự phân biệt: loại trừ (loại trừ người nghe): vòng βư; gộp (gộp cả người nói và người
nghe): pư. Để gọi người đối thoại với mình (người nghe) ở ngôi thứ hai số ít, người Pà Thẻn
dùng múng. Tương tự như cách xưng gọi ở ngôi thứ nhất số nhiều, để chỉ ngôi thứ hai số nhiều
tiếng Pà Thẻn thêm yếu tố βư vào sau múng:múng βư hoặc chỉ dùng βư. Hai cách dùng này
t
ương đương, không có sự phân biệt, chủ yếu phụ thuộc vào thói quen của người sử dụng.
T¹p chÝ Khoa häc & C«ng nghÖ
-
Sè 2

(
46
) Tập 2
/
N¨m 2008


11
Để chỉ ngôi thứ ba số ít, tiếng Pà Thẻn dùng nùng, số nhiều là nùng βư. Tuy nhiên, khác
với tiếng Việt và nhiều ngôn ngữ dân tộc thiểu số khác, ngôi thứ ba số ít và số nhiều trong tiếng
Pà Thẻn chỉ dùng để chỉ “người”. Ngôn ngữ này không có từ xưng gọi thực thụ để chỉ vật (đồ
vật, động vật). Vì vậy để gọi những sự vật, hiện tượng khác con người, người Pà Thẻn phải
dùng đến các từ gọi tên các vật này.
Nhìn chung các từ ngữ xưng gọi thực thụ tiếng Pà Thẻn mang tính khái quát rất cao.
Chúng đều mang sắc thái trung tính; khi sử dụng - người nói không tự đề cao hay nhún mình,
không tỏ ý thân mật, kính trọng hay hạ thấp người đối thoại; hoàn cảnh sử dụng không hạn chế,
có thể dùng để xưng gọi với người trên, người ngang hàng hoặc hàng thấp hơn xét về tuổi tác và
địa vị xã hội. Ví dụ khi muốn nói: “Ngày mai, tôi sẽ đi học”, dù người đối thoại ở ngôi thứ hai là
ai (người hàng trên: ông bà, bố mẹ, anh chị; người ngang hàng: bạn bè; người hàng dưới: các em
…) người Pà Thẻn chỉ cần dùng một cách xưng gọi chung trong câu sau: Núng pô hinh, vòng
nhi thớ đo ạ ló (Ngày mai, cháu (con, em, anh, tôi, chị, tao…) sẽ đi học.)
Như vậy để hiểu được đầy đủ nội dung của lời thoại trên, người ta phải đặt nó trong hoàn
cảnh, tình huống giao tiếp cụ thể. Nói cách khác, vị thế của vai giao tiếp không nằm trong nội tại
(cấu trúc ngôn ngữ) mà nằm bên ngoài ngôn ngữ (hoàn cảnh giao tiếp). Ở các từ xưng gọi ngôi
thứ hai và ngôi thứ ba (số ít và số nhiều), tình hình cũng diễn ra tương tự. Ví dụ bố (mẹ) hỏi con: “
Ngày mai, các con có đi không?” người Pà Thẻn hỏi như sau: Núng pô hing, múng βư ung nhi a?
Không giống các ngôn ngữ khác như tiếng Việt, Tày – Nùng, Hrê… thường có nhiều từ
xưng gọi thực thụ khác nhau để biểu thị vị thế vai, phạm vi sử dụng hay tuổi tác, từ xưng gọi
thực thụ của tiếng Pà Thẻn có số lượng tương đối hạn chế và có thể dùng chung cho nhiều đối
tượng. Để chỉ ngôi thứ nhất (tự gọi mình) số ít, như ví dụ đã dẫn, tiếng Pà Thẻn chỉ dùng một từ

vòng. Tuy nhiên khi muốn nhấn mạnh rằng “chính tôi”, người Pà Thẻn dùng ghép thêm vào sau
vòng một yếu tố nữa là a me (có nghĩa đen là “cơ thể”, “con người”).
Một vấn đề đặt ra là, như vậy, hệ thống từ ngữ xưng gọi thực thụ tiếng Pà Thẻn chỉ biểu lộ
sắc thái tình cảm trung tính và không có sắc thái thân mật, suồng sã hay kính trọng, nể nang cũng
như không thể hiện được vị thế giao tiếp, phạm vi sử dụng hay tuổi tác. Tuy nhiên, để vẫn có thể thể
hiện được những sắc thái tình cảm khác nhau trong giao tiếp, người Pà Thẻn sử dụng từ xưng gọi
kết hợp với sự thay đổi giọng điệu. Cùng một nội dung thông tin nhưng nếu người nói có những thái
độ khác nhau thì giọng điệu khi nói cũng khác nhau. Ví dụ khi nói bản thân mình không thích một
điều gì đó, ở sắc thái trung tính người Pà Thẻn nói: Vòng ung ghe (tôi không thích) với một ngữ điệu
đều đều từ đầu câu đến cuối câu. Vẫn là nội dung thông tin ấy, nhưng người nói tự xác định mình ở
vai giao tiếp thấp hơn và để thể hiện sự kính trọng người đối thoại người ta sẽ sói câu: Vòng ung
ghe ớ với ngữ điệu thấp ở đầu câu và cao dần về phía cuối câu. Còn để thể hiện sắc thái suồng sã
hoặc coi thường, trong vị thế ngang hàng, người ta nói: Vòng ung pà ghe đi (tao không thích) với
ngữ điệu cao ở đầu câu, thấp hơn ở giữa câu và giữ mức như vậy cho đến cuối câu. Qua các ví dụ
vừa rồi, có thể nhận ra trong ba câu trên có sự phân biệt về hình thức:
- Vòng ung ghe
- Vòng ung ghe ớ
- Vòng ung pà ghe đi
Cùng một nội dung thông tin, để thể hiện những sắc thái tình cảm khác nhau (kính trọng,
suồng sã, trung tính) ngoài việc thay đổi giọng điệu, tiếng Pà Thẻn còn dùng đến những ngữ khí
T¹p chÝ Khoa häc & C«ng nghÖ
-
Sè 2
(
46
) Tập 2
/
N¨m 2008



12

từ như: ớ, đi… nhờ vậy vòng không mang được các sắc thái tình cảm này. Ngoài ra để làm
phong phú thêm hệ thống từ ngữ xưng gọi thực thụ của mình, người Pà Thẻn còn dùng kết hợp
từ xưng gọi với số lượng từ để chỉ được đầy đủ và chính xác hơn các đối tượng tham gia (hoặc
không tham gia) vào cuộc thoại.
Ví dụ để phân biệt ngôi thứ nhất, ngôi thứ hai hoặc ngôi thứ ba số nhiều là hai hoặc
nhiều người (từ ba người trở nên), tiếng Pà Thẻn thêm vào sau các từ ngữ xưng gọi (vòng βư,
pư, múng βư, nùng βư) số lượng từ (vá leng: hai người, ché ạ leng: nhiều người). Kết quả là
trong ngôn ngữ này có các từ ngữ xưng gọi sau:
- vòng βư vá leng: hai người chúng tôi
- pư vá leng: hai người chúng ta
- vòng βư ché ạ leng: nhiều người chúng tôi
- pư ché ạ leng: nhiều người chúng ta
- múng βư/ βư vá leng: hai người các anh
- múng βư/ βư ché ạ leng: nhiều người các anh
- nùng βư vá leng: hai người họ
- nùng βư ché ạ leng: nhiều người bọn họ
Ngoài ra, các từ ngữ xưng gọi thực thụ còn được dùng trong kết hợp với các từ ngữ
không thực thụ.
2.2. Từ ngữ xưng gọi không thực thụ
Trong xưng gọi, ngoài việc sử dụng những từ ngữ xưng gọi thực thụ, người Pà Thẻn còn
dùng những từ ngữ xưng gọi không thực thụ. Đó là các danh từ thân tộc, tên riêng, thậm chí là cách
xưng gọi trống không. Tuy nhiên, một điều đặc biệt, khác với tiếng Việt và một số ngôn ngữ khác ở
Việt Nam, là các từ ngữ xưng gọi không thực thụ này chỉ được dùng kèm với từ ngữ xưng gọi thực
thụ. Các từ ngữ xưng gọi không thực thụ chỉ đóng vai trò làm rõ hơn sắc thái biểu cảm hoặc vai giao
tiếp của người xưng - gọi. Khi xuất hiện, các từ ngữ này có thể đứng ở đầu hoặc cuối câu.
Người Pà Thẻn thường dùng các danh từ thân tộc để xưng gọi như: a pạ (bố), ạ me (mẹ),
ạ pô (ông), ạ cô (bác), ạ dồ (chú), ạ nhờ (thím), ạ chợ (chị), ạ ố (anh)… Cũng như trong tiếng
Việt và nhiều ngôn ngữ khác, tiếng Pà Thẻn cũng có những danh từ thân tộc chỉ mang chức

năng định danh mà không thể sử dụng khi xưng gọi như: ạ nồng (bố chồng), ạ ta (bố vợ), ạ tong
pạ (bố dượng), ạ nồng vợ (mẹ chồng), ạ tợ (mẹ vợ), ạ tong mẹ (mẹ ghẻ)…
Ví dụ cháu hỏi ông : Ông ơi, ông đi đâu về đấy ạ? Người Pà Thẻn sẽ nói: Ạ pô, mung
nhi yi dá lợ a ? Hoặc: Múng nhi yi dá lợ a, ạ pô. Người con hỏi bố mẹ đã ăn cơm chưa sẽ nói: Ạ
pa, múng no yi va? Hoặc: Múng no yi va, ạ pa?
Trường hợp dùng danh từ thân tộc trong câu hỏi (như ví dụ trên là : ạ pa (bố), ạ pô
(ông)), từ xưng gọi thực thụ ngôi thứ hai số ít (múng) vẫn phải được dùng. Câu trả lời có thể sử
dụng một trong hai cách: Vòng no yíng vô cớ hoặc: Ạ pa vòng no yíng vô cớ (Bố ăn cơm rồi)
Hai người ngang hàng với nhau trong giao tiếp có thể không dùng đến từ xưng gọi. Cách
gọi này giống như cách gọi trống không trong tiếng Việt. Ví dụ: người thứ nhất hỏi bạn mình:
Nhi ý dá a? (Đi đâu đấy?). Bạn trả lời: Nhi ý gớ (Đi chơi). Ngoài cách dùng này ở vị thế vai
ngang nhau ho
ặc người nghe ở vai dưới, người ta có thể dùng tên riêng để gọi. Ví dụ: Xuế, múng
T¹p chÝ Khoa häc & C«ng nghÖ
-
Sè 2
(
46
) Tập 2
/
N¨m 2008


13
nhi ý dá a? hoặc Múng nhi ý dá a, Xuế? (Xuế à, mày đi đâu đấy?). Khi xưng gọi có thể dùng tên
chỉ quan hệ thứ bậc trong gia đình. Cách thức này không phổ biến, chủ yếu dùng trong phạm vi
giao tiếp gia đình. Ví dụ: Ơ Nguyễn, múng nhi yi dá a? hoặc Múng nhi yi dá a, ơ Nguyễn? (Ơ
Nguyễn là cách gọi theo tên chị gái cả - người được gọi ở đây là người em gái thứ hai của Nguyễn).
Trong quan hệ gia đình hoặc quan hệ gần gũi, cách dùng những từ xưng gọi không thực
thụ có thể dựa vào đặc điểm của bản thân đối tượng giao tiếp để định danh tên gọi. Ví dụ như

người phụ nữ chưa chồng sẽ gọi là me hơ hoặc ta piệ (cô gái), phụ nữ có chồng gọi là me â kô
(nghĩa gốc là “bà già”). Người đàn ông chưa có vợ gọi là ta hơ, đã có vợ gọi là pâ kô (nghĩa gốc
là “ông già”). Khi xưng hô, vợ chồng có thể gọi nhau qua con như: ta ga pá (bố nó), ta ga me (mẹ
nó). Khi có cháu, người Pà Thẻn cũng dùng cách gọi qua cháu như: pâ kô (ông nó), â kô (bà nó)…
Cách dùng từ ngữ xưng gọi không thực thụ như đã trình bày ở trên khá phong phú. Ngoài việc
gọi tên bằng các từ chỉ mối quan hệ trong gia đình, để thể hiện những sắc thái tình cảm tế nhị hoặc trêu
đùa, người Pà Thẻn còn dùng chính danh từ hoặc cụm danh từ để gọi. Ví dụ khi yêu nhau người con
trai gọi người con gái một cách âu yếm là a piệ (nghĩa gốc: a piệ: người con gái). Trong tình huống
giao tiếp này a piệ được hiểu là “ gái, út, cưng, bé”. Cũng có lúc có thể dùng đến cả cụm danh từ chỉ
đặc điểm để định danh đối tượng giao tiếp như me hơ nó hò tớ ô (cô gái đội mũ đỏ kia ơi).
Ở ngôi thứ ba số ít chỉ người, ngoài việc dùng từ xưng gọi thực thụ (nùng), tiếng Pà
Thẻn còn dùng đến một cụm danh từ khi đối tượng ngôi thứ ba số ít là một người lạ mặt: ưng le
me (cái người kia). Để thể hiện thái độ khinh bỉ, miệt thị, tiếng Pà Thẻn dùng kết hợp từ xưng
gọi thực thụ với danh từ: múng dò me, múng le me (cái thằng kia, cái hạng người kia). Trường
hợp chỉ đối tượng nói đến là vật (đồ vật, động vật); tiếng Pà Thẻn không có từ xưng gọi thực thụ
chỉ đối tượng này nên phải mượn đến toàn bộ hệ thống danh từ chỉ vật.
3. Kết luận
Xưng gọi là một trong những cách thức mang đậm nét bản sắc văn hoá dân tộc như tính
cộng đồng, tình thân sơ, sự bình đẳng, bất bình đẳng… Qua những phần trình bày ở trên, có thể rút
ra một số nhận xét chung về từ ngữ xưng gọi trong tiếng Pà Thẻn: Các từ ngữ xưng gọi thực thụ
trong tiếng Pà Thẻn tuy không nhiều về số lượng, không có sự phân biệt về sắc thái biểu cảm, vị thế,
tuổi tác nhân vật, phạm vi giao tiếp,… nhưng có sự phân biệt về ngôi và số khá rạch ròi, đó là:
Biểu thị
Ngôi
Số ít Số nhiều
Loại trừ Gộp
1 vòng vòng βư pư
2 múng múng βư/ βư
3 nùng nùng βư
Để bù lại cho sự độc giản về các sắc thái biểu cảm và các nhân tố chi phối cách dùng từ

ngữ xưng gọi, tiếng Pà Thẻn vận dụng sự thay đổi trong nội tại cấu trúc ngôn ngữ (giọng điệu,
thêm số lượng từ) để bổ sung ý nghĩa tình thái, cụ thể hoá ngôi xưng gọi nhằm diễn đạt được
đầy đủ hơn nội dung thông báo ở cấp độ câu hoặc văn bản ...
Khác với hệ thống từ ngữ xưng gọi thực thụ, hệ thống từ ngữ xưng gọi không thực thụ
khá phong phú, không chỉ về số lượng mà còn về cả cách dùng. Hệ thống này có thể biểu thị
được các mối quan hệ, được vận dụng hợp lí trong từng phạm vi giao tiếp gia đình hay xã hội.
Trong hệ thống từ ngữ xưng gọi không thực thụ, số lượng danh từ thân tộc dùng để xưng gọi
được sử dụng nhiều nhất. Điều đó hoàn toàn hợp lý bởi theo yêu cầu của hệ thống ngôn ngữ, khi
T¹p chÝ Khoa häc & C«ng nghÖ
-
Sè 2
(
46
) Tập 2
/
N¨m 2008


14

từ xưng gọi thực thụ hạn chế về số lượng và cách dùng thì bao giờ cũng đòi hỏi từ xưng gọi
không thực thụ phải phong phú để biểu thị các nét nghĩa tình thái của lời nói. Ngoài danh từ thân
tộc, hệ thống từ xưng gọi không thực thụ còn dùng đến tên riêng, cách gọi trống không, cách gọi
bằng các từ chỉ quan hệ thứ bậc trong gia đình, các ngữ miêu tả và đặc biệt là hệ thống từ định
danh sự vật. Đây là một nét đặc sắc khác biệt so với các ngôn ngữ khác của tiếng Pà Thẻn
Tóm tắt
Bước đầu tìm hiểu từ ngữ xưng gọi trong tiếng Pà Thẻn
“Xưng gọi” nghĩa là cách tự xưng đối với mình và gọi người khác. Để thể hiện hành vi
xưng gọi, người Pà Thẻn dùng những từ ngữ xưng gọi thực thụ như: vòng, múng, nùng… Tuy
không nhiều về số lượng (8 từ (ngữ)) nhưng từ ngữ xưng gọi thực thụ tiếng Pà Thẻn có sự khái

quát rất cao và có sự phân biệt về ngôi và số khá rạch ròi. Trong thực tế sử dụng, ngoài việc
dùng những từ ngữ xưng gọi thực thụ, người Pà Thẻn còn dùng đến các danh từ thân tộc, tên
riêng, cách gọi qua quan hệ thứ bậc trong gia đình, các ngữ miêu tả và đặc biệt là hệ thống từ định
danh chỉ vật. Hệ thống từ ngữ xưng gọi thực thụ và không thực thụ trong tiếng Pà Thẻn được sử
dụng kết hợp khá nhuần nhuyễn. Điều đó góp phần tạo nên bản sắc tộc người của dân tộc này.
Summary
The first step to research on vocative in PA THEN language
The word used to call oneself and others in a conversation is named “vocative”. To vocative is
common communication. Pathen’s ethnic group uses the personal pronoun such as: “vòng, múng,
nùng…”. Although the personal pronoun of quantity is not very much (eight words) it is very general
and its distinction between person and number is clear. In reality usage, Pathen’s ethnic group haven’t
only the person pronoun, they also have other word such as: words to show the tie of kinship, nick name
and words to show relation is their families, descriptive linguistic, especial animate noun of system.
Pathen’s ethnic groups combines the system of common – person pronoun and uncommon – person
pronoun is perfect harmony. It makes a feature of this ethnic group.
Tài liệu tham khảo
[1]. Diệp Quang Ban (2005), Ngữ pháp tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
[2]. Ninh Văn Hiệp (2006)(chủ biên), Văn hoá phong tục Pà Thẻn bảo tồn và phát huy, Nxb
VHDT, Hà Nội.
[3]. Lê Thanh Kim (1999) "Từ xưng gọi và cách xưng gọi trong phương ngữ Nghệ Tĩnh",
Ngữ học trẻ, Hà Nội.
[4]. Hoàng Văn Ma (2002), Cách thức xưng hô trong tiếng Tày – Ngôn ngữ dân tộc thiểu số Việt
Nam một số vấn đề quan hệ cội nguồn và loại hình học, Nxb KHXH, Hà Nội.
[5]. Nguyễn Phú Phong (1996), "Đại danh từ nhân xưng tiếng Việt", TC Ngôn ngữ, số 1,Hà Nội.
[6]. Lê Tài Thái (2002), "Tìm hiểu hệ thống từ xưng gọi và cách xưng gọi trong phương ngữ
Thanh Hoá, Những vấn đề Ngôn ngữ học" (Kỉ yếu Hội nghị khoa học Viện Ngôn Ngữ 2001), Phòng
Thông tin Ngôn ngữ học, Hà Nội.
[7]. Tạ Văn Thông (2000), "Cách xưng gọi trong tiếng Kơ ho", TC Ngôn ngữ & Đời sống, số 1,
[8]. Viện dân tộc học (1983), Sổ tay về các dân tộc Việt Nam, Nxb KHXH, Hà Nội.
[9]. Viện Ngôn ngữ học (2001), Từ điển tiếng Việt, Trung tâm Từ điển học, Hà Nội.

[10]. Nguyễn Như Ý (2003)(chủ biên), Từ điển giải thích thuật ngữ Ngôn ngữ học, Nxb GD, Hà Nội.

×