LỜI DẪN
Những năm cuối thế kỷ XX, hệ thống xã hội chủ nghĩa lâm vào khủng hoảng
toàn diện và nghiêm trọng dẫn đến sự sụp đổ của bộ phận lớn làm thay đổi cơ bản
cục diện chính trị của thế giới. Bên cạnh đó, chủ nghĩa tư bản tận dụng được những
thành tựu của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại nên đã thích nghi và vẫn
tiếp tục phát triển.
Trật tự thế giới hai cực tan dã, quan hệ quốc tế chuyển dần từ đối đầu sang
đối thoại, từ đó làm nảy sinh xu hướng đa dạng hố, đa phương hố trong tiến trình
hội nhập tồn cầu. Hồ bình, ổn định hợp tác để phát triển ngày càng trở thành địi
hỏi bức xúc của các quốc gia. Tồn cầu hố về kinh tế chiếm vị trí quan trọng trong
quan hệ giữa các quốc gia,kinh tê được ưu tiên phát triển và trở thành chủ đề chính
trong quan hệ quốc tế hiện nay.
Trước bối cảnh quốc tế và xu thế chung của thế giới đang diễn ra như vậy,
các quốc gia đều phải điều chỉnh lại chính sách đối ngoại của mình để thích ứng với
tình hình mới. Việt Nam cũng khơng nằm ngồi xu thế đó.
Chính sách đối ngoại là một bộ phận hợp thành đường lối đổi mới của Việt
Nam trên nền tảng của Chủ nghĩa Mác - Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh. Được
khởi xướng từ năm 1986 và sau hơn 10 năm thực hiện, chính sách đối ngoại đúng
đắn của Đảng và Nhà nước ta đã góp phần khơng nhỏ đến sự phát triển của đất
nước, tạo điều kiện khai thác có hiệu quả các nhân tố quốc tế, kết hợp được sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại đưa Việt Nam thoát khỏi khủng hoảng và đi
lên.
Chính sách đối ngoại đổi mới là một trong những mốc đánh dấu thành tựu to
lớn của Việt Nam trong thế kỷ XX, tạo tiền đề cho Việt Nam vững bước đi vào thế
kỷ XXI. Với lý do đó cùng với ham muốn được tìm hiểu chính sách đối ngoại đổi
mới và quan hệ quốc tế của Việt Nam giai đoạn này, em mạnh dạn chọn đề tài
“Quan hệ quốc tế của Việt Nam thời kỳ đổi mới” làm chuyên đề thực tập.
Trang 1
Đây là đề tài rất rộng lớn, cho nên bài viết này khơng tránh khỏi những thiếu
sót hạn chế. Mong được sự thơng cảm, giúp đỡ, đóng góp ý kiến của các thầy cô và
các bạn.
Trang 2
CHƯƠNG 1
NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG TỚI ĐƯỜNG LỐI ĐỔI MỚI CỦA VIỆT
NAM
1.1. TÌNH HÌNH THẾ GIỚI NHỮNG NĂM 80 VÀ ĐẦU THẬP KỶ 90
Từ nửa năm sau những năm 80, quan hệ Xô - Mỹ đã thực sự chuyển từ đối
đầu sang đối thoại. Để giải quyết các vấn đề tranh chấp, Xô - Mỹ đã tiến hành nhiều
cuộc gặp thượng đỉnh giữa Ri-Gan và Goóc-Ba-Chốp, giữa Busơ và GcBachốp.
Qua đó có nhìêu văn kiện được ký kết trên các lĩnh vực kinh tế thương mại, văn
hoá, khoa học kỹ thuật, nhưng quan trọng nhất là việc ký kết hiệp ước thủ tiêu tên
lửa tầm trung ở Châu Âu năm 1987 (gọi tắt là INF). Cũng từ năm 1987, hai nước
Mỹ và Liên Xô đã thoả thuận giảm một bước quan trọng cuộc chạy đua vũ trang,
từng bước chấm dứt cuộc diện “Chiến tranh lạnh”, cùng hợp tác với nhau giải quyết
các cụ tranh chấp và xung đột quốc tế.
Cuối năm 1989, tại cuộc gặp khơng chính thức giữa Busơ và Gooc-Ba-Chốp
tại đảo Manta, hai nước Xô - Mỹ đã chính thức tuyên bố chấm dứt cuộc “chiến tranh
lanh” kéo dài trên 40 năm giữa hai nước này.
Mối quan hệ giữa 5 nước lớn: Liên Xô, Mỹ, Anh, Pháp, Trung Quốc, là 5
thành viên thường trực Hội đồng bảo an LHQ có vai trị quan tọng trong việc duy trì
hồ bình, an ninh và trật tự thế giới đã được thiết lập lên. Trong “chiến tranh lạnh”
mặc dù là 5 nước lớn nhưng vẫn chỉ là thế “hai cực” Xô - Mỹ đối đầu nhau. Mối
quan hệ giữa 5 nước lớn sau năm 1989 đã chuyển từ “hai cực” đối đầu sang đối
thoại, hợp tác với nhau trong việc giải quyết những tranh chấp và xung đột quốc tế,
tiêu biểu như cuộc chiến trung vùng vịch Pecxic (1991), và việc giải quyết các cuộc
xung đột vũ trang ở nhiều khu vực trên thế giới.
Sau sự kiện xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, dẫn đến khối
quân sự Vac-Sa-Va tự giải thể (1/7/1991) và Hội đồng tương trợ kinh tế (SEV)
ngừng hàng hoạt động (28/6/1991). Xã hội chủ nghĩa tạm lâm vào thoái trào, việc
Liên Xô sụp đổ bắt đầu từ khủng hoảng về đường lối chiến lược do nhận thức sai
lầm về đường lối đối ngoại như việc Liên Xô thoả thuận với Mỹ về việc giải quyết
Trang 3
vấn đề Apganictan, Campuchia, những thoả thuận nhượng bộ đó khơng có lợi cho
các cách mạng thế giới. Liên Xơ cịn thực hiện chính sách “khơng can thiệp” vào
vấn đề thống nhất nước Đức và các nước Đơng Âu, chính sách không thực hiện
những cam kết với các đồng minh cũ của Liên Xô (ngừng viện trợ cho Cuba, Việt
Nam, Mơng Cổ)1. Những ngượng bộ đó được các phương Tây, nhất là Mỹ ngày các
khai thác triệt để, để làm giảm thế cân bằng về sức mạnh vũ khí hạt nhân với Mỹ và
làm suy giảm sức mạnh và vị trí của Liên Xơ có ở khắp các khu vực trên thế giới.
Còn ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương kinh tế phát triển rất năng động,
đồng thời cũng tiềm ẩn nhiều nhân tố có thể gây mất ổn định như xung đột ở Triều
Tiên, tranh chấp quần đảo Cu-Rin giữa Nhật Bản và Liên Xô, tranh chấp chủ quyền
lãnh thổ, lãnh hải ở biển Đông và căng thẳng ở eo biển Đài Loan...
Trong khu vực Đông Nam Á cũng chứa đựng nhiều nguy cơ xung đột bất ổn,
trong đó vấn đề Campuchia. Những phản ứng từ của các ASEAN, Trung Quốc và
các nước phương Tây khác cho rằng Việt Nam xâm lược Campuchia, họ tiến hành
các hoạt động làm cho tình hình khu vực thêm căng thẳng. Trung Quốc cắt đứt quan
hệ ngoại giao với Việt Nam và đưa quân vào Việt Nam gây nên cuộc chiến tranh ở
biên giới phía Bắc nước ta. Một số nước ASEAN cô lập nước ta ở các diễn đàn, tổ
chức quốc tế... Về phía Việt Nam, chúng ta trước sau vẫn khẳng định việc đưa quân
vào Campuchia là giúp đỡ nhân dân Campuchia đánh đuổi bọn diệt chủng PonPốt
đem lại hồ bình cho nhân Campuchia.
Cùng với những biến đổi trong tình hình an ninh, chính trị, cộng đồng thế
giới cũng đang đứng trước nhiều vấn đề có tính tồn cầu cấp bách mà khơng có một
quốc gia riêng lẻ nào có thể giải quyết được cho nên cần phải có sự hợp tác đa
phương trong các công việc quốc tế như: bảo vệ mơi trường, bùng nổ dân số, phịng
chống bệnh tật hiểm nghèo và nạn khủng bố.
Mặt khác, cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật, công nghệ phát triển như vũ
bão và được gọi là nền văn minh hậu cơng nghiệp hay nền văn minh trí tuệ. ảnh
hưởng của nó ngày càng tác động sâu hơn vào đời sống kinh tế xã hội, nhất là trong
sản xuất. Các phát minh khoa học mà nội dung cơ bản là cách mạng về công nghệ
1
Trang 4
thông tin, sinh học, năng lượng, vật liệu mới... tiếp tục phát triển nhanh với trình độ
cao, làm tăng nhanh lực lượng sản xuất, thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh
tế thế giới, quốc tế hoá nền sản xuất và đời sống xã hội, làm cho tính chất tuỳ thuộc
lẫn nhau giữa các quốc gia ngày càng gia tăng mạnh mẽ. Cuộc cách mạng trên đã
tác động sâu sắc đến quan hệ quốc tế, thúc đẩy quá trình liên kết kinh tế và tồn cầu
hố. Nó vừa là thời cơ nhưng cũng là thách thức rất lớn đối với các nước, là điểm
mà bất cứ nước nào cũng không thể bỏ qua khi xây dựng đường lối, xác định
phương hướng và mục tiêu phát triển. các nước đều đứng trước những cơ hội để
phát triển, nhưng do ưu thế về vốn, công nghệ, thị trường... thuộc về các nước tư
bản chủ nghĩa và các công ty xuyên quốc gia nên các nước chậm phát triển đang
đứng trước những thử thách to lớn. Trong tình hình đó nếu các nước không nắm bắt
được cơ hội, tranh thủ những khả năng mới để phát triển thì sẽ bị tụt hậu.
Ngược lại nếu nước nào biết đón trước, khai thác được thời cơ, nỗ lực phấn
đấu thì sẽ có thể vượt lên một cách nhanh chóng. Cuộc cạnh tranh kinh tế thương
mại, khoa học công nghệ diễn ra gay gắt trên phạm vi tồn thế giới.
Tóm lại, hồ bình ổn định và hợp tác để phát triển ngày càng trở thành đòi
hỏi búc xúc của các dân tốc và quốc gia trên thế giới. Các nước giành ưu tiên cho
phát triển kinh tế, coi phát triển kinh tế có ý nghĩa quyết định đối với việc tăng
cường sức mạnh tổng hợp mỗi nước.
Tình hình đó tác động mạnh mẽ đối với việc hoạch định chính sách đối ngoại
của các nước cũnh như ở Việt Nam. Kiến định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội. Trong điều kiện lịch sử mới, Đảng và Nhà nước ta khởi xưởng công
cuộc đổi mới tồn diện, trong đó đổi mới chính sách đối ngoại trở thành một nội
dung quan trọng đối với sự ngiệp phát triển của Việt Nam.
1.2. SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA VIỆT NAM SAU 1975 ĐẾN
1986.
Chiến thắng của Việt Nam sau 30/4/1975 là niềm vui thống nhất cả giang sơn
về một mối. Nhưng hậu quả của cuộc chiến tranh kéo dài để lại những khó khăn
không nhỏ cho nhân dân Việt Nam: 1,1 triệu liệt sĩ, 60 vạn thương binh, 30 vạn
Trang 5
người mất tích, gần 2 triệu người dân bị thiệt mạng, hơn 2 triệu người dân bị tàn tật
và nhiễm chất độc hố học...
Hai cuộc chiến tranh biến giới phía Bắc (1979) và biên giới phía Tây Nam
(1978) lấy đi thêm nhiều tài lực, vật lực của đất nước khiến cho nền kinh tế của Việt
Nam đã khó khăn lại càng thêm khó khăn. Mà hậu quả của nó là nền kinh tế lâm vào
tình trạng khủng hoảng tồn diện, lạm phát tăng phi mã (774,7%) năm 1986, nền
công nghiệp lạc hậu, nơng nghiệp đình đốn.
Bên cạnh đó, do những khuyết điểm chủ quan trên các lĩnh vực nhất là việc
chỉ đạo và thực hiện xây dựng kinh tế xã hội. Mơ hình kinh tế tập trung quan liêu
bao cấp bộc lộ nhiềukhuyết điểm yếu kém. Nền kinh tế đất nước rơi vào tình trạng
trì trệ, lạc hậu, khủng hoảng: Công nghiệp yếu kém, manh mún thiếu rất nhiều
ngành công nghiệp tiêu dùng... Nền nông nghiệp không đủ chi dùng trong nước,
phải nhập khẩu lương thực, thực phẩm và hàng tiêu dùng thường xuyên khiến cho
cán cân xuất nhập khẩu luôn thâm hụt mất cân đối, thu không đủ chi, dẫn đến phải
đi vay từ nước ngồi. Tính chung trong năm 5 năm 1981 - 1985, nguồn vay từ nước
ngoài chiếm 22,4% thu ngân sách quốc gia. Số nợ nhiều như vậy nhưng bội chi
ngân sách vẫn lớn và tăng dần: Năm 1980 là 1,8%, năm 1985 là 36,6%. Do bội chi
nhiều như vậy nên Chính phủ buộc phải phát hành thêm tiền mặt để bù đắp. Cùng
với việc không cân đối được từ thu và chi, do nguồn thu khơng có vì khơng có sản
phẩm cơng nghiệp xuất khẩu. Cộng vào đó là sai lầm về chính sách cải cách giá,
lương, tiền đã làm cho nền kinh tế rơi tự do khơng kiểm sốt được dẫn đến xuất hiện
siêu lạm phát ở mức 774,7% (1986), kéo theo giá cả leo thang vơ phương kiểm
sốt.2
Đời sống nhân dân nhất là công nhân viên chức và lực lượng vũ trang gặp
nhiều khó khăn. Tiêu cực xã hội phát triển, cơng bằng bị vi phạm, pháp luật kỳ
cương xã hội không nghiêm minh, cán bộ tham nhũng lộng quyền, bọn làm ăn phi
pháp không bị trừng trị kịp thời và nghiêm khăc. Quần chúng giảm lòng tin với sự
lãnh đạo của Đảng và sự điều hành của Nhà nước.3
2: NguyÔn Sinh 12 năm đổi mới (1986-1997). Tạp chí Cộng sản số 6 tháng 3 năm 1998, trang 3
3: Trích lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam - NXB Giáo dục, 1997 trang1
2
3
Trang 6
Cuối những năm 80, tình hình kinh tế - xã hội ở Liên Xô và các nước xã hội
chủ nghĩa Đơng Âu anh em cũng hết sức khó khăn và diễn ra ngày càng phức tạp.
Tình hình thế giới có nhiều thay đổi, cuộc chạy đua phát triển kinh tế đã lơi kéo các
nước vào cuộc. Trong bối cảnh đó, Đảng và Nhà nước ta nhận biết được xu thế của
thế giới và nhìn thấy nguy cơ tụt hậu ngày càng xa về kinh tế so với thế giới nếu
không phát triển đất nước.
Thực tiễn tình hình trong nước và quốc tế đặt ra một yêu cầu khách quan,
bức xúc có ý nghĩa sống cịn đối với sự nghiệp các mạng nước ta, là để làm xoay
chuyển được tình thế, tạo ra một sự chuyển biến có ý nghĩa quyết định trên bước
đường đi lên. Đảng phải đổi mới sự lãnh đạo và chỉ đạo một cách mạnh mẽ. Đại hội
VI của Đảng (tháng 12 - 1986) được chuẩn bị và đáp ứng những yêu cầu đó.
Tư tưởng cốt lõi của Đại hội VI là giải phóng mọi năng lực sản xuất hiện có,
khai thác mọi tiềm năng của đất nước và sử dụng có hiệu quả sự giúp đỡ quốc tế để
phát triển lực lượng sản xuất đi đôi với xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất xã hội
chủ nghĩa.4
Với ý nghĩa đó, chính sách đối ngoại đổi mới phải phá thế bao vây cấm vận,
cô lập của các thế lực thù địch từ đó lấy lại vị thế của ta trên trường quốc tế, tạo
điều kiện thuận lợi cho đất nước phát triển, góp sức mình vo s nghip chung ca
t nc.
4: Trích lịch sử Đảng CSVN - NXB Gi¸o dơc - 1997 trang 167
4
Trang 7
CHƯƠNG 2
QUAN HỆ QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN NAY
2.1. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI ĐỔI MỚI.
Mốc quan trọng nhất quyết định cho chính sách đối ngoại đổi mới là “Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng” họp tại Hà Nội.
Với quan điểm nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật. Đại hội VI đã
thẳng thắn và khách quan chỉ ra những sai lầm thiếu sót trong chính sách kinh tế, sự
lạc hậu về nhận thức lý luận và vận dụng các quy luật đang hoạt động trong thời kỳ
quá độ. Sau khi nghiêm khắc kiểm điểm Đại hội cho rằng để khắc phục những sai
lầm, khuyết điểm và những bất cập dẫn đến khủng hoảng Kinh tế - Xã hội đòi hỏi
phải đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế. Trên tinh thần đó Đại hội VI đã xác
định nhiệm vụ trên lĩnh vực đối ngoại trong thời gian tới là:
5
Trong những năm tới nhiệm vụ của Đảng và Nhà nước ta trên lĩnh vực đối
ngoại là: “Ra sức kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại, phấn đấu
giữ vững hồ bình ở Đơng Dương, góp phần tích cực giữ vững hồ bình ở Đơng
Nam Á và thế giới, tăng cường quan hệ hữu nghị và hợp tác toàn diện với Liên Xô
và các nước trong cộng đồng xã hội chủ nghĩa”.
Hoạt động đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta phải phục vụ cho cuộc đấu
tranh bảo vệ tổ quốc, giữ gìn an ninh chính trị, làm thất bại cuộc chiến tranh phá
hoại nhiều mặt của địch, tiếp tục làm tròn nghĩa vụ quốc tế với Campuchia và Lào.
Chúng ta cần tranh thủ những điều kiện thuận lợi mới về hợp tác kinh tế và khoa
học kỹ thuật, tham gia ngày càng rộng rãi việc phân công và hợp tác trong Hội đồng
tương trợ kinh tế, đồng thời tranh thủ mở rộng quan hệ với các nước khác.
Tăng cường hợp tác tồn diện với Liên Xơ ln ln là hịn đá tảng trong
chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta. Đồng thời tăng sự phối hợp với Liờn
5: Trích văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần VI- NXB Sự thật trang 99 (viết theo các văn kiện VI, VII, VIII)
5
Trang 8
Xô và các xã hội chủ nghĩa khác trong cuộc đấu tranh hồ bình và các mạng trên thế
giới, trước hết là ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương.
Đảng ta nhận thức sâu sắc rằng: “Phát triển và củng cố mối quan hệ đặc biệt
giữa ba nước Đông Dương, đồn kết và tơn trọng độc lập chủ quyền của mỗi nước,
hợp tác toàn diện, giúp đỡ lẫn nhau xây dựng và bảo vệ tổ quốc là quy luật sống còn
và phát triển của ba dân tộc anh em”.
Chúng ta tiếp tục tăng cường quan hệ hợp tác hữu nghị với các nước thành
viên Hội đồng tương trợ kinh tế. Chúng ta cũng mở rộng quan hệ với các nước xã
hội chủ nghĩa anh em khác như Anbani, Triều Tiên...
Là một thành viên của phong trào không liên kết, chúng ta phấn khởi trước
sự trưởng thành và vai trò của ngày càng to lớn của phong trào trong đời sống chính
trị quốc tế.
Đảng ta chủ trương tích cực góp phần vào việc tăng cường đoàn kết của
phong trào trên cơ sở chủ nghĩa Mac - Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản. Chúng ta
ủng hộ mạnh mẽ cuộc đấu tranh anh dũng của giai cấp công nhân và nhân dân ở các
nước tư bản chủ nghĩa phát triển. Ủng hộ mạnh mẽ đối với nhân dân Châu Phi đang
kiên cường đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa phân
biệt chủng tộc, chủ nghĩa Apacthai. Đoàn kết chặt chẽ với nhân dân các nước anh
em như: An-giê-ri và Cộng hoà dân chủ nhân dân Y-ê-men đang xây dựng cuộc
sống mới.
Đảng và Nhà nước ta kiên trì thực hiện chính sách đối ngoại hồ bình và hữu
nghị. Chúng ta chủ trương và ủng hộ chính sách cùng tồn tại hồ bình giữ các nước
có chế độ chính trị xã hội khác nhau, loại trừ chiến tranh xâm lược và mọi hình thức
của chủ nghĩa khủng bố.
Với Trung Quốc, Việt Nam sẵn sàng đàm phán với Trung quốc bất kỳ lúc
nào, bất cứ cấp nào và bất cứ ở đâu nhằm bình thường hố quan hệ giữa hai nước, vì
lợi ích của nhân dân hai nước, vì hồ bình ở Đơng Nam Á và trên thế giới.
Nhà nước ta chủ trương tăng cường và mở rộng quan hệ hữu nghị với Thuỵ
Điển, Phần Lan, Pháp, Oxtraylia, Nhật Bản và với các nước phương Tây khác trên
Trang 9
cơ sở bình đẳng cùng có lợi. Chính phủ ta tiếp tục bàn bạc với Mỹ giải quyết các
vấn đề nhân đạo do chiến tranh để lại và sẵn sàng cải thiện quan hệ với Mỹ vì lợi
ích của hồ bình ổn định ở Đơng Nam Á .
Đường lối đối ngoại đổi mới tiếp tục được khẳng định ở Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ VII.
Nhiệm vụ đối ngoại bao trùm trong thời gian tới là giữ vững hoà bình, mở
rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác, tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây
dựng xã hội chủ nghĩa và bảo vệ tổ quốc. Đồng thời góp phần tích cực vào cơng
cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hồ bình, độc lập dân tọc, dân chủ và
tiến bộ xã hội.
Cần nhạy bén nhận thức và dự báo được những diễn biến phức tạp và thay
đổi sâu sắc trong quan hệ quốc tế, sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất và
xu hướng quốc tế hoá của nền kinh tế thế giới để có những chủ trương đối ngoại
phù hợp. Trong điều kiện mới phải coi vận dụng bài học kết hợp sức mạnh dân tộc
với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế, yếu tố truyền
thống với yếu tố hiện đại để phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội
chủ nghĩa.
Chúng ta chủ trương hợp tác bình đẳng và cùng có lợi với tất cả các nước,
khơng phân biệt chế độ chính trị xã hội khác nhau trên cơ sở các ngun tắc cùng
tồn tại hồn bình. Trước sau như một tăng cường đoàn kết và hợp tác với Liên Xô,
đổi mới phương thức và nâng cao hiệu quả hợp tác Việt - Xơ nhằm đáp ứng lợi ích
của mỗi nước.
Khơng ngừng củng cố, phát triển quan hệ đồn kết và hữu nghị đặc biệt giữa
Đảng và nhân dân ta với Đảng và nhân dân Lào, Đảng và nhân dân Campuchia anh
em. Đổi mới phương thức hợp tác, chú trọng hiệu quả theo ngun tắc bình đẳng,
tơn trọng độc lập, chủ quyền và lợi ích chính đáng của nhau. Phấn đấu góp phần
sớm đạt được một giải pháp chính trị tồn bộ về vấn đề Campuchia trên cơ sở tơn
trọng chủ quyền của Campuchia và Hiến chương LHQ.
Trang 10
Thúc đẩy q trình bình thường hố quan hệ với Trung Quốc, từng bước mở
rộng sự hợp tác Việt - Trung, giải quyết những vấn đề tồn tại giữa hai nước thông
qua thương lượng.
Củng cố và phát triển quan hệ hữu nghị, đoàn kết, hợp tác với Cu - Ba và các
nước xã hội chủ nghĩa khác.
Đảng cộng sản Việt Nam chủ trưng tăng cường quan hệ với các Đảng cộng
sản và cơng nhân, góp phần tích cực vào sự đoàn kết và hợp tác giữa các Đảng anh
em trên cơ sở chủ nghĩa Mac - Lênin, đấu tranh vì những mục tiêu cao cả của thời
đại.
Đoàn kết với lực lượng đấu tranh cho hồ bình, độc lập dân tộc, dân chủ và
tiến bộ xã hội, sẵn sàng thiết lập và mở rộng quan hệ với các đảng xã hội - dân chủ,
các phong trào dân chủ và tiến bộ trên thế giới.
Phát triển quan hệ đoàn kết, tin cậy và nâng cao hiệu quả hợp tác nhiều mặt
với Ấn Độ. Tiếp tục mở rộng hợp tác với các nước đang phát triển khác. Tiếp tục
củng cố và tăng cường phong trào không liên kết. Phát triển quan hệ hữu nghị với
các nước ở Đông Nam Á và Châu Á - Thái Bình Dương, phấn đấu cho một Đơng
Nam Á hồ bình, hữu nghị và hợp tác.
Mở rộng sự hợp tác bình đẳng cùng có lợi với các nước Bắc Âu, Tây Âu,
Nhật Bản và các nước phát triển khác. Thúc đẩy q trình bình thường quan hệ với
Hoa Kỳ.
Góp phần làm cho Liên Hợp Quốc phục vụ đắc lực hơn những mục tiêu của
nhân loại là hồ bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển. Hợp tác với các tổ chức
chuyên môn của LHQ và các tổ chức phi chính phủ.
Với chính sách đối ngoại rộng mở, chúng ta tuyên bố rằng: Việt Nam muốn
là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hồ bình, độc lập,
phát triển.
Việc Liên Xơ sụp đổ vào 22-12-1991 đã làm chấn động thế giới vì tốc độ
nhanh chóng của các sự kiện và ảnh hưởng mạnh mẽ tới các Đảng cộng sản trên thế
Trang 11
giới. Đứng trước tình hình đó, Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ III khoá
VII đã họp và đưa ra 4 phương châm xử lý trong hoạt động đối ngoại của ta là:
“Một là: Biết kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc
tế của giai cấp cơng nhân đảm bảo lợi ích chân chính của dân tộc.
Hai là: Giữ vững độc lập tự chủ, tự lực tự cường, đẩy mạnh đa dạng hoá, đa
phương hố nhưng hai vế đó khơng hề mâu thuẫn nhau mà thực ra là thống nhất,
phục vụ hỗ trợ cho nhau.
Ba là: Nắm vững hai mặt đối lập của hợp tác và đấu tranh trong quan hệ quốc
tế.
Bốn là: Nhìn rõ vai trò của các tổ chức khu vực, hợp tác tốt với tất cả các
nước trên thế giới, nhất là các nước lớn có vai trị kinh tế, chính trị cường quốc trên
thế giới”.
Bốn phương châm chỉ đạo trên đưa ra vào đúng thời điểm hợp lý, kịp thời
phát huy và đạt được những thành tựu tốt đẹp.
Trước những thành tựu của đường lối đối ngoại đổi mới Đại hội VI và VII,
Đại hội VIII tiếp tục đường lối đối ngoại đổi mới chỉ ra đường lối chính sách đối
ngoại tới mọi chủ thể trên thế giới.
Đại hội VIII chỉ rõ: “ Nhiệm vụ đối ngoại trong thời gian tới là củng cố mơi
trường hồ bình và tạo điều kiện quốc tế thuận lợi hơn nữa để đẩy mạnh phát triển
kinh tế - xã hội, cơng nghiệp hố - hiện đại hoá đất nước, phục vụ sự nghiệp xây
dựng và bảo vệc tổ quốc, góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân
thế giới vì hồ bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Tiếp tục thực hiện chính sách đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa phương
hoá, đa dạng hoá với tinh thần Việt Nam muốn là bạn của tất cả các nước trong cộng
đồng thế giới, phấn đấu vì hồ bình, độc lập và phát triển.
Mở rộng quan hệ quốc tế, hợp tác nhiều mặt, song phương và đa phương với
các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực trên ngun tắc tơn trọng độc lập, chủ
quyền, tồn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau,
Trang 12
bình đẳng cùng có lợi, thơng qua thương lượng để tìm những giải pháp phù hợp giải
quyết những vấn đề tồn tại và các tranh chấp, đảm bảo hồ bình, ổn định, an ninh,
hợp tác và phát triển.
Tăng cường quan hệ với các nước láng giềng và các nước trong tổ chức
ASEAN, không ngừng củng cố quan hệ với các nước bạn bè truyền thống, coi trọng
quan hệ với các nước phát triển và các trung tâm kinh tế - chính trị trên thế giới.
Đồng thời ln nêu cao tinh thần đoàn kết anh em với các nước đang phát triển ở
Châu á, Châu Phi, Mỹ Latinh và phong trào không liên kết.
Tăng cường quan hệ với các tổ chức của Liên Hợp Quốc và các tổ chức quốc
tế khác. Tích cực hoạt động ở các diễn đàn quốc tế, tham gia giải quyết các vấn đề
toàn cầu. Ủng hộ cuộc đấu tranh loại trừ vũ khí hạt nhân và các phương tiện giết
người hàng loạt khác.
Phát triển quan hệ với các Đảng sản và công nhân, các lực lượng cách mạng,
độc lập dân tộc và tiến bộ, thiết lập và mở rộng quan hệ với các đảng cầm quyền và
các đảng khác
Mở rộng quan hệ đối ngoại nhân dân, quan hệ với các tổ chức phi chính phủ,
tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ rộng rãi của nhân dân các nước, góp phần thúc đẩy
xu thế hồ bình, hợp tác, phát triển.
Trên đây là những nội dung cơ bản của chính sách đối ngoại qua từng thời kỳ
tổ chức đại hội, chính sách đổi mới này được áp dụng trong bối cảnh quốc tế có
nhiều biến động và tác động trực tiếp đến Việt Nam. Nhưng tựu chung lại đây là
đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hoá, đa phương hoá theo tinh thầm
Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trên thế giới, phấn đấu vì hồ bình, độc
lập dân tộc và phát triển.
2.2. QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN ĐƯỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI ĐỔI MỚI.
Chính sách đối ngoại đổi mới mà đại hội VI đề ra là kiên trì thực hiện nhiệm
vụ chiến lược giữ vững hồ bình, tranh thủ điều kiện quốc tế thuận lợi, tập trung cao
nhất, nhằm từng bước ổn định và tạo cơ sở cho phát triển kinh tế trong vòng 25 năm
đến 30 năm (tức đến năm 2020), xây dựng chủ nghĩa xã hội, bảo vệ độc lập của tổ
Trang 13
quốc góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung cho hồ bình, độc lập dân tộc,
dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Đây là mục tiêu chiến lược và ích lợi cao nhất của toàn
Đảng và toàn dân ta. Chính sách đối ngoại đổi mới phải góp sức mình vào sự nghiệp
chung đó.
Ngay sau khi đưa chính sách đối ngoại vào thực hiện, Đảng và nhà nước đã
“đưa vấn đề Campuchia ra để giải quyết bằng con đường hoà bình”. Những giải
pháp đưa ra trong chính sách để giải quyết vấn đề Campuchia, đã có tác động thúc
đẩy tác động đến một giải pháp chung trong vấn đề Campuchia đi đến một giải pháp
hồ bình tồn diện, đến năm 1989 thì cơ bản hồn thành bằng tun bố về một giải
pháp chính trị tồn diện cho xung đột ở Campuchia. Việt Nam và ASEAN cùng tìm
ra một giải pháp đồng bộ cho vấn đề này, từ đây 2 nhóm nước hiểu nhau hơn, tin
tưởng nhau hơn. Điều đó có ý nghĩa rất to lớn trong việc mang lại ổn định an ninh
cho khu vực và làm giảm nguy cơ xung đột tại khu vực Đông Nam Á vốn đang tiềm
tàng nhiều mâu thuẫn giữa các nước. Đây chính là thành cơng đầu tiên của chính
sách đối ngoại đổi mới. Bắt đầu từ thành cơng này tình hình ở Đơng Nam Á được
cải thiện từ đối đầu sang đối thoại, tạo xu thế hồ bình, hữu nghị, hợp tác. Với các
nước Đông Nam Á, nước ta chủ trương mở rộng quan hệ về mọi mặt trên nguyên
tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, hai
bên cùng có lợi. Những năm qua cũng đã ghi nhận những cố gắng to lớn của nhà
nước ta trong việc cải thiện quan hệ với các nước khu vực Đông Nam Á - ASEAN.
Tháng giêng năm 1989, Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh tuyên bố “Cộng hoà
xã hội chủ nghĩa Việt Nam sẵn sàng quan hệ hữu nghị với các nước ASEAN và các
nước khác trong khu vực6. Từ đây các cuộc đi thăm lẫn nhau của các nhà lãnh đạo
cấp cao Việt Nam và của các nước ASEAN đã đạt được những thoả thuận quan
trọng và đặt nền móng cho một thời kỳ mới trong quan hệ giữa nước ta với các nước
ASEAN. Ngày 22 tháng 7 năm 1992, Việt Nam tham ký hiệp ước thân thiện Bali và
trở thành quan sát viên của ASEAN. Có thể nói đây là một tiền đề quan trọng cho sự
hội nhập của Việt Nam sau này. Ngày 28/7/1995 Vit Nam ó tr thnh thnh viờn
6: Trích Lu Văn Lai: 50 năm ngoại giao Việt Nam (1945-1995) Tập II - NXB Công an nhân dân trang
251-252
6
Trang 14
chính thức của ASEAN, đây là một thành cơng to lớn của ngoại giao Việt Nam, có ý
nghiã quyết định cho tiến trình hội nhập khu vực và thế giới của Việt Nam.
Sau khi hội nhập ASEAN, Việt Nam đã trở thành nhân tố rất năng động của
tổ chức này, sau sự tổ chức thành công của hội nghị cấp cao ASEAN tháng 12/1998
ở Hà Nội, Việt Nam càng chứng tỏ là một hạt nhân tích cực của tổ chức này. Quan
hệ hợp tác kinh tế, thương mại giữa Việt Nam và các nước ASEAN ngày càng được
đẩy mạnh.
Năm 1994 thương mại 2 chiều đạt 2,4 tỷ USD, chiếm 28% tổng kim ngạch
ngoại thương của Việt Nam. Đến năm 1996 tăng lên 6 tỷ USD chiếm 33% kim
ngạch xuất khẩu và 27% kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam. Cho đến năm 1998
khi cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ đang ở đỉnh cao thì các nước ASEAN vẫn
chiếm 25% kim ngạch xuất khẩu và 18% đầu tư nước ngoài vào Việt Nam 7.
Sau khi hội nhập ASEAN, chúng ta tham gia vào khu vực mậu dịch tự do
ASEAN (AFTA). Tuy nhiên, do sự chênh lệch về trình độ phát triển giữa Việt Nam
và một số nước trong khuôn khổ AETA nên Việt Nam cần có thời gian để điều
chỉnh. Các nước ASEAN đã đồng ý kéo dài thời hạn giảm thuế quan của Việt Nam
đến năm 2006 thay vì 2003 như các thành viên khác.
Mặc dù được đánh giá là khu vực phát triển năng động của Châu Á - Thái
Bình Dương và của thế giới, nhưng cuộc khủng hoảng tiền tệ năm 1997 đã ảnh
hưởng tiêu cực đến sự phát triển chung của khu vực, đối phó với vấn đề này là rất
khó, địi hỏi các nước ASEAN nói chung và Việt Nam nói riêng cần phải nghiên
cứu, rút kinh nghiệm và đề ra những giải pháp mang tính phịng ngừa hữu hiệu, xây
dựng mơ hình phát triển bền vững hơn, ổn định hơn cho từng thành viên của tồn
khu vực.
Tóm lại, việc gia nhập ASEAN của Việt Nam là hướng đúng. Về kinh tế, ta
có thể tranh thủ được vốn, công nghệ và kinh nghiệm quản lý từ các nước ASEAN
tiên tiến. Tạo điều kiện thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển, mở rộng thị trường
trong khu vực.
7: §HKTQD kinh tÕ quèc tÕ - NXB Thèng kê - Hà Nội, 1998 trang 139
7
Trang 15
Về an ninh, chính trị, Việt Nam tham gia vào diễn đàn khu vực ASEAN
chuyên bàn về những vấn đề an ninh khu vực ASEAN (ARF), khi tham gia vào
ASEAN chúng ta có thể góp phần củng cố mơi trường xung quanh mình, tạo dựng
một vành đai an tồn mang tính chiến lược, bên cạnh đó khi tham gia vào ASEAN
tiếng nói của Việt Nam sẽ có thế và lực hơn trên thị trường quốc tế. Hơn nữa, nếu
các nước ASEAN gạt bỏ được những bất đồng tranh chấp không đáng kể để đi tới
một đồng thuận trong việc giải quyết vấn đề tranh chấp ở Biển Đông đối với Trung
Quốc thì tình hình sẽ bớt đi căng thẳng, nhanh
*Đối với Trung Quốc
Việt Nam - Trung Quốc là hai nước láng giềng gần, có quan hệ hữu nghị văn
hố và lịch sử lâu dài. Chúng ta ln q trọng tình hữu nghị với nhân dân Trung
Quốc, với mong muốn khôi phục lại mối quan hệ hữu nghị giữa hai dân tộc. Trong
yêu cầu để hai bên Việt - Trung có thể đi đến bình thường hố quan hệ đó là thế giới
đang tích cực chuyển từ đối đầu sang đối thoại, mọi vấn đề tranh chấp quốc tế, các
quốc gia trên thế giới ngày càng đi theo xu thế giải quyết bằng thương lượng hồ
bình. Nhu cầu hồ bình là vấn đề “tự thân” các nước phải phấn đấu, bởi chỉ có hồ
bình mới có thể “dồn” sức cho phát triển kinh tế và quan hệ Việt - Trung cũng
không nằm ngồi quy luật đó. Trong vấn đề đặt lại quan hệ ngoại giao giữa hai
nước, cả hai nước đề nhằm tới một mục tiêu là gạt bỏ đối đầu, mọi tranh chấp về
biên giới lãnh hải và các vấn đề xung đột giữa hai nước đều giải quyết bằng thương
lượng hồ bình. Ngồi ra hai nước cịn muốn khơi phục lại quan hệ ngoại giao
truyền thống có từ lâu do hai lãnh tụ Mao Trạch Đơng và Hồ Chí Minh vun đắp cho
tình hữu nghị của hai dân tộc.
Cùng với việc nối lại mối quan hệ ngoại giao hai nước cịn tìm thấy ở nhau
những tiềm năng có thể hợp tác được trong vấn đề kinh tế, như nhu cầu thị trường
của hai bên đều lớn do hai nước cùng thi hành chính sách phát triển kinh tế dựa vào
xuất khẩu là chính. Việt Nam mong muốn Trung Quốc giúp ta sửa chữa nâng cấp
một số nhà máy, xí nghiệp mà Trung Quốc giúp ta xây dựng trước kia như nhà máy
gang thép Thái Nguyên và các nhà máy xi măng lị đứng của Trung Quốc. Cịn phía
Trung Quốc có nhu cầu về nguồn nguyên liệu lớn nhất là nguồn nguyên liệu than
Trang 16
đá, trong khi Việt Nam có thế mạnh ở điểm này, ngoài ra Trung Quốc cần một thị
trường tiêu thụ hàng hoá tiêu dùng do các địa phương giáp Việt Nam sản xuất...
Tính đến khi hai bên cùng mở cửa biên giới cho hai bên giao lưu buôn bán hàng hố
thì hàng hố Trung Quốc tràn vào Việt Nam rất nhiều, nhất là hàng tiêu dùng với giá
cả mẫu mã phong phú.
Có thể đánh giá nhu cầu hai bên về việc bình thường hố quan hệ là rất cần
thiết. Nhất là đối với Việt Nam, việc bình thường hố quan hệ với Trung Quốc giúp
nước ta có thêm bạn bè, tạo môi trường thuận lợi để phá vỡ thế bao vây cô lập...
Khôi phục và phát triển quan hệ với Trung Quốc là nhiệm vụ trọng tâm của nước ta
trong chính sách đối ngoại đối nội.
Các cuộc gặp cấp cao Việt Trung từ tháng 9/1990 diễn ra tại Thành Đô
(Trung Quốc)8 đã mở ra một trang sử mới trong việc khai thông quan hệ giữa hai
nước, đến trung tuần tháng 11 năm 1991 tại Bắc Kinh hai bên đã ra thơng cáo
chung: việc bình thường hố quan hệ Việt - Trung phù hợp với lợi căn bản, lâu dài
của nhân dân hai nước, có lợi cho hồ bình ổn định ở khu vực, đây là sự kiện “khép
lại quá khứ, mở ra tương lai” hai nước là đồng chí, khơng phải là đồng minh. Tranh
chấp giữa hai nước cần được được giải quyết theo hiến chương LHQ và luật pháp
quốc tế, thơng qua thương lượng hồ bình, khơng được sử dụng vũ lực hoặc đe doạ
sử dụng vũ lực.
Tuy nhiên các vấn đề cần giải quyết giữa hai nước là: vấn đề biên giới trên
bộ, tranh chấp ở biển Đông, phân định vịnh Bắc Bộ. Tháng 10 năm 1993 Tổng bí
thư Đỗ Mười đã tuyên bố “Việt Nam chủ trương giải quyết tranh chấp giữa các
nước, kể cả tranh chấp về các quần đảo ở Biển Đông, thông qua thương lượng hồ
bình trên tinh thần bình đẳng, hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau, tôn trọng luật pháp
quốc tế và Công ước về luật biển năm 1982 và chủ quyền các nước ven biển đối với
vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của họ”9.
Đến ngày 30-12-1999, hai nước đã hồn thành phân định 164 điểm cịn tranh
chấp biên giới trên bộ và ký kết Hiệp định biên giới trờn b. Cũn nhng vn cũn
8: Trích Lu Văn Lợii: 50 năm NGVN Tập II - NXB Công an nhân dân trang 209
8
9: Trích Lu Văn Lợi: 50 năm NGVN Tập II - NXB Công an nhân dân trang 219-220
9
Trang 17
lại như: phân định vịch Bắc Bộ và những vấn đề khác do lịch sử để lại. Qua các
cuộc gặp gỡ hàng năm, hai bên đã thống nhất về nguyên tắc: Khai thác những điểm
chung, gác lại những bất đồng, cùng nhau thương lượng, giải quyết từng bước trên
cơ sở hiểu biết, tơn trọng lẫn nhau và cùng có lợi. Bước sang giai đoạn mới, hai bên
thống nhất cần phải đẩy mạnh hơn nữa quan hệ hữu nghị, hợp tác lên một bước mới
về chất cho phù hợp với nhu cầu lợi ích của hai bên.
Trong chuyến thăm hữu nghị Trung Quốc của Tổng bí thư Đảng cộng sản Lê
Khả Phiêu đầu năm 1999, hai bên đã thảo luận thống nhất về nguyên tắc quan hệ
Việt - Trung từ nay sẽ phát triển theo tinh thần 16 chữ:
“Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện
Ổn định lâu dài, hướng tới tương lai”
Ngày 26 - 12 - 2000 nhân chuyến thăm của Chủ tịch nước Trần Đức Lương
đã ra một thông cáo chung về Hợp tác toàn diện và ký Hiệp ước phân định vị trí Bắc
Bộ
* Đối với Mỹ.
Một thành công của công tác đối ngoại trong giai đoạn đổi mới là việc Việt
Nam bình thường hố quan hệ với Mỹ vào ngày 11-7-1995, khép lại một quá khứ
đau thương và mở ra tương lai trong quan hệ hai nước.
Trước sự thay đổi của thế giới, trước chính sách đối ngoại đổi mới rộng mở
cùng tồn tại hồ bình của Việt Nam (1986) và những thiện chí của Việt Nam trong
vấn đề POW và MIA (người Mỹ mất tích trong cuộc chiến tranh ở Việt Nam), chính
quyền Mỹ đã phải thay đổi chính sách của mình, đã tun bố xố bỏ cấm vận đối
với Việt Nam (3-2-1994). Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam cũng ra tuyên bố hoan nghênh tuyên bố của Chính phủ Mỹ và bày tỏ sẵn
sàng “khép lại quá khứ, hướng tới tương lai”.
Ngày 11-7-1995, Tổng thống Mỹ Clinton tuyên bố về việc bình thường hố
quan hệ với Việt Nam “Hơm nay tơi loan báo việc bình thường hố các quan h
ngoi giao vi Vit Nam 10
10: Trích Lu Văn Lợi: 50 năm NGVN Tập II - NXB Công an nhân d©n trang 280
10
Trang 18
Đầu tháng 8/1995, Hoa Kỳ và Việt Nam đã chính thức lập quan hệ ngoại
giao và mở đại sứ quán ở thủ đơ hai nước.
Có thể thấy rằng chiến lược của Mỹ đối với Việt Nam hiện nay là một bộ
phận nằm trong chiếm lược toàn cầu của Mỹ. Mỹ rất chú trọng đến vị trí chiến lược
của Việt Nam ở khu vực Châu Á Thái Bình Dương trong đó bao gồm cả Đông Nam
Á.
Nội dung chiến lược của Mỹ đối với Việt Nam trong giai đoạn hiện nay bao
gồm những trọng điểm sau:
- Bình thường hố quan hệ với Việt Nam giúp cho Mỹ có cơ hội xố bỏ được
những mâu thuẫn trong nội bộ nước Mỹ. Giải quyết hết những di sản của chiến
tranh trước đây, đồng thời mở đường cho các nhà kinh doanh Mỹ thâm nhập thị
trường Việt Nam buôn bán và đầu tư, đem lại thêm lợi nhuận, việc làm và lợi thế
mới cho Mỹ trong cuộc cạnh tranh kinh tế và thương mại toàn cầu hiện nay.
Tuyên bố của Tổng thống Mỹ Bill- Clinton về việc bình thường hố quan hệ
với Việt Nam đã nêu rõ những vấn đề mà Mỹ rất quan tâm. Đó là, việc tìm kiếm hết
những người Mỹ mất tích trong chiến tranh, tạo điều kiện cho Mỹ thoát khỏi “hội
chứng Việt Nam” và làm cho xã hội Mỹ khỏi bị chia rẽ. Mỹ cũng hy vọng Việt Nam
sẽ phồn vinh hơn với sự hỗ trợ của Mỹ trong tương lai để thực hiện nền kinh tế thị
trường và mở cửa.
Chỉ sau ba năm bình thường hố quan hệ với Việt Nam, Mỹ đã trở thành một
trong những nước đầu tư lớn vào Việt Nam (trên 1 tỷ USD - đứng hàng thứ 8), kim
ngạch buôn bán giữa hai nước tăng lên nhanh chóng hàng năm. Tương lai Mỹ có thể
là nước dẫn trong việc đầu tư và buôn bán với Việt Nam. Tất cả các công ty lớn của
Mỹ đã mở văn phịng ở Việt Nam.
- Bên cạnh đó Mỹ theo chiến lược lâu dài, thực hiện “diễn biến hồ bình” để
chuyển hố Việt Nam đi vào quỹ đạo của Mỹ, triệt tiêu mục tiêu và bản chất xã hội
chủ nghĩa của Việt Nam.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản của Việt Nam, toàn quân, toàn dân ta
đoàn kết với tinh thần “Việt Nam muốn là bạn của tất cả các nước trong cộng đồng
Trang 19
thế giới, phấn đấu vì hồ bình, độc lập và phát triển”. Thực hiện đa dạng hoá, đa
phương hoá các quan hệ đối ngoại, tranh thủ sức mạnh của thời đại kết hợp với việc
phát huy nội lực đất nước và con người Việt Nam, nhất định chúng ta sẽ thực hiện
thành công sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Mọi âm
mưu nham hiểm của các thế lực thù địch nhất định sẽ bị thất bại.
Trong quan hệ với Mỹ, Chính phủ Việt Nam ln luôn xuất phát từ lập
trường nguyên tắc là đảm bảo “ cho quan hệ giữa hai nước trên cơ sở bình đẳng, tơn
trọng độc lập, chủ quyền, khơng can thiệp vào cơng việc nội bộ của nhau, cùng có
lợi và phù hợp với các nguyên tắc phổ biến của luật pháp quốc tế.11
Đến ngày 19-7-2000 hai nước Việt Nam - Mỹđã hoàn thành việc ký kết Hiệp
định thương mại giữa hai nước, đánh dấu sự phát triển hơn nữa quan hệ thương mại
giữa hai nước. Và gần đây nhất, chuyến đi thăm lịch sử lần đầu tiên của Tổng thống
Mỹ W.J.Clinton từ ngày 16 đến ngày 19-11-2000 đã đánh dấu mong muốn hơn nữa
phát triển trong quan hệ giữa hai nước trên tinh thần “Khép lại quá khứ, hướng tới
tương lai” phấn đấu vì lợi ích của nhân dân hai nước.
Tóm lại, bình thường hố quan hệ với Mỹ là một thành công quan trọng của
ngoại giao Việt Nam. Việt Nam đã đánh bại âm mưu cô lập, cấm vận về kinh tế của
các thế lực thù địch đối với Việt Nam và các nước, các tổ chức quốc tế khác. Bình
thường hố quan hệ Việt - Mỹ mở ra cho Việt Nam những cơ hội mới, đồng thời
cũng tạo ra những thách thức mới. Việt Nam cần khai thác những mặt thuận lợi để
thúc đẩy phát triển kinh tế đồng thời luôn phải cảnh giác với âm mưu “Diễn biến
hồ bình” của Mỹ.
* Đối với EU.
Trong chính sách đối ngoại đổi mới của Việt Nam, việc tăng cường hợp tác
và mở rộng quan hệ với các nước EU là rất quan trọng. Bởi đây là một trong ba
trung tâm kinh tế chính trị của thế giới có thế mạnh đặc biệt về vốn và công nghệ.
Tranh thủ được các nước Tây, Bắc Âu này sẽ tạo điều kiện rất thuận lợi cho sự
nghiệp cơng nghiệp hố và hiện đại hố đất nước ta. Việc thi hành chính sách đổi
mới của Việt Nam đã tạo cơ sở, hành lang vững chắc cho quan hệ của Việt Nam với
11: Tuyªn bè của Thủ tớng CHXHCNVN Võ Văn Kiệt - Báo Nhân d©n 13/7/1995
11
Trang 20
các quốc gia trên khu vực này. Ngay từ khi Mỹ chưa gỡ bỏ lệnh cấm vận đối với
Việt Nam, các quốc gia EU đã khởi động quan hệ kinh tế thương mại với nước ta,
nối lại ODA (viện trợ khơng hồn lại) cho Việt Nam.
Ngay từ 22 - 10 -1990 nước ta và EU ký hiệp định về lập quan hệ ngoại giao
và trao đổi Đại sứ. Đây là bước phát triển quan trọng thể hiện thiện chí quan hệ hợp
tác giữa hai bên. Từ đó quan hệ hợp tác ta và EU không ngừng được tăng cường và
mở rộng. Ta chủ trương thúc đẩy quan hệ hợp tác với các nước EU và cả cộng đồng
Châu Âu dưới cả hai hình thức: song phương và đa phương. Do vậy “Pháp đã vận
động các nước EC và EU cho Việt Nam vay 1 tỷ 800 triệu USD năm 1994 và 2 tỷ
USD năm 1995”12 và từ khi Mỹ bỏ cấm vận, các tổ chức IMF, WB đã cho Việt Nam
vay 1 tỷ 500 triệu USD”12. Ngày 17-7-1995, tại trụ sở EU ở Bruxcells (Bỉ) Bộ
trưởng ngoại giao Việt Nam Nguyễn Mạnh Cầm và Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng
liên minh Châu Âu Javier Salana đã ký chính thức hiệp định hợp tác giữa Cộng hoà
xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng đồng Châu Âu trước sự chứng kiến của 15 bộ
trưởng ngoại giao của 15 nước thành viên EU. Hiệp định này quy định những điều
khoản về đầu tư, thương mại, buôn bán trao đỏi, cho vay... giữa EU và Việt Nam,
tạo dựng một môi trường thuận lợi để mở rộng quan hệ hợp tác trên nhiều lĩnh vực
giữa hai bên. Tháng 9-1996, Uỷ ban hỗn hợp Việt Nam - EU họp tại Hà Nội đã ký
hai văn kiện quan trọng, đó là: Chiến lược hợp tác Việt Nam - EU 1996-2000 và
chương trình hành động có định hướng 3 năm 1996-1998, lập ra 3 tổ công tác hỗ
hợp phụ trách các lĩnh vực hợp tác phát triển, kinh tế, đầu tư. Tháng 3-1997, Việt
Nam chính thức tham gia hiệp định hợp tác ASEAN - Eu. Hai bên đã thực hiện
nhiều chuyến thăm cấp cao, tăng cường hợp tác chính trị. Là một nước thành viên
của ASEAN, Việt Nam đã tham dự cuộc gặp cấp cao Á - Âu lần thứ nhất (1996) và
lần thứ hai (1998) gọi tắt là ASEM-1 và ASEM-2, lần thứ ba tại Xơun (Hàn Quốc) ASEM 3. Đây là một cơ chế hợp tác liên châu lục, giữa một châu Âu hiện đại đang
phát triển, giầu tiềm năng.
Tóm lại, việc mở rộng quan hệ, thúc đẩy hợp tác giữa Việt Nam và Eu là chủ
trương đúng đắn phù hợp với quan điểm đa dạng hố, đa phương hố mà Đảng ta đã
12: Ngun Minh Hằng - Cải cách Kinh tế ở CHND Trung Hoa - Lùa chän míi cho sù ph¸t triĨn - NXB
1995 trang 19 -Hội thảo khoa học: 50 năm NGVN dới sự lÃnh đạo của Đảng - Viện QHQT, 1995 trang 19
12
Trang 21
đề ra cho công tác đối ngoại trong thời kỳ đổi mới. Tăng cường quan hệ với EU sẽ
có lợi rất lớn đối với sự nghiệp phát triển kinh tế của nước ta. Song chúng ta cũng
không quên rằng đa số thành viên EU là đồng minh chiến lược của Mỹ, cùng chung
những giá trị về dân chủ tự do kiểu phương Tây.
Vì vậy, việc thúc đẩy, mở rộng quan hệ dựa trên cơ sở thận trọng, cân nhắc
kỹ lưỡng, nắm vững nguyên tắc độc lập tự chủ vừa hợp tác vừa đấu tranh trong
cùng tồn tại hồ bình.
* Đối với Liên bang Nga.
Sau khi Liên Xô tan rã (1991), so với 14 nước cộng hồ cịn lại, Liên bang
Nga là nước lớn nhất kế thừa Liên Xô về mọi mặt. Bước lên vũ đài quốc tế với một
thể chế chính trị mới, với những hành trang trong đó có chính sách đối ngoại “ Định
hướng Đại Tây Dương” được áp dụng trong giai đoạn từ 1991-1993. Nội dung cơ
bản của chính sách đối ngoại này là thân phương Tây, tìm kiếm sự cơng nhận về
mặt ngoại giao và thu hút vốn đầu tư từ phương Tây để khôi phục nền kinh tế. Vì
vậy, quan hệ Việt - Nga thời kỳ này cơ bản là ngưng trệ, một phần do chính sách đối
ngoại của Liên bang Nga, phần khác Việt Nam cũng muốn có thời gian để nhận diện
lại đối tác của minh.
Từ 1994 đến nay, quan hệ Việt - Nga đã có những chuyển biển tích cực,
trước hết do sự điều chỉnh trong chính sách đối ngoại của Liên Bang Ngan và các
cuộc viếng thăm của lãnh đạo hai nước.
Với việc phát triển quan hệ với Liên Bang Nga, một bạn hàng truyền thống,
Việt Nam có thể đi trước các nước trong khu vực trong việc tranh thủ thị trường gần
170 triệu dân, có thể tranh thủ các nước SNG khác. Ngược lại Nga cũng muốn thông
qua bạn hàng truyền thống là Việt Nam để vũ khí Nga thâm nhập và thị trường
ASEAN.
Hiện nay lĩnh vực hợp tác mà hai nước Việt Nam và Liên Bang Nga quan
tâm nhất là dầu khí, tiêu biểu là VietSopetro, nhà máy lọc dầu Dung Quất...
Nói chung, trong xu thế tồn cầu hố, quốc tế hoá nền kinh tế thế giới hiện
nay, việc thúc đẩy quan hệ hợp tác với các nước lớn như Liên Bang Nga sẽ rất có lợi
Trang 22
cho việc phát triển kinh tế của các nước đang phát triển như Việt Nam. Mặc dù quan
hệ hợp tá giữa hai nước hiện nay chưa tương xứng với tiềm năng của hai nước.
Song với những ưu thế của mình, Liên Bang Nga - Việt Nam sẽ trở thành đối tác
quan trọng của nhau vì lợi ích của nhân dân hai nước.
* Bên cạnh việc thúc đẩy quan hệ với các nước, các nước láng giềng và
truyền thống, chính sách đối ngoại đổi mới của Việt Nam cũng rất chú trọng
đến khu vực Châu Á - Thái Bình Dương.
Được đánh giá là khu vực năng động nhất của thế giới, thế kỷ XXI là thế kỷ
của Châu Á - Thái Bình Dương. Khu vực này đã, đang và sẽ là một điểm nóng của
nền kinh tế thế giới.
Việt Nam chủ trương mở rộng các nước của khu vực này, từ Đơng Bắc Á
đến Nam Thái Bình Dương. Nhiều nước ở đây có nền kinh tế phát triển cao và giàu
tiềm năng như Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc, Nga... Bằng sự nỗ lực hoạt động ngoại
giao từ sau khi áp dụng chính sách đối ngoại đổi mới, Việt Nam đã có những bước
phát triển mạnh mẽ trong quan hệ với các nước ở khu vực này. Đối với Nhật Bản,
quan hệ giữa hai nước được đánh dấu bằng hành động mở lại viện trợ phát triển
(ODA) cho Việt Nam của Nhật Bản. Sau 14 năm gián đoạn, đây là bước khởi đầu
thuận lợi, tạo ấn tượng tốt đẹp thúc đẩy quan hệ hợp tác giữa hai nước. Những cuộc
đi thăm chính thức của các quan chức cấp cao giữa hai nước đã taok tiền đề cho
quan hệ buôn bán, đầu tư trên quy mô lớn của Nhật Bản vào Việt Nam.
Về cơ bản, cho đến năm 1997 đã có 9 nước thuộc khu vực Châu Á - Thái
Bình Dương trong tổng số 11 nước đầu tư vào Việt Nam hơn 1 tỷ USD. Đó là
Singapore 4918,8 triệu USD; Đài Loan 4255,3 USD; Hồng Kông 3433,8 triệu USD;
Nhật Bản 3275,1 triệu USD; Hàn Quốc3053,3 triệu USD; Thái Lan 1035 triệu USD
và Malayxia 1048 triệu USD13. Có thể nói sự thật đây là những đối tác quan trọng
của Việt Nam. Ta không chỉ khai thác được ở họ vốn, công nghệ hay các kỹ năng
quản lý mà cịn có thể học hỏi, rút kinh nghiệm từ quá trình phát triển kinh tế của
các nc ny.
13
13: Dơng Ngọc: Đầu t nớc ngoài qua những con sè - Thêi b¸o kinh tÕ ViƯt Nam 14/2/1998 trang 8
Trang 23
Để mở rộng quan hệ hợp tác và phù hợp với chủ trương đã đề ta, chúng ta
không dừng lại ở mức độ hợp tác song phương mà còn đẩy mạnh quan hệ đa
phương của khu cực. Tháng 6-1996 ta đã chính thức nộp đơn xin ra nhập tổ chức
Hợp tác kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (APEC). Với những nỗ lực trong việc
tham gia ASEAN, APEC chúng ta đã thực hiện thành cơng chính sách đối ngoại khu
vực và thế giới.
Cùng với việc tăng cường và mở rộng quan hệ hợp tác với các nước, các khu
vực trên thế giới trong thời gian qua, ngoại giao Việt Nam cịn tham gia tích cực vào
việc giải quyết những vấn đề tồn cầu như mơi trường, dân số, y tế, giáo dục... Năm
1997, Việt Nam được bầu làm phó chủ tịch Đại hội đồng Liên Hợp Quốc khoá 52
(1997 - 1998). Việt Nam còn được bầu làm uỷ viên Hội đồng kinh tế - xã hội của
LHQ (ECOSOC), một cơ quan quan trọng vào bậc nhất của LHQ. Là thành viên
mới của Hội nghị giải trừ quân bị, Việt Nam đã tham gia soạn thảo và ký kết hiệp
ước cấm thử vũ khí hạt nhân tồn diện (CTBT). Bên cạnh đó ta cũng góp phần tích
cực vào mục tiêu chung là đòi cải tổ LHQ theo hướng dân chủ hố, đảm bảo quyền
bình đẳng giữa các quốc gia. Ngồi ra chúng ta tham gia tích cực và chủ động vào tổ
chức không liên kết, thúc đẩy hợp tác giữa các nước G77 kêu gọi tăng cường hợp
tác Nam - Nam, đấu tranh vì cơng bằng trong quan hệ Bắc - Nam. Không những thế
chúng ta cũng là một nhân tố năng động trong cộng đồng các nước có sử dụng tiếng
Pháp. Điều này đã được chứng tỏ bằng việc tổ chức thành cơng Hội nghị thượng
đỉnh các nước có sử dụng tiếng Pháp vào cuối tháng 5-1998 đã gây ấn tượng tốt đẹp
đối với các thành việc của tổ chức này.
* Đối với các Đảng cộng sản và công nhân quốc tế. Trong điều kiện
phong trào đảng cộng sản và cơng nhân quốc tế đang bị thối trào, quan hệ giữa các
Đảng cộng sản và Nhà nước với các Đảng cộng sản và công nhân quốc tế được
chúng ta coi là ưu tiên trong chính sách đối ngoại. Đại hội VIII đã khẳng định:
“Đảng ta tiếp tục phát triển quan hệ đoàn kết, hữu nghị với các Đảng cộng sản và
công nhân, các phong trào độc lập dân tộc, các tổ chức và phong trào tiến bộ trên thế
giới.14
14: Đảng CSVN - Văn kiện Đậi hội VIII - NXB ChÝnh trÞ quèc gia trang 62
14
Trang 24
Đối với các Đảng cộng sản và công nhân đang cầm quyền, Đảng cộng sản
Việt Nam tăng cường đoàn kết, hữu nghị trên cơ sở tôn trọng độc lập, tự chủ với
tinh thần khai thác những điểm tương đồng, hạn chế bất đồng, phấn đấu vì mục tiêu
xã hội chủ nghíac. Các Đảng cộng sản và cơng nhân cầm quyền hiện nay chỉ cịn 5
nước, đó là Việt Nam; Trung Quốc; Lào; CuBa; Bắc Triều Tiên. Với Là và CuBa
quan hệ đó vừa là quan hệ với các Đảng cộng sản và công nhân, vừa là quan hệ với
các nước láng giềng.
Bên cạnh việc xây dựng quan hệ tốt với Trung Quốc, Lào. Đối với CuBa,
Việt Nam luôn khẳng định đây là mối quan hệ tốt đẹp truyền thống. Việt Nam cũng
ln ủng hộ cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân CuBa vì mục tiêu hồ bình,
đọc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Việt Nam tích cực giúp đỡ CuBa trong
khả năng cho phép của mình. Với Cộng hồ nhân dân Triều Tiên, Việt Nam vẫn giữ
vững hợp tác, quan hệ hữu nghị bình đẳng, ủng hộ sự nghiệp thống nhất đất nước
của nhân dân Triều Tiên. Gần đâu quan hệ giữa hai Đảng và hai Nhà nước có những
bước tiến mới sau một thời gian dài chững lại.
Đối với các Đảng cộng sản và công nhân chưa cầm quyền, Việt Nam tiếp tục
ủng hộ về chính trị, trao đổi kinh nghiệm đấu tranh và giúp đỡ về vật chất trong điều
kiện cho phép của Việt Nam.
Tóm lại: Từ sau những năm 1975, Việt Nam từ một nước bị bao vây cấm vận
về kinh tế, cơ lập chính trị. Đến những năm 1990 Việt Nam đã bình thường hố
quan hệ với Trung Quốc, ký hiệp định Paris về Campuchia, đặc biệt Việt Nam bước
đầu thành công trong công cuộc đổi mới, thực hiện đa dạng hoá, đa phương hoá
quan hệ đối ngoại trên cơ sở độc lập tự chủ nên đã mở ra thời kỳ cải thiện quan hệ
với hầu hết các nước và các tổ chức quốc tế, phá được thế bao vây, cô lập và cấm
vận.
Hiện nay Việt Nam đã lập quan hệ ngoại giao với 168 nước và hơn 200 tổ
chức chính trị trên thế giới, vị thế quốc tế của Việt Nam trên trường quốc tế ngày
càng được nâng cao.
Thắng lợi của hoạt động đối ngoại trong những năm qua cùng với những
thắng lợi trên lĩnh vực đối ngoại đảm bảo cho các hoạt động của Đảng và Nhà nước
Trang 25