Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Dạy các dạng thức so sánh của các tính từ ngắn có quy tắc trong môn tiếng anh 6

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (164.27 KB, 18 trang )

S¸ng kiÕn kinh nghiÖm

ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
“Dạy các dạng thức so sánh của các Tính từ ngắn có quy tắc trong môn tiếng Anh
6”
BỐ CỤC CỦA ĐỀ TÀI
A. Đặt vấn đề.
B. Giải quyết vấn đề.
I. Mục tiêu chung.
II. Một số giải pháp cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả giờ dạy.
1. Hướng dẫn học sinh tìm hiểu khái niệm về Tính từ ngắn có quy tắc.
2. Hướng dẫn học sinh tìm hiểu cấu tạo các dạng thức so sánh của các
Tính từ ngắn có quy tắc .
3. Hướng dẫn học sinh sử dụng các dạng thức so sánh của các Tính từ
ngắn có quy tắc .
4. Hướng dẫn học sinh làm một số bài tập ngữ pháp áp dụng cho các
dạng thức so sánh của các Tính từ ngắn có quy tắc.
III. Kết quả.
IV. Những hạn chế của đề tài.
V. Bài học kinh nghiệm và những điều kiện để áp dụng đề tài.
C. Kết luận và kiến nghị.
4
S¸ng kiÕn kinh nghiÖm

A. ĐẶT VẤN ĐỀ
Ngày nay, việc dạy và học học tiếng Anh theo phương pháp mới, phương
pháp tích cực được thực hiện triệt để trong mọi môi trường giáo dục. Có thể nói,
tiếng Anh là môn học đi đầu trong việc đổi mới phương pháp.Với mục đích là giúp
cho người học có được kĩ năng giao tiếp tốt nhất và cũng để cho kết quả của các kì
thi được cao hơn. Nhưng muốn làm được điều đó thì người học phải có được kiến
thức ngôn ngữ phong phú, vững vàng, chỉ có vậy họ mơi tự tin sử dụng ngôn ngữ


mình đang có. Ví như họ muốn miêu tả đặc điểm của nhiều người với nhau, miêu tả
nhiều vật có những đặc điểm khác nhau: Về hình thức, khối lượng, trọng lượng và
màu sắc thậm chí cả đặc điểm về thời gian, về khoảng cách vậy làm thế nào để
người học làm tốt được điều này, có lẽ đây cũng chính là điều tôi trăn trở, rút kinh
nghiệm qua nhiều năm giảng dạy môn tiếng Anh và cũng là lí do để tôi chọn sáng
kiến về việc " Dạy các dạng thức so sánh của các Tính từ ngắn có quy tắc trong
môn tiếng Anh 6 ".
Ngày nay, chúng ta đang thực hiện phương pháp dạy học theo hướng tích cực,
đòi hỏi mỗi giáo viên phải có kế hoạch chuẩn bị chu đáo cho các hoạt động học. Chỉ
có thế, học sinh mới có điều kiện và cơ hội luyện tập nhiều trong suốt quá trình bài
học và có thể nắm kiến thức một cách đầy đủ, rõ ràng và chỉ có vậy các em mới tự
tin trong giao tiếp.
Để đáp ứng điều này, hầu hết chúng ta, những người đứng lớp đều có ý thức
tốt trong việc vận dụng thực tiễn giảng dạy, nhưng đã có kết quả cao chưa thì đó vẫn
là một câu hỏi lớn cần được giải đáp thích đáng. Rằng mỗi chúng ta phải chuẩn bị
những gì cho giờ dạy, cho từng bước lên lớp, đồng nghĩa với việc học sinh cần làm
gì trong mỗi bước dạy đó để đạt hiệu quả cao nhất đáp ứng mục tiêu bài học. Có lẽ,
đây cũng là cơ sở để tôi quyết định đi tơi nghiên cứu và viết sáng kiến này. Tôi cũng
không tham vọng nhiều mà chỉ mong giải quyết phần lớn những bức xúc trên, những
điều không chỉ mình tôi trăn trở.
Với lí do trên, tôi chỉ giới hạn đối tượng nghiên cứu là học sinh lớp 6, đang
học tập với phương pháp đổi mới theo hướng tích cực đối với phân môn tiếng Anh
6. Tuy nhiên vơi hướng đi này, đề tài có thể vận dụng được cho việc dạy các dạng
thức so sánh các tính từ ở các bậc học cao hơn đặc biệt là lớp 7 và 8. Nhưng do giới
hạn của đề tài chỉ áp dụng với "Các dạng thức so sánh của các Tính từ ngắn có quy
tắc", nên tôi xin phép không đi sâu hơn ngoài phạm vi kể trên.
Và một điều tôi muốn nhấn mạnh ở đây là sáng kiến chỉ đề cập chủ yếu đến
các giải pháp hợp lí, tối ưu, đảm bảo tính khoa học để áp dụng cho các tiết học về
các tính từ kể trên chứ không phải là tiến trình của một bài học có các tính từ đó. Vì
vậy trong quá trình thực hiện đề tài, không nhất thiết phải sử dụng tất cả các kĩ thuật

trong một tiết dạy mà ta có thể lựa chọn nhiều trong số chúng sao cho phù hợp với
từng đối tượng học sinh của chúng ta.
5
S¸ng kiÕn kinh nghiÖm

Để thực hiện tốt đề tài, tôi đã sử dụng một số phương pháp nghiên cứu chủ
yếu như sau:
1. Điều tra:
Tôi đã điều tra chương trình tiếng Anh 6, tình hình dạy và học tiếng Anh 6. Bên
cạnh đó, tôi còn điều tra mức độ tiếp thu của học sinh khi học những bài học về các
dạng thức so sánh của các Tính từ ngắn có quy tắc. Tôi đã phỏng vấn và kiểm tra lại
một số học sinh về vấn đề này, thì có tới 60% các em chưa phân biệt được rõ các
dạng thức so sánh các Tính từ ngắn có quy tắc, chưa sử dụng chúng trong giao tiếp
cũng như trong các bài tập ngữ pháp tương ứng. Kể cả các em học tốt cũng không
mấy tự tin khi sử dụng những tính từ dạng này.
2. Thu thập tài liệu:
Việc thu thập tài liệu cũng là một vấn đề rất quan trọng, nó liên quan đến nhiều
bước trong quá trình dạy học, đó chính là các tư liệu liên quan đến các tính từ ngắn
có quy tắc như các tranh ảnh minh hoạ, vật thật và các tư liệu ngữ pháp khác, thậm
chí phải tập vẽ để sử dụng cho một số thao tác nhanh trên lớp, chọn và lập danh sách
những học sinh có những hình dạng, kích thước phù hợp với bài dạy
3. Quan sát: Qua dự giờ thăm lớp tôi thấy rằng, nhiều đồng nghiệp chưa giúp
học sinh hiểu rõ các dạng thức so sánh của các tính từ, đặc biệt sử dụng chúng trong
các tình huống giao tiếp cũng như trong các dạng bài tập áp dụng.
Xuất phát từ những trăn trở trên, tôi quyết định chọn sáng kiến "Dạy các dạng
thức so sánh của các Tính từ ngắn có quy tắc trong môn tiếng Anh 6".
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ.
I. Mục tiêu chung.
Đề cập đến sáng kiến này, tôi chỉ có mục đích duy nhất là nâng cao chất lượng
bài học về "Các dạng thức so sánh của các tính từ ngắn có quy tắc". Tuy nhiên,

để đạt mục tiêu trên, học sinh phải hiểu rõ thế nào là tính từ ngắn có quy tắc, cấu
tạo, cách dùng và một số bài tập ngữ pháp áp dụng tương ứng.
Nói đến các dạng thức so sánh của các tính từ là nói đến cả hai vấn đề từ vựng
và ngữ pháp, bởi nó cũng là một mảng ngữ pháp lớn trong các tài liệu ngữ pháp,và
được nhắc đến không chỉ ở sách giáo khoa lớp 6 mà còn có cả trong chương trình
sách lớp 7 và 8 ; nhưng nó có tính nâng cao và mở rộng hơn, lượng bài tập áp
dụng đa dạng và phong phú hơn. Chính vì vậy, trong các hoạt động học tập của học
sinh, cần phải giúp các em phân biệt rõ các dạng thức so sánh của các tính từ ngắn
có quy tắc; đồng thời học sinh cũng phải nắm được mẫu câu căn bản của loại hình
này và vận dụng chúng một cách hợp lí vào các tình huống giao tiếp cũng như một
số dạng bài tập ngữ pháp tiêu biểu.
II. Một số giải pháp cụ thể nhằm nâng cao hiệu suất giờ dạy.
1/ Hướng dẫn học sinh tìm hiểu khái niệm về tính từ ngắn có quy tắc.
6
S¸ng kiÕn kinh nghiÖm

- Mục tiêu của phần này là giúp học sinh phân biệt được thế nào là tính từ
ngắn và có mấy loại tính từ ngắn.
- Bằng phương pháp tích hợp, tôi giúp học sinh ôn lại các tính từ đã học, trong
đó có cả tính từ ngắn và dài, quy tắc và bất quy tắc, ở đây tôi dùng kĩ thuật
NETWORKS cho học sinh thảo luận nhóm để tìm ra tất cả những tính từ mà các em
tích luỹ được từ những bài học trước, trong khoảng thời gian nhất định. Sau đó chỉ
cho các em thấy sự xuất hiện các âm tiết trong các tính từ tiêu biểu mà tôi chọn ra,
đó chính là những tính từ vừa đảm bảo điều kiện ngắn, vừa đảm bảo tính quy tắc,
đặc biệt là sự phù hợp với các giáo cụ trực quan mà tôi đã chuẩn bị.
Tôi chỉ cho học sinh thấy tính từ ngắn là những tính từ thường có một âm tiết.
Ví dụ như: hot, cold, cheap, tall Đồng thời tôi cũng chỉ ra cho các em thấy được
một số tính từ có 2 âm tiết nhưng vẫn được coi là ngắn, đó là những tính từ kết thúc
bằng đuôi "-Y" nhưng trước đó là phụ âm. Ví dụ như: easy, busy, happy, pretty
(ở đây tôi không đưa ra các trường hợp khác vì giới hạn của chương trình SGK lớp

6). Thực chất đây là phần mở rộng kiến thức, giúp học sinh hiểu thêm để áp dụng
cho những bài tập mở rộng sau này.
- Eg.
- Sau khi học sinh thảo luận, đưa ra kết quả, tôi nhận xét, bổ sung và đưa ra
NETWORKS như trên và yêu cầu học sinh chỉ ra những tính từ dài và tính từ ngắn.
( ở đây học sinh có thể nhầm giưa các tính từ ngắn một âm tiết với tính từ ngắn hai
âm tiết như : happy, easy ) nhưng tôi sẽ sửa và nhấn mạnh thêm cho các em điểm
này và bổ sung thêm cho các em với những từ khác cùng loại như: pretty, busy,
noisy, empty, hungy Đồng thời nhóm luôn các tính từ ngắn( ngoại trừ tính từ "good"
là một trong số ít tính từ bất quy tắc chúng ta đã học, dạng thức so sánh của nó sẽ
được tìm hiểu trong các chương trình lớp 7 và 8 ).
Adjectives
tall
easy
happy
good
late
7
small
expensive
cold
big
hot
S¸ng kiÕn kinh nghiÖm

Các tính từ ngắn có quy tắc( có bổ sung ), cụ thể là: small, tall, cold, thin, big,
hot, late, wide, large Và tôi cũng đã sử dụng chính các tính từ này để đặt vấn đề,
dẫn dắt cho các hoạt động tiếp theo.
Đây là bước chứa đựng cả tính từ ngắn, tính từ dài; cả tính từ quy tắc, bất quy
tắc do đó tôi có thể đặt nó trong phần WARM UP của tiết dạy và chính vì vậy giải

pháp này được vận dụng không chỉ cho chương trình tiếng Anh lớp 6. Đây cũng là
một ưu điểm của kĩ thuật này nói riêng và bước này nói chung.
2/ Hướng dẫn học sinh tìm hiểu cấu tạo các dạng thức so sánh của các
tính từ ngắn có quy tắc .
- Mục tiêu cần đạt của phần này là học sinh phải phân biệt được cấu tạo của
các dạng thức so sánh của các tính từ ngắn có quy tắc, tương ứng với bốn quy tắc
của nó, đồng thời luyện tập nó như những từ vựng thông thường.
- Đồng thời học sinh cũng nắm được hai dạng thức so sánh căn bản của các
tính từ nói chung và tính từ ngắn có quy tắc nói riêng. Đó là : Dạng thức so sánh hơn
và dạng thức so sánh hơn nhất.
- Kĩ thuật được sử dụng chủ yếu ở đây là trực quan sinh động, phương tiện
được dùng là những bức tranh vẽ về con người, cây cối hoặc các động vật có đặc
điểm kích thước, trọng lượng khác nhau; một số loại quả có hình thức to nhỏ khác
nhau, thậm chí tôi còn phải vẽ thêm một số hình phác hoạ đơn giản mà không kiếm
được phương tiện trực quan bên ngoài, thêm vào đó tôi còn phải sắp xếp, chọn một
số em học sinh có hình dạng béo gầy, to nhỏ, cao thấp khác nhau, cho các em ngồi
gần một chỗ để tiện cho việc luyện tập, mục đích là để các em quan sát đặc điểm
một cách rõ nét, Ngoài ra tôi đã dùng các thẻ từ cho các tính từ trừu tượng( Ví dụ
như tính từ: large, long, cold, hot ). Mục đích của việc sử dụng phong phú loại hình
trực quan như vậy là vì tôi muốn tạo màu sắc, không khí và sự hấp dẫn cho bài học.
Tất cả những chuẩn bị này, tôi còn sử dụng cho các bước hoạt động tiếp theo,
đặc biệt là bước 3.
- Ở bước này , sau khi giới thiệu tất cả các tính từ, cả ở dạng nguyên và hai
dạng so sánh một cách có chủ định theo đặc điểm của tranh, tôi đã cho học sinh
nhóm tất cả các tính từ vừa giới thiệu thành các dạng so sánh riêng biệt. Để làm tốt
điều này, tôi đã cho các em thảo luận và hoàn thiện được một bảng theo 4 loại tính
từ ngắn có quy tắc trong dạng thức so sánh của chúng; tương ứng với 3 dạng thức
của tính từ: Dạng nguyên, dạng so sánh hơn và dạng so sánh hơn nhất.
Theo giới hạn của đề tài, tôi cũng muốn được nhấn mạnh thêm là tất cả những
bước dạy thông thường tôi xin phép không nêu ra đây, mà tôi chỉ đề cập đến các kĩ

thuật trực quan để giới thiệu, luyện tập cũng như vận dụng các tính từ kể trên mà
thôi.
-Eg.
8
S¸ng kiÕn kinh nghiÖm

Tall : Với tính từ nay, tôi đã chuẩn bị một bức tranh có ba cây thông có
kích thước khác nhau và đặt tên A, B, C cho chúng, trong đó tôi dự kiến (A-tall, B-
taller, C-tallest). Tôi chỉ vào cây A và nói " A is tall " đương nhiên học sinh biết
ngay phần tiếng Việt của nó là " cao", thực chất không chỉ tính từ này mà tất cả các
tính từ có trong bài cũng như các tính từ tôi bổ sung thêm , các em đều đã hiểu về
phần tiếng Việt ở dạng nguyên của nó. Vấn đề làm các em lạ chính là sự xuất hiện
các đuôi so sánh cấu thành các dạng thức so sánh của các tính từ mà thôi. Vì vậy tôi
chỉ cần đưa ra giáo cụ trực quan phù hợp là các em có thể dễ dàng đoán được phần
tiếng Việt của hai dạng thức so sánh tiếp theo. Chính vì vậy, tôi chỉ vào cây B trong
bức tranh và nói " B is taller" học sinh sẽ nói " taller" là " cao hơn" và tương tự
với tính từ " tallest" ( cao nhất ).
Tiếp theo tôi chỉ vào một em có chiều cao bình thường trong lớp và nói "Nam
is tall", chỉ em tiếp theo có chiều cao khá hơn so với em trước và nói lửng " Lâm
is " và các em sẽ nói " taller" và tương tự với từ "tallest" với em học sinh cao
nhất. Như vậy các em vừa nhận biết được các dạng tính từ, đồng thời luyện tập được
các tính từ ấy. Thông qua việc nghe các mẫu câu gợi mở, dẫn dắt của tôi các em
phần nào hiểu được cách dùng của chúng.
Small : Với tính từ này, tôi đưa ra ba quả cam (Có dán sẵn tem cho ba
quả cam theo thứ tự lớn dần, để tiện cho bước thực hành sau: A, B, C ) có độ lớn
nhỏ khác nhau và đưa quả cam có kích thước lớn nhất lên trước lớp và nói" This
orange is small" và đưa ra quả cam có kích thước trung bình và nói" This is smaller"
khi đó học sinh sẽ thấy ngay phần tiếng việt của "smaller"(nhỏ hơn) tương tự với từ
"smallest" được nói với quả cam nhỏ nhất. Tôi cũng đã sử dụng một số học sinh để
các em luyện tập từ này, cách làm tương tự với các dạng của từ "tall" nói trên,

nhưng ở đây tôi không nói hết câu mà để các em tự nói ra các tính từ phù hợp: Eg.
Nam is , Lam is , Cường is the
Hot : Với từ này, tôi đã dùng ba thẻ từ có tên ba thành phố, đại diện cho ba
miền khí hậu: Hà nội, Huế, Thành Phố Hồ Chí Minh sau đó đưa ra thẻ mang tên "Hà
nội" để nói " Hà Nội is hot " , tiếp tục đưa ra thẻ về "Huế" và nói là " Huế is hotter",
tương tự tôi đã làm với từ " hottest" với thẻ còn lại. Tất nhiên qua hiểu biết, các em
cũng dễ dàng nhận ra phần tiếng Việt của hai dạng thức so sánh của từ này .
Large : Với từ này, tôi đã vẽ ba thửa ruộng hình vuông có diện tích khác
nhau lên bảng, ghi rõ số liệu về diện tích( Tượng trưng: 1000 m2(A), 2000 m2(B),
3000 m2(C)) vào đó và chỉ vào hình vuông có số liệu nhỏ nhất nói " It is large" và
hình có diện tích lớn hơn tôi nói " It is larger " tiếp với từ "largest".
wide : Với từ này, tôi sử dụng ba vật thật trong lớp học : Bàn học sinh , Bàn
giáo viên, bảng . ( Tôi đã quan sát thấy ba vật này có diện tích bề mặt khác nhau,
trong đó Bàn học sinh hẹp nhất và Bảng rộng nhất). Tôi chỉ vào Bàn học sinh nói
9
S¸ng kiÕn kinh nghiÖm

"This table is wide" và chỉ vào Bàn giáo viên nói" This is wider" , còn chỉ vào Bảng
nói "This is the widest". Tất nhiên khi chỉ vào các đồ vật này, tôi đã thể hiện để các
em hiểu là tôi đang muốn chúng miêu tả bề mặt của các đồ vật đó. Và bằng cách đó
học sinh dễ dàng nhận ra phần tiếng Việt của hai từ so sánh này.
Big : Với từ này, tôi phóng to ba bức tranh trong sách về ba khách sạn để
dạy. Tôi đã chỉ vào bức tranh có khách sạn nhỏ nhất nói" This hotel is big", bức
tranh có khách sạn lớn hơn nói" This hotel is bigger " và bức tranh có khách sạn lớn
nhất nói " This hotel is the biggest "
Tiếp theo tôi dùng đối tượng học sinh phù hợp để các em luyện tập. Tôi chỉ
vào em có hình dáng to vừa phải để nói" He is big" , em to hơn nói" he is " và
em có hình dạng to nhất tôi cũng nói " He is the " các em dễ dàng quan sát thấy
và nói ra từ ở hai chỗ trống đó là: Bigger và biggest.
Easy : Với từ này, tôi chuẩn bị ba thẻ có thể hiện ba phép tính đơn giản

( Thẻ A: 11+ 11=22, thẻ B: 11+1=12 và thẻ C: 1+1=2) Và tôi đưa ra thẻ A để nói "It
is easy" phép tính B nói " It is easier" và phép tính C thì nói" It is the easiest".
Thin : Với từ này, tôi đã vẽ ba bức tranh với ba người để trần, đều gầy ở mức
độ khác nhau và đưa ra(Có đặt tên tranh : A, B, C theo thứ tự diễn tả mức độ gầy
tăng dần, để tiện cho việc thực hành mẫu câu ở bước sau). Tôi chỉ bức tranh với hình
người vừa phải(A) nói " He is thin", hình gầy hơn(B) nói " He is thinner" và hình
còn lại(C ) nói " He is the thinnest".
Tiếp theo tôi chỉ vào một số em trong lớp có đặc điểm tương tự và cho các em
thực hành bằng cách nói tiếp vào những câu nói lửng mà tôi đưa ra: Eg . Nam
is , Lâm is , Cường is the
- Sau khi tôi đã giới thiệu tất cả các tính từ trên , các em đã nhận biết và thực
hành với chúng. Tôi nói: như vậy các em đã biết được hai dạng thức so sánh của
tính từ là dạng thức so sánh hơn và dạng thức so sánh hơn nhất, và yêu cầu các em
nhóm ba dạng thức này tương ứng với bốn quy tắc của chúng. Để làm tốt điều này,
tôi đã chuẩn bị phiếu học tập có sẵn bảng trống và cho các em hoàn thiện qua thảo
luận nhóm như sau:
( Tôi cũng lưu ý vơi học sinh là có thể bổ sung thêm những tính từ khác đã
học, ngoài những tính từ kể trên.)
Adj Adj + er Adj + est
Q 1 tall taller tallest
small smaller smallest
Q 2 hot hotter hottest
big bigger biggest
thin thinner thinnest
10
S¸ng kiÕn kinh nghiÖm

Q 3 large larger largest
wide wider widest
Q 4 easy easier easiest

( Q1: Quy tắc 1, Q2: Quy tắc 2, Q 3: Quy tắc 3, Q 4: Quy tắc 4 )
Sau khi hoàn thiện bảng này, tôi đã nhận xét từng nhóm, chữa cho các em,
nhất là những từ các em bổ sung. ở đây tôi không viết những từ được bổ sung lên
bảng với mục đích phát huy khả năng sáng tạo của các em khác trong những bước
luyện tập tiếp theo có thể có liên quan với những từ đó.
Tôi cũng đã nói nhanh về các quy tắc trên: Q1 thông thường khi chia tính từ
ngắn ở dạng có quy tắc ta chỉ việc kết hợp đuôi " -er" or "-est". Q2 nếu tính từ đó kết
thúc bằng một phụ âm mà trước đó là nguyên âm( áp dụng với tính từ ngắn) thì ta
phải nhân đôi phụ âm đó trước khi thêm đuôi "-er" or "-est". Q3 nếu tính từ đó kết
thúc bằng "-e" thì ta phải bỏ "-e" trước khi thêm "-er" or "-est". Q4 nếu tính từ kết
thúc bằng "-y" mà trước đó là phụ âm thì ta phải đổi "-y" thành "-i" trước khi thêm
đuôi "-er" or "-est".
Có thể nói, đây là bước điển hình được áp dụng cho chương trình tiếng Anh
lớp 6, tuy nhiên theo hướng này, về căn bản tôi vẫn có thể vận dụng cho việc dạy
các dạng thức so sánh của các tính từ ở những cấp học cao hơn, nhưng với các tính
từ bất quy tắc và các tính từ dài thì hình thức tạo bảng có thay đổi cho phù hợp. Đặc
biệt tôi muốn nhấn mạnh rằng, với giải pháp này ta nên đưa nó vào phần luyện tập
của tiết dạy.
3. Hướng dẫn học sinh sử dụng các dạng thức so sánh của các tính từ
ngắn có quy tắc trong câu.
- Mục đích của phần này là học sinh phải hiểu cách dùng thông qua các mẫu
câu cũng như biết vận dụng các dạng thức so sánh của các tính từ kể trên vào các
tình huống giao tiếp .
- Tôi đã chia ra hai loại mẫu câu chính cho các em vận dụng: Câu dùng các
dạng thức so sánh của các tính từ khi không có đối tượng so sánh và câu sử dụng các
dạng thức so sánh của các tính từ khi có đối tượng so sánh.
- Hướng phát triển như sau:
Tôi đã đưa ra mẫu câu trước ( Mỗi mẫu câu tương ứng với một ví dụ), cho các
em đọc mẫu câu đồng thanh rồi cho một vài cá nhân đọc trước lớp. Sau đó cho các
em gạch chân các dạng thức so sánh của các tính từ xuất hiện, gạch chân đặc điểm

làm nên mẫu câu đó, như từ " than " xuất hiện trong câu với dạng thức so sánh hơn,
mạo từ " the " và trạng ngữ chỉ cái chung như : of us, of them, in my class, in our
group, in Việt Nam là đặc điểm của câu có dạng thức so sánh hơn nhất.
- Về phương tiện giúp các em trong quá trình thực hành cũng là các phương
tiện đã được sử dụng ở phần trên.
11
S¸ng kiÕn kinh nghiÖm

Cần nhấn mạnh thêm là trong quá trình thực hành, tôi luôn cho các em bắt đầu
bằng mẫu câu với tính từ dạng nguyên để làm nền cho các dạng thức so sánh và mỗi
tính từ khi đưa ra thưc hành đều được nói theo hai hình thức là đồng thanh và cá
nhân trong đó đồng thanh thực hiện từng câu một theo chỉ dẫn của giáo viên , còn
thực hiện cá nhân thì các em phải tự quan sát và nói để tả cho cả ba đặc điểm của
tranh, người hoặc vật
a/ Với mẫu câu không có đối tượng so sánh:
Với loại mẫu câu này, tôi đồng thời cho các em thực hành nói với hai dạng
mẫu câu đồng nghĩa: Một là dạng tính từ bổ nghĩa cho danh từ kết hợp vơi danh từ
tạo thành cụm danh từ. Hai là dạng tính từ bổ nghĩa cho chủ ngữ , đứng độc lập làm
tân ngữ trong câu.
Eg. ( tall ) : Tôi vẫn sử dụng bức tranh dạy từ trên, với cách thức tương tự,
nhưng ở đây tôi viết mẫu câu lên bảng làm ví dụ:
Pic 1: This is a tall tree.
Pic 2: This is a taller tree.
Pic 3: This is the tallest tree.
Or A is tall.
B is taller.
C is the tallest.
Trong đó A là Pic 1, B là Pic 2 và C là Pic 3.
Với các tình huống trong lớp, tôi cho ba học sinh phù hợp như trong phần
luyện từ đứng trước lớp và cho các em khác đứng lên quan sát, thực hành.

Eg. Nam is a tall student.
Lâm is a taller student.
Cương is the tallest student.
Với cách thức tương tự, tôi tiếp tục cho các em thực hành với các tính từ khác
như sau:
Eg. (small).
Tôi đặt cả ba quả cam lên bàn, cho các em quan sát, sau đó yêu cầu các em
cầm từng quả đưa ra và tự nhận xét đặc điểm của chúng trước lớp theo ba dạng, hai
cách:
This is a small orange.
This is a smaller orange.
This is the smallest orange.
Or This orange is small.
12
S¸ng kiÕn kinh nghiÖm

This orange is smaller.
This orange is the smallest.
Với từ này tôi cũng cho học sinh thực hành như từ " Tall", tôi cũng gọi một số
em có đặc điểm phù hợp đứng lên trước lớp cho các em khác quan sát thực hành.
Eg. Nam is a small student.
Lâm is a smaller student.
Cương is the smallest student.
Or Nam is small.
Lâm is smaller.
Cương is the smallest.
Eg. ( Big)
Cũng với cách thức sử dụng tranh như phần dạy từ, các em quan sát và thực
hành từ này như sau:
Pic ( A): It is a big hotel.

Pic (B) : It is a bigger hotel.
Pic (C): It is the biggest hotel.
Or A is big.
B is bigger.
C is the biggest.
Với tình huống trực quan, tôi cho ba em có hình dáng phù hợp đứng trước lớp,
các em khác quan sát, thực hành theo mẫu.
Eg. Nam is a big student.
Lam is a bigger student.
Cường is the biggest student.
Or Nam is big.
Lam is bigger.
Cường is the biggest.
Eg. (hot)
Với từ này, Tôi sử dụng ba thẻ tên của ba thành phố như đã dùng ở trên và
cho học sinh thực hành.
Hình thức làm như sau: Tôi đưa thẻ ra trước lớp và nói ra tên các thành phố
trên thẻ và học sinh sẽ đồng thanh nói theo thành các câu nhận xét về đặc điểm thời
tiết nóng dần từ địa danh Hà Nội, Huế đến Thành Phố Hồ Chí Minh(HCMC). Sau đó
cho các em đứng lên thực hiện cá nhân trước lớp.
Eg. Hà Nội is a hot city.
13
S¸ng kiÕn kinh nghiÖm

Huế is a hotter city.
HCM is the hottest city.
Or Hà Nội is hot.
Huế is hotter.
HCMC is the hottest.
Với từ này, tôi còn chuẩn bị thêm ba thẻ thể hiện ba mốc thời gian trong một

ngày mùa hè: Lúc 7h sáng(A), 11h trưa(C) và 3h chiều(B).
Với phương tiện này, tôi yêu cầu các em nhận xét đặc điểm của ba mốc thời
gian trong ngày mùa hè, sau đó đưa ra, bắt đầu từ thẻ A sau đó đến thẻ B và C. Học
sinh nói:
A is hot.
B is hotter.
C is the hottest.
Eg. (Large)
Với từ này, tôi vẫn giữ nguyên hình vẽ của ba thửa ruộng trên bảng, yêu cầu
các em quan sát và thực hành nói trước lớp. Vì tôi đã đặt tên cho ba thửa ruộng trên
theo thứ tự tăng dần về diện tích là: A, B, C; cho nên các em rất dễ hình thành câu.
Eg. A is a large field.
B is a larger field.
C is the largest field.
Or A is large.
B is larger.
C is the largest.
Eg. (wide)
Với từ này, một lần nữa tôi lại sử dụng ba vật thật trong lớp như đã nói ở phần
luyện từ, để các em phân biệt rõ bàn giáo viên và bàn học sinh, tôi có thêm một thao
tác phụ là giới thiệu cho các em thấy các vật này ( Bàn giáo viên tôi nói: this is a
desk, Bàn học sinh tôi nói : This is a table và bảng là: this is a board). Như thế các
em sẽ sử dụng một cách tự tin các danh từ này vào việc nói. Tôi yêu cầu các em
quan sát ba vật và tự nhận xét đặc điểm của chúng, cụ thể như sau:
Eg. The table is wide.
The desk is wider.
The board is the widest.
Eg. (Easy)
Với từ này, tôi gắn ba thẻ (A, B, C) có phép tính đơn giản đã dùng ở trên và
cho các em đứng lên tự nhận xét.

Eg. A is easy.
14
S¸ng kiÕn kinh nghiÖm

B is easier.
C is the easiest.
Eg. (Thin)
Với từ này, tôi dán bức tranh trên lên bảng và cho các em đứng lên quan sát
và tự thực hành nói.
Eg. A is a thin man.
B is a thinner man.
C is the thinnest man.
Or A is thin.
B is thinner.
C is the thinnest.
Sau khi đã thực hành xong phần này, tôi dẫn dắt học sinh sang thực hành tiếp
ở dạng mẫu khác, tôi đã giải thích cho các em biết: "Vừa rồi chúng ta đã thực hành
nhận xét đặc điểm của người và vật mà đối tượng so sánh của chúng chỉ được hiểu
qua quan sát hoặc qua hiểu biết của cả người cung cấp và người nhận thông tin.Vậy
khi người cung cấp thông tin đề cập đến cả đối tượng so sánh thì mẫu câu cụ thể
được dùng là gì." Sau đó tiếp tục cho học sinh thực hành mẫu câu "Có đối tượng so
sánh".
b/ Với mẫu câu có đối tượng só sánh.
- Mục đích của phần này, tôi cho các em tiếp tục sử dụng các dạng tính từ kể
trên để luyện nói với mẫu câu có đối tượng so sánh. Có nghĩa là, các em phải nhận
biết được mẫu câu với những dạng thức so sánh và vận dụng nó để so sánh đặc điểm
giữa chủ thể này với một chủ thể khác.
- Cách tiến hành : Tôi đưa ra mẫu câu, viết lên bảng, cho các em đọc đồng
thanh một lần, đồng thời gạch chân những từ là đặc điểm làm nên mẫu câu như:
"Than" trong mẫu câu với dạng thức so sánh hơn của tính từ ; mạo từ "The" trước

tính từ, thậm chí cả các trạng ngữ chỉ cái chung, cái tập thể ( từ 3 trở lên) có trong
mẫu câu với dạng thưc so sánh hơn nhất như: Of us, of them, in our group, in the
class, in Việt Nam ( đã được đưa ra ngay ở phần hướng dẫn mẫu câu ) trong
mẫu câu với dạng thức so sánh hơn nhất
Bước này, tôi treo và đặt lần lượt các tranh ảnh, mẫu vật, giữ nguyên hình vẽ
trên bảng để các em nói theo mẫu sau đó cho các em nói tự do với các đồ vật và con
người trong phòng và bằng vốn hiểu biết của các em. Phần này tôi cho các em thảo
luận nhóm trước khi nói cá nhân trước lớp.
Dưới đây, tôi chỉ đưa ra mẫu câu áp dụng và phần dự kiến khả năng nói của
các em chứ không trình bày chi tiết nữa.
Eg. ( Tall )
15
S¸ng kiÕn kinh nghiÖm

Với từ này, tôi sử dụng làm câu mẫu viết lên bảng. Cho các em quan sat tranh
và nói:
B is taller than A.
C is taller than B.
C is the tallest of them
* Tôi đã cung cấp thêm cho các em một số trạng ngữ chỉ cái chung: Of us, of them,
in the school, in our class, in my group, in Viêt Nam, in Hai Dương City yêu
cầu các em ghi vào vở để sử dụng trong những tình huống câu phù hợp.
*Các khả năng dự kiến:
Small: Cũng cho học sinh cầm nhận xét trước lớp, sử dụng các chữ cái đã dán
sẵn trên các quả cam cho các em luyện tập:
Eg. B is smaller than C
A is smaller than B
A is smallest of them.
Or Lam is smaller than Cường.
Nam is smaller than Lam.

Nam is the smallest of them( of the group/ in the class/ in our class )
Big: (Sử dụng tranh và học sinh trong lớp như trên để các em quan sát)
B is bigger than A
C is bigger than B
C is the biggest of them.
Or Lam is bigger than Nam.
Cương is bigger than Lâm.
Cương is the biggest of them( of the group/ in the class/ of our class )
Hot: (Sử dụng các thẻ địa danh như trên)
Huế is hotter than Hà Nội.
HCMC is hotter than Huế.
HCMC is the hottest in Việt Nam( in our country)
Large: ( Sử dụng hình vẽ còn lưu trên bảng)
` B is larger than A.
C is larger than B.
C is the largest of them.
wide: ( Sử dụng vật thật trong lớp)
The desk is wider than the table.
The board is wider than the desk.
The board is the widest of them.
16
S¸ng kiÕn kinh nghiÖm

Easy: ( Sử dụng thẻ các phép tính đơn giản như trên)
B is easier than A.
C is easier than B.
C is the easiest of them.
Thin: ( Sử dụng tranh vẽ hình ba người gầy như trên)
B is thinner than A.
C is thinner than B.

C is the thinnest of them.
* Tiếp theo tôi cho học sinh tự nói với người và vật trong lớp. Phần này tôi
cho phép các em sử dụng tất cả những tính từ mà các em tích luỹ được.
Có thể nói đây là bước thực hành mà tôi đã áp dụng rộng rãi và phong phú
nhất, không chỉ cho học sinh lớp 6 mà cho mọi đối tượng học sinh khi luyện nói với
các mẫu câu có các dạng thức so sánh của tính từ nói chung và tính từ ngắn có quy
tắc nói riêng. Và tôi cũng muốn nhấn mạnh rằng, với giải pháp này ta cũng nên đưa
vào phần luyện tập tiếp theo của tiết dạy.
4/ Hướng dẫn học sinh làm một số bài tập ngữ pháp áp dụng các dạng
thức so sánh của các tính từ ngắn có quy tắc .
-Mục tiêu chủ yếu của phần: Giúp các em củng cố kiến thức, ngữ liệu vừa học
. Đồng thời giúp các em làm quen và thực hành các bài tập ngữ pháp mở rộng cho
các tính từ loại này.
- Bước này, tôi giới thiệu cho các em thấy một số dạng bài tập ngữ pháp liên
quan đến loại tính từ này như: Trắc nghiệm,Viết tiếp câu, Viết lại các câu mang
nghĩa tương tự, Chia từ trong ngoặc, Viết lại câu với từ gợi ý, Sắp xếp câu đồng
thời đưa ra hai dạng phù hợp để các em luyện tập: "Viết câu với từ gợi ý" và "Trắc
nghiệm".
+ Mục đích chính của dạng bài viết câu là giúp các em củng cố mẫu câu vừa
học.
+ Mục đích chính của dạng bài trắc nghiệm là để các em luyện tập củng cố
các dạng tính từ kể trên.
Cả hai dạng bài tập này đều được bổ sung một số tính từ các em đã học ở các
bài trước, chưa được giới thiệu ở những phần trên.
- Phương tiện tôi sử dụng cho bước này là bảng phụ ( khoảng bẩy đến tám câu
cho mỗi phần ), cho học sinh thời gian khoảng 2 phút mỗi phần và gọi các em lần
lượt lên làm.
- Trong khi sửa, tôi chú ý hỏi lại học sinh xem kết quả mà các em vừa thực
hiện rơi vào dạng thức nào của bài học: Cấu tạo từ hay mẫu câu, nếu cấu tạo từ tôi
yêu cầu các em chỉ rõ nó rơi vào quy tắc nào trong số bốn quy tắc trên, còn mẫu câu

thì rơi vào mẫu câu nào và biểu hiện của nó. Đồng thời yêu cầu các em gạch chân
vào những biểu hiện đó.
17
S¸ng kiÕn kinh nghiÖm

* Dưới đây là những bài tập tôi đã đưa ra và kết quả các em đã thực hiện
được:
` - Dạng bài viết câu với từ gợi ý:
1. The winter/ cold/ in the year.
(Tính từ theo quy tắc 1(Q 1), dạng so sánh hơn nhất)
The winter is the coldest in the year.
2. I/ fat/ than/ father.
(Tính từ theo quy tắc 2(Q 2), dạng so sánh hơn)
I am fatter than my father.
3. Grandfather/ old / in the family.
(Tính từ theo quy tắc 1, dạng so sánh hơn nhất)
My grandfather is the oldest in the family.
4. The field of my family/ large/ than/ yours.
( Tính từ theo quy tắc 3 (Q 3) dạng so sánh hơn)
The field of my family is larger than yours.
5. HCMC/ the/ big/ Việt Nam.
(Tính từ theo quy tắc 2, dạng so sánh hơn nhất)
HCMC is the biggest in Việt Nam.
6. Hà Nội / noisy/ than/ Hải Dương.
(Tính từ theo quy tắc 4(Q 4) , dạng so sánh hơn.
Hà Nội is noisier than Hải Dương.
7. He/ strong/ of us.
(Tính từ theo quy tắc 1, dạng so sánh hơn nhất)
He is the strongest of us.
- Dạng bài trắc nghiệm:

1. HCMC is than Ha Noi.( Phân biệt tính từ Q4, dạng so sánh hơn)
a. busy b. busyer c. busier
2. Lan is than I. (Phân biệt tính từ Q2, dạng so sánh hơn)
a. thiner b. thinnest c. thinner
3. My shirt is the ( Phân biệt tính từ Q3, dạng so sánh hơn nhất)
a. the white b. whiter c. whitest
4. Autumn is than winter. ( Phân biệt tính từ Q1, dạng so sánh hơn)
a. warmer b. warmmer c. the warmest
5. He is of us. ( Phân biệt tính từ Q4, dạng so sánh hơn nhất)
a. the heavy b. the heavyest d. the heaviest
6. we are than they ( Phân biệt tính từ Q1, dạng so sánh hơn)
a. young b. younger c. the youngest
7. She is the in my class. ( Phân biệt tính từ Q1, dạng so sánh hơn
nhất)
a. weaker b. weakker c. the weakest
18
S¸ng kiÕn kinh nghiÖm

Như vậy có thể nói, đây là bước được áp dụng rất phong phú cho nhiều
dạng bài tập khác nhau từ thấp lên cao, từ đơn giản đến phức tạp cho nên việc chọn
một dạng nào đó phù hợp cho từng bậc học là một điều hoàn toàn có thể. Chính vì
thế bước này cũng có thể áp dụng rộng rãi cho mọi bài học có liên quan đến các
dạng thức so sánh của tính từ nói chung chứ không chỉ dừng lại ở các tính từ ngắn có
quy tắc lớp 6. Và cần chú ý rằng, với giải pháp này ta nên đưa vào phần củng cố của
tiết dạy.
III. Kết quả:
Qua quá trình nghiên cứu và vận dụng sáng kiến này, tôi thấy rằng hiệu quả
giờ dạy cao hơn hẳn so với cách dạy thông thường, đặc biệt cách sắp xếp hợp lí,
khoa học trong từng phần, trong từng bước dạy. Qua đó học sinh vừa hiểu rõ và vừa
vận dụng tốt trong hoạt động nói cũng như quá trình giao tiếp, đặc biệt là việc áp

dụng cho các bài tập ngữ pháp.
Kết quả này không chỉ thấy rõ ở các bài học lớp 6 mà nó còn là kết quả của tất
cả các bài học có liên quan đến các dạng thức so sánh của tính từ nói chung và "Các
dạng thức so sánh của các tính từ ngắn có quy tắc" nói riêng. Đặc biệt là chương
trình lớp 7 và 8 là hai chương trình mà phần tính từ so sánh được đưa vào tương đối
phong phú, sâu rộng và nâng cao.
Như vậy chỉ cần vận dụng khéo léo, linh hoạt và có chon lọc thì đề tài này
không chỉ được vận dụng với chương trình lớp 6 mà còn được vận dụng một cách
rộng rãi trong quá trình dạy tiếng anh với các dạng thức so sánh của cac tính từ ở
mọi cấp học.
Chính vì vậy, trong quá trình tích luỹ kinh nghiệm, áp dụng sáng kiến, tôi
không chỉ nhận được kết quả như ý đói với khối 6 mà khối 7 và 8 cũng có kết quả
rất khả quan.
* Điều tra cụ thể như sau:
TRƯỚC KHI VẬN DỤNG ĐỀ TÀI SAU KHI VẬN DỤNG ĐỀ TÀI
- Chất lượng đại trà: 40%
- Chất lượng khá giỏi: 20%
- Chất lượng đại trà: 70%
- Chất lượng khá giỏi:
30%
- Khoảng 90% hào hứng,
hăng say tham gia tiết học.
IV. Một số hạn chế khi thực hiện sáng kiến.
- Về phía thầy, có khó khăn trong việc sắp xếp thời gian ở từng phần sao cho
hợp lí tránh rơi vào tình trạng giải thích ngữ pháp mà học sinh ít được luyện nói.
Thêm vào đó là việc thao tác đồ dùng trực quan, vì đây là dạng bài có sự kết hợp
nhuần nhuyễn, hài hoà giữa từ vựng với việc thực hành mẫu câu tất cả đều cần đến
cùng một loại phương tiện trực quan cho mỗi loại tính từ và mỗi mẫu câu. Cho nên
19
S¸ng kiÕn kinh nghiÖm


giáo viên rất dễ bị rối, dẫn đến nhầm lẫn, làm ảnh hưởng đến tiến trình giờ học, làm
giảm hứng thú hoạt động của học sinh .
- Về phía trò, đây là chương trình đầu tiên nên mọi kiến thức đều rất mới mẻ,
nhất là kiến thức thuộc loại này. Có thể nói , nó mới cả về hình thức từ, khái niệm
lẫn cách dùng. Cho nên học sinh dễ rơi vào tình trạng sợ, ngại và mất tự tin trong
việc nắm bắt kiến thức cũng như sử dụng chúng trong giao tiếp. Có lẽ, đây cũng là
một trong những khó khăn mà giáo viên cần phải sử lí và khéo léo tháo gỡ.
- Một điều không kém phần quan trọng, có thể nói đây chính là cái hồn của
một giờ học áp dụng theo phương pháp mới, phương pháp dạy học tích cực, đó
chính là phương tiện sử dụng cho bài học này. Chúng được sử dụng tương đối nhiều
và phong phú kể cả vật thật, tranh ảnh, thậm chí con người có cái dễ kiếm, có cái
khó kiếm, có cái dễ làm nhưng cũng có những cái không dễ tạo ra Cho nên đây
cũng là một khó khăn cần được khắc phục đến mức tối thiểu trong quá trình thực
hiện giờ dạy.
V. Bài học kinh nghiệm.
Muốn áp dụng tốt sáng kiến trên, về phía giáo viên phải thường xuyên trau dồi
kiến thức cả về chuyên môn và nghiệp vụ, phải thường xuyên dự giờ thăm lớp, rút
kinh nghiệm từ phía đồng nghiệp và vận dụng triệt để những phương pháp mới trong
một bài giảng để tạo ra thói quen, kĩ năng, kĩ xảo thao tác các hoạt động một cách
nhuần nhuyễn ở các bài dạy nói chung và bài dạy với các dạng thức so sánh của các
tính từ nói riêng, Đặc biệt là việc thao tác đa dạng giáo cụ trực quan, thậm chí giáo
viên phải tự tập trước ở nhà.
Phải có sự chuẩn bị kĩ càng, chu đáo về kiến thức, kế hoạch cũng như phương
tiện lên lớp, giúp cho giờ học trở nên nhịp nhàng nhưng cũng không kém phần sôi
nổi, tạo hứng thú và niềm say mê học tập cho các em.
Về phía học sinh phải hình thành cho các em thói quen học phương pháp mới,
có phản xạ để nhanh chóng thích nghi với những cái mới, phải biết tich hợp kiến
thức đã học để rút ra cái mới một cách nhanh nhất, chủ động sử dụng nó và sử dụng
nó một cách khéo léo trong các tình huống giao tiếp, cũng như trong việc vận dụng

chúng trong một số dạng bài tập ngữ pháp tiêu biểu.
C. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ.
Tạo cho học sinh khả năng tích hợp kiến thức cũ để phát hiện kiến thức mới,
sau đó tự biết vận dụng nó một cách có hiệu quả nhất trong quá trình giao tiếp, cũng
như trong việc áp dụng hợp lí kiến thức vào một số dạng bài tập, chính là một trong
những điểm đến, là đích mà tôi đã đạt được qua việc nghiên cứu và viết sáng kiến
này. Không những rèn cho các em thói quen tự học, tự trau dồi kiến thức; rèn kĩ
năng, kĩ xảo sử dụng ngôn ngữ , mà còn tạo hứng thú, niềm say mê tham gia tiết học
nói riêng và học bộ môn tiếng Anh nói chung.
20
S¸ng kiÕn kinh nghiÖm

Để sáng kiến của tôi thực sự phát huy hiệu quả trong thực tế, tôi rất mong có
sự đóng góp, rút kinh nghiệm, tạo điều kiện giúp đỡ của đồng nghiệp, để bổ sung
cho tôi những gì tôi chưa làm được trong quá trình thực hiện sáng kiến.
Như chúng ta đã biết, một giờ học đảm bảo như trên thì thường không khí lớp
dễ ồn ào trong khi học sinh thực hiện các kĩ năng giao tiếp, nên không tránh khỏi sự
ảnh hưởng đến việc học tập của các lớp bên cạnh trong khi chưa có phòng chức
năng. Cho nên, tôi rất mong sự thông cảm từ các đồng nghiệp bên cạnh tôi. Và cũng
từ lí do này, tôi rất mong nhà trường sớm tham mưu với địa phương để xây dựng
thêm các phòng chức năng để chúng tôi dễ dàng thực hiện những tiết học với mục
tiêu kể trên.
Và một điều nữa, tôi muốn kiến nghị ở đây chính là phương tiện, đồ dùng,
tranh ảnh dạy học. Tôi rất mong sự cung cấp đầy đủ hơn từ phía công ty thiết bị giáo
dục, cũng như các cơ quan chức năng nói chung để trong quá trình thực hiện giờ học
tôi dành được nhiều thời gian hơn cho việc thưc hiện tiến trình và tổ chức các hoạt
động học, chứ không phải dành quá nhiều thời gian cho việc chuẩn bị thiết bị đồ
dùng.
Trên đây là những ý kiến cá nhân của tôi, rất mong sự đóng góp ý kiến của
các đồng nghiệp để sáng kiến của tôi thành công hơn trong quá trình áp dụng thực

tiễn.
Tôi xin trân trọng cảm ơn!
21

×