Tải bản đầy đủ (.doc) (34 trang)

Công tác kế hoạch hoá tại Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (228.03 KB, 34 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Một thời gian khá dài trước đây, Việt Nam đã từng duy trì một nền kinh tế
tập trung bao cấp với sự điều tiết trực tiếp những hoạt động kinh tế thông qua quá
trình đưa ra những quyết định mang tính pháp lệnh từ trung ương. Các hoạt động
kinh tế của các cấp địa phương đều tiến hành theo những chỉ tiêu cụ thể do nhà
nước giao. Trong thời kỳ này có thể nói rằng KHH nền kinh tế quốc dân là đặc
trưng và là tính ưu việt riêng của cơ chế tập trung, nó đã giúp nước ta huy động
được các nguồn lực phục vụ cho công cuộc kháng chiến thành công.
Tuy nhiên, việc duy trì quá lâu cơ chế tập trung đã thủ tiêu tính năng động và
hiệu quả của các hoạt động kinh tế. Đặc biệt là trong cơ chế thị trường hiện nay thì
một nền kinh tế mang tính cấp phát với hệ thống chỉ tiêu chằng chịt không còn phù
hợp nữa. Ngày nay, trước xu thế hội nhập quốc tế diễn ra mạnh mẽ và sự biến động
khôn lường của cơ chế thị trường thì Nhà nước chỉ nên giữ vai trò điều tiết vĩ mô và
định hướng phát triển cho nền kinh tế, tạo một môi trường vĩ mô thuận lợi cho các
hoạt động kinh tế. Vì vậy, KHH với vai trò là một trong những công cụ quản lý vĩ
mô của Nhà nước cũng cần phải có sự đổi mới phù hợp với yêu cầu thực tế.
Tại Đại hội IX, Đảng ta cũng đã khẳng định “ cần tiếp tục tạo lập đồng bộ
các yếu tố thị trường, đổi mới và nâng cao hiệu lực quản lý kinh tế của nhà nước”,
đồng thời “ Tiếp tục đổi mới các công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước đối với nền
kinh tế. Đổi mới hơn nữa công tác kế hoạch hoá, nâng cao chất lượng xây dựng các
chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội”.
Chính vì những lý do trên, bài nghiên cứu này không có mục đích gì khác là
nhằm giúp người đọc hiểu rõ hơn vì sao cần phải đổi mới công tác KHH ở Việt
Nam, thấy được những bước tiến trong công tác KHH ở nước ta, kinh nghiệm về
làm KHH ở một số nước, và từ đó đưa ra những ý kiến về phương hướng đổi mới
công tác KHH và từ đó đưa ra những ý kiến về phương hướng đổi mới công tác
KHH ở Việt Nam.
Bài viết kết cấu gồm ba phần:
Phần I: Lời mở đầu
Trang 1
Phần II: Những đổi mới trong công tác KHH ở Việt Nam và những phương


hướng tiếp tục đổi mới công tác KHH ở Việt Nam.
Phần II gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở của vấn đề đổi mới công tác KHH ở Việt Nam.
Chương 2: Những đổi trong công tác KHH ở Việt Nam trong thời
gian qua.
Chương 3: Phương hướng tiếp tục đổi mới công tác KHH ở nước ta
trong thời gia tới.
Phần III: Kết luận
Nhóm tác giả xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn của thầy giáo Ngô Thắng
Lợi, đồng cảm ơn thầy Phạm Thanh Hưng đã giúp đỡ nhóm tác giả trong quá trình
viết bài. Mặc dù đã có nhiều cố gắng xong không tránh khỏi những thiếu sót, nhóm
tác giả rất mong có được sự đóng góp ý kiến từ phía bạn đọc. Nhóm tác giả xin chân
thành cảm ơn.
Trang 2
CHƯƠNG 1:
CƠ SỞ CỦA VẤN ĐỀ ĐỔI MỚI CÔNG TÁC KẾ HOẠCH HOÁ Ở VIỆT
NAM.
1.1. Kế hoạch hoá ở các nước trên thế giới
Kinh nghiệm của các nướcphát triển:
KHH ở Pháp : Nước Pháp là một nước có nền kinh tế thị trường phát triển,
đồng thời nước từ lâu đã có một nhà nước mạnh, giữ vai trò rất quan trọng tong đời
sống kinh tế, xã hội. Và công tác KHH ở đây cũng tiến hành theo một phươg thức
riêng với hai đặc điểm nổi bật là: thứ nhất, KHH chủ yếu mang tính hướng dẫn chứ
không bắt buộc. Thứ hai, KHH liên tục biến đổi và phát triển.
Tuy có nhiều điểm tiến bộ nhưng theo nhận xét của nhiều học giả phương
Tây, KHH của Pháp vẫn còn thuộc loại nặng nề, có phần cổ hủ, tiến triển không kịp
với thời đại.
Từ năm 1975, do sự phát triển không ngừng của nền kinh tế thế giới với nhiều biến
đổi to lớn, hơn thế ở Pháp lại diễn ra cuộc khủng hoảng KHH trầm trọng, nên quá
tình cải cách KHH ngày càng được thúc đẩy một cách khẩn trương. Và từ thập kỷ

80, nhất là đầu thập kỷ 90, sự thay đổi trong công tác KHH ở Pháp diễn ra theo các
nội dung sau:
Về nhiệm vụ và nội dung của kế hoạch tập trung chủ yếu vào công tác dự
báo và cung cấp những biện pháp điều tiết uyển chuyển nhằm vận hành tốt hơn cơ
chế thị trường, đồng thời thiết lập một khuôn khổ nhất quán các mục tiêu và chính
sách công trung hạn, cố gắn với một tầm nhìn dài hạn.
Về phương pháp lập kế hoạch: tăng cường sự tham gia đóng góp của các
viện, các tung tâm, các nhà khoa học; Nâng cao chất lượng dự báo; Vẫn đảm bảo
nguyên tắc thương thảo với mọi tác nhân kinh tế; Nâng cao trình độ và nhận thức về
việc đánh giá kết quả thực hiện kế hoạch và các chính sách kinh tế.
KHH kinh tế vĩ mô ở Nhật Bản: Nhật Bản đã sớm xây dựng nền kinh tế thị
trường ngay từ những cuộc cải cách dưới thời kỳ Minh Trị duy tân từ năm 1868,
nhưng điều đó không có nghĩa là Chính phủ Nhật đã không sử dụng công cụ KHH
Trang 3
trong quản lý kinh tế. Mà ngược lại, hệ thống KHH ở Nhật có những nét độc đáo và
KHH đã đóng vai trò quan trọng trong nhiều lĩnh vực.
Điểm nổi bật trong công tác KHH ở Nhật, đó là mô hình KHH “cuốn chiếu”:
mỗi kỳ kế hoạch thường được kết thúc sớm hơn dự kiến và thay thế bằng kỳ kế
hoạch mới; các kế hoạch thường gối đầu lên nhau. Mô hình KHH này thể hiện tính
năng động, nhạy bén và đáp ứng được sự thay đổi nhanh chóng của nền kinh tế thị
trường.
KHH kinh tế của Nhật Bản chú trọng vạch ra các biện pháp chính sách mà
Chính phủ định sử dụng để quản lý nền kinh tế xét từ góc độ phát triển dài hạn. Còn
các kế hoạch phát triển chủ yếu là kế hoạch định hướng, tạo những tiền đề cho sự
phát triển của các loại hình kinh tế.
Với mô hình KHH kiểu “ cuốn chiếu”, Nhật Bản đã đạt được nhiều thành
công trong quá trình phát triển kinh tế, và đây cũng là bài học kinh nghiệm quý báu
cho Việt Nam trong việc đổi mới công tác KHH thời gian tới.
KHH ở các nước đang phát triển: trong những thập niên đầu tiên của quá
trình phát triển, hầu hết các nước đang phát triển đã coi kế hoạch hoá quốc gia trực

tiếp là cơ chế tổ chức duy nhất giúp họ vượt qua những trở ngại to lớn đối với sự
phát triển và duy trì tăng trưởng cao.
Nhưng đến thập niên 60, thì các nước đang phát triển lâm vào thời kỳ khủng
hoảng KHH. Sự khủng hoảng này đã dẫn đến sự thay đổi lớn, căn bản trong công
tác KHH kể từ thập niên 70: Nội dung của kế hoạch ngày càng đầy đủ hơn, bao hàm
không chỉ về kinh tế mà còn cả xã hội, môi trường; Bảo đảm tính chất thực tế hơn
của hệ thống KHH; Quy trình lập kế hoạch cũng được thay đổi theo hướng tăng
cường chất lượng của hệ thống số liệu, thông tin, tăng cường mối quan hệ giữa các
nhà kế hoạch với các nhà quản lý và các nhà chính trị. Với sự thay đổi trên thì hệ
thống KHH ngày càng giữ vai trò quan trọng trong quá trình phát triển nền kinh tế
của các nước này.
1.2.Cơ sở thực tiễn của vấn đề đổi mới công tác KHH ở Việt Nam.
Nghiên cứu lịch sử các học thuyết kinh tế, chúng ta thấy rằng: Vấn đề Nhà
nước và thị trường là mối quan tâm hàng đầu của nhiều nhà kinh tế trong nhiều thập
Trang 4
kỷ qua, không những ở nước ta mà còn ở nhiều nước trên thế giới, vì muốn tìm ra
mô hình quản lý kinh tế vĩ mô thích hợp và có hiệu quả hơn.
Ở Việt Nam, trong suốt một thời gian đã duy trì cơ chế tập trung với công cụ
KHH là chủ yếu, thị trường hầu như không có vai trò gì, bởi vì toàn bộ kế hoạch sản
xuất đều phụ thuộc vào các chỉ tiêu mà Nhà nước giao cho. Một nền kinh tế hoàn
toàn không có sự cạnh tranh.
Với cơ chế này, chúng ta đã thực hiện thành công các mục tiêu khôi phục, cải
tạo và phát triển kinh tế sau hoà bình 1954, góp phần vào sự thành công của công
cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược.
Tuy vậy, sau năm 1975, tình kinh tế trong nước và thế giới có nhiều sự biến
đổi to lớn. Chính từ yêu cầu của vấn đề sản xuất và hiệu quả kinh tế đã nảy sinh vấn
đề cần phải đổi mới công tác KHH cho phù hợp với sự phát triển của thực tế.
Đại hội lần thứ VIII của Đảng cộng sản Việt Nam đã xác định “Cơ chế kinh
tế áp dụng ở Việt Nam là cơ chế thị trường có sự điều tiết của Chính phủ theo định
hướng xã hội chủ nghĩa”.

Khác với nhiều nước có nền kinh tế chuyển đổi, đổi mới kinh tế ở Việt Nam
không có nghĩa là từ bỏ hoặc coi nhẹ KHH kinh tế vĩ mô, mà yêu cầu đặt ra là phải
có những những thay đổi cần thiết, đáp ứng được những đòi hỏi và điều kiện mới
của nền kinh tế. Muốn đáp ứng được các yêu cầu đó, đòi hỏi phải đổi mới mạnh hơn
nữa các công cụ quản lý kinh tế vĩ mô, trong đó đặc biệt là phải đổi mới công tác
KHH. Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương khoá VIII đã
khẳng định chủ trương đổi mới quản lý nhà nước về kinh tế – xã hội là “ Chuyển
mạnh sang quản lý kinh tế – xã hội bằng tổ chức, luật pháp, chính sách, chế độ, quy
hoạch, giáo dục, thuyết phục, thanh tra, kiểm tra và rất quan trọng là bằng các công
cụ quản lý vĩ mô và sức mạnh kinh tế của Nhà nước(…), đẩy mạnh công tác hoạch
định và hướng dẫn thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phảt triển…”.
Như vậy, đối với Việt Nam, KHH là một công cụ quản lý kinh tế vĩ mô hết
sức quan trọng. Vì vậy, cần phải tiến hành đổi mới công tác KHH trên tất cả các
phương diện, từ tư duy, quan điểm định hướng, nội dung, phương pháp cho đến cơ
cấu tổ chức và cách thức chỉ đạo kế hoạch nhằm đáp ứng được đầy đủ hơn các nhu
cầu của sự phát triển kinh tế.
Trang 5
CHƯƠNG 2:
QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI KẾ HOẠCH HOÁ Ở VIỆT NAM
2.1. Thực trạng đổi mới công tác kế hoạch hoá ở Việt Nam.
Kế hoạch hoá trong cơ chế cũ được coi là công cụ chủ yếu nhất để quản ký
kinh tế. Thông qua hệ thống các cơ quan kế hoạch nhà nước từ trung ương đến địa
phương để xây dựng kế hoạch, giao chỉ tiêu kế hoạch cho các cơ sở kinh tế, điều
hành, theo dõi và xét duyệt việc hoàn thành kế hoạch hoá mà nhà nước có thể chỉ
huy được nền kinh tế. Việc thực hiện cơ chế đó đến đầu thập kỷ 80 đã trở thành lực
cản đối với sự phát triển kinh tế.
Công tác kế hoạch hoá trong thời kì này được cải tiến dần theo hướng
chuyển từ hoạch hoá tập trung mang tính chất pháp lệnh trực tiếp sang kế hoạch hoá
gián tiếp. Nhà nước xây dựng chiến lược phát triển với các mục tiêu lớn, các chỉ tiêu
kinh tế chủ yếu và điều tiết nền kinh tế bằng các chính sách, các công cụ kinh tế vĩ

Trang 6
mô để dẫn đến nền kinh tế theo định hướng đề ra cho từng giai đoạn. Các cơ quan
nhà nước chú trọng hơn vào việc nghiên cứu chiến lược, xây dựng quy hoạch, kế
hoạch dài hạn, trung hạn, bảo đảm các quan hệ cân đối tổng hợp nền kinh tế và xây
dựng chính sách, biện pháp để xây dựng kế hoạch nhà nước đề ra. Nhà nước cũng
có thể triển khai thực hiện kế hoạch thông qua các chương trình mục tiêu, các dự án
cụ thể.
2.1.1. Xây dựng chiến lược phát triển kinh tế-xã hội.
Nét nổi bật trong công tác kế hoạch hoá hơn 10 năm qua là kế hoạch hoá đã
chuyển dần từ kế hoạch hoá pháp lệnh sang kế hoạch hoá định hướng với việc tập
trung nỗ lực xây dựng chiến lựơc phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng quy hoạch
phát triển. Việc tăng cường nghiên cứu xây dựng chiến lược và quy hoạch phát triển
đã tạo ra cơ sở khoa học và thực tiễn cho công tác kế hoạch hoá trung hạn và kế
hoạch hoá hàng năm.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của đảng (1991) lần đầu tiên đã đưa
ra bản chiến lược phát triển kinh tế xã hội thời kì 1991 - 2000 với mục tiêu tổng
quát là đưa đất nước ta ra khỏi tình trạng khủng hoảng, ổn định tình hình chính trị –
xã hội phấn đấu vượt qua tình trạng nghèo và kém phát triển, cải thiện đời sống,
củng cố quốc phòng an ninh, tạo điều kiện cho đất nước phát triển nhanh hơn vào
đầu thế kỷ XXI. Quan điểm phát triển của chiến lược 1991-2000:
Phát triển kinh tế xã hội theo con đường củng cố độc lập dân tộc và xây
dựng CNXH ở nước ta là quá trình thực hiện dân giàu, nước mạnh, tiến lên hiện đại
trong một xã hội mà nhân dân làm chủ, nhân ái, có văn hoá, có kỷ cương, xóa bỏ áp
bức bất công tạo điều kiện cho mọi người có cuộc sống ấm no, tự do hạnh phúc;
Mọi người được tự do kinh doanh theo pháp luật, được bảo hộ quyền sở hữu và thu
nhập hợp pháp. Nền kinh tế có nhiều thành phần với nhiều dạng sở hữu và hình thức
tổ chức kinh doanh; Nền kinh tế vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của
nhà nước; Mở rộng quan hệ kinh tế; Hiệu quả kinh tế xã hội là tiêu chuẩn quan
trọng nhất; Phát triển giáo dục - đào tạo, khoa học công nghệ; Tăng trưởng kinh tế
phải gắn với tiến bộ và công bằng xã hội, phát triển văn hoá, bảo vệ môi trường;

Dân chủ hoá đời sống xã hội; Kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế xã hội với ổn
Trang 7
định và đổi mới về chính trị, tăng cường củng cố quốc phòng an ninh, giữ vững an
ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội .
Kết quả đạt được là nền kinh tế có bước phát triển về lực lượng sản xuất.
Quan hệ sản xuất và hội nhập kinh tế quốc tế đời sống vật chất, tinh thần của nhân
đân ta được cải thiện rõ rệt, văn hoá xã hội không ngừng tiến bộ; Thế và lực của đất
nước hơn hẳn 10 năm trước, khả năng tự chủ được nâng lên, tạo thêm điều kiện đẩy
mạnh CNH - HĐH đất nước.
Nguyên nhân của những kết quả này là đường lối đổi mới đúng đắn của
Đảng cùng những cố gắng và tiến bộ trong công tác quản lý của nhà nước đã phát
huy được nhân tố có ý nghĩa quyết định là ý chí kiên cường, tính năng động, sáng
tạo và nỗ lực phấn đấu của nhân dân ta.
Chiến lược này được điều chỉnh thông qua đại hội Đảng lần thứ VIII
(1996) với trọng tâm đẩy mạnh CNH - HĐH đất nước. Đây là sự mở đầu giai đoạn
áp dụng phối hợp chiến lược với quy hoạch, giữa quy hoạch với kế hoạch trung hạn
và ngắn hạn trong hệ thống kế hoạch hoá. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đề
ra mục tiêu tăng trưởng kinh tế phù hợp có nội dung đáp ứng được yêu cầu của công
cuộc đổi mới đất nứơc, phát huy tiềm lực trong nước và thu hút nguồn lực bên
ngoài, tạo điều kiện thuận lợi cho việc xây dựng các chính sách kinh tế phù hợp với
điều kiện chuyển sang nền kinh tế thị trường.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX (2004) đã đề ra chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội 10 năm 2001-2010 với mục tiêu tổng quát là: Đưa nước ta thoát khỏi
tình trạng kém phát triển; Nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần của
nhân dân; Tạo nền tảng đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công
nghiệp theo hướng hiện đại. Nguồn lực con người, năng lực khoa học và công nghệ,
kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc phòng, an ninh được tăng cường, thể chế kinh
tế thị trường định hướng XHCN được hình thành về cơ bản; Vị thế của nước ta trên
trường quốc tế được nâng cao. Chiến lược phát triển KT-XH 2001-2010 đã đề ra
năm quan điểm phát triển: Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh

tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường; Coi phát
triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng đồng bộ nền tảng cho một nước công
nghiệp là yêu cầu cấp thiết; Đẩy mạnh công cuộc đổi mới, tạo động lực giải phóng
Trang 8
và phát huy mọi nguồn lực; Gắn chặt việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với
chủ động hội nhập kinh tế quốc tế; Kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế xã hội với
quốc phòng an ninh.
Sự xuất hiện của bản chiến lược đầu tiên đã giúp chúng ta có được cái nhìn
rõ nét hơn về tương lai của đất nước, về cái đích mà đất nước ta sẽ hướng tới, từ đó,
sẽ xác định được hướng đi của mình một cách có cơ sở hơn và thêm tin tưởng vào
những chính sách Nhà nước đề ra.
2.1.2. Về công tác quy hoạch phát triển:
Không thể thiếu được quy hoạch trong lý thuyết và thực tiễn của KHH. Nêú
chiến lược phát triển là vạch ra các đường nét hướng đạo cho sự phát triển trong
một thời gian dài thì quy hoạch phát triển thể hiện tầm nhìn, sự bố trí chiến lựơc về
thời gian va không gian lãnh thổ, xây dựng khung vĩ mô về tổ chức không gian để
chủ động hướng tới mục tiêu, đạt hiệu quả cao, phát triển bền vững.
Trên thực tế, tập trung sức xây dựng chiến lược và quy hoạch phát triển, các
chương trình dự án lớn trong cả nước và cho từng ngành, từng vùng, từng lĩnh vực.
Thực hiện phương châm này, trong những năm qua Nhà nước đã thực hiện quy
hoạch một số ngành như: điện lực, bưu chính viễn thông, giao thông vận tải các khu
công nghiệp, khu chế xuất, tạo cơ sở cho sự phát triển chung của nền kinh tế, đóng
góp một phần không nhỏ cho công cuộc cải cách kinh tế.
Việc hình thành các vùng kinh tế trọng điểm ở miền Bắc, miền Nam và miền
Trung đã tạo ra những khu vực phát triển tập trung thu hút các nhà đầu tư, đặc biệt
là các nhà đầu tư nước ngoài, đã làm thay đổi không những bộ mặt KT - XH ở
những vùng này mà còn góp phần quan trọng cho tăng trưởng của toàn nền kinh tế,
tạo điều kiện thúc đẩy các vùng lân cận phát triển thành vệ tinh của những cực phát
triển trên.
Nhìn chung công tác quy hoạch đã có những cố gắng và chuyển biến bước

đầu, đã gắn được mục tiêu chiến lược vào nội dung quy hoạch, xác định được tiềm
năng, định hướng phát triển cho từng vùng, từng địa phương. Tài liệu quy hoạch đã
bước đầu giúp cho các cấp lãnh đạo ở trung ương và địa phương xác định mục tiêu,
nhiệm vụ và tăng cường sự chỉ đạo phát triển KT-XH ở từng địa phương cũng như
cả nước.
Trang 9
Công tác phân vùng quy hoạch đã có sự đổi mới và phát triển từ thấp đến
cao. Lúc đầu, chúng ta chia cả nước thành bốn vùng và sau đó đã được thay đổi và
chia cả nước thành bẩy vùng.
Sự đổi mới trong công tác quy hoạch là một trong những điểm đổi mới
trong công tác làm kế hoạch ở nước ta. Từ đó góp phần không nhỏ vào sự phát triển
kinh tế của đất nước, cũng như sự phát triển kinh tế của chính vùng đó thông qua
thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
2.1.3. Về công tác kế hoạch phát triển.
Kế hoạch phát triển là sự cụ thể hoá của chiến lược và quy hoạch phát triển,
là một công cụ định hướng được thể hiện bằng hệ thôngs các chỉ tiêu mục tiêu, các
chỉ biện pháp và các giải pháp chính sách cơ bản áp dụng trong một khoảng thời
gian nhất định.
2.1.3.1. Chuyển dần trọng tâm sang KHH định hướng phát triển năm
năm.
Trên cơ sở chiến lược phát triển KT-XH và quy hoạch phát triển, các kế
hoạch năm:1991-1995 và 1996-2000 đã được xây dựng vơí những thay đổi lớn về
nội dung như: tăng cường KHH vĩ mô; Từng bước xoá bỏ KHH mệnh lệnh và giảm
đến mức tối thiểu các chỉ tiêu pháp lệnh, chuyển sang KHH định hướng, chú ý hơn
đến các chỉ tiêu trên các lĩnh vực xã hội, khoa học và công nghệ; Đã có nhiều cố
gắng xây dựng và điều hành đảm bảo các cân đối lớn trong KHH giá trị; Xây dựng
và thực hiện các chương trình dự án quốc gia; Chú trong xây dựng cơ sở hạ tầng
KT-XH; Mở rộng quan hệ đối ngoại và hợp tác quốc tế.
Phương pháp xây dựng và quản lý kế hoạch năm năm bước đầu có sự đổi
mới trong lĩnh vực ngân sách, chuyển từ phương pháp truyền thống hay phương

pháp xây dựng và quản lý kế hoạch năm năm thời kỳ cố định sang phương pháp đổi
mới hay phương pháp xây dựng và quản lý kế hoạch năm năm theo mô hình cuốn
chiếu. Cụ thể:
Chuyển từ việc thời kỳ của năm năm là cố định sang thời gian của kỳ kế
hoạch là năm năm nhưng thời kỳ kế hoạch có sự thay đổi tức là luân chuyển theo
kiểu cuốn chiếu.
Trang 10
Chuyển từ việc các chỉ tiêu đựơc xây dựng là các chỉ tiêu được tính bình
quân cho một năm của cả kỳ kế hoạch hoặc là tính cụ thể đích đạt được cho năm
cuối cùng sang xây dựng chỉ tiêu cụ thể cho năm đầu tiên, sau đó dự tính chỉ tiêu
cho năm tiếp theo và dự báo cáo chỉ tiêu cơ bản cho ba năm còn lại; Sau một năm,
trên cơ sở kết quả thực hiện các chỉ tiêu kế hoạch của năm đó kết hợp với những
tình hình cụ thể của thị trường mà chúng ta dự kiến được; Từ đó các nhà kế hoạch
sẽ xây dựng kế hoạch cụ thể cho năm thứ hai và năm thứ hai sẽ là năm đầu của thời
kỳ mới và xây dựng chỉ tiêu cho năm thư ba tức là năm thứ hai của thời kỳ mới và
dự báo các chỉ tiêu cơ bản cho năm cuối mới.
2.1.3.2. Về kế hoạch hàng năm.
Kế hoạch hàng năm cũng đã chú trọng đến những cân đối lớn, đặc biệt là cân
đối tài chính- tiền tệ, cân đối cán cân thanh toán quốc tế, cân đối vốn đầu tư toàn xã
hội. Chính sách tài khoá, tiền tệ và chinh sách tỷ giá đã được nghiên cứu hoạch định
và được sử dụng tương đối hợp lý trở thành nhân tố quan trọng đối với việc duy trì
ổn định kinh tế vĩ mô. Thực tế nói trên đã chứng tỏ ý tưởng chuyển dần việc điều
hành kế hoạch từ can thiệp vi mô sang chú trọng các vấn đề vĩ mô, các cân đối lớn
hơn ngày càng thể hiện rõ và phát huy hiệu lực thực tế.
Về trình tự của việc xây dựng kế hoạch một năm cũng đã có sự đổi mới. Nếu
trước kia là quy trình ba xuống hai lên thì hiện nay quy trình này được cải tiến như
sau:
Từ tháng 4 tới tháng 6: hình thành khung định hướng.
Tháng 7: tổ chức hội nghị hướng dẫn làm kế hoạch trên cơ sở khung
định hướng xây dựng kế hoạch.

Tháng 8 tới tháng 9: các bộ ngành địa phương xây dựng kế hoạch và
Bộ KH & ĐT tiến hành tổng hợp bản kế hoạch KTQD.
Tháng 10 tới tháng 11: bản kế hoạch tổng hợp KTQD được trình,
duyệt qua chính phủ, ban chấp hành trung ương Đảng và Quốc hội duyệt.
Tháng 12: hoàn chỉnh và đưa kế hoạch xuống các cấp thực hiện.
2.1.3.2: Đổi mới hệ thống chỉ tiêu kế hoạch.
Hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh đã được rút gọn đáng kể chỉ còn chỉ tiêu thu, chi
ngân sách nhà nước, phân bổ vốn đầu tư xây dựng cơ bản thuộc về nguồn vốn ngân
Trang 11
sách nhà nước. Xoá bỏ việc giao chỉ tiêu pháp lệnh về sản xuất và chỉ duy từ một số
chỉ tiêu về lưu thông vật tư, hàng hoá quan trọng nhằm ổn định cung cầu.
Phần lớn các chỉ tiêu kế hoạch hiện nay là chỉ tiêu giá trị, các chỉ tiêu kế
hoạch hiện vật nói chung đã được giảm bớt đáng kể đồng thời duy trì một số cân đối
hiện vật thiết yếu. Hệ thống cân đối hiện vật thiết yếu như xăng dầu, lương thực đã
tỏ ra là cần thiết cho ổn định kinh tế xã hội, các bảng cân đối giá trị ngày càng được
mở rộng và nâng cao.
Ngoài xu hứơng "giá trị hoá ", trọng tâm của các chỉ tiêu kế hoạch đang
chuyển dần sang điều tiết kinh tế vĩ mô và các chỉ tiêu xã hội .
2.1.3.3. Đổi mới quy trình lập kế hoạch:
Trong thời gian qua, quy trình lập kế hoạch đã có nhiều thay đổi căn bản.
Hình thức giao số kiểm tra đã được thay thế bằng việc cung cấp thông tin cần thiết
nhằm hướng các ngành, địa phương và đơn vị cơ sở xây dựng, tổng hợp kế hoạch
theo hướng mục tiêu chung của nhà nước. Bên cạnh việc cung cấp những thông tin
hướng dẫn, Bộ kế hoạch và đầu tư còn cử các đoàn đến các địa phương để hỗ trợ,
giúp đỡ và giải quyết các vướng mắc mà các địa phương gặp phải trong khi xây
dựng kế hoạch. Quy trình lập kế hoạch mới đã hạn chế sự áp đặt hành chính chủ
quan của cấp trên với cấp dưới, phát huy được tính chủ động sáng tạo của các
ngành, các cấp chính quyền địa phương cũng như doanh nghiệp trong việc lập và
thực hiện kế hoạch .
Trong khi xây dựng và tổng hợp kế hoạch đã chú ý nhiều hơn đến các kế

hoạch KH-CN, GD-ĐT, văn hoá- thông tin, y tế, xã hội, thể dục thể thao, xoá đói
giảm nghèo… mà trước đây thường bị xem nhẹ và chưa gắn với các kế hoạch phát
triển kinh tế. Công tác kế hoạch hoá ở các lĩnh vực này sau một thời gian dài xuống
cấp, trì trệ thì nay đã có nhiều thay đổi, đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy
phát triển kinh tế.
Công tác dự báo, thông tin đã bước đầu được tăng cường, phương pháp tính
toán kế hoạch được sửa đổi phù hợp dần với thông lệ quốc tế.
2.1.3.4. Đổi mới phương thức điều hành kế hoạch:
Đổi mới công tác điều hành kế hoạch trong thời gian qua không chỉ được thể
hiện ở tính kịp thời, mà còn được thể hiện rõ nét ở việc sử dụng các công cụ quản lý
Trang 12
kinh tế vĩ mô gián tiếp như lãi suất, tỉ giá, thuế suất, định hướng đầu tư của nhà
nước … Do đó, một mặt sự có thể thiệp trực tiếp của các cơ quan nhà nước vào
công việc kinh doanh của các cơ sở kinh tế đã giảm bớt; mặt khác các cơ sở kinh tế
đã có nhiều cố gắng trong việc phát huy khả năng tự chủ, xác định những lợi thế
cạnh tranh phù hợp với điều kiện thay đổi của thị trường .
Quá trình điều hành kế hoạch hoá (KHH) cũng đã chú ý nhiều hơn đến việc
dự báo ngắn hạn, điều chỉnh kịp thời các mục tiêu cũng như các biện pháp kinh tế,
sử dụng các công cụ quản lý kinh tế vĩ mô cũng như sử dụng các cơ chế, chính sách
và lực lượng vật chất để đảm bảo các cân đối lớn trong nền kinh tế, định hướng và
thúc đẩy thực hiện kế hoạch. Nếu trước đây kế hoạch chủ yếu tập trung vào kinh tế
quốc doanh với kế hoạch hoá trực tiếp là chính, thì nay đã bước đầu mở rộng kế
hoạch định hướng phát triển toàn bộ nền kinh tế và xã hội, chủ yếu thông qua các
KHH gián tiếp.
Công tác điều hành kế hoạch đã có những chuyển biến rõ rệt từng bước đáp
ứng yêu cầu đặt ra, các công cụ pháp luật và chính sách kinh tế được phối hợp để
tạo ra hành lang cho các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế chủ động hoạt
động và hoạt động một cách có trật tự, đúng pháp luật góp phần ổn định kinh tế vĩ
mô.
Việc điều hành của chính phủ trong qúa trình thực hiện mục tiêu kế hoạch

hàng năm đã có hiệu quả và tác dụng thiết thực, kịp thời xử lý những diễn biến bất
thường ở trong nước và quốc tế, góp phần quan trọng cho sự ổn định kinh tế đất
nước .
2.2. Những vấn đề còn tồn tại trong quá trình đổi mới công tác kế
hoạch hoá ở Việt Nam:
Mặc dù việc đổi mới KHH trong thời gian qua có tiến bộ đáng kể nhưng do
nhiều lý do, kết quả của đổi mới KHH còn hạn chế, thậm chí cả ở trung ương và địa
phương xu hướng giữ lại hoặc trở lại KHH kiểu cũ vẫn còn khá mạnh, ngay trong
một bộ phận của nhà nước và một phần dư luận của công chúng không khí bao cấp
còn nặng.
Những hạn chế chủ yếu là:
Trang 13

×