Lời mở đầu I
Văn hóa và kinh doanh, hiểu theo nghĩa là mối liên hệ tác
động qua lại giữa hai lĩnh vực dờng nh tách bạch ấy, có một nội
dung rất phong phú và phức tạp.
Văn hóa doanh nghiệp đợc hiểu là tổng thể các giá trị và đạo
lý mà daonh nghiệp tự nguyện theo đuổi trong kinh doanh; là hệ
thống các động lực vật chất và tinh thần, các kiểu hành vi và biểu t-
ợng, các niềm tin và sự tự hào gắn bó và chi phối mọi thành viên vì
mục tiêu tồn tại và phát triển cẻa doanh nghiệp. Cơ sở triết lý của
văn hoá doanh nghiệp chính là triết lý kinh doanh của doanh nghiệp
đó. Đó là sự thể hiện trình độ thế giới quan và phơng pháp luận của
các thành viên ( đặc biệt là của những nhân vật thủ lĩnh, những ngời
sáng lập ) trong điều kiện đặc thù của doanh nghiệp. Văn hoá doanh
nghiệp có ý nghĩa đặc biệt quan trọng và có tác động quyết định đến
việc sử dụng đội ngũ lao dộng và các yếu tố khác trong sản xuất
kinh doanh. Trong kinh doanh hiện, môi trờng văn hoá đợc đặc biệt
quan tâm và đề cao. Môi trờng văn hoá càng trở nên quan trọng hơn
trong các doanh nghiệp liên doanh, bởi vì ở đó có sự kết hợp văn
hoá của các dân tộc, các nớc khác nhau. Mỗi doanh nghiệp thờng có
văn hoá riêng. Những doanh nghiệp thành công thờng là những
doanh nghiệp chú trọng xây dựng, tạo ra môi trờng có văn hoá riêng
biệt khác với các doanh nghiệp khác. Tính hiệu quả của doanh
nghiệp phụ thuộc rất lớn vào yếu tố văn hoá. Văn hóa doanh nghiệp
tạo ra lợi thế cạnh tranh rất lớn cho các doanh nghiệp. Nó ảnh hởng
trực tiếp, to lớn đến việc hình thành mục tiêu, chiến lợc và chính
sách; đồng thời cũng tạo thuận lợi cho việc thực hiện thành công
chiến lợc đã lựa chọn của doanh nghiệp.
Các yếu tố văn hoá tồn tại trong doanh nghiệp vừa là sự phản
ánh các giá trị văn hoá chung của xã hội, vừa đợc cấu thành từ các
1
nhóm ngời khác nhau về nguồn gốc văn hóa ( nhất là trong các công
ty liên doanh, công ty đa quốc gia) cùng hoạt động với nhau trong
một tổ chức.
Nhiều yếu tố văn hoá tồn tại trong tiềm thức, ý thức của các
thành viên, chúng không nhất thiết và cũng không cần thiết hiện
thành văn ( các văn bản trong quản lý .v.v..) nhng lại tạo ra những
mối quan hệ rất chặt chẽ giữa các thành viên trong doanh nghiệp.
II
Phần 1
Quan hệ giữa Văn hoá và Kinh doanh trong
thời kỳ phát triển
1 - Văn hoá trong kinh doanh
Văn hoá doanh nghiệp là một khái niệm mới xuất hiện ở Việt Nam
trong nền kinh tế thị trờng. Trong khi một số doanh nghiệp trong nớc còn
khá bỡ ngỡ trớc khái niệm này thì các doanh nghiệp có vốn đầu t nớc
ngoài đặc biệt là các doanh nghiệp 100% vốn đầu t nớc ngoài đã rất chú
trọng vào công việc xây dựng bản sắc Văn hoá - Doanh nghiệp, hay nói
cách khác họ đã cố gắng tạo dựng một hình ảnh đẹp về doanh nghiệp
mình trên thơng trờng thông qua phong cách văn hóa nhằm tạo lợi thế
cạnh tranh.
2
Văn hóa và kinh tế là hai mặt có quan hệ mật thiết với nhau, quy định
và tác động lẫn nhau trong quá trình phát triển của mọi nhà kinh doanh
cũng nh của mọi quốc gia trên thế giới.
Đã có thời và cho cả đến nay nữa, vẫn tồn tại những ý kiến thậm
chí một vài " lý luận phát triển " cho : Văn hoá chỉ là kết quả, là sự phản
ánh và sự " thăng hoa " của kinh tế. " Phú quí sinh lễ nghĩa ", kinh tế có
tăng trởng, đời sống vật chất có dồi dào thì mới có điều kiện phát triển
văn hoá, nâng cao đời sống tinh thần của con ngời. Văn hoá vì thế, thờng
bị liệt vào lĩnh vực " phi sản xuất ", đứng bên ngoài kinh tế và do kinh tế
trợ cấp. Khi nào kinh tế gặp khó khăn, thì ngân sách Nhà Nớc cho văn
hoá thờng bị cắt giảm trớc hết và cắt nhiều nhất. Lý do thật đơn giản :
Văn hoá chỉ là để " giải trí ", nếu có cắt giảm bớt thì cũng cha chết ai !
Song kinh nghiệm thực tế của hàng loạt nớc trên thế giới trong những
thập kỷ qua cho thấy : " Khi các mục tiêu về tăng trởng kinh tế đặt ra mà
tách rời với môi trờng văn hoá thì kết quả thu đợc rất khập khiễng, mất
cân đối cả về kinh tế lẫn văn hoá, đồng thời tiềm năng sáng tạo của mỗi
dân tộc sẽ bị suy yếu đi rất nhiều".
Nền kinh tế của Việt nam hôm nay cũng có một bớc tiến đáng kể
so với thời kỳ trớc đây, khi còn thực hiện nền kinh tế chỉ huy theo lối
hành chính quan liêu, bao cấp. Nguyên nhân thành công thực ra không
phải chỉ do sự thúc đẩy tự động của các nhân tố kinh tế đơn thuần ( nh có
thêm vốn, kỹ thuật, công nghệ, thị trờng ), mà trớc hết là nhờ ở đổi mới t
duy trên cơ sở làm sống lại bài học " lấy dân làm gốc " đặt con ngời vào
vị trí trung tâm của mọi chủ trơng, chính sách và kế hoạnh phát triển,
khơi dậy và nhân lên các tiềm năng sáng tạo của
3
III
mọi tầng lớp nhân dân bắt nguồn từ những giá trị văn hoá nhân loại.
Điều đó có nghĩa rằng chính văn hoá là một động lực quan trọng thúc đẩy
sự phát triển kinh tế của đất nớc trong quá trình đổi mới.
Về nhận thức lý luận, nhiều ngời có thể đồng ý với quan điểm kể
trên về vai trò của văn hoá trong kinh doanh. Song trong thực tế, cần làm
gì và làm nh thế nào để có thể kết hợp hài hoà giữa văn hóa và kinh tế,
đặc biệt các yếu tố văn hoá trong kinh doanh ( bao gồm ba nội dung chủ
yếu : sản xuất, tiếp thị và quản lý tài chính ) vốn là những hoạt động cụ
thể, sinh động trong một nền kinh tế hiện đại, thì vấn đề lại không dơn
giản chút nào.
Nói đến kinh doanh, trớc hết là nói đến việc đầu t cho sản xuất,
buôn bán, phân phối hàng hoá và dịch vụ nhằm mục đích kiếm lời.
Không thu dợc lợi nhuận để từ đó vừa thực hiện tái đầu t, vừa đảm bảo lợi
ích thiết thân cho cả ngời quản lý lẫn ngời lao động thì kinh doanh không
thể tồn tại và phát triển. Nhng kiếm lời bằng cách nào thì lại có nhiều
cách khác nhau. Nh thực tế của nền kinh tế thị trờng đã phát triển lâu
năm ở nhiều nớc trên thế giới, cũng nh nền kinh tế thị trờng còn non trẻ ở
Việt nam cho thấy :
- Có cách kiếm lời bằng sự bóc lột quá mức sức lao động của
ngời làm công, khiến cho những ngời này chỉ đủ tồn tại với mức sống tối
thiểu.
- Có cách kiếm lời bằng cách khai thác bừa bãi các tài nguyên,
gây ô nhiễm môi trờng và phá vỡ cân bằng sinh thái .
- Lại có cách kiếm lời bằng làm hàng giả, buôn lận trốn thuế,
lừa đảo, đầu cơ, ích kỷ hại nhân đối với cả trong lẫn ngoài nớc.
- Nhng cũng có cách kiếm lời bằng nhanh nhạy nằm bắt thông
tin, gia sức cải tiến kỹ thuật và công nghệ, tiết kiệm nguyên liệu và nhiên
liệu, quan tâm thích đáng đến đời sống vật chất và tinh thần của ngời làm
4
công, bồi dỡng và phát huy tiềm năng sáng tạo của họ trong việc sáng tạo
ra những hàng hoá và dịch vụ có chất lợng tốt, hình thức đẹp và giá cả
hợp lý đáp ứng nhu cầu của thị trờng, giữ đợc chữ tín của ngời tiêu dùng
và bạn hàng cả trong ngoài nớc.
Rõ ràng, ba cách kiếm lời đầu tiên là những biểu hiện tồi tệ của lối
kinh doanh chụp giật, thiếu văn hoá, vô đạo đức, phản tự nhiên và không
thể tồn tại lâu bền, do sự thiển cận, sai lầm của bản thân những cách đó
và sự phản đối của xã hội.
Còn cách kiếm lời thứ t thể hiện những mặt u việt của phơng thức
kinh doanh có văn hóa. Nó đảm bảo kết hợp đợc cái đúng, cái tốt, cái đẹp
- vốn là những giá trị cốt lõi của văn hóa - với cái lợi là mục đích của
kinh doanh.
Văn hoá doanh nghiệp đợc hiểu là những giá rrị chung của doanh
nghiệp, có ảnh hởng đến cách thức suy nghĩ, hành động của mỗi cá nhân
trong doanh nghiệp. Nó đợc nâng lên thành phong cách của
IV
mỗi thành viên trong thực thể doanh nghiệp. Nói cách khác, văn hoá
doanh nghiệp là những giới hạn trong đó quy định những gì các thành
viên của doanh nghiệp đợc phép hoặc không đợc phép làm. Những giới
hạn này thể đợc thể hiện trong các quy định, quy chế của doanh nghiệp
bao gồm cách thức ra quyết định, mức độ kiểm soát nhân viên thông qua
quy chế, việc sử dụng các hình thức thởng phạt, quan hệ giao tiếp trong
doanh nghiệp, các hoạt động vui chơi, giả trí, mức độ chấp nhận đối lập
rủi ro
Yếu tố văn hóa trong kinh doanh chính là hoạt động đem cái dẹp,
cái tiện nghi tới mọi nhà. Không thoả mãn với những gì đã có hôm nay,
các nhà thiết kế mỹ thuật, nhà sản xuất, nhà kinh doanh đã không
ngừng cải tiến mẫu mã, ứng dụng những thành tựu mới nhất của khoa học
và công nghệ vào quá trình chế tạo sản phẩm và đội ngũ các nhà thơng
5
nghiệp đã không quản ngại đờng sá xa xôi đa sản phẩm đa tới nơi tiêu
thụ từng b ớc hình thành một mạng lới kinh doanh xuyên quốc gia,
xuyên lục địa và cũng từ hoạt động này thúc đẩy xã hội tiến lên theo h-
ớng văn minh hiện đại.
Yếu tố văn hoá trong kinh doanh còn thể hiện sự giao lu văn hoá
giữa các vùng miền của mỗi nớc, giữa các quốc gia và có tính toàn cầu
mà sản phẩm là phơng tiện chuyển giao các thông tin về văn minh và tiến
bộ xã hội từ nớc này sang nớc khác. Nếu nh ta đặt vào tồn tại xã hội thi ta
thấy ngay đợc các mặt tích của nó. Ví nh tại sao con ngời Việt nam lại
thích dùng những đồ dùng của Nhật hoặc củaThái lan là vì hai nớc này đa
kết hợp tốt yếu tố văn hoá của nớc mình với văn hoá của Việt nam vào
trong sản phẩm của họ bán ra thị trờng, làm cho phù hợp với thị hiếu ngời
tiêu dùng Việt nam .
Văn hoá trong kinh doanh còn thể hiện mối quan hệ giữa ngời bán
và ngời mua. Ngời mua có tiền nên có quyền lựa chọn sản phẩm mà mình
có nhu cầu với những chỉ tiêu về chất lợng và số lợng. Ngời bán cố bày tỏ
lòng kính trọng với ngời mua bởi họ hiểu rằng chính khách hàng là ân
nhân của họ, là " thợng đế " trên thơng trờng. Còn nhà sản xuất coi sự
thành đạt trong kinh doanh là nguyên nhân chính đa đến sự phát triển sản
xuất nên họ rất tôn trọng quan hệ bán - mua trên thị trờng. Nếu nh một
nhà doanh nghiệp nào coi thờng quan hệ này sẽ không tồn tại lâu đợc trên
thơng trờng, vì quan hệ tốt với khách hàng sẽ chiếm đợc một thị trờng
rộng và giúp cho nhà doanh nghiệp đó thành công.
Nội dung văn hoá của một doanh nghiệp còn thể hiện ở điểm không
chỉ chú trọng đến lợi nhuận đơn thuần mà còn phải quan tâm thích đáng
đến khía cạnh xã hội của hoạt động doanh nghiệp. Nó chi phối từ khâu
xây dựng kế hoạch, hình thành chiến lợc kinh doanh, chiến lợc phát triển
đến việc tổ chức kinh doanh và phân phối lợi nhuận. Đó chính là tính
nhân văn của hoạt động kinh doanh. Có giá trị tinh thần truyền
6