Tải bản đầy đủ (.pdf) (31 trang)

Thỏa ước Basel, lộ trình và thực trang áp dụng của các ngân hàng thương mại tại Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (338.81 KB, 31 trang )


- 1 -





Tiểu luận

THỎA ƯỚC BASEL, LỘ TRÌNH VÀ THỰC
TRANG ÁP DỤNG CỦA CÁC NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM

- 2 -
LỜI MỞ ĐẦU
Hai năm sau khủng hoảng tài chính toàn cầu bùng nổ, Ủy ban Basel về kiểm soát ngân
hàng đã đạt được thỏa thuận nhằm khép các ngân hàng vào những tiêu chuẩn ngặt
nghèo hơn. Sau những quyết định năm 1988 và 2007 (gọi là Basel I và Basel II), văn
bản mới có tên Thỏa thuận Basel III là sự đút rút những bài học từ cuộc khủng hoảng
vừa qua, đồng thời là nền tảng để thiết lập trật tự tài chính thế giới mới.
Basel III với nhiều đề xuất mới về vốn, đòn bẩy và các tiêu chuẩn về tính thanh khoản
để củng cố các quy định, giám sát và quản lý rủi ro của ngành ngân hàng. Các tiêu
chuẩn vốn và các vùng đệm vốn mới sẽ đòi hỏi các ngân hàng giữ tiền nhiều hơn và
chất lượng cao hơn so với mức vốn theo quy định hiện hành của Basel II. Các đòn bẩy
mới và tỷ lệ tính thanh khoản đưa ra nhằm bổ sung các yêu cầu về vốn tối thiểu dựa
trên rủi ro và các biệ pháp để đảm bảo đủ kinh phí được duy trì trong trường hợp xảy
ra khủng hoảng.
Đề tài tiến hành nghiên cứu các chuẩn mực và quy định trong hiệp ước Basel để làm
cơ sở ứng dụng Basel trong quản trị rủi ro của hệ thống Ngân hàng thương mại Việt
Nam. Cùng với các phiên bản Basel I - Basel II và Basel III, đề tài chỉ tóm tắt một số
nội dung có liên quan trực tiếp đến khả năng ứng dụng tại Việt Nam bao gồm một số


chuẩn mực quy định về cách xác định hệ số rủi ro và tính toán nhu cầu vốn tối thiểu
nhằm giúp Ngân hàng đối phó với rủi ro tín dụng, rủi ro hoạt động và rủi ro thị
trường.
Sau khi tìm hiểu và giới thiệu ngắn gọn về hiệp ước Basel, đề tài tập trung thực hiện
việc đánh giá quy mô, hiệu quả hoạt động của hệ thống Ngân hàng thương mại Việt
Nam trong thời gian qua, những vấn đề cần lưu ý trong công tác quản trị rủi ro của các
Ngân hàng, từ đó phân tích những khó khăn mà hệ thống NHTM Việt Nam đã - đang
và có thể sẽ gặp phải khi ứng dụng Basel.



- 3 -
I. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH
Uỷ ban Basel về giám sát ngân hàng (Basel Committee on Banking supervision
- BCBS) được thành lập vào năm 1974 bởi một nhóm các Ngân hàng Trung ương và
cơ quan giám sát của 10 nước phát triển (G10) tại thành phố Basel, Thụy Sỹ nhằm tìm
cách ngăn chặn sự sụp đổ hàng loạt của các ngân hàng vào thập kỷ 80. Hiện nay, các
thành viên của Ủy ban gồm đại diện ngân hàng trung ương hay cơ quan giám sát hoạt
động ngân hàng của các nước: Anh, Bỉ, Canada, Đức, Hà Lan, Hoa Kỳ, Luxembourg,
Nhật, Pháp, Tây Ban Nha,Thụy Điển, Thụy Sỹ và Ý. Ủy ban được nhóm họp 4 lần
trong một năm.
Hội đồng thư ký của Ủy ban Basel được đề xuất bởi Ngân hàng Thanh toán
Quốc tế ở Basel, gồm 15 thành viên là những nhà giám sát hoạt động ngân hàng
chuyên nghiệp được biệt phái tạm thời từ các tổ chức tín dụng tài chính thành viên.
Ủy ban Basel và các tiểu ban sẵn sàng đưa ra những lời tư vấn cho các cơ quan giám
sát hoạt động ngân hàng ở tất cả các nước.
Ủy ban Basel không có bất kỳ một cơ quan giám sát nào và những kết luận của
Uỷ ban này không có tính pháp lý và yêu cầu tuân thủ đối với việc giám sát hoạt động
ngân hàng. Thay vào đó, Ủy ban Basel chỉ xây dựng và công bố những tiêu chuẩn và
những hướng dẫn giám sát rộng rãi, đồng thời giới thiệu các báo cáo thực tiễn tốt nhất

trong kỳ vọng rằng các tổ chức riêng lẻ sẽ áp dụng rộng rãi thông qua những sắp xếp
chi tiết phù hợp nhất cho hệ thống quốc gia của chính họ. Theo cách này, Ủy ban
khuyến khích việc áp dụng cách tiếp cận và các tiêu chuẩn chung mà không cố gắng
can thiệp vào các kỹ thuật giám sát của các nước thành viên.
Ủy ban báo cáo thống đốc ngân hàng trung ương hay cơ quan giám sát hoạt
động ngân hàng của nhóm G10. Từ đó tìm kiếm sự hậu thuẫn cho những sáng kiến
của Ủy ban. Những tiêu chuẩn bao quát một dải rất rộng các vấn đề tài chính. Một
mục tiêu quan trọng trong công việc của Ủy ban là thu hẹp khoảng cách giám sát quốc
tế trên hai nguyên lý cơ bản là: (1) không ngân hàng nước ngoài nào được thành lập
mà thoát khỏi sự giám sát; và (2) việc giám sát phải tương xứng. Để đạt được mục tiêu

- 4 -
đề ra, từ năm 1975 đến nay, Ủy ban Basel đã ban hành rất nhiều văn bản, tài liệu liên
quan đến vấn đề này.
Vào năm 1988, Ủy ban đã quyết định giới thiệu hệ thống đo lường vốn mà nó
được đề cập như là Hiệp ước vốn Basel (the Basel Capital Accord) hay Basel I. Hệ
thống này cung cấp khung đo lường rủi ro tín dụng với tiêu chuẩn vốn tối thiểu 8%.
Basel I không chỉ được phổ biến trong các quốc gia thành viên mà còn được phổ biến
ở hầu hết các nước khác có các ngân hàng hoạt động quốc tế. Đến năm 1996, Basel I
được sửa đổi với rất nhiều điểm mới. Để khắc phục những hạn chế của Basel I, tháng
6/1999, Uỷ ban Basel đã đề xuất khung đo lường mới với 3 trụ cột chính: (i) yêu cầu
vốn tối thiểu trên cơ sở kế thừa Basel I; (ii) sự xem xét giám sát của quá trình đánh giá
nội bộ và sự đủ vốn của các tổ chức tài chính; (iii) sử dụng hiệu quả của việc công bố
thông tin nhằm làm lành mạnh kỷ luật thị trường như là một sự bổ sung cho các nỗ lực
giám sát. Đến ngày 26/6/2004, bản Hiệp ước quốc tế về vốn Basel mới (Basel II) đã
chính thức được ban hành.
Lịch sử vắn tắt của Hiệp ước vốn Basel:
(1) Năm 1988, Hiệp ước vốn Basel đầu tiên (Basel I) ra đời và có hiệu lực từ
1992.
(2) Năm 1996, Basel I được bổ sung thêm rủi ro thị trường (được thực thi chậm

nhất vào ngày 1/1/1998).
(3) Tháng 6/1999, đề xuất một khung Hiệp ước vốn mới với chương trình tư
vấn lần thứ nhất (First Consultative Package - CP1).
(4) Tháng 1/2001, chương trình tư vấn lần thứ hai (CP2).
(5) Tháng 4/2003, chương trình tư vấn lần thứ ba (CP3).
(6) Quý 4/2003, phiên bản mới của Hiệp ước vốn (Basel II) được hoàn thiện.
(7) Tháng 1/2007, Basel II có hiệu lực.
(8) Năm 2010, chấm dứt quá trình chuyển đổi. Sau khi Basel II không thể ngăn
chặn được cuộc khủng hoảng toàn cầu , Basel III ra đời.

- 5 -
II. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA BASEL
1. Hiệp ước Basel I (The Basel Capital Accord)
1.1 Mục tiêu của Basel I: Củng cố sự ổn định của toàn bộ hệ thống ngân hàng quốc
tế. Thiết lập một hệ thống ngân hàng quốc tế thống nhất, bình đẳng nhằm giảm cạnh
tranh không lành mạnh giữa các ngân hàng quốc tế.
1.2 Tiêu chuẩn của Basel I:
a) Tỉ lệ vốn dựa trên rủi ro - “Tỉ lệ Cook”
Tỉ lệ này được phát triển bởi BCBS với mục đích củng cố hệ thống ngân hàng
quốc tế, đối tượng ban đầu là những ngân hàng hoạt động quốc tế, nhưng sau này đã
được thực thi trên hơn 100 quốc gia. Theo tiêu chuẩn này, ngân hàng phải giữ lại
lượng vốn bằng ít nhất 8% của rổ tài sản, được tính toán theo nhiều phương pháp khác
nhau và phụ thuộc vào độ rủi ro của chúng.
Tỉ lệ thoả đáng về vốn (CAR) = Vốn bắt buộc/Tài sản tính theo độ rủi ro gia
quyền (RWA)
Theo đó, quy định 5 định mức về vốn như sau:
CAR < 2% CAR < 6% CAR < 8% CAR > 8% CAR > 10%
Thi
ếu vốn trầm
trọng

Thiếu vốn rõ rệt

Thiếu vốn M
ức vốn thích
hợp
Mức vốn tốt
b) Vốn cấp 1, cấp 2 và cấp 3
Thành tựu cơ bản của Basel I là đã đưa ra được định nghĩa mang tính quốc tế
chung nhất về vốn của ngân hàng và một cái gọi là tỷ lệ vốn an toàn của ngân hàng.
Tiêu chuẩn này quy định: Vốn cấp 1 ≥ Vốn cấp 2 + Vốn cấp 3
 Cấp 1: Vốn nòng cốt là lượng vốn dự trữ sẵn có và các nguồn dự phòng được
công bố, như là khoản dự phòng cho các khoản vay, bao gồm:
- Vốn chủ sở hữu vĩnh viễn

- 6 -
- Dự trữ công bố (Lợi nhuận giữ lại)
- Lợi ích thiểu số (minority interest) tại các công ty con, có hợp nhất báo cáo
tài chính
- Lợi thế kinh doanh (goodwill)
 Cấp 2: Vốn bổ sung
- Lợi nhuận giữ lại không công bố
- Dự phòng đánh giá lại tài sản
- Dự phòng chung/dự phòng thất thu nợ chung
- Công cụ vốn hỗn hợp
- Vay với thời hạn ưu đãi
- Đầu tư vào các công ty con tài chính và các tổ chức tài chính khác
 Cấp 3 (Dành cho rủi ro thị trường) = Vay ngắn hạn
Vốn tính theo rủi ro gia quyền
RWA = Tổng (Tài sản x Mức rủi ro phân định cho từng tài sản trong bảng cân
đối kế toán) + Tổng (Nợ tương đương x Mức rủi ro ngoại bảng)

Basel I đưa ra trọng số rủi ro gồm 4 mức:
- Quốc gia 0%;
- Ngân hàng 20%;
- Doanh nghiệp 100%. Trọng số rủi ro không phản ánh độ nhạy cảm rủi ro
trong mỗi loại này.
1.3 Những thiếu sót của Basel I:
Sau khi rủi ro tín dụng được thiết lập vào năm 1988, Uỷ ban Basel đã chuyển
sự chú ý của họ sang rủi ro thị trường để phản ứng lại các hoạt động kinh doanh
chuyên hữu ngày càng tăng của các ngân hàng thương mại và đến năm 1996, Basel I
đã được sửa đổi với mục đích tính đến cả phí vốn đối với rủi ro thị trường.

- 7 -
Một trong những điểm hạn chế cơ bản của Basel I là không đề cập đến một loại
rủi ro đang ngày càng trở nên phức tạp với mức độ ngày càng tăng lên, đó là rủi ro vận
hành (không có yêu cầu vốn dự phòng rủi ro vận hành). Ngoài ra, còn một số điểm
hạn chế khác, như: không phân biệt theo loại rủi ro, không có lợi ích từ việc đa dạng
hóa…
2. Hiệp ước Basel II (The New Capital Accord)
Ở trên ta đã thấy đươc dù Basel I đã hình thành những tiêu chuẩn nhất định
mang tính chuẩn mực cho các ngân hàng những nó vẫn còn tồn tại khá nhiều điểm hạn
chế.
Chính vì vậy, từ năm 1999, Uỷ ban Basel đã nỗ lực đưa ra một Hiệp ước mới
thay thế cho Basel I, và cho đến năm 2004, bản Hiệp ước quốc tế về vốn của Basel
(Basel II) đã chính thức được ban hành.
2.1 Mục tiêu của Basel II:
Nâng cao chất lượng và sự ổn định của hệ thống ngân hàng quốc tế; Tạo lập và
duy trì một sân chơi bình đẳng cho các ngân hàng hoạt động trên bình diện quốc tế;
Đẩy mạnh việc chấp nhận các thông lệ nghiêm ngặt hơn trong lĩnh vực quản lý rủi ro.
Hai mục tiêu đầu của Basel II là những mục tiêu chủ chốt của Hiệp ước vốn
Basel I. Mục tiêu cuối cùng là mới, đó là dấu hiệu của việc bắt đầu chuyển dần từ cơ

chế điều tiết dựa trên tỷ lệ, mà đó chỉ là một phần của khung mới, hướng đến một sự
điều tiết mà sẽ dựa nhiều hơn vào các số liệu nội bộ, thông lệ và các mô hình.
2.2 Cách tiếp cận mới dựa trên 3 cột trụ chính
Trụ cột thứ I: liên quan tới việc duy trì vốn bắt buộc. Theo đó tỷ lệ vốn bắt
buộc tối thiểu (CAR) vẫn là 8% của tổng tài sản có rủi ro như Basel I. Tuy nhiên, rủi
ro được tính toán theo ba yếu tố chính mà ngân hàng phải đối mặt: rủi ro tín dụng, rủi
ro vận hành (hay rủi ro hoạt động) và rủi ro thị trường. So với Basel I, cách tính chi
phí vốn đối với rủi ro tín dụng có sự sửa đổi lớn, đối với rủi ro thị trường có sự thay
đổi nhỏ, nhưng hoàn toàn là phiên bản mới đối với rủi ro vận hành. Trọng số rủi ro

- 8 -
của Basel II bao gồm nhiều mức (từ 0%-150% hoặc hơn) và rất nhạy cảm với xếp
hạng.
Trụ cột thứ II: liên quan tới việc hoạch định chính sách ngân hàng, Basel II
cung cấp cho các nhà hoạch định chính sách những “công cụ” tốt hơn so với Basel I.
Trụ cột này cũng cung cấp một khung giải pháp cho các rủi ro mà ngân hàng đối mặt,
như rủi ro hệ thống, rủi ro chiến lược, rủi ro danh tiếng, rủi ro thanh khoản và rủi ro
pháp lý, mà hiệp ước tổng hợp lại dưới cái tên các rủi ro tồn tại khác (residual risk).
Basel II nhấn mạnh 4 nguyên tắc của công tác rà soát giám sát: Thứ nhất, các
ngân hàng cần phải có một quy trình đánh giá được mức độ đầy đủ vốn nội bộ theo
danh mục rủi ro và phải có được một chiến lược đúng đắn nhằm duy trì mức vốn đó.
Thứ hai, các giám sát viên nên rà soát và đánh giá việc xác định mức độ vốn nội bộ và
chiến lược của ngân hàng, cũng như khả năng giám sát và đảm bảo tuân thủ tỉ lệ vốn
tối thiểu; giám sát viên nên thực hiện một số hành động giám sát phù hợp nếu họ
không hài lòng với kết quả của quy trình này. Thứ ba, Giám sát viên khuyến nghị các
ngân hàng duy trì mức vốn cao hơn mức tối thiểu theo quy định. Thứ tư, giám sát viên
nên can thiệp ở giai đoạn đầu để đảm bảo mức vốn của ngân hàng không giảm dưới
mức tối thiểu theo quy định và có thể yêu cầu sửa đổi ngay lập tức nếu mức vốn
không được duy trì trên mức tối thiểu.
Trụ cột thứ III: Các ngân hàng cần phải công khai thông tin một cách thích

đáng theo nguyên tắc thị trường.
Basel II đưa ra một danh sách các yêu cầu buộc các ngân hàng phải công khai
thông tin, từ những thông tin về cơ cấu vốn, mức độ đầy đủ vốn đến những thông tin
liên quan đến mức độ nhạy cảm của ngân hàng với rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường,
rủi ro vận hành và quy trình đánh giá của ngân hàng đối với từng loại rủi ro này nhằm
cho phép các đối tác của ngân hàng định giá và giao dịch ở mức độ hợp lý Như vậy,
quá trình phát triển của Basel và những Hiệp ước mà tổ chức này đưa ra, các ngân
hàng thương mại càng ngày càng được yêu cầu hoạt động một cách minh bạch hơn,

- 9 -
đảm bảo vốn phòng ngừa cho nhiều loại rủi ro hơn và do vậy, hy vọng sẽ giảm thiểu
được rủi ro.
2.3 Ưu điểm của Basel II so với Basel I:
- Về cấu trúc và nội dung: Basel I tập trung vào một giải pháp quản lý rủi ro
duy nhất là “yêu cầu vốn tối thiểu”. Trong khi, Basel II tập trung nhiều hơn vào các
phương pháp nội bộ của chính ngân hàng, đánh giá hoạt động thanh tra, giám sát và
kỷ luật trên nguyên tắc thị trường. Do đó, quyền lực của các nhà quản lý quốc gia
được tăng lên bởi họ cần phải đánh giá sự đủ vốn của ngân hàng có tính đến đặc điểm
rủi ro cụ thể của nó.
- Về tính linh động của ứng dụng: Basel I quy định chung một chọn lựa cho tất
cả các ngân hàng. Basel II linh hoạt hơn với một danh sách các phương pháp, các biện
pháp khuyến khích để các nhà quản lý quốc gia và các ngân hàng chọn lựa.
- Về tính nhạy cảm với rủi ro: Basel I đo đạc rủi ro quá sơ bộ. Basel II nhạy
cảm hơn với rủi ro thông qua độ nhạy cảm của yêu cầu vốn đối với mức độ rủi ro tăng
lên và sự công khai bắt buộc một cách chi tiết về độ nhạy cảm rủi ro và chính sách rủi
ro.
- Về trọng số rủi ro: Basel I quy định từ 0 - 100 và ưu đãi hơn với các nước
thuộc Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD- Organisation for Economic Co-
operation and Development). Basel II quy định từ 0 - 150 hoặc hơn và không có đặc
quyền nào, bao gồm cả phân cấp bên trong và bên ngoài.

- Về kỹ thuật giảm rủi ro tín dụng: Basel I chỉ hỗ trợ và đảm bảo. Basel II thừa
nhận về kỹ thuật giảm thiểu rủi ro tốt hơn, đưa ra nhiều kỹ thuật hơn như hỗ trợ, đảm
bảo, phái sinh tín dụng, lập mạng lưới vị thế (position netting).
2.4 Hạn chế của Basel II:
Mặc dù được coi như một cơ chế quan trọng để đẩy mạnh cải cách và củng cố
toàn bộ công tác điều hành trong lĩnh vực tài chính, nhưng cuộc khủng hoảng tài chính
hiện tại đã cho thấy những thiếu sót, bất cập của Basel II. Đó là:

- 10 -
- Việc áp dụng các phương pháp quản trị rủi ro tiên tiến chưa có các tiêu chuẩn
có thể được chấp nhận rộng rãi.
- Các phương pháp giám sát, đánh giá rủi ro chưa tính đến các hoạt động của
chu kỳ kinh doanh.
- Các cơ quan quản lý chưa theo kịp tốc độ phát triển mạnh mẽ những sản
phẩm dịch vụ có khoa học công nghệ cũng như mức độ rủi ro cao
3. Hiệp ước Basel III
Cuộc khủng hoảng tài chính và kinh tế toàn cầu năm 2008 cho thấy thiếu sót
trong các quy định về tài chính trong hoạt động Ngân hàng. Nếu Basel II chủ yếu tập
trung khía cạnh ”tài sản” thì Basel III phần lớn tập trung vào khía cạnh ”nợ”của các
Ngân hàng. Trong đó, Basel III yêu cầu tăng cường về vốn của Ngân hàng, giới thiệu
các yêu cầu mới quy định về tính thanh khoản ngân hàng và đòn bẩy ngân hàng. Mục
tiêu chính của quy định mới nhằm cải thiện khả năng chịu đựng của ngành ngân hàng
khi đối mặt cú sốc bắt nguồn từ những căng thẳng tài chính và kinh tế, làm giảm nguy
cơ khủng hoảng lan truyền của khu vực tài chính cho nền kinh tế.
3.1 Mục tiêu của Basel III: Hạn chế rủi ro, phòng ngừa, ngăn chặn khủng hoảng tái
phát và ràng buộc các ngân hàng vào trách nhiệm.
3.2 Nội dung chính: Như vậy, nếu triển khai áp dụng basel III, các NHTM sẽ cần
thay đổi trên 4 nội dung chính như sau:
Thứ nhất, nâng cao chất lượng vốn. Trước hết, Basel 3 sẽ giúp nâng cao chất
lượng vốn của các ngân hàng một cách đáng kể. Đây là đặc điểm chính của Basel 3.

Chất lượng vốn tốt hơn đồng nghĩa với việc bù đắp các khoản lỗ tốt hơn, điều này
giúp cho ngân hàng “khỏe” hơn, do đó có khả năng chống đỡ tốt hơn trong thời kì khó
khăn.
Theo quy định hiện tại, những tài sản có chất lượng kém sẽ phải khấu trừ vào
vốn (vốn cấp 1 + vốn cấp 2). Còn theo Basel 3, việc khấu trừ sẽ nghiêm ngặt hơn,
khấu trừ thẳng vào vốn cổ phần thông thường. Hơn nữa, định nghĩa vốn cấp 1 cũng

- 11 -
quy định chặt chẽ hơn bao gồm vốn thường và các công cụ tài chính có chất lượng
theo những tiêu chuẩn chặt chẽ.
Thứ hai, yêu cầu các ngân hàng bổ sung thêm vốn. Theo quan điểm của Basel,
chất lượng vốn tốt hơn vẫn chưa đủ. Rút kinh nghiệm từ bài học của cuộc khủng
hoảng tài chính, Ủy ban Basel cho rằng khu vực ngân hàng cần nhiều vốn hơn nữa.
Do đó, những tiêu chuẩn về hạn mức tối thiểu về vốn của các ngân hàng sẽ tăng mạnh
trong những năm tới. Theo quy định này, các ngân hàng phải duy trì mức vốn phù hợp
trên mức vốn tối thiểu tùy vào mức độ rủi ro, mô hình kinh doanh, điều kiện kinh tế.
Theo Basel 3, tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu vẫn là 8% nhưng tỷ lệ của loại vốn có
chất lượng cao được nâng lên, cụ thể: tỷ lệ vốn cấp 1 tăng từ 4% trong Basel II lên 6%
trong Basel 3, đồng thời tỷ lệ vốn của cổ đông thường (common equity) cũng được
tăng từ 2% lên 4,5%.
Basel 3 yêu cầu áp dụng bổ sung tỷ lệ đòn bẩy tối thiểu thử nghiệm ở mức 3%.
Đây là tỷ lệ của vốn cấp 1 so với tổng tài sản hiện có cộng với các khoản mục ngoại
bảng. Việc áp dụng thử nghiệm tỷ lệ này cho phép Ủy ban Basel theo dõi biến động tỷ
lệ đòn bẩy thực của các ngân hàng theo chu kỳ kinh tế và mối quan hệ giữa các yêu
cầu về vốn với tỷ lệ đòn bẩy.
Thứ ba, giới thiệu phương pháp giám sát an toàn vĩ mô hệ thống để các ngân
hàng áp dụng. Theo BIS, có hai việc cần làm để hạn chế rủi ro hệ thống hiệu quả: (1)
giảm mức độ khuyếch đại của khủng hoảng theo chu kỳ kinh tế. Xu hướng hệ thống
tài chính này có thể làm khuyếch đại giai đoạn thăng trầm của nền kinh tế thực; (2)
mối quan hệ phụ thuộc và những rủi ro chung của các tổ chức tài chính, đặc biệt đối

với những ngân hàng có vai trò quan trọng trong hệ thống. Như vậy, Basel 3 là một
bước ngoặt trong việc xây dựng các quy định tài chính và là lần đầu tiên đề cập tới các
thước đo giám sát an toàn vĩ mô được sử dụng để bổ sung cho phương pháp giám sát
an toàn vi mô của từng tổ chức tín dụng. Ủy ban Basel đang nghiên cứu các thước đo
đối với những tổ chức có tầm quan trọng đối với hệ thống.

- 12 -
Thứ tư, quy định về tiêu chuẩn thanh khoản đối với các ngân hàng. Basel 3 đưa
ra tiêu chuẩn về thanh khoản. Đây là điều đặc biệt quan trọng chưa có tiêu chuẩn quốc
tế nào quy định về vấn đề này. Tỷ lệ thanh khoản sẽ được ban hành vào 1/1/2015,
giúp ngân hàng có khả năng chống đỡ ngắn hạn tốt hơn với những căng thẳng thanh
khoản. Quy định này yêu cầu ngân hàng nắm giữ các tài sản có tính thanh khoản cao
và có chất lượng cao để đáp ứng nhu cầu chi trả trong những trường hợp khó khăn.
Ngoài ra, Basel III còn đưa ra các biện pháp giám sát chặt chẽ các ngân hàng
và nhằm ngăn chặn việc lạm dụng chia thưởng, hoặc chia cổ tức cao trong bối cảnh
tình trạng tài chính và tỷ lệ an toàn vốn không đảm bảo. Basel III cũng đồng thời rà
soát lại các tiêu chuẩn về định nghĩa vốn cấp 1, vốn cấp 2 và sẽ loại bỏ các khoản vốn
không đủ tiêu chuẩn khi giám sát chỉ tiêu an toàn vốn tối thiểu.
Như vậy, có thể thấy rằng, loại trừ khoản vốn đệm phòng ngừa rủi ro tài chính
2,5%, tiêu chuẩn an toàn vốn tối thiểu không thay đổi (vẫn là 8%). Tuy nhiên, kết cấu
của các loại vốn đã có sự thay đổi đáng kể theo hướng tăng tỷ trọng vốn cấp 1, đồng
thời tăng tỷ trọng vốn chủ sở hữu phổ thông trong vốn cấp 1. Nếu tính đầy đủ cả 2
khoản vốn đệm dự phòng suy giảm tài chính và dự phòng chống hiệu ứng chu kỳ kinh
tế thì tỷ lệ vốn chủ sở hữu được điều chỉnh tăng từ 2% (Basel II) tăng lên thành 9,5%
(4,5% + 2,5% + 2,5%) ở Basel III. Nếu loại trừ phần vốn đệm chống chu kỳ kinh tế
2,5% (không bắt buộc trong điều kiện bình thường) thì mức tối thiểu vốn chủ cũng
phải đạt mức 7%. Bên cạnh đó, có thể một số khoản trước đây được tính vào vốn chủ
sở hữu nay phải bóc tách ra vì không đủ điều kiện coi là vốn chủ sở hữu. Chẳng hạn,
khoản vốn vượt quá giới hạn 15% đầu tư vào các tổ chức tài chính khác, khoản vốn có
nguồn gốc từ số thuế thu nhập lưu kỳ (hoãn lại) Vì thế, yêu cầu nâng cao tỷ lệ vốn

chủ sở hữu là bài toán không đơn giản đối với nhiều ngân hàng xét trong bối cảnh
kinh tế xã hội đang có nhiều biến động.
Các tiêu chuẩn của Basel III không có hiệu lực ngay lập tức: Chúng bắt đầu có
hiệu lực từ năm 2013, được thực hiện theo một lộ trình đến hết năm 2018 và sẽ thực

- 13 -
hiện đầy đủ vào ngày 01/01/2019. Bảng sau sẽ cho thấy lộ trình cụ thể của việc thực
thi hiệp ước Basel III
Chỉ tiêu 2013 2014 2015 2016 2017 2018 2019
Tỷ lệ vốn chủ sở hữu tối
thiểu
3,5% 4.0% 4,5% 4,5% 4,5% 4,5% 4,5%
Vốn đệm dự phòng

0,625
%
1.25
%
1,875
%
2,5%
Vốn chủ sở hữu tối thiểu
cộng vốn đệm dự phòng
3,5% 4% 4,5%
5,125
%
5,76
%
6,375
%

7%
Loại trừ khỏi vốn chủ sở
hữu các khoản vốn không đủ
tiêu chuẩn
20% 40% 60% 80% 100% 100%
Tỷ lệ vốn cấp 1 tối thiểu 4,5% 5,5% 6,0% 6,0% 6,0% 6,0% 6,0%
Tỷ lệ tổng vốn tối thiểu 8% 8% 8% 8% 8% 8% 8%
Tổng vốn tối thiểu cộng vốn
đệm dự phòng bắt buộc
8% 8% 8% 8,625 9,125 9,875 10,5
Loại trừ khỏi vốn cấp 1 và
cấp 2 các khoản không đủ
tiêu chuẩn
Thực hiện theo lộ trình 10 năm bắt đầu từ năm 2013
Vốn dự phòng chống hiệu
ứng chu kỳ
Tuỳ theo điều kiện của quốc gia: mức từ 0% - 2,5%
(Nguồn:
3.3 Những ưu, khuyết điểm của Basel III
Ưu điểm:

- 14 -
- Buộc các ngân hàng phải tăng mức vốn dự trữ, đặc biệt là vốn các cổ đông
hoặc của chủ sở hữu.
- Gia tăng tiêu chuẩn về hạn mức tối thiểu về vốn của các ngân hàng.
- Áp dụng bổ sung tỷ lệ đòn bẩy tối thiểu thử nghiệm ở mức 3%
Khuyết điểm:
- Cho phép Ngân hàng tự tính toán các yêu cầu về vốn dự phòng của họ, điều
này dẫn đến các “xung đột về lợi ích” – Stefan Best – Giám đốc điều hành tại
Standard & Poor’s. Ông Best cho rằng, các nhà điều tiết nên được trao quyền và có đủ

năng lực để đánh giá nhu cầu của mỗi ngân hàng mặc dù điều này không hề dễ dàng
do mô hình phức tạp của các ngân hàng. Do đó, ông Best cũng khuyến cáo nên đơn
giản hóa phương thức tính toán nhu cầu vốn của các định chế tài chính.
Ngoài ra, việc tính toán yêu cầu dự phòng vốn cần dựa vào sức mạnh kinh tế của riêng
từng quốc gia. Ví dụ, các khoản nợ ở Đức cần ít vốn dự phòng rủi ro hơn so với ở các
nước đang khủng hoảng tài chính.
- Các tiêu chuẩn của Basel III không mang tính trói buộc, chỉ là cơ sở để mỗi
nước soạn thảo những quy định riêng sao cho thống nhất với nguyên tắc chung. Điều
này dẫn đến sự khác biệt giữa các nước trong việc thực hiện các quy định Basel.
- Tiêu chuẩn đòn bẩy so sánh vốn với toàn bộ tài sản mà không tính đến rủi ro,
mục tiêu là giới hạn tỉ lệ vốn mà ngân hàng có thể vay so với cổ phần thường. Các
ngân hàng châu Âu đã phản đối tỉ lệ đòn bẩy với lập luận là chế độ kế toán bảng cân
đối ngân hàng Mỹ hẹp hơn so với các đối tác quốc tế nên việc hạn chế đòn bẩy có thể
dẫn đến sự đối xử không công bằng đối với các ngân hàng ngoài Mỹ.
- Dựa vào xếp hạng tín dụng quá nhiều. Xếp hạng tín dụng chỉ nên được sử
dụng như một trong những công cụ quản lý rủi ro.
- Các ngân hàng vẫn tin tưởng sử dụng mô hình nội bộ của họ để quản lý rủi ro,
dẫn đến mắc phải nhiều sai sót đáng kể trong nhiều tình huống.

- 15 -
- Trọng số rủi ro vẫn cho phép các ngân hàng tạo ra đòn bẩy hiệu quả rất cao.
Các ngân hàng cần nắm giữ các tài sản cầm cố để chống lại các tài sản có tỷ lệ rủi ro
cao. Đây là động cơ để tìm ra các tài sản có tỷ lệ rủi ro thấp và sau đó có thể tận dụng
được. Ví dụ: Nợ công được xếp hạng AA sẽ vẫn mang trọng số nợ là 0.
- Basel III quy định chung cho tất cả các nước. Tuy nhiên mỗi quốc gia lại có
các điều kiện kinh tế khác nhau, điều này gây khó khăn cho các thị trường mới nổi
trong việc áp dụng Basel III.




















- 16 -



III. NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI BASEL III
- Thứ nhất, việc áp dụng Basel III sẽ buộc các ngân hàng phải dành nhiều vốn
dự phòng hơn, do đó sẽ giảm bớt lượng vốn cho vay ra nền kinh tế điều này sẽ làm
giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế toàn cầu. Theo một nghiên cứu công bố ngày
17/02/2011 của Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) ước tính việc triển khai
quy chế Basel III trong trung hạn sẽ khiến GDP toàn cầu giảm từ 0,05 - 0,15% mỗi
năm. Điều này được lý giải do các ngân hàng đòi hỏi phải để dành nhiều vốn dự
phòng hơn, do đó sẽ giảm bớt lượng vốn cho vay ra nền kinh tế. Viện tài chính quốc tế
(IIF), một hiệp hội của các ngân hàng và các tổ chức tài chính, cũng chỉ trích Basel III
sẽ làm giảm GDP của Hoa Kỳ và Anh còn 3,2% trong năm 2015, đồng thời làm tăng

lãi suất cho vay khoảng 5 điểm phần trăm.
- Trong một nghiên cứu công bố vào tháng 09/2012, Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF)
cho rằng Basel III sẽ không làm giảm hoạt động cho vay hoặc gây tổn hại cho kinh tế
như lo ngại OECD. Nghiên cứu chỉ ra rằng lo ngại của các tổ chức tài chính về những
quy tắc vốn trong Basel III, cũng như sự gia tăng trong phí bảo hiểm tiền gửi và các
quy tắc minh bạch đã bị thổi phồng quá mức.
- Thứ hai, điều kiện kinh tế của các nước phát triển và đang phát triển hoàn
toàn khác nhau do đó việc áp dụng chung một quy chuẩn của Basel cho cả hai thì
không phù hợp và khó thực hiện. Các nước đang phát triển hệ thống cơ sở vật chất,
công nghệ và khả năng quản lý trong hoạt động ngân hàng còn kém xa so với các
nước phát triển. Trong khi đó Basel III được xây dựng dựa trên những quy chuẩn của
các ngân hàng thuôc nhóm G20. Đồng thời mục tiêu của hai nền kinh tế này lại có sự
khác biệt “Mục tiêu của các thị trường mới nổi là tăng trưởng để đáp ứng nhu cầu của
dân số đang tăng nhanh. Điều tiết chặt hơn có thể khiến các ngân hàng của họ vững

- 17 -
mạnh hơn nhưng lại có nguy cơ làm giảm sút tăng trưởng” - Michael Taylor, Cố vấn
Ngân hàng Trung ương Barain, nói.
- Thứ ba, Basel II, Basel III có là những biểu tượng chất lượng đảm bảo an toàn
không? Basel I được tạo ra những năm 90 của thế kỷ trước để đối phó với tác động
của sự sụp đổ TTCK. Sau đó là Basel II nhưng vẫn xảy ra cuộc khủng hoảng tài chính
năm 2008 và giờ đây là Basel III.
- Một số quan điểm cho rằng, các qui định Basel III quá yếu ớt và có thể dẫn
đến hậu quả nguy hiểm khôn lường, khi qui định này cho phép các ngân hàng duy trì
ít vốn hơn so với tài sản được cho là ít rủi ro hơn, như trái phiếu chính phủ chẳng hạn,
và khủng hoảng nợ châu Âu đã chỉ ra mối nguy hiểm tiềm tàng của cách tiếp cận này.
- Dù vậy, IMF cho rằng các quy chuẩn Basel III vẫn chưa đủ mạnh để đảm bảo
an toàn cho hệ thống ngân hàng. Trong khi đó, trưởng bộ phận Ngân hàng tư nhân
thuộc UniCredit cho rằng Basel III có lợi cho các ngân hàng tư vì các ngân hàng này
sẽ không phải hấp thụ nhiều vốn.

- Thứ tư, các nước có nhất thiết phải áp dụng Basel không? Điều này còn tùy thuộc
vào tình hình thực tế tại mỗi quốc gia. “Quan trọng là ngân hàng tốt nhất, chứ không
phải là ngân hàng tuân thủ tốt nhất", ông Philippe Carrel, Phó chủ tịch điều hành, quản
lý rủi ro của Thomson Reuters phát biểu tại hội thảo Rủi ro Việt Nam 2011
(RiskVietnam) được AsiaRisk tổ chức ngày 26/04 tại Hà Nội.








- 18 -



IV. LỘ TRÌNH VÀ THỰC TRẠNG ÁP DỤNG BASEL TẠI CÁC NHTM VIỆT
NAM
1. Lộ trình
Hiện nay, các ngân hàng thương mại Việt Nam mới ở giai đoạn đầu của việc
thực hiện Basel II trong khi thế giới đã phấn đấu thực hiện Basel III, do đó, các ngân
hàng Việt Nam sẽ phải tiếp cận chuẩn an toàn theo cách của riêng mình mà không
nhất thiết phải đi theo trình tự Basel I, II, III.
Văn bản đầu tiên có quy định về tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu là Quyết định
297/1999/QĐ-NHNN5 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) quy định về các
tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động của ngân hàng thương mại. Tại quy định này, tỷ
lệ an toàn vốn tối thiểu được xác định là 8% nhưng phương pháp tính đơn giản và
chưa phản ánh chính xác tinh thần Basel I. Đến năm 2005, NHNN đã ban hành Quyết
định 457/2005/QĐ-NHNN với tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu vẫn là 8% nhưng phương

pháp tính toán đã tiếp cận tương đối toàn diện Base I. Năm 2010, NHNN ban hành
Thông tư số 13/TT-NHNN thay thế Quyết định 457/2005/QĐ-NHNN, nâng tỷ lệ an
toàn vốn tối thiểu lên 9% và phương pháp tính toán đã từng bước tiếp cận Basel II,
chính thức có hiệu lực từ 01/10/2010.
Cũng theo Thông tư 13, các khoản để tính vốn cấp 1 bao gồm vốn điều lệ, quỹ
dự trữ bổ sung vốn điều lệ, quỹ đầu tư phát triển nghiệp vụ, lợi nhuận không chia,
thặng dư cổ phần được tính vào vốn theo quy định của pháp uật trừ đi phần dùng để
mua cổ phiếu quỹ (nếu có).Trong khi các khoản để tính vốn cấp 2 được xác định là
50% số dư có tài khoản đánh giá lại tài sản cố định theo quy định của pháp luật, 40%
số dư có tài khoản đánh giá lại tài sản tài chính theo quy định của pháp uật, quỹ dự
phòng tài chính, trái phiếu chuyển đổi do tổ chức tín dụng phát hành thỏa mãn các

- 19 -
điều kiện đưa ra (như kỳ hạn ban đầu tối thiểu là 5 năm…), các công cụ nợ thỏa mãn
các điều kiện đưa ra (như có kỳ hạn ban đầu tối thiểu trên 10 năm…).
Basel III với những quy định mới về khái niệm và các tiêu chuẩn tối thiểu cao
hơn cùng với phương pháp giám sát an toàn vĩ mô và sự thay đổi lịch sử trong quy
định về hoạt động ngân hàng. Ủy ban Basel cùng các nhà lãnh đạo của các nước G20
đã thống nhất rằng cuộc cải tổ này sẽ được triển khai sao cho không ảnh hưởng tới
tốc độ phục hồi kinh tế của các nước. Ngoài ra, sẽ cần có thời gian để đưa những tiêu
chuẩn quốc tế mới vào những quy định riêng của các quốc gia. Theo tinh thần như
vậy, BIS đã đưa ra một lộ trình để thực hiện bất đầu từ tháng 1/2013 và hoàn thành
vào cuối năm 2018, với lộ trình cụ thể như sau:
- Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu là 8% vẫn được giữ nguyên.
-Tỷ lệ an toàn vốn cấp 1 tối thiểu được bắt đầu áp dụng vào 01/01/2015 với
mức 4,5%, và phải đạt được mức 6% trước 01/01/2019.
- Tỷ lệ an toàn vốn cổ phần thường tối thiểu cũng được bắt đầu áp dụng từ
01/01/2015 với mức 3,5%, và phải đạt được mức 4,5% trước 01/01/2019.
- Tỷ lệ dự phòng bảo toàn vốn được bắt đầu tính từ 01/01/2016 với mức
0,625%, và hoàn thành mức 2,5% trước 01/01/2019.

- Lộ trình loại bỏ các khoản giảm trừ khỏi vốn cấp 1 được áp dụng từ
01/01/2014 với mức 20%, và đến trước 01/01/2019 sẽ loại bỏ được 100%.
2. Thực trạng áp dụng Basel trong hệ thống Ngân hàng Việt Nam
Hiện nay, khi các ngân hàng trên thế giới đã đề cập tới việc áp dụng chuẩn mực
Basel III thì các ngân hàng ở Việt Nam vẫn chưa chính thức đề cập tới việc áp dụng
một chuẩn mực nào của Basel. Mặc dù các quy định trong những năm gần đây của
Ngân hàng Nhà nước như Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN và Quyết định
457/2005/QĐ-NHNN, Thông tư số 13, 19 năm 2010 cũng đã đề cập tới một số vấn đề
liên quan tới các điều khoản trong hiệp định Basel nhưng vẫn ở mức rất hạn chế. Việc
các ngân hàng thương mại tại Việt Nam chưa áp dụng các chuẩn mực của Basel một

- 20 -
cách chính thức nhằm nâng cao chất lượng quản lý rủi ro trong khi các ngân hàng trên
thế giới đã có những bước phát triển cao hơn sẽ làm giảm khả năng cạnh tranh của các
ngân hàng thương mạiViệt Nam.
Việc tiếp cận với các chuẩn mực của Basel, đặc biệt là Basel II đòi hỏi kỹ thuật
phức tạp và chi phí khá cao. Đối với một nước có hệ thống ngân hàng mới đang ở giai
đoạn phát triển ban đầu như Việt Nam, việc áp dụng Basel II gặp nhiều khó khăn,
thách thức và mất nhiều thời gian. Tuy nhiên, trước xu thế hội nhập và mở cửa thị
trường dịch vụ tài chính – ngân hàng với nhiều loại hình dịch vụ ngân hàng mới, việc
từng bước áp dụng các chuẩn mực Basel tại Việt Nam là yêu cầu cấp thiết nhằm tăng
cường năng lực hoạt động, giảm thiểu rủi ro đối với các ngân hàng thương mại và
nâng cao năng lực cạnh tranh trong thị trường tài chính quốc tế, tạo điều kiện cho các
ngân hàng Việt Nam có thể mở rộng thị trường trong thời gian tới.
2.1 Quy định an toàn vốn tối thiểu:
Quy mô vốn tự có là một trong những tiêu chí quan trọng nhất để đánh giá mức
độ an toàn trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng theo thông lệ quốc tế. Tại Việt
Nam, sự tăng trưởng vốn của ngân hàng luôn nhận được sự quan tâm đặc biệt của các
nhà quản trị ngân hàng trong các mục tiêu, chiến lược, kế hoạch hành động. Các tổ
chức như Cơ quan thanh tra giám sát Ngân hàng, Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia

cũng như Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam luôn đưa ra nhiều cơ chế, chính sách đánh giá
năng lực tài chính của ngân hàng, trong đó nhấn mạnh việc tăng vốn tự có để đảm bảo
an toàn hệ thống tài chính.
Nhóm ngân hàng

Năm 2012 Quý 1/2013 Quý 2/1013
Toàn hệ thống 135,919 415,260 438,274
NHTM NN 171,797 135,919 153,139
NHTM CP 94,953 171,797 176,400

- 21 -
NHNNg & LD 415,260 94,953 96,488
Quy mô Vốn tự có (tỷ đồng), nguồn www.gov.gov.vn
Đối với tỷ lệ an toàn tối thiểu, tại Việt Nam quy định đầu tiên là Quyết định
297/1999/QĐ-NHNN quy định về các tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động của
NHTM. Tại quy định, tỷ lệ an toàn tối thiểu được xác định là 8% nhưng phương pháp
tính đơn giản chưa phản ánh được tinh thần của Basel I. Thời điểm này khó có NHTM
nào có thể đảm bảo tỷ lệ an toàn. Năm 2000 với thực trạng nợ xấu quá cao, Chính phủ
đã cấp 12.000 tỷ đồng dưới dạng trái phiếu thời hạn 20 năm để tăng vốn tự có cho 4
Ngân hàng nhà nước đưa tổng vốn tự có của khối NHTMNN lên mức hơn 18.000 tỷ
đồng chiếm 51% vốn tự có của toàn hệ thống ngân hàng. Do đó sự an toàn trong hoạt
động của nhóm NHTMNH quyết định sự an toàn hoạt động của toàn hệ thống ngân
hàng Việt Nam. Trong khi các NHTMNN khó khăn trong việc đạt chuẩn an toàn vốn
tối thiểu thì các NHTMCP lại đảm bảo mức an toàn vốn tối thiểu.
Đến năm 2005 Quyết định 475/2005/QĐ-NHNN ban hành quy định tỷ lệ an
toàn vốn tối thiểu vẫn là 8% nhưng phương pháp tính đã tiếp cận tương đối với Basel
I. Trong giai đoạn này vốn tự có của các NHTM tăng nhanh nhờ sự thuận lợi của môi
trường kinh doanh nhất là sự bùng nổ của thị trường chứng khoán năm 2006 – 2008.
Đến cuối năm 2010, một số NHTM đã thực hiện tăng mức vốn pháp định theo quy
định để đảm bảo tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu. Do đó, tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu của toàn

hệ thống ngân hàng có tăng lên, nhưng vẫn chưa đảm bảo mức tăng theo tiêu chuẩn tỷ
lệ an toàn vốn tối thiểu. Vấn đề đáng lưu ý ở giai đoạn này là do tác động của chính
sách kích cầu cũng như việc thực hiện nới lỏng tiền tệ của NHNN nên tín dụng tại các
NHTM đã tăng đột biến. Ðiều này dẫn đến hệ lụy tổng tài sản rủi ro của các NHTM
tăng lên và kết quả là các NHTM trong nhóm trên đều có xu hướng sụt giảm tỷ lệ an
toàn vốn, trong đó, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam đã tụt xuống dưới mức an toàn
tối thiểu 8% trong năm 2009.

- 22 -
Năm 2010, NHNN ban hành thông tư 13/TT-NHNN thay thế quyết định
475/2005/QĐ-NHNN và nâng tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu lên 9% và phương pháp tiếp
cận từng bước Basel II. Giai đoạn thực hiện đảm bảo an toàn vốn tối thiểu theo Thông
tư số13/2010/TT-NHNN, bức tranh về đảm bảo an toàn vốn là khá phức tạp. Nếu nhìn
vào mức tính toán cho toàn hệ thống, hệ thống NHTM Việt Nam đã đảm bảo được hệ
số an toàn vốn tối thiểu 9%. Một số ít các NH chưa đáp ứng được bao gồm VBARD
(6,1%), MSB (8,1%), CTG (8,6%) và NVB (8,9%). Tuy nhiên, tình hình đảm bảo an
toàn vốn tối thiểu của các NHTM có xu hướng phân nhóm rõ rệt. Trong các
NHTMNN lớn, Agribank và Vietinbank vẫn không thể đạt được quy định về mức an
toàn vốn tối thiểu 9% trong năm 2010. Ðiều này là đáng lo ngại nếu xét trên phương
diện rủi ro hệ thống. Ðối với khối NHTMCP, các ngân hàng quy mô lớn đều có xu thế
đạt được yêu cầu mới của NHNN về tỷ lệ an toàn vốn. Trái lại, các NHTMCP nhỏ
thực sự gặp khó khăn trước yêu cầu tăng vốn tự có nhằm đảm bảo an toàn. Cụ thể đến
thời điểm 31/06/2011, tỷ lệ CAR của nhiều các NHTMCP như ACB, Sacombank,
Eximbank, Techcombank, Ðông Á, Quân đội… đã đạt trên 9% theo tinh thần của
Thông tư số 13/2010/TT-NHNN, chỉ số này cho toàn ngành vào khoảng 11,5% thấp
hơn so với mức CAR bình quân 13,1% của các ngân hàng khu vực châu Á – Thái
Bình Dương và thấp hơn mức CAR bình quân 12,3% của một số nước Đông Nam Á
(CAR của Thái Lan là 16%, CAR của Malaysia là 14,6%) Trong khi đó, đến tháng
11/2011, vẫn còn 5 NHTMCP vi phạm tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu. Nếu xem xét theo
tinh thần Nghị định 141/NÐ-CP ngày 22/11/2006 của Chính phủ thì tính đến thời

điểm hết tháng 6 năm 2011, vẫn còn 15 NHTMCP (chiếm tỷ trọng 36,59%) có vốn
điều lệ dưới 3.000 tỷ đồng, chủ yếu ở khoảng 2.000 tỷ đồng. Cho đến 31/12/2011,
CAR toàn ngành đạt 11,62%, cao hơn năm 2010 (11,00%). Tỷ lệ CAR của nhóm
NHTMNN có cải thiện, đạt 9,06% và chỉ còn Agribank là chưa đảm bảo được yêu cầu
theo quy định (chỉ đạt 7,9%). Ngoài ra, còn 3/37 NHTMCP không duy trì được tỷ lệ
CAR ≥ 9%.
Nhóm ngân Năm Năm Năm Tháng Tháng Tháng Tháng Tháng Tháng

- 23 -
hàng 2010 2011 2012 1/201
3
2/201
3
3/201
3
4/201
3
5/201
3
6/2013

Toàn hệ thống 11,56

11,62

13,75

13,63

13,55


13,37

13,41

14,25

13,65
NHTM NN 9,06 10,28

10,41

10,5 10,31

10,15

12,12

11,10
NHTM CP 12,99

14,01

13,19

13,03

12,86

13,83


12,99

12,8
NHNNg & LD

24,66

27,63

28,6 28,86

29,48

28,58

29,53

29,72
Tỷ lệ CAR (%) của các nhóm Ngân hàng qua các năm, nguồn từ Ngân hàng nhà nước
2.2 Phân loại nợ và trích lập rủi ro
 Việc phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong
hoạt động của các NHTM được thực hiện theo Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN và
được sửa đổi, bổ sung bằng Quyết định 18/2007/QĐ-NHNN của Thống đốc NHNN.
Về phân loại nợ: Theo 2 quyết định trên, các NHTM thực hiện 2 cách loại nợ:
Theo Điều 6 (phương pháp định lượng) và theo Điều 7 (phương pháp định tính)
đều phân thành 5 nhóm nợ. Nếu áp dụng theo Điều 7 thì việc phân loại nợ và trích lập
dự phòng rủi ro chỉ được thực hiện sau khi NHNN chấp thuận bằng văn bản. Tuy
nhiên, hiện mới chỉ có 4 ngân hàng áp dụng phân loại nợ mới theo Điều 7 của Quyết
định 493 là BIDV, Agribank, Vietcombank và Ngân hàng Quân đội.

 Về tỷ lệ trích lập dự phòng: Quy định các NHTM phải trích lập 2 loại dự phòng
là dự phòng cụ thể và dự phòng chung. Như vậy, quyết định 493 và 18 ra đời là một
bước tiến đáng kể so với quyết định số 488/2000/QĐ-NHNN và công văn 354/CV-
CNH thực hiện quyết định 688/2002/QĐ-NHNN, thể hiện nỗ lực nâng tầm hệ thống
NHVN của NHNN, tạo sự thống nhất trong hoạt động của hệ thống NHTM Việt Nam.
Hai văn bản này cho thấy NHNN đã từng bước vận dụng Basel II trong việc cho phép
các NHTM lựa chọn phương pháp xếp hạng tín dụng nội bộ để phân loại nợ và trích
lập dự phòng và cũng đặt ra yêu cầu quản lý nợ, kiểm soát rủi ro cao hơn đối với các
NHTM.

- 24 -
Tuy nhiên, khi áp dụng Điều 6 hoặc Điều 7, tỷ lệ nợ xấu có sự sai biệt khá lớn.
Việc phân loại nợ theo Điều 6 chỉ căn cứ vào lịch sử trả nợ của khách hàng, chứ chưa
dựa vào khả năng trả nợ của khách hàng để đánh giá, xếp hạng. Ngay với hệ thống
xếp hạng tín dụng nội bộ của các ngân hàng thực hiện phân loại nợ mới (Điều 7) cũng
thể hiện sự bất ổn, do các NHTM tự xây dựng hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ theo
một phương pháp riêng đã tạo nên sự không thống nhất trong việc quản lý chất lượng
tín dụng, phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro. Đồng thời việc
quản lý của cơ quan Nhà nước đối với việc các NHTM phân loại nợ mới gặp nhiều
khó khăn, không thống nhất. Nguyên nhân chính là quyết định 493 và 18 không quy
định cụ thể đối với một hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ nào.
Với những hạn chế trên, hiện NHNN đang trong quá trình soạn thảo văn bản
mới thay thế 493 và 18, kỳ vọng văn bản mới này sẽ thống nhất phương pháp, nội
dung quản lý chất lượng tín dụng, phân loại nợ, trích lập, sử dụng dự phòng để xử lý
rủi ro trong toàn hệ thống TCTD trên cơ sở đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng.
2.3 Xếp hạng tín dụng
Đối với ngân hàng, xếp hạng tín dụng là cơ sở để đánh giá khả năng trả nợ của
đối tượng có nhu cầu cấp tín dụng góp phần phục vụ cho việc ra quyết định cấp tín
dụng (cấp hay không cấp tín dụng, xác định hạn mức tín dụng, thời hạn, mức lãi suất,
biện pháp bảo đảm tiền vay…) và công tác quản lý tín dụng. Xếp hạng tín dụng cũng

hỗ trợ ngân hàng trong việc phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro, đồng thời cũng
tiến tới bốn mục đích tối đa hóa lợi nhuận ngân hàng, nâng cao hiệu quả hoạt động
của ngân hàng và góp phần bảo vệ sự ổn định của hệ thống ngân hàng. Đối với Chính
phủ, thị trường tài chính và nền kinh tế, xếp hạng tín dụng giúp thị trường tài chính
minh bạch hơn, tăng cường khả năng giám sát thị trường của Chính phủ, nâng cao
hiệu hiệu quả của nền kinh tế và có thể góp phần tích cực vào tăng trưởng kinh tế
bằng cách giúp mở rộng khả năng tiếp cận với thị trường tín dụng, giảm chi phí tín
dụng, giảm nợ quá hạn, nợ xấu…

- 25 -
Trong khi ở nhiều nước trên thế giới, các NHTM được hỗ trợ rất nhiều từ các
tổ chức xếp hạng tín dụng chuyên nghiệp, nhiều kinh nghiệm và có uy tín thì các
NHTM Việt Nam vẫn còn thiếu yếu tố này. Ở Việt Nam hiện hoạt động này mới chỉ
được thực hiện qua một số công ty như: Công ty Cổ Phần Xếp hạng tín nhiệm doanh
nghiệp Việt Nam (CRV), Công ty TNHH Thông tin tín nhiệm và Xếp hạng doanh
nghiệp Việt Nam (C&R), Trung tâm Thông tin tín dụng (CIC) thuộc NHNN, Công ty
Cổ Phần Báo cáo đánh giá Việt Nam (Vietnam Report) và qua hệ thống xếp hạng tín
dụng nội bộ của một số ngân hàng vốn chỉ dùng cho công tác quản lý rủi ro của các
ngân hàng đó. So với thế giới, những tổ chức xếp hạng này đều còn rất non trẻ, để xây
dựng được một hệ thống cơ sở dữ liệu thật sự đủ lớn, đa dạng, có chất lượng và được
chấp nhận rộng rãi thì sẽ phải mất một khoảng thời gian đáng kể. Đó là chưa kể đến
những tiêu chuẩn và hệ thống xếp loại của các tổ chức này đều đang tạm thời sử dụng
từ các tổ chức khác nhau trên thế giới và chưa thể xây dựng được một hệ thống chỉ
tiêu thống nhất cho Việt Nam. Ngoài ra, hoạt động xếp hạng tín dụng cũng đòi hỏi
những chuyên gia phân tích có kinh nghiệm, có tầm nhìn sâu trong lĩnh vực tài chính
ngân hàng, do đó các sản phẩm xếp hạng tín dụng vẫn còn khá mới mẻ với thị trường
tài chính Việt Nam.
Hành lang pháp lý cho hoạt động này được quy định tại Nghị định
10/2010/NĐ-CP và Thông tư 16/2010/TT-NHNN. Việc ban hành văn bản trên cho
thấy Việt Nam đang nỗ lực mở rộng quy mô hoạt động, nâng cao uy tín và chất lượng

thông tin của các tổ chức xếp hạng tín nhiệm độc lập, một động thái thể hiện việc
đang từng bước ứng dụng Basel II trong quản trị rủi ro của hệ thống NHTM Việt
Nam.
Theo Điều 4 của Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN, quy định các TCTD trong
thời gian tối đa 3 năm kể từ ngày quyết định có hiệu lực, phải xây dựng Hệ thống xếp
hạng tín dụng nội bộ để hỗ trợ việc phân loại nợ, quản lý chất lượng tín dụng. Do đó
bản thân mỗi NHTM Việt Nam cũng từng bước xây dựng một hệ thống xếp hạng tín
dụng riêng, tuy nhiên nhìn chung các NHTM Việt Nam vẫn đang trong quá trình xây

×