Lời nói đầu
Lịch sử phát triển của triết học đã qua nhiều bứơc thăng trầm và ngày
càng hoàn thiện. Đỉnh cao của triết học loài ngời là triết học Mác - lênin.
Tuy mới ra đời trong một thời gian ngắn nhng triết học Mác - lênin đã kế
thừa đợc những tinh hoá triết học.
Trong lịch sử và đợc biểu nghiệm qua thực tế cuộc sống loài ngời.
Đặc biệt với Việt Nam chúng ta - một đất nớc đi lên từ chiến tranh nghèo
đói thì triết học Mác - lênin càng có vai trò quan trọng. Đây chính là ngọn
đèn soi sáng dẫn đờng cho Việt Nam, chỉ ra những phơng pháp luận phù
hợp để đa nớc ta phát triển trong mọi lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội.
Chính vai trò của triết học nh vậy nên việc thấu hiểu và ứng dụng triết
học là vấn đề cần thiết của mỗi con ngời thời đại. Với t cách là nhà doanh
nghiệp tơng lai của đất nớc giữ vai trò quan trọng trong việc xây dựng xã
hội và phát triển về lĩnh vực kinh tế thì việc học tập môn triết học bớc chuẩn
bị tất yếu về t tởng và phơng pháp luận biện chứng cho nghề nghiệp sau này,
ở một phơng diện nào đó phải nói rõ ràng học triết học chính là rèn luyện
bản lĩnh cho mỗi ngời.
Nhận thức đợc vai trò to lớn đó của triết học nên các trờng đại học
của nớc ta luôn coi triết học là cơ sở bớc đầu để đào tạo con ngời. Trờng đại
học quản lý và kinh doanh cũng nh vậy, luôn có nhiều đổi mới và nhiều
phơng pháp giúp cho sinh viên tiếp thu tốt bộ môn khoa học này. Với mục
tiêu phát huy tính chủ động sáng tạo cho sinh viên trong trờng nhằm khuyến
khích mỗi sinh viên tự ứng dụng lý thuyết vào thực hành bằng những bài
tiểu luận nhỏ.
1
Bản thân tôi khi nghiên cứu môn triết học tôi cảm thấy rất yêu thích
và tự tin lên rất nhiều. Là sinh viên của trờng tôi càng nhận thấy vai trò to
lớn của môn triết học với bản thân và nghề nghiệp trong tơng lai. Trong bài
tiểu luận nhỏ của sinh viên năm thứ nhất tôi xin trình bày đề tài mang chủ
đề: "Mỗi liên quan tơng hỗ giữa văn hoá và kinh doanh".
Đây là đề tài đầu tiên với tầm hiểu biết còn hạn hẹp nên chắc sẽ
không tránh khỏi những sai sót. Vì vậy tôi rất mong đợc sự đóng góp ý kiến
của thầy cô.
2
A - giới thiệu đề tài
Văn hoá là nền tảng tinh thần của đời sống xã hội. Do đó nói đến sự
phát triển kinh tế trong thời đại hiện nay không thể không nói tới vai trò của
văn hoá.
Văn hoá là phạm vi rộng lớn thể hiện trên nhiều lĩnh vực đời sống của
con ngời. Đề nghiên cứu văn hoá trên tất cả các lĩnh vực ấy thì không thể
một sớm, một chiều mà cần sự nỗ lực về trí tuệ và công sức đóng góp của
nhiều thế hệ con ngời của mỗi dân tộc qua từng giai đoạn lịch sử phát triển
từ thấp đến cao, kế tiếp vận động một cách không ngừng.
Giáo s Nguyễn Xuân Nam đã nhận xét "Yếu tố hàng đầu của văn hoá
là sự hiểu biết bao gồm tri thức khoa học, kinh nghiệm và sự khôn ngoan
tích luỹ đợc trong quá trình học tập, lao động, sản xuất và đấu tranh để duy
trì và phát triển của một cộng đồng dân tộc và các thành viên trong cộng
đồng ấy. Nhng sự hiểu biết ấy thôi cha làm nên văn hoá. Sự hiểu biết ấy chỉ
trở thành văn hoá khi nó làm nên và định hớng cho thế ứng xử, của mỗi cá
nhân và mỗi cộng đồng".
ở đây chúng ta hiểu thế ứng xử là hớng tới cái trân, thiện, mỹ trong
cá quan hệ giữa con ngời với con ngời, con ngời với môi trờng xã hội và môi
trờng tự nhiên. Chính từ điều này mà mỗi dân tộc rút ra những điểm riêng
phù hợp với hoàn cảnh và nhu cầu vật chất, tinh thần để xây dựng nền văn
hoá dân tộc, cũng nh nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, văn hoá và kinh tế
có mối quan hệ tơng tác qua lại.
Đặc điểm kinh tế của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc là một đặc điểm
quan trọng để xây dựng nền văn hoá dân tộc và ngợc lại nền tảng kinh tế của
một xã hội, chế độ kinh tế chỉ định tồn tại và ngời lãnh đạo trên một nền
3
tảng văn hoá. Nhận định này một lẫn nữa đợc khẳng định cơ sở triết học duy
vật biện chứng. Cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thợng tầng và kiến trúc
thợng tầng có sự tác động trở lại đối với cơ sở hạ tầng.
Tuy nhiên, khi nghiên cứu đến vấn đề văn hoá và kinh tế thì đặc điểm
văn hoá trong kinh doanh là đặc điểm quan trọng nhất bởi đây là vấn đề biểu
tợng cho văn hoá và kinh tế của xã hội Việt Nam nói riêng và mỗi quốc gia
trên thế giới nói chung.
Để mang tính khách quan và thiết thực với t cách là một cá nhân tôi
xin trình bày một vấn đề có liên quan đến triết học đó là "Mối quan hệ tơng
hỗ giữa văn hoá và kinh doanh". Vấn đề này khi nhìn từ góc độ triết học
thì kiến thức còn hạn hẹp và nguồn t liệu khan hiếm đối với bản thân. Nh-
ng mong rằng sẽ mang lại một cái nhìn mới trong việc kinh doanh một cách
lành mạnh và có hiệu quả ở nớc ta hiện nay.
4
b - Nội dung
I - Khái niệm văn hoá và chức năng của văn hoá.
Văn hoá là từ Việt gốc Hán theo đó văn hoá là vẻ đẹp còn hoá là giáo
hoá thay đổi.
Nhng theo cái nhìn của triết học duy vật biện chứng thì khi nói tới
văn hoá ngời ta hay quan niệm rằng đó là cái đối xứng với tự nhiên, với bản
năng, là một hiện tợng xã hội lịch sử có bao hàm tính nhân loại, phân biệt
với bản năng động vật. Nó có tính dân tộc do hoàn cảnh địa lý, sinh hoạt,
tâm lý.. của dân tộc khác nhau quy định.
Mỗi một dân tộc có một bản sắc văn hoá riêng của mình. Hiện nay
sách báo xuất hiện rất nhiều định thức khác nhau về khái niệm văn hoá.
Trong tiểu luận này em chủ yếu hiểu văn hoá theo quan niệm của giáo s
Trần Ngọc Thêm: "Văn hoá là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và
tinh thần do con ngời sáng tạo và tích luỹ qua quá trình hoạt động thực tiễn
trong mối tơng tác giữa con ngời và môi trờng xã hội".
Theo quan niệm đó văn hoá có những đặc trng cơ bản sau:
Tính hệ thống lâu nay xem văn hoá là phép cộng đơn thuần tri thức,
tôn giáo, bộ phận lịch sử về sân khấu, nghệ thuật... Nhng tính hệ thống
khác với sự tập hợp và phép cộng đơn thuần và vì thế nó giúp ta phát hiện đ-
ợc mối quan hệ mật thiết giữa các sự kiện nền văn hoá, phát hiện các đặc tr-
ng quy luật hình thành và phát triển của nó.
Tính giá trị khi nói đến văn hoá là nói đến giá trị. Những giá trị
xuất phát đợc từ những mối liên hệ tơng tác giữa con ngời với tự nhiên, với
xã hội với chính bản thân mình. Có thể kể đến giá trị vật chất, tinh thần, giá
5
trị lâu bền, giá trị nhất thời, giá trí truyền thống, giá trị hiện tại. Theo thời
gian có thể phân biệt giá trị vĩnh cửu à nhất thời sự phân biệt theo thời gian
cho phép có đợc cái nhìn biện chứng và khách quan trong việc đánh giá đợc
tính giá trị của các sự vật, hiện tợng, tránh đợc những xu hớng cực đoan.
Vì vậy về mặt đồng đại cùng một hiện tợng có thể có giá trị nhiều hay ít
tuỳ theo góc nhìn và bình diện đợc xem xét. Muốn biết đợc hiện tợng có
thuộc phạm trù văn hoá hay không phải xem xét mỗi tơng quan giữa các
mức độ giá trị và phi giá trị của nó về mặt lịch đại cùng một hiện tợng lịch
sử có thể có giá trị hay không tuỳ thuộc vào chuẩn mực văn hoá của từng
giai đoạn lịch sử.
Ngoài ra tính nhân văn cũng luôn thể hiện đặc trng văn hoá vì nhờ
tính nhân văn mà thể hiện đợc chuẩn mực để định chất giá trị khi xem xét
các giá trị cần phải vận dụng một cách thích đáng cái nhìn đồng đại và lịch
đại còn phải có nhân quan.
Lịch sử luôn gắn liền với đặc trng văn hoá vì văn hoá đợc hình thành
và phát triển qua một quá trình lịch sử lâu dài, đợc tích luỹ, chọn lọc, lu
truyền, điều chỉnh, củng cố qua chiều sâu. Nó buộc văn hoá thờng xuyên
phải tự điều chỉnh, tiến hành phân loại và phân bố lại các giá trị. Tính lịch
sử đợc duy trì bằng truyền thống của dân tộc. Nhng vấn đề đặt ra mọi ngời
nên lu truyền thống văn hoá nh thế nào cho đúng để duy trì đợc tính lịch sử.
Truyền thống văn hoá là cơ chế tích luỹ và truyền đạt kinh nghiệm
qua không gian và thời gian trong cộng đồng. Truyền thống văn hoá là
những giá trị tơng đối ổn định bởi nó mang tính kinh nghiệm tập thể, thể
hiện dới dạng những khuôn mẫu xã hội đợc tích luỹ và tái tạo trong cộng
đồng ngời bằng những con đờng truyền đạt qua không gian và thời gian.
Truyền thống văn hoá là một trong những cơ chế vận hành của văn hoá. Nó
đợc cố định hoá dới dạng ngôn ngữ, phong tục tập quán, nghi lễ và pháp
6