Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Bước đầu tìm hiểu về tiếng Hà Nội trong phương ngữ Bắc theo chiều dài lịch sử

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (181.82 KB, 23 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
Bước đầu tìm hiểu về tiếng Hà Nội trong phương ngữ Bắc theo chiều dài
lịch sử (Môn Phương pháp nghiên cứu khoa học về ngôn ngữ học)
MỞ ĐẦU
Lí do chọn đề tài:
Phương diện lí luận: Nghiên cứu về tiếng Hà Nội trong phương ngữ Bắc
góp phần bổ sung vào lí luận về ngôn ngữ nói chung. Đồng thời nghiên cứu về
tiếng Hà Nội trong phương ngữ Bắc cũng góp phần và phát hiện ra những yếu
tố, những khía cạnh nhằm thúc đẩy và phát triển những mặt tích cực và hạn chế
những tiêu cực.
Phương diện thực tiễn: Trong suốt chiều dài lịch sử xây dựng và phát triển
Thủ đô, tiếng Hà Nội trong phương ngữ Bắc đóng một vai trò quan trọng. Tiếng
Hà Nội trong phương ngữ Bắc- từ sâu xa trong dân gian đã trở thành một
phương ngữ, một tiếng của người" kẻ chợ".
Do vậy, việc nghiên cứu tiếng Hà Nội trong phương ngữ Bắc là một trong
những vấn đề cấp thiết của cuộc sống, đòi hỏi phải được giải quyết vì hơn nữa ở
nước ta có một sự đóng góp rất đa dạng và phong phú của cá tiếng, các phương
ngữ ở các vùng, các miền khác nhau.
Lịch sử nghiên cứu đề tài: Đã có rất nhiều nhà khoa học, nhà nghiên cứu,
nhà ngôn ngữ học nghiên cứu về vấn đề này. Họ chủ yếu nghiên cứu và bàn luận
về việc" tiếng Hà Nội trong phương ngữ Bắc có phải là tiếng chuẩn của cả nước
không?"
Cũng có những đề tài nghiên cứu và tìm hiểu tiếng Hà Nội trong phương
ngữ Bắc thông qua mặt phát âm những âm như" tr/ ch"," s/ x"," gi/ d/ r". ở đây,
nghiên cứu về tiếng Hà Nội trong phương ngữ Bắc từ lúc bắt đầu xuất hiện, tồn
tại và phát triển theo chiều dài lịch sử.
Ý nghĩa đề tài: Giải quyết được những vấn đề nảy sinh ra khi nghiên cứu
tiếng Hà Nội trong phương ngữ Bắc đồng thời góp một phần ý kiến chủ quan về
việc đánh giá tiếng Hà Nội trong phương ngữ Bắc.
Phương pháp nghiên cứu: Tìm hiểu qua các tài liệu tham khảo, đời sống


Website: Email : Tel : 0918.775.368
xã hội cụ thể. Nghe và miêu tả, nhận xét.
Nội dung: Tiếng Hà Nội thì phải của người Hà Nội rồi. Nhưng người Hà
Nội gốc như nhà văn Hoàng Anh Thái viết trong bài" Hà Nội- con thuyền phù
sa" ( in trong Tạp chí Ngày nay số tháng 12- 2004) thì" Khi ấy vẫn phải làm
nghề chài lưới. Bà buôn vẫn phải lăn xả xuống bến lội bùn lấy hàng lên. ông đồ,
ông kí sao cũng có lúc phải lội nước lên thuyền hoặc lội qua bãi sông ngập nước
mà về nhà. Hà Nội gốc mà móng chân vẫn giắt bùn là như vậy".
Như vậy thì tiếng Hà Nội cũng thế, không có xuất xứ gì cao siêu, thần
thánh, không phải sinh ra đã" tròn, sáng, trong, vang, sang, nhẹ". Nhưng, vấn đề
là ở chữ" nhưng". Đó là thứ tiếng được chắt lọc kết tinh ở một vùng đất nổi tiếng
hào hoa, thanh lịch.
"Tinh hoa gốc rễ hun đúc ở đây. Tinh hoa từ mọi miền mang tới, giao kết
hợp chủng mà tạo nên người Hà Nội. Lâu dần cứ cái gì thanh lịch, hào hoa, cao
nhã, tinh tế… thì mặc nhiên đều được coi là của người Hà Nội".
Cái thứ tiếng không thần thánh, không tầm thường, nhưng được lắng đọng
trăm năm, nghìn năm như phù sa màu mỡ, chở hồn người và hồn đất kinh kì ấy
là tiếng Hà Nội. Trong những buổi phát thanh tiếng Việt của Đài tiếng nói Việt
Nam, các bản tin được truyền đi bằng hai phương ngữ là phương ngữ Bắc Bộ và
phương ngữ Nam Bộ (lấy chuẩn là phương ngữ Hà Nội và phương ngữ thành
phố Hồ Chí Minh).
Phương ngữ Bắc dùng trong giao tiếp ở Bắc Bộ. Phương ngữ này là cơ sở
hình thành nên ngôn ngữ văn học. Khi ta để ý cách phát âm của các phát thanh
viên, thì trong cách phát âm của họ có sự tự điều chỉnh, trong giới hạn cho phép,
theo chuẩn chính tả, để cho tiếng nói của mình có tính khu biệt thật cao làm cho
thông báo dễ tiếp nhận nhất.
Trong tình hình hiện nay, mặc dù nói có đôi điểm khác nhau, nhưng người
Bắc và người ở toàn quốc hiểu phương ngữ thành phố Hồ Chí Minh cũng ngang
với phương ngữ Hà Nội, và ngược lại cũng thế, cả toàn quốc hiểu phương ngữ
Hà Nội dễ dàng.

Đài phát thanh nói bằng hai phương ngữ như vậy chỉ là để cho việc phát

Website: Email : Tel : 0918.775.368
thanh đa dạng và tươi mới, chứ không hề vì lí do có hiện tượng phương ngữ Hà
Nội hay phương ngữ thành phố Hồ Chí Minh cản trở sự giao tiếp, khó hiểu đối
với người nghe.
Khi ta nghe các ca sĩ miền Nam hát ta phải thừa nhận cách phát âm của họ
khi hát giọng Nam Bộ còn chuẩn hơn tiếng Nam Bộ đã đành, mà khi hát giọng
Bắc lại còn chuẩn hơn cả tiếng Hà Nội.
Cải lương ngày xưa là thể loại ca kịch nói bằng phương ngữ Nam Bộ,
nhưng hiện nay Đoàn cải lương miền Bắc vẫn nói phương ngữ miền Bắc mà
công chúng vẫn thích.

Website: Email : Tel : 0918.775.368
CHƯƠNG I
Tiếng Hà Nội trong mối quan hệ giữa các phương ngữ Bắc – Trung - Nam
Cũng giống như mọi sinh ngữ khác, tiếng Hà Nội không ngừng phát triển.
Dân một số vùng ở Thái Bình, Hải Dương, Hưng Yên về Hà Nội cứ hồn nhiên
kiểu:" Cái nọ nục bình nó năn nông nốc".
Trên diễn đàn những người nói tiếng Hà Nội chuẩn cứ phải ngồi nghe
diễn giả hùng hồn" nực nượng thanh niên". Thật khó vào. Thật khó thông cảm.
Chưa kể trước đông đảo khán, thính giả, người ta không nói" em" mà cứ" i…
em".
Nhà văn Hoàng Anh Thái trong bài viết" Hà Nội- con thuyền phù sa"( in
trong tạp chí Ngày nay số ra tháng 12- 2004) với rất nhiều vấn đề" hồn cốt" của
Hà Nội- nào là người Hà Nội gốc, ẩm thực kiểu Hà Nội… nhất là tiếng nói Hà
Nội- có lí khi nói" Giá mà điều chỉnh từ cái nho nhỏ như phát âm cho dân dễ
nghe hơn? Một chính khách đứng nghĩa còn là một diễn viên, một nhà hùng
biện. Nhập gia tuỳ tục thì đâu có sợ tự làm mất gốc".
Theo cách phân chia truyền thống về địa lý, tiếng Việt được chia thành ba

vùng phương ngữ: miền Bắc (khẩu ngữ là tiếng Bắc); miền Trung( khẩu ngữ là
tiếng Trung); miền Nam (khẩu ngữ là tiếng Nam).
Trong cảm thức ngôn ngữ thường mang nặng dấu ấn thói quen dân gian
của người Việt nên người ở mỗi vùng chỉ có khả năng phân biệt tiếng Bắc với
tiếng Nam và tiếng Trung (mà ít phân biệt các tiểu phương ngữ trong mỗi vùng).
Nhiều người đó quen gọi ngắn gọn tất cả những gỡ thuộc về“ tiếng Bắc” là tiếng
Hà Nội (trừ tiếng vựng Nghệ An- Hà Tĩnh) được gọi là“ tiếng Nghệ”, gọi tất cả
những gỡ thuộc về“ tiếng Nam” là“ tiếng Sài Gòn”, những gỡ thuộc về“ tiếng
miền Trung” là“ tiếng Huế”.
Điều này có nghĩa rằng, sự khác biệt giữa tiếng Bắc với tiếng Nam, với
tiếng Trung (và với tiếng Nghệ) là khá điển hình: ở giọng, ở ngôn từ và phần
nào cú thể nhận ra ở cả phong cách diễn đạt.
Hệ thống thanh điệu của phương ngữ Bắc có sáu thanh:( như trong chính

Website: Email : Tel : 0918.775.368
tả), đối lập từng đôi về âm vực và âm điệu. Hệ thống phụ âm đầu có hai mươi
âm vị, không có những phụ âm ghi trong chính tả là“ s, r, gi, tr“ tức là không
phân biệt s/ x, r/ d/ gi, tr/ ch.
Hệ thống âm cuối có đủ các âm cuối ghi trong chính tả. Có ba cặp âm
cuối ở thế phân bố bổ túc. Phương ngữ Bắc có thể chia làm ba vùng nhỏ hơn:
a) Phương ngữ vòng cung biên giới phía Bắc nước ta. Phần lớn người Việt
ở đây mới đến từ các tỉnh đồng bằng có mật độ cao như Thái Bình, Hà Nam
Ninh. Do quá trình cộng cư xảy ra trong thời gian gần đây, nên phương ngữ phát
triển theo hướng thống nhất với ngôn ngữ văn học, mang những nét khái quát
chung của phương ngữ Bắc, và không chia manh mún thành nhiều thổ ngữ làng
xã như phương ngữ Bắc ở các vùng đồng bằng, cái nôi của người Việt cổ.
b) Phương ngữ vùng Hà Nội và các tỉnh xung quanh( Hà Bắc, Vĩnh Phú,
Hà Sơn Bình, Hải Hưng, Hải Phòng) mang những nét đặc trưng tiêu biểu của
phương ngữ Bắc.
c) Phương ngữ miền hạ lưu sông Hồng và ven biển( Thái Bình, Hà Nam

Ninh, Quảng Ninh) còn giữ lại cách phát âm khu biệt“ d“ với“ gi, r“,” s“ với“
x“,” tr“ vơí“ ch“ mà ở các phương ngữ Bắc khác không còn phân biệt nữa.
ở Bắc bộ thực tế có những chữ cái đã mất cách phát âm phân biệt, cho nên
người ta đặt cho nó những cái tên gọi khác nhau như ” s” là” xờ nặng”,” x ”là ”
xờ nhẹ ”,” d ” là” dê trên ”,” gi” là” dê dưới ”,” tr ” là” chờ nặng ”,” ch” là” chờ
nhẹ ”,” l” là” nờ( hay lờ) cao ”;” n ” là” nờ( hay lờ) thấp ”…
Hệ thống đại từ chỉ trỏ và nghi vấn:
Phương ngữ Bắc Phương ngữ Trung Phương ngữ Nam
Này ni nầy
Thế này ri vầy
ấy nớ đó
Thế (ấy ) rứa vậy
Kia tê đó
Kìa tề đó
đâu, nào mô đâu, nào

Website: Email : Tel : 0918.775.368
sao, thế nào răng sao
Hệ thống đại từ xưng hô:
Phương ngữ Bắc Phương ngữ Trung Phương ngữ Nam
Tôi tui tui
Tao tau tao, qua
Chúng tôi bầy tui tụi tui

ở phương ngữ Bắc chỉ duy nhất từ “ nhiều“ là có từ phát sinh: bao nhiêu,
bấy nhiêu. ở phương ngữ Bắc chỉ nói“ từ rày“ với nghĩa“ từ nay trở đi“, ở
phương ngữ Nam còn nói“ hổm rày“ có nghĩa là“ từ hôm ấy đến nay“.
ở Bắc bộ và Trung bộ nói một câu đơn giản là:” Hôm nay tôi ăn cơm rất
no“, thì người Nam bộ thường nói là: Hôm nay tôi ăn cơm no quá chừng quá
đỗi, hoặc no quá trời quá đất …

Trong phương ngữ Nam có nhiều từ gần đây vay mượn từ tiếng Chàm,
tiếng Khơ me, trong phương ngữ Bắc lại có nhiều từ vay mượn từ tiếng Thái; có
những từ Hán Việt này đi vào phương ngữ Bắc, nhưng không dùng trong
phương ngữ Nam, trái lại ở trường hợp khác thì phương ngữ Bắc giữ nguyên từ
thuần Việt, còn phương ngữ Nam lại vay mượn từ Hán Việt v. v…
Biến thể cổ b, đ ở phương ngữ Trung tương ứng với v, z ở phương ngữ
Bắc:
- bui/ vui, bá/ vá…
- đa/ da, đưới/ dưới…
Biến thể cổ ở phương ngữ Trung tương ứng với biến thể mới ở phương
ngữ Bắc:
a) ph, th, kh/ v, z ( d),( g)
- ăn phúng/ ăn vụng, phở đất/ vỡ đất…
- nhà thốt/ nhà dột, mưa thâm/ mưa dầm…
- khải/ gãi, khở/ gỡ…
b) ch, k/ j #( gi),( g)
- chi/ gì, chừ/ giờ…

Website: Email : Tel : 0918.775.368
Những từ có phụ âm đầu khác với ngôn ngữ văn học có thể tìm thấy trong
phương ngữ Bắc nhưng không nhiều hiện tượng như ở phương ngữ Trung: dăn
deo/ nhăn nheo, duộm/ nhuộm…
Ngoài ra còn có sự đối ứng giữa nguyên âm khép hơn ở phương ngữ
Trung, phương ngữ Nam với nguyên âm mở hơn ở phương ngữ Bắc: u/ ô, ư/ â
- chủi/ chổi, túi/ tối…
- chưn/ chân, nhứt/ nhất…
Có thể nhận ra sự khác nhau về tiếng giữa ba miền ở giọng. Thí dụ, người
Hà Nội nghe người Sài Gũn núi cú cảm giỏc họ khụng cú sự phõn biệt giữa -ac
với ỏt( mỏt- mỏc; mắc- mắt); giữa -ai với ay( tai- tay; hai– hay); phỏt õm v
thành dz( tức là khụng phõn biệt v với d: vụ– dụ).

Người Hà Nội nghe người Huế nói cũng có cảm giác họ không có sự phân
biệt giữa thanh hỏi( ?) với thanh ngó( ~): mũ- mủ; cũ- củ. Trong khi đó, người
Huế nghe người Hà Nội nói lại có cảm giác người Hà Nội không có sự phân biêt
giữa s và x: xôi trong xa xôi với sôi trong nước sôi v. v...
Một sự so sánh từ vựng Việt Nam với từ vựng các ngôn ngữ khác ở Đông
Nam á cho thấy những sự thay thế nhau của các từ trong các phương ngữ không
phải ngẫu nhiên.“ Hoa“ và“ đầu“ là những từ gốc Hán đã được thay thế những
từ Nam á, Nam Đảo như“ trốc“( Mường),” bông“( Mã Lai: bonga) ở phương
ngữ Bắc trong khi hai từ này vẫn tồn tại ở các phương ngữ phía Nam,” quả“
thay“ trái“ cũng theo qui luật ấy.
Đồng thời trong vốn từ miền Bắc có nhiều từ Thái hơn, trái lại trong vốn
từ phái Nam có nhiều yếu tố Chàm, Khơme hơn. Trong ba phương ngữ chính,
phương ngữ Bắc tiếp thu nhiều từ Hán Việt hay nhiều từ gốc Hán hơn cả.
Phương ngữ Bắc vì trải qua sự xây dựng của ngôn ngữ văn học trong đó
các nhà nho biết chữ Hán đóng một vai trò không nhỏ cho nên dĩ nhiên nó tiếp
thu nhiều từ Hán Việt và gốc Hán hơn.
Những yếu tố gốc Hán vào tạo nên những sự xê dịch về mặt nghĩa có thể
đi xa đến nỗi ta có những từ đồng âm khác nghĩa ở trong hai phương ngữ Bắc và
Trung- Nam. Về mặt từ vựng cũng vậy, có những từ chỉ đặc trưng cho vùng

Website: Email : Tel : 0918.775.368
phương ngữ này mà không đặc trưng cho vùng phương ngữ kia.
Thí dụ, các từ“ má, ổng, cổ, ảnh, chỉ, ngoải“ v. v... là đặc trưng cho tiếng
Sài Gũn;“ miềng, o, rày, rứa“ v. v... là đặc trưng cho tiếng Huế. Người Hà Nội
bấy lâu nay cũng có thể nói“ mắc“( giá mắc),“ nhí“( bồ nhí) v. v... nhưng dường
như chúng vẫn chưa ăn nhập lắm với giọng Hà Nội( nếu so sánh các phát ngôn
có những từ này bằng giọng Sài Gũn).
So sỏnh tiếp hai cõu sau cú thể thấy rừ điều này:( 1)“ Anh nhớ viết thư
cho em nghen!- Dạ” và( 2)“Anh nhớ viết thư cho em nhé– vâng”. Tuy giá trị
thông tin như nhau nhưng thử hỏi nếu đổi câu( 1) là giọng Hà Nội và( 2) là

giọng Sài Gũn thỡ chắc chắn là một sự gượng gạo khó mà chấp nhận.
ở đa số các phương ngữ Bắc hiện nay, mà tiêu biểu là phương ngữ Hà Nội
đã mất đi dãy phụ âm tiền ngạc c, z, s và phụ âm rung r. Ngoài ra phụ âm ngạc,
nổ, vô thanh ch được phát âm như một phụ âm tắc– xát đầu lưỡi– răng ở các thế
hệ trung và thanh niên Hà Nội.
Nếu ta sắp xếp những sự biến đổi ngữ âm ở các vùng phương ngữ nói trên
vào chung một quá trình chuyển hoá ngữ âm thì sẽ thấy được lịch sử phát triển
tiếng Việt là tiến từ phương ngữ Trung sang phương ngữ Bắ rồi tiếp tục với
phương ngữ Nam.
Nêú so sánh tiếng Việt của Hà Nội với tiếng Việt từ Nghệ Tĩnh trở vào thì
người ta thấy ngay hai thanh( ?) và( ~) ở Bắc lại có sự chuyển mã, khi đối chiếu
với tiếng Nghệ Tĩnh, hay tiếng Bình Trị Thiên.
Một người Huế nghe người Bắc nói thì chỉ cần chuyển mã thanh( ~) của
Bắc thành thanh( ?) của Huế, ngược lại người Bắc nghe( ?) của Huế thì phải
giải thích thanh này có thể vừa là( ~) vừa là( ?) và căn cứ vào đó mà xét nội
dung của câu nói.
Dĩ nhiên khi một người miền Trung nghe một người Hà Nội nói thì về
mặt thanh điệu sự chuyển mã khá dễ dàng: anh ta chỉ cần gộp lại làm một hai
thanh khu biệt ở Hà Nội là( ?) và( ~) hay gộp( ~) và( .) làm một.
Trái lại sự phân biệt về phụ âm đầu thì khó hơn bởi vì anh ta phải tách
cùng một âm đầu của Hà Nội như “ ch“ ra thành“ tr“ và“ ch“ và chọn trong hai

Website: Email : Tel : 0918.775.368
biểu hiện cái nào phù hợp nhất với thông báo.
Trường hợp người Hà Nội giao tiếp với người Huế hay người Nghệ Tĩnh
cũng thế. Trong hệ thống thanh điệu truyền thống, thanh( ?) ở âm vực cao,
thanh( ~) ở âm vực thấp, nhưng trong phương ngữ Hà Nội hiện nay thì ngược
lại, thanh( ?) cao và thanh( ~) thấp.
Hệ thống thanh điệu ở Hà Nội :
Thanh không có âm điệu bằng phẳng, cường độ không thay đổi, ở âm vực

trung bình của lời nói, không có hiện tượng thanh quản hoá hay tắc thanh hầu,
tương đối thống nhất trong tất cả các phương ngữ.
Thanh huyền có âm điệu hơi đi xuống, có âm vực thấp, cường độ không
đổi, không có hiện tượng thanh quản hoá hay tắc thanh hầu. Chỉ khu biệt với
thanh không về âm vực: thấp hơn thanh không từ quãng ba đến quãng năm.
Thanh ngã có âm điệu biến thiên theo hai chiều: đi xuống với đi lên như
hình chữ V với nhánh đi lên cao gấp đôi. Cường độ thay đổi: thanh yếu đi ở
khoảng giữa âm tiết và có khi tắt hẳn rồi lại xuất hiện.
Chính ở điểm này có hiện tượng tắc thanh hầu. Về âm vực, thanh ngã bắt
đầu ở mức thanh huyền. Khoảng cách về âm vực giữa mức bắt đầu và mức kết
thúc trung bình bằng một quãng sáu, giữa hai mức thấp nhất và cao nhất có thể
đến hai quãng tám.
ở lứa tuổi thiếu niên– nhi đồng, thanh ngã được phát âm gần như thanh
sắc, nghĩa là sau giai đoạn bắt đầu hơi bằng phẳng, thanh điệu vút lên ngay,
không có đoạn trũng xuống.
Thanh hỏi có âm điệu biến thiên hai chiều xuống- lên, nhưng không chia
hai giai đoạn rõ rệt như ở thanh ngã.
Thanh sắc bắt đầu ở độ cao hơi thấp hơn thanh không, đi ngang hay là hơi
chúi xuống ở đoạn đầu, sau đó vút cao lên thông thường vào khoảng một quãng
năm, có khi đến một quãng tám ở giọng nữ.
Trong những âm tiết khép( có –p, -t, -ch, -k đứng cuối), thanh sắc nhập
thanh thiếu hẳn phần đi ngang lúc bắt đầu, âm điệu cao vút lên, nhất là ở những
âm tiết ngắn( có nguyên âm ngắn) thanh sắc có trường độ rất ngắn và chỉ có

×