Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

Quan hệ quốc tế của Việt Nam thời kỳ đổi mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (143.92 KB, 32 trang )

Lời dẫn
Những năm cuối thế kỷ XX, hệ thống xã hội chủ nghĩa lâm vào khủng
hoảng toàn diện và nghiêm trọng dẫn đến sự sụp đổ của bộ phận lớn làm thay
đổi cơ bản cục diện chính trị của thế giới. Bên cạnh đó, chủ nghĩa t bản tận
dụng đợc những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại
nên đã thích nghi và vẫn tiếp tục phát triển.
Trật tự thế giới hai cực tan dã, quan hệ quốc tế chuyển dần từ đối đầu
sang đối thoại, từ đó làm nảy sinh xu hớng đa dạng hoá, đa phơng hoá trong
tiến trình hội nhập toàn cầu. Hoà bình, ổn định hợp tác để phát triển ngày
càng trở thành đòi hỏi bức xúc của các quốc gia. Toàn cầu hoá về kinh tế
chiếm vị trí quan trọng trong quan hệ giữa các quốc gia,kinh tê đợc u tiên phát
triển và trở thành chủ đề chính trong quan hệ quốc tế hiện nay.
Trớc bối cảnh quốc tế và xu thế chung của thế giới đang diễn ra nh vậy,
các quốc gia đều phải điều chỉnh lại chính sách đối ngoại của mình để thích
ứng với tình hình mới. Việt Nam cũng không nằm ngoài xu thế đó.
Chính sách đối ngoại là một bộ phận hợp thành đờng lối đổi mới của
Việt Nam trên nền tảng của Chủ nghĩa Mác - Lênin và T tởng Hồ Chí Minh.
Đợc khởi xớng từ năm 1986 và sau hơn 10 năm thực hiện, chính sách đối
ngoại đúng đắn của Đảng và Nhà nớc ta đã góp phần không nhỏ đến sự phát
triển của đất nớc, tạo điều kiện khai thác có hiệu quả các nhân tố quốc tế, kết
hợp đợc sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại đa Việt Nam thoát khỏi
khủng hoảng và đi lên.
Chính sách đối ngoại đổi mới là một trong những mốc đánh dấu thành
tựu to lớn của Việt Nam trong thế kỷ XX, tạo tiền đề cho Việt Nam vững bớc
đi vào thế kỷ XXI. Với lý do đó cùng với ham muốn đợc tìm hiểu chính sách
đối ngoại đổi mới và quan hệ quốc tế của Việt Nam giai đoạn này, em mạnh
dạn chọn đề tài Quan hệ quốc tế của Việt Nam thời kỳ đổi mới làm
chuyên đề thực tập.
Đây là đề tài rất rộng lớn, cho nên bài viết này không tránh khỏi những
thiếu sót hạn chế. Mong đợc sự thông cảm, giúp đỡ, đóng góp ý kiến của các
thầy cô và các bạn.


1
2
Chơng 1
Những nhân tố tác động tới đờng lối đổi mới của Việt Nam
1.1. Tình hình thế giới những năm 80 và đầu thập kỷ 90
Từ nửa năm sau những năm 80, quan hệ Xô - Mỹ đã thực sự chuyển từ
đối đầu sang đối thoại. Để giải quyết các vấn đề tranh chấp, Xô - Mỹ đã tiến
hành nhiều cuộc gặp thợng đỉnh giữa Ri-Gan và Goóc-Ba-Chốp, giữa Busơ và
GoócBachốp. Qua đó có nhìêu văn kiện đợc ký kết trên các lĩnh vực kinh tế
thơng mại, văn hoá, khoa học kỹ thuật, nhng quan trọng nhất là việc ký kết
hiệp ớc thủ tiêu tên lửa tầm trung ở Châu Âu năm 1987 (gọi tắt là INF). Cũng
từ năm 1987, hai nớc Mỹ và Liên Xô đã thoả thuận giảm một bớc quan trọng
cuộc chạy đua vũ trang, từng bớc chấm dứt cuộc diện Chiến tranh lạnh,
cùng hợp tác với nhau giải quyết các cụ tranh chấp và xung đột quốc tế.
Cuối năm 1989, tại cuộc gặp không chính thức giữa Busơ và Gooc-Ba-
Chốp tại đảo Manta, hai nớc Xô - Mỹ đã chính thức tuyên bố chấm dứt cuộc
chiến tranh lanh kéo dài trên 40 năm giữa hai nớc này.
Mối quan hệ giữa 5 nớc lớn: Liên Xô, Mỹ, Anh, Pháp, Trung Quốc, là 5
thành viên thờng trực Hội đồng bảo an LHQ có vai trò quan tọng trong việc
duy trì hoà bình, an ninh và trật tự thế giới đã đợc thiết lập lên. Trong chiến
tranh lạnh mặc dù là 5 nớc lớn nhng vẫn chỉ là thế hai cực Xô - Mỹ đối đầu
nhau. Mối quan hệ giữa 5 nớc lớn sau năm 1989 đã chuyển từ hai cực đối
đầu sang đối thoại, hợp tác với nhau trong việc giải quyết những tranh chấp và
xung đột quốc tế, tiêu biểu nh cuộc chiến trung vùng vịch Pecxic (1991), và
việc giải quyết các cuộc xung đột vũ trang ở nhiều khu vực trên thế giới.
Sau sự kiện xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, dẫn đến
khối quân sự Vac-Sa-Va tự giải thể (1/7/1991) và Hội đồng tơng trợ kinh tế
(SEV) ngừng hàng hoạt động (28/6/1991). Xã hội chủ nghĩa tạm lâm vào
thoái trào, việc Liên Xô sụp đổ bắt đầu từ khủng hoảng về đờng lối chiến lợc
do nhận thức sai lầm về đờng lối đối ngoại nh việc Liên Xô thoả thuận với Mỹ

về việc giải quyết vấn đề Apganictan, Campuchia, những thoả thuận nhợng bộ
đó không có lợi cho các cách mạng thế giới. Liên Xô còn thực hiện chính sách
không can thiệp vào vấn đề thống nhất nớc Đức và các nớc Đông Âu, chính
sách không thực hiện những cam kết với các đồng minh cũ của Liên Xô
(ngừng viện trợ cho Cuba, Việt Nam, Mông Cổ)
1
. Những ngợng bộ đó đợc các
phơng Tây, nhất là Mỹ ngày các khai thác triệt để, để làm giảm thế cân bằng
về sức mạnh vũ khí hạt nhân với Mỹ và làm suy giảm sức mạnh và vị trí của
Liên Xô có ở khắp các khu vực trên thế giới.
1

3
Còn ở khu vực Châu á - Thái Bình Dơng kinh tế phát triển rất năng
động, đồng thời cũng tiềm ẩn nhiều nhân tố có thể gây mất ổn định nh xung
đột ở Triều Tiên, tranh chấp quần đảo Cu-Rin giữa Nhật Bản và Liên Xô, tranh
chấp chủ quyền lãnh thổ, lãnh hải ở biển Đông và căng thẳng ở eo biển Đài
Loan
Trong khu vực Đông Nam á cũng chứa đựng nhiều nguy cơ xung đột
bất ổn, trong đó vấn đề Campuchia. Những phản ứng từ của các ASEAN,
Trung Quốc và các nớc phơng Tây khác cho rằng Việt Nam xâm lợc
Campuchia, họ tiến hành các hoạt động làm cho tình hình khu vực thêm căng
thẳng. Trung Quốc cắt đứt quan hệ ngoại giao với Việt Nam và đa quân vào
Việt Nam gây nên cuộc chiến tranh ở biên giới phía Bắc nớc ta. Một số nớc
ASEAN cô lập nớc ta ở các diễn đàn, tổ chức quốc tế Về phía Việt Nam,
chúng ta trớc sau vẫn khẳng định việc đa quân vào Campuchia là giúp đỡ nhân
dân Campuchia đánh đuổi bọn diệt chủng PonPốt đem lại hoà bình cho nhân
Campuchia.
Cùng với những biến đổi trong tình hình an ninh, chính trị, cộng đồng
thế giới cũng đang đứng trớc nhiều vấn đề có tính toàn cầu cấp bách mà

không có một quốc gia riêng lẻ nào có thể giải quyết đợc cho nên cần phải có
sự hợp tác đa phơng trong các công việc quốc tế nh: bảo vệ môi trờng, bùng
nổ dân số, phòng chống bệnh tật hiểm nghèo và nạn khủng bố.
Mặt khác, cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật, công nghệ phát triển nh
vũ bão và đợc gọi là nền văn minh hậu công nghiệp hay nền văn minh trí tuệ.
ảnh hởng của nó ngày càng tác động sâu hơn vào đời sống kinh tế xã hội, nhất
là trong sản xuất. Các phát minh khoa học mà nội dung cơ bản là cách mạng
về công nghệ thông tin, sinh học, năng lợng, vật liệu mới tiếp tục phát triển
nhanh với trình độ cao, làm tăng nhanh lực lợng sản xuất, thúc đẩy quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế thế giới, quốc tế hoá nền sản xuất và đời sống xã
hội, làm cho tính chất tuỳ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia ngày càng gia tăng
mạnh mẽ. Cuộc cách mạng trên đã tác động sâu sắc đến quan hệ quốc tế, thúc
đẩy quá trình liên kết kinh tế và toàn cầu hoá. Nó vừa là thời cơ nhng cũng là
thách thức rất lớn đối với các nớc, là điểm mà bất cứ nớc nào cũng không thể
bỏ qua khi xây dựng đờng lối, xác định phơng hớng và mục tiêu phát triển.
các nớc đều đứng trớc những cơ hội để phát triển, nhng do u thế về vốn, công
nghệ, thị trờng thuộc về các nớc t bản chủ nghĩa và các công ty xuyên quốc
gia nên các nớc chậm phát triển đang đứng trớc những thử thách to lớn. Trong
tình hình đó nếu các nớc không nắm bắt đợc cơ hội, tranh thủ những khả năng
mới để phát triển thì sẽ bị tụt hậu.
4
Ngợc lại nếu nớc nào biết đón trớc, khai thác đợc thời cơ, nỗ lực phấn
đấu thì sẽ có thể vợt lên một cách nhanh chóng. Cuộc cạnh tranh kinh tế thơng
mại, khoa học công nghệ diễn ra gay gắt trên phạm vi toàn thế giới.
Tóm lại, hoà bình ổn định và hợp tác để phát triển ngày càng trở thành
đòi hỏi búc xúc của các dân tốc và quốc gia trên thế giới. Các nớc giành u tiên
cho phát triển kinh tế, coi phát triển kinh tế có ý nghĩa quyết định đối với việc
tăng cờng sức mạnh tổng hợp mỗi nớc.
Tình hình đó tác động mạnh mẽ đối với việc hoạch định chính sách đối
ngoại của các nớc cũnh nh ở Việt Nam. Kiến định mục tiêu độc lập dân tộc và

chủ nghĩa xã hội. Trong điều kiện lịch sử mới, Đảng và Nhà nớc ta khởi xởng
công cuộc đổi mới toàn diện, trong đó đổi mới chính sách đối ngoại trở thành
một nội dung quan trọng đối với sự ngiệp phát triển của Việt Nam.
1.2. Sự phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam sau 1975 đến 1986.
Chiến thắng của Việt Nam sau 30/4/1975 là niềm vui thống nhất cả
giang sơn về một mối. Nhng hậu quả của cuộc chiến tranh kéo dài để lại
những khó khăn không nhỏ cho nhân dân Việt Nam: 1,1 triệu liệt sĩ, 60 vạn
thơng binh, 30 vạn ngời mất tích, gần 2 triệu ngời dân bị thiệt mạng, hơn 2
triệu ngời dân bị tàn tật và nhiễm chất độc hoá học
Hai cuộc chiến tranh biến giới phía Bắc (1979) và biên giới phía Tây
Nam (1978) lấy đi thêm nhiều tài lực, vật lực của đất nớc khiến cho nền kinh
tế của Việt Nam đã khó khăn lại càng thêm khó khăn. Mà hậu quả của nó là
nền kinh tế lâm vào tình trạng khủng hoảng toàn diện, lạm phát tăng phi mã
(774,7%) năm 1986, nền công nghiệp lạc hậu, nông nghiệp đình đốn.
Bên cạnh đó, do những khuyết điểm chủ quan trên các lĩnh vực nhất là
việc chỉ đạo và thực hiện xây dựng kinh tế xã hội. Mô hình kinh tế tập trung
quan liêu bao cấp bộc lộ nhiềukhuyết điểm yếu kém. Nền kinh tế đất nớc rơi
vào tình trạng trì trệ, lạc hậu, khủng hoảng: Công nghiệp yếu kém, manh mún
thiếu rất nhiều ngành công nghiệp tiêu dùng Nền nông nghiệp không đủ chi
dùng trong nớc, phải nhập khẩu lơng thực, thực phẩm và hàng tiêu dùng thờng
xuyên khiến cho cán cân xuất nhập khẩu luôn thâm hụt mất cân đối, thu
không đủ chi, dẫn đến phải đi vay từ nớc ngoài. Tính chung trong năm 5 năm
1981 - 1985, nguồn vay từ nớc ngoài chiếm 22,4% thu ngân sách quốc gia. Số
nợ nhiều nh vậy nhng bội chi ngân sách vẫn lớn và tăng dần: Năm 1980 là
1,8%, năm 1985 là 36,6%. Do bội chi nhiều nh vậy nên Chính phủ buộc phải
phát hành thêm tiền mặt để bù đắp. Cùng với việc không cân đối đợc từ thu và
chi, do nguồn thu không có vì không có sản phẩm công nghiệp xuất khẩu.
Cộng vào đó là sai lầm về chính sách cải cách giá, lơng, tiền đã làm cho nền
5
kinh tế rơi tự do không kiểm soát đợc dẫn đến xuất hiện siêu lạm phát ở mức

774,7% (1986), kéo theo giá cả leo thang vô phơng kiểm soát.
2
Đời sống nhân dân nhất là công nhân viên chức và lực lợng vũ trang gặp
nhiều khó khăn. Tiêu cực xã hội phát triển, công bằng bị vi phạm, pháp luật kỳ
cơng xã hội không nghiêm minh, cán bộ tham nhũng lộng quyền, bọn làm ăn
phi pháp không bị trừng trị kịp thời và nghiêm khăc. Quần chúng giảm lòng
tin với sự lãnh đạo của Đảng và sự điều hành của Nhà nớc.
3
Cuối những năm 80, tình hình kinh tế - xã hội ở Liên Xô và các nớc xã
hội chủ nghĩa Đông Âu anh em cũng hết sức khó khăn và diễn ra ngày càng
phức tạp. Tình hình thế giới có nhiều thay đổi, cuộc chạy đua phát triển kinh
tế đã lôi kéo các nớc vào cuộc. Trong bối cảnh đó, Đảng và Nhà nớc ta nhận
biết đợc xu thế của thế giới và nhìn thấy nguy cơ tụt hậu ngày càng xa về kinh
tế so với thế giới nếu không phát triển đất nớc.
Thực tiễn tình hình trong nớc và quốc tế đặt ra một yêu cầu khách quan,
bức xúc có ý nghĩa sống còn đối với sự nghiệp các mạng nớc ta, là để làm
xoay chuyển đợc tình thế, tạo ra một sự chuyển biến có ý nghĩa quyết định
trên bớc đờng đi lên. Đảng phải đổi mới sự lãnh đạo và chỉ đạo một cách
mạnh mẽ. Đại hội VI của Đảng (tháng 12 - 1986) đợc chuẩn bị và đáp ứng
những yêu cầu đó.
T tởng cốt lõi của Đại hội VI là giải phóng mọi năng lực sản xuất hiện
có, khai thác mọi tiềm năng của đất nớc và sử dụng có hiệu quả sự giúp đỡ
quốc tế để phát triển lực lợng sản xuất đi đôi với xây dựng và củng cố quan hệ
sản xuất xã hội chủ nghĩa.
4
Với ý nghĩa đó, chính sách đối ngoại đổi mới phải phá thế bao vây cấm
vận, cô lập của các thế lực thù địch từ đó lấy lại vị thế của ta trên trờng quốc
tế, tạo điều kiện thuận lợi cho đất nớc phát triển, góp sức mình vào sự nghiệp
chung của đất nớc.
2

2: Nguyễn Sinh 12 năm đổi mới (1986-1997). Tạp chí Cộng sản số 6 tháng 3 năm 1998, trang 3
3
3: Trích lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam - NXB Giáo dục, 1997 trang1
4
4: Trích lịch sử Đảng CSVN - NXB Giáo dục - 1997 trang 167
6
Chơng 2
Quan hệ quốc tế của Việt Nam từ 1986 đến nay
2.1. Nội dung cơ bản của chính sách đối ngoại đổi mới.
Mốc quan trọng nhất quyết định cho chính sách đối ngoại đổi mới là
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng họp tại Hà Nội.
Với quan điểm nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật. Đại hội
VI đã thẳng thắn và khách quan chỉ ra những sai lầm thiếu sót trong chính
sách kinh tế, sự lạc hậu về nhận thức lý luận và vận dụng các quy luật đang
hoạt động trong thời kỳ quá độ. Sau khi nghiêm khắc kiểm điểm Đại hội cho
rằng để khắc phục những sai lầm, khuyết điểm và những bất cập dẫn đến
khủng hoảng Kinh tế - Xã hội đòi hỏi phải đổi mới t duy, trớc hết là t duy kinh
tế. Trên tinh thần đó Đại hội VI đã xác định nhiệm vụ trên lĩnh vực đối ngoại
trong thời gian tới là:
5
Trong những năm tới nhiệm vụ của Đảng và Nhà nớc ta trên lĩnh vực
đối ngoại là: Ra sức kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại,
phấn đấu giữ vững hoà bình ở Đông Dơng, góp phần tích cực giữ vững hoà
bình ở Đông Nam á và thế giới, tăng cờng quan hệ hữu nghị và hợp tác toàn
diện với Liên Xô và các nớc trong cộng đồng xã hội chủ nghĩa.
Hoạt động đối ngoại của Đảng và Nhà nớc ta phải phục vụ cho cuộc
đấu tranh bảo vệ tổ quốc, giữ gìn an ninh chính trị, làm thất bại cuộc chiến
tranh phá hoại nhiều mặt của địch, tiếp tục làm tròn nghĩa vụ quốc tế với
Campuchia và Lào. Chúng ta cần tranh thủ những điều kiện thuận lợi mới về
hợp tác kinh tế và khoa học kỹ thuật, tham gia ngày càng rộng rãi việc phân

công và hợp tác trong Hội đồng tơng trợ kinh tế, đồng thời tranh thủ mở rộng
quan hệ với các nớc khác.
Tăng cờng hợp tác toàn diện với Liên Xô luôn luôn là hòn đá tảng trong
chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nớc ta. Đồng thời tăng sự phối hợp với
Liên Xô và các xã hội chủ nghĩa khác trong cuộc đấu tranh hoà bình và các
mạng trên thế giới, trớc hết là ở khu vực Châu á - Thái Bình Dơng.
Đảng ta nhận thức sâu sắc rằng: Phát triển và củng cố mối quan hệ đặc
biệt giữa ba nớc Đông Dơng, đoàn kết và tôn trọng độc lập chủ quyền của mỗi
5
5: Trích văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần VI- NXB Sự thật trang 99 (viết theo các văn kiện VI, VII, VIII)
7
nớc, hợp tác toàn diện, giúp đỡ lẫn nhau xây dựng và bảo vệ tổ quốc là quy
luật sống còn và phát triển của ba dân tộc anh em.
Chúng ta tiếp tục tăng cờng quan hệ hợp tác hữu nghị với các nớc thành
viên Hội đồng tơng trợ kinh tế. Chúng ta cũng mở rộng quan hệ với các nớc xã
hội chủ nghĩa anh em khác nh Anbani, Triều Tiên
Là một thành viên của phong trào không liên kết, chúng ta phấn khởi tr-
ớc sự trởng thành và vai trò của ngày càng to lớn của phong trào trong đời
sống chính trị quốc tế.
Đảng ta chủ trơng tích cực góp phần vào việc tăng cờng đoàn kết của
phong trào trên cơ sở chủ nghĩa Mac - Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản.
Chúng ta ủng hộ mạnh mẽ cuộc đấu tranh anh dũng của giai cấp công nhân và
nhân dân ở các nớc t bản chủ nghĩa phát triển. ủng hộ mạnh mẽ đối với nhân
dân Châu Phi đang kiên cờng đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa
thực dân, chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, chủ nghĩa Apacthai. Đoàn kết chặt
chẽ với nhân dân các nớc anh em nh: An-giê-ri và Cộng hoà dân chủ nhân dân
Y-ê-men đang xây dựng cuộc sống mới.
Đảng và Nhà nớc ta kiên trì thực hiện chính sách đối ngoại hoà bình và
hữu nghị. Chúng ta chủ trơng và ủng hộ chính sách cùng tồn tại hoà bình giữ
các nớc có chế độ chính trị xã hội khác nhau, loại trừ chiến tranh xâm lợc và

mọi hình thức của chủ nghĩa khủng bố.
Với Trung Quốc, Việt Nam sẵn sàng đàm phán với Trung quốc bất kỳ
lúc nào, bất cứ cấp nào và bất cứ ở đâu nhằm bình thờng hoá quan hệ giữa hai
nớc, vì lợi ích của nhân dân hai nớc, vì hoà bình ở Đông Nam á và trên thế
giới.
Nhà nớc ta chủ trơng tăng cờng và mở rộng quan hệ hữu nghị với Thuỵ
Điển, Phần Lan, Pháp, Oxtraylia, Nhật Bản và với các nớc phơng Tây khác
trên cơ sở bình đẳng cùng có lợi. Chính phủ ta tiếp tục bàn bạc với Mỹ giải
quyết các vấn đề nhân đạo do chiến tranh để lại và sẵn sàng cải thiện quan hệ
với Mỹ vì lợi ích của hoà bình ổn định ở Đông Nam á .
Đờng lối đối ngoại đổi mới tiếp tục đợc khẳng định ở Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ VII.
Nhiệm vụ đối ngoại bao trùm trong thời gian tới là giữ vững hoà bình,
mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác, tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho công
cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa và bảo vệ tổ quốc. Đồng thời góp phần tích
8
cực vào công cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập
dân tọc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Cần nhạy bén nhận thức và dự báo đợc những diễn biến phức tạp và
thay đổi sâu sắc trong quan hệ quốc tế, sự phát triển mạnh mẽ của lực lợng sản
xuất và xu hớng quốc tế hoá của nền kinh tế thế giới để có những chủ trơng
đối ngoại phù hợp. Trong điều kiện mới phải coi vận dụng bài học kết hợp sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nớc với sức mạnh quốc
tế, yếu tố truyền thống với yếu tố hiện đại để phục vụ sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Chúng ta chủ trơng hợp tác bình đẳng và cùng có lợi với tất cả các nớc,
không phân biệt chế độ chính trị xã hội khác nhau trên cơ sở các nguyên tắc
cùng tồn tại hoàn bình. Trớc sau nh một tăng cờng đoàn kết và hợp tác với
Liên Xô, đổi mới phơng thức và nâng cao hiệu quả hợp tác Việt - Xô nhằm
đáp ứng lợi ích của mỗi nớc.

Không ngừng củng cố, phát triển quan hệ đoàn kết và hữu nghị đặc biệt
giữa Đảng và nhân dân ta với Đảng và nhân dân Lào, Đảng và nhân dân
Campuchia anh em. Đổi mới phơng thức hợp tác, chú trọng hiệu quả theo
nguyên tắc bình đẳng, tôn trọng độc lập, chủ quyền và lợi ích chính đáng của
nhau. Phấn đấu góp phần sớm đạt đợc một giải pháp chính trị toàn bộ về vấn
đề Campuchia trên cơ sở tôn trọng chủ quyền của Campuchia và Hiến chơng
LHQ.
Thúc đẩy quá trình bình thờng hoá quan hệ với Trung Quốc, từng bớc
mở rộng sự hợp tác Việt - Trung, giải quyết những vấn đề tồn tại giữa hai nớc
thông qua thơng lợng.
Củng cố và phát triển quan hệ hữu nghị, đoàn kết, hợp tác với Cu - Ba
và các nớc xã hội chủ nghĩa khác.
Đảng cộng sản Việt Nam chủ trng tăng cờng quan hệ với các Đảng
cộng sản và công nhân, góp phần tích cực vào sự đoàn kết và hợp tác giữa các
Đảng anh em trên cơ sở chủ nghĩa Mac - Lênin, đấu tranh vì những mục tiêu
cao cả của thời đại.
Đoàn kết với lực lợng đấu tranh cho hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ
và tiến bộ xã hội, sẵn sàng thiết lập và mở rộng quan hệ với các đảng xã hội -
dân chủ, các phong trào dân chủ và tiến bộ trên thế giới.
9
Phát triển quan hệ đoàn kết, tin cậy và nâng cao hiệu quả hợp tác nhiều
mặt với ấn Độ. Tiếp tục mở rộng hợp tác với các nớc đang phát triển khác.
Tiếp tục củng cố và tăng cờng phong trào không liên kết. Phát triển quan hệ
hữu nghị với các nớc ở Đông Nam á và Châu á - Thái Bình Dơng, phấn đấu
cho một Đông Nam á hoà bình, hữu nghị và hợp tác.
Mở rộng sự hợp tác bình đẳng cùng có lợi với các nớc Bắc Âu, Tây Âu,
Nhật Bản và các nớc phát triển khác. Thúc đẩy quá trình bình thờng quan hệ
với Hoa Kỳ.
Góp phần làm cho Liên Hợp Quốc phục vụ đắc lực hơn những mục tiêu
của nhân loại là hoà bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển. Hợp tác với các tổ

chức chuyên môn của LHQ và các tổ chức phi chính phủ.
Với chính sách đối ngoại rộng mở, chúng ta tuyên bố rằng: Việt Nam
muốn là bạn với tất cả các nớc trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình,
độc lập, phát triển.
Việc Liên Xô sụp đổ vào 22-12-1991 đã làm chấn động thế giới vì tốc
độ nhanh chóng của các sự kiện và ảnh hởng mạnh mẽ tới các Đảng cộng sản
trên thế giới. Đứng trớc tình hình đó, Hội nghị Ban chấp hành Trung ơng lần
thứ III khoá VII đã họp và đa ra 4 phơng châm xử lý trong hoạt động đối
ngoại của ta là:
Một là: Biết kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa yêu nớc với chủ nghĩa
quốc tế của giai cấp công nhân đảm bảo lợi ích chân chính của dân tộc.
Hai là: Giữ vững độc lập tự chủ, tự lực tự cờng, đẩy mạnh đa dạng hoá,
đa phơng hoá nhng hai vế đó không hề mâu thuẫn nhau mà thực ra là thống
nhất, phục vụ hỗ trợ cho nhau.
Ba là: Nắm vững hai mặt đối lập của hợp tác và đấu tranh trong quan hệ
quốc tế.
Bốn là: Nhìn rõ vai trò của các tổ chức khu vực, hợp tác tốt với tất cả
các nớc trên thế giới, nhất là các nớc lớn có vai trò kinh tế, chính trị cờng quốc
trên thế giới.
Bốn phơng châm chỉ đạo trên đa ra vào đúng thời điểm hợp lý, kịp thời
phát huy và đạt đợc những thành tựu tốt đẹp.
10
Trớc những thành tựu của đờng lối đối ngoại đổi mới Đại hội VI và VII,
Đại hội VIII tiếp tục đờng lối đối ngoại đổi mới chỉ ra đờng lối chính sách đối
ngoại tới mọi chủ thể trên thế giới.
Đại hội VIII chỉ rõ: Nhiệm vụ đối ngoại trong thời gian tới là củng cố
môi trờng hoà bình và tạo điều kiện quốc tế thuận lợi hơn nữa để đẩy mạnh
phát triển kinh tế - xã hội, công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nớc, phục vụ sự
nghiệp xây dựng và bảo vệc tổ quốc, góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh
chung của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ

xã hội.
Tiếp tục thực hiện chính sách đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa ph-
ơng hoá, đa dạng hoá với tinh thần Việt Nam muốn là bạn của tất cả các nớc
trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển.
Mở rộng quan hệ quốc tế, hợp tác nhiều mặt, song phơng và đa phơng
với các nớc, các tổ chức quốc tế và khu vực trên nguyên tắc tôn trọng độc lập,
chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ
của nhau, bình đẳng cùng có lợi, thông qua thơng lợng để tìm những giải pháp
phù hợp giải quyết những vấn đề tồn tại và các tranh chấp, đảm bảo hoà bình,
ổn định, an ninh, hợp tác và phát triển.
Tăng cờng quan hệ với các nớc láng giềng và các nớc trong tổ chức
ASEAN, không ngừng củng cố quan hệ với các nớc bạn bè truyền thống, coi
trọng quan hệ với các nớc phát triển và các trung tâm kinh tế - chính trị trên
thế giới. Đồng thời luôn nêu cao tinh thần đoàn kết anh em với các nớc đang
phát triển ở Châu á, Châu Phi, Mỹ Latinh và phong trào không liên kết.
Tăng cờng quan hệ với các tổ chức của Liên Hợp Quốc và các tổ chức
quốc tế khác. Tích cực hoạt động ở các diễn đàn quốc tế, tham gia giải quyết
các vấn đề toàn cầu. ủng hộ cuộc đấu tranh loại trừ vũ khí hạt nhân và các ph-
ơng tiện giết ngời hàng loạt khác.
Phát triển quan hệ với các Đảng sản và công nhân, các lực lợng cách
mạng, độc lập dân tộc và tiến bộ, thiết lập và mở rộng quan hệ với các đảng
cầm quyền và các đảng khác
Mở rộng quan hệ đối ngoại nhân dân, quan hệ với các tổ chức phi chính
phủ, tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ rộng rãi của nhân dân các nớc, góp phần
thúc đẩy xu thế hoà bình, hợp tác, phát triển.
11
Trên đây là những nội dung cơ bản của chính sách đối ngoại qua từng
thời kỳ tổ chức đại hội, chính sách đổi mới này đợc áp dụng trong bối cảnh
quốc tế có nhiều biến động và tác động trực tiếp đến Việt Nam. Nhng tựu
chung lại đây là đờng lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hoá, đa phơng hoá

theo tinh thầm Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nớc trên thế giới, phấn
đấu vì hoà bình, độc lập dân tộc và phát triển.
2.2. Quá trình thực hiện đờng lối đối ngoại đổi mới.
Chính sách đối ngoại đổi mới mà đại hội VI đề ra là kiên trì thực hiện
nhiệm vụ chiến lợc giữ vững hoà bình, tranh thủ điều kiện quốc tế thuận lợi,
tập trung cao nhất, nhằm từng bớc ổn định và tạo cơ sở cho phát triển kinh tế
trong vòng 25 năm đến 30 năm (tức đến năm 2020), xây dựng chủ nghĩa xã
hội, bảo vệ độc lập của tổ quốc góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung
cho hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Đây là mục tiêu
chiến lợc và ích lợi cao nhất của toàn Đảng và toàn dân ta. Chính sách đối
ngoại đổi mới phải góp sức mình vào sự nghiệp chung đó.
Ngay sau khi đa chính sách đối ngoại vào thực hiện, Đảng và nhà nớc
đã đa vấn đề Campuchia ra để giải quyết bằng con đờng hoà bình. Những
giải pháp đa ra trong chính sách để giải quyết vấn đề Campuchia, đã có tác
động thúc đẩy tác động đến một giải pháp chung trong vấn đề Campuchia đi
đến một giải pháp hoà bình toàn diện, đến năm 1989 thì cơ bản hoàn thành
bằng tuyên bố về một giải pháp chính trị toàn diện cho xung đột ở Campuchia.
Việt Nam và ASEAN cùng tìm ra một giải pháp đồng bộ cho vấn đề này, từ
đây 2 nhóm nớc hiểu nhau hơn, tin tởng nhau hơn. Điều đó có ý nghĩa rất to
lớn trong việc mang lại ổn định an ninh cho khu vực và làm giảm nguy cơ
xung đột tại khu vực Đông Nam á vốn đang tiềm tàng nhiều mâu thuẫn giữa
các nớc. Đây chính là thành công đầu tiên của chính sách đối ngoại đổi mới.
Bắt đầu từ thành công này tình hình ở Đông Nam á đợc cải thiện từ đối đầu
sang đối thoại, tạo xu thế hoà bình, hữu nghị, hợp tác. Với các nớc Đông Nam
á, nớc ta chủ trơng mở rộng quan hệ về mọi mặt trên nguyên tắc tôn trọng độc
lập, chủ quyền, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, hai bên cùng
có lợi. Những năm qua cũng đã ghi nhận những cố gắng to lớn của nhà nớc ta
trong việc cải thiện quan hệ với các nớc khu vực Đông Nam á - asean.
Tháng giêng năm 1989, Tổng bí th Nguyễn Văn Linh tuyên bố Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam sẵn sàng quan hệ hữu nghị với các nớc

12
ASEAN và các nớc khác trong khu vực
6
. Từ đây các cuộc đi thăm lẫn nhau
của các nhà lãnh đạo cấp cao Việt Nam và của các nớc ASEAN đã đạt đợc
những thoả thuận quan trọng và đặt nền móng cho một thời kỳ mới trong quan
hệ giữa nớc ta với các nớc ASEAN. Ngày 22 tháng 7 năm 1992, Việt Nam
tham ký hiệp ớc thân thiện Bali và trở thành quan sát viên của ASEAN. Có thể
nói đây là một tiền đề quan trọng cho sự hội nhập của Việt Nam sau này.
Ngày 28/7/1995 Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của ASEAN,
đây là một thành công to lớn của ngoại giao Việt Nam, có ý nghiã quyết định
cho tiến trình hội nhập khu vực và thế giới của Việt Nam.
Sau khi hội nhập ASEAN, Việt Nam đã trở thành nhân tố rất năng động
của tổ chức này, sau sự tổ chức thành công của hội nghị cấp cao ASEAN tháng
12/1998 ở Hà Nội, Việt Nam càng chứng tỏ là một hạt nhân tích cực của tổ
chức này. Quan hệ hợp tác kinh tế, thơng mại giữa Việt Nam và các nớc
ASEAN ngày càng đợc đẩy mạnh.
Năm 1994 thơng mại 2 chiều đạt 2,4 tỷ USD, chiếm 28% tổng kim
ngạch ngoại thơng của Việt Nam. Đến năm 1996 tăng lên 6 tỷ USD chiếm
33% kim ngạch xuất khẩu và 27% kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam. Cho
đến năm 1998 khi cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ đang ở đỉnh cao thì các
nớc ASEAN vẫn chiếm 25% kim ngạch xuất khẩu và 18% đầu t nớc ngoài vào
Việt Nam
7
.
Sau khi hội nhập ASEAN, chúng ta tham gia vào khu vực mậu dịch tự
do ASEAN (AFTA). Tuy nhiên, do sự chênh lệch về trình độ phát triển giữa
Việt Nam và một số nớc trong khuôn khổ AETA nên Việt Nam cần có thời
gian để điều chỉnh. Các nớc ASEAN đã đồng ý kéo dài thời hạn giảm thuế
quan của Việt Nam đến năm 2006 thay vì 2003 nh các thành viên khác.

Mặc dù đợc đánh giá là khu vực phát triển năng động của Châu á - Thái
Bình Dơng và của thế giới, nhng cuộc khủng hoảng tiền tệ năm 1997 đã ảnh
hởng tiêu cực đến sự phát triển chung của khu vực, đối phó với vấn đề này là
rất khó, đòi hỏi các nớc ASEAN nói chung và Việt Nam nói riêng cần phải
nghiên cứu, rút kinh nghiệm và đề ra những giải pháp mang tính phòng ngừa
hữu hiệu, xây dựng mô hình phát triển bền vững hơn, ổn định hơn cho từng
thành viên của toàn khu vực.
6
6: Trích Lu Văn Lai: 50 năm ngoại giao Việt Nam (1945-1995) Tập II - NXB Công an nhân dân trang 251-
252

7
7: ĐHKTQD kinh tế quốc tế - NXB Thống kê - Hà Nội, 1998 trang 139
13
Tóm lại, việc gia nhập ASEAN của Việt Nam là hớng đúng. Về kinh tế,
ta có thể tranh thủ đợc vốn, công nghệ và kinh nghiệm quản lý từ các nớc
ASEAN tiên tiến. Tạo điều kiện thúc đẩy sản xuất trong nớc phát triển, mở
rộng thị trờng trong khu vực.
Về an ninh, chính trị, Việt Nam tham gia vào diễn đàn khu vực ASEAN
chuyên bàn về những vấn đề an ninh khu vực ASEAN (ARF), khi tham gia
vào ASEAN chúng ta có thể góp phần củng cố môi trờng xung quanh mình,
tạo dựng một vành đai an toàn mang tính chiến lợc, bên cạnh đó khi tham gia
vào ASEAN tiếng nói của Việt Nam sẽ có thế và lực hơn trên thị trờng quốc
tế. Hơn nữa, nếu các nớc ASEAN gạt bỏ đợc những bất đồng tranh chấp không
đáng kể để đi tới một đồng thuận trong việc giải quyết vấn đề tranh chấp ở
Biển Đông đối với Trung Quốc thì tình hình sẽ bớt đi căng thẳng, nhanh
*Đối với Trung Quốc
Việt Nam - Trung Quốc là hai nớc láng giềng gần, có quan hệ hữu nghị
văn hoá và lịch sử lâu dài. Chúng ta luôn quý trọng tình hữu nghị với nhân dân
Trung Quốc, với mong muốn khôi phục lại mối quan hệ hữu nghị giữa hai dân

tộc. Trong yêu cầu để hai bên Việt - Trung có thể đi đến bình thờng hoá quan
hệ đó là thế giới đang tích cực chuyển từ đối đầu sang đối thoại, mọi vấn đề
tranh chấp quốc tế, các quốc gia trên thế giới ngày càng đi theo xu thế giải
quyết bằng thơng lợng hoà bình. Nhu cầu hoà bình là vấn đề tự thân các nớc
phải phấn đấu, bởi chỉ có hoà bình mới có thể dồn sức cho phát triển kinh tế
và quan hệ Việt - Trung cũng không nằm ngoài quy luật đó. Trong vấn đề đặt
lại quan hệ ngoại giao giữa hai nớc, cả hai nớc đề nhằm tới một mục tiêu là
gạt bỏ đối đầu, mọi tranh chấp về biên giới lãnh hải và các vấn đề xung đột
giữa hai nớc đều giải quyết bằng thơng lợng hoà bình. Ngoài ra hai nớc còn
muốn khôi phục lại quan hệ ngoại giao truyền thống có từ lâu do hai lãnh tụ
Mao Trạch Đông và Hồ Chí Minh vun đắp cho tình hữu nghị của hai dân tộc.
Cùng với việc nối lại mối quan hệ ngoại giao hai nớc còn tìm thấy ở
nhau những tiềm năng có thể hợp tác đợc trong vấn đề kinh tế, nh nhu cầu thị
trờng của hai bên đều lớn do hai nớc cùng thi hành chính sách phát triển kinh
tế dựa vào xuất khẩu là chính. Việt Nam mong muốn Trung Quốc giúp ta sửa
chữa nâng cấp một số nhà máy, xí nghiệp mà Trung Quốc giúp ta xây dựng tr-
ớc kia nh nhà máy gang thép Thái Nguyên và các nhà máy xi măng lò đứng
của Trung Quốc. Còn phía Trung Quốc có nhu cầu về nguồn nguyên liệu lớn
nhất là nguồn nguyên liệu than đá, trong khi Việt Nam có thế mạnh ở điểm
14
này, ngoài ra Trung Quốc cần một thị trờng tiêu thụ hàng hoá tiêu dùng do các
địa phơng giáp Việt Nam sản xuất Tính đến khi hai bên cùng mở cửa biên
giới cho hai bên giao lu buôn bán hàng hoá thì hàng hoá Trung Quốc tràn vào
Việt Nam rất nhiều, nhất là hàng tiêu dùng với giá cả mẫu mã phong phú.
Có thể đánh giá nhu cầu hai bên về việc bình thờng hoá quan hệ là rất
cần thiết. Nhất là đối với Việt Nam, việc bình thờng hoá quan hệ với Trung
Quốc giúp nớc ta có thêm bạn bè, tạo môi trờng thuận lợi để phá vỡ thế bao
vây cô lập Khôi phục và phát triển quan hệ với Trung Quốc là nhiệm vụ
trọng tâm của nớc ta trong chính sách đối ngoại đối nội.
Các cuộc gặp cấp cao Việt Trung từ tháng 9/1990 diễn ra tại Thành Đô

(Trung Quốc)
8
đã mở ra một trang sử mới trong việc khai thông quan hệ giữa
hai nớc, đến trung tuần tháng 11 năm 1991 tại Bắc Kinh hai bên đã ra thông
cáo chung: việc bình thờng hoá quan hệ Việt - Trung phù hợp với lợi căn bản,
lâu dài của nhân dân hai nớc, có lợi cho hoà bình ổn định ở khu vực, đây là sự
kiện khép lại quá khứ, mở ra tơng lai hai nớc là đồng chí, không phải là
đồng minh. Tranh chấp giữa hai nớc cần đợc đợc giải quyết theo hiến chơng
LHQ và luật pháp quốc tế, thông qua thơng lợng hoà bình, không đợc sử dụng
vũ lực hoặc đe doạ sử dụng vũ lực.
Tuy nhiên các vấn đề cần giải quyết giữa hai nớc là: vấn đề biên giới
trên bộ, tranh chấp ở biển Đông, phân định vịnh Bắc Bộ. Tháng 10 năm 1993
Tổng bí th Đỗ Mời đã tuyên bố Việt Nam chủ trơng giải quyết tranh chấp
giữa các nớc, kể cả tranh chấp về các quần đảo ở Biển Đông, thông qua thơng
lợng hoà bình trên tinh thần bình đẳng, hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau, tôn
trọng luật pháp quốc tế và Công ớc về luật biển năm 1982 và chủ quyền các n-
ớc ven biển đối với vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của họ
9
.
Đến ngày 30-12-1999, hai nớc đã hoàn thành phân định 164 điểm còn
tranh chấp biên giới trên bộ và ký kết Hiệp định biên giới trên bộ. Còn những
vấn đề còn lại nh: phân định vịch Bắc Bộ và những vấn đề khác do lịch sử để
lại. Qua các cuộc gặp gỡ hàng năm, hai bên đã thống nhất về nguyên tắc: Khai
thác những điểm chung, gác lại những bất đồng, cùng nhau thơng lợng, giải
quyết từng bớc trên cơ sở hiểu biết, tôn trọng lẫn nhau và cùng có lợi. Bớc
sang giai đoạn mới, hai bên thống nhất cần phải đẩy mạnh hơn nữa quan hệ
8
8: Trích Lu Văn Lợii: 50 năm NGVN Tập II - NXB Công an nhân dân trang 209
9
9: Trích Lu Văn Lợi: 50 năm NGVN Tập II - NXB Công an nhân dân trang 219-220

15
hữu nghị, hợp tác lên một bớc mới về chất cho phù hợp với nhu cầu lợi ích của
hai bên.
Trong chuyến thăm hữu nghị Trung Quốc của Tổng bí th Đảng cộng sản
Lê Khả Phiêu đầu năm 1999, hai bên đã thảo luận thống nhất về nguyên tắc
quan hệ Việt - Trung từ nay sẽ phát triển theo tinh thần 16 chữ:
Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện
ổn định lâu dài, hớng tới tơng lai
Ngày 26 - 12 - 2000 nhân chuyến thăm của Chủ tịch nớc Trần Đức L-
ơng đã ra một thông cáo chung về Hợp tác toàn diện và ký Hiệp ớc phân định
vị trí Bắc Bộ
* Đối với Mỹ.
Một thành công của công tác đối ngoại trong giai đoạn đổi mới là việc
Việt Nam bình thờng hoá quan hệ với Mỹ vào ngày 11-7-1995, khép lại một
quá khứ đau thơng và mở ra tơng lai trong quan hệ hai nớc.
Trớc sự thay đổi của thế giới, trớc chính sách đối ngoại đổi mới rộng
mở cùng tồn tại hoà bình của Việt Nam (1986) và những thiện chí của Việt
Nam trong vấn đề POW và MIA (ngời Mỹ mất tích trong cuộc chiến tranh ở
Việt Nam), chính quyền Mỹ đã phải thay đổi chính sách của mình, đã tuyên
bố xoá bỏ cấm vận đối với Việt Nam (3-2-1994). Thủ tớng Chính phủ nớc
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng ra tuyên bố hoan nghênh tuyên bố
của Chính phủ Mỹ và bày tỏ sẵn sàng khép lại quá khứ, hớng tới tơng lai.
Ngày 11-7-1995, Tổng thống Mỹ Clinton tuyên bố về việc bình thờng
hoá quan hệ với Việt Nam Hôm nay tôi loan báo việc bình thờng hoá các
quan hệ ngoại giao với Việt Nam
10
Đầu tháng 8/1995, Hoa Kỳ và Việt Nam đã chính thức lập quan hệ
ngoại giao và mở đại sứ quán ở thủ đô hai nớc.
Có thể thấy rằng chiến lợc của Mỹ đối với Việt Nam hiện nay là một bộ
phận nằm trong chiếm lợc toàn cầu của Mỹ. Mỹ rất chú trọng đến vị trí chiến

lợc của Việt Nam ở khu vực Châu á Thái Bình Dơng trong đó bao gồm cả
Đông Nam á.
Nội dung chiến lợc của Mỹ đối với Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
bao gồm những trọng điểm sau:
10
10: Trích Lu Văn Lợi: 50 năm NGVN Tập II - NXB Công an nhân dân trang 280
16
- Bình thờng hoá quan hệ với Việt Nam giúp cho Mỹ có cơ hội xoá bỏ
đợc những mâu thuẫn trong nội bộ nớc Mỹ. Giải quyết hết những di sản của
chiến tranh trớc đây, đồng thời mở đờng cho các nhà kinh doanh Mỹ thâm
nhập thị trờng Việt Nam buôn bán và đầu t, đem lại thêm lợi nhuận, việc làm
và lợi thế mới cho Mỹ trong cuộc cạnh tranh kinh tế và thơng mại toàn cầu
hiện nay.
Tuyên bố của Tổng thống Mỹ Bill- Clinton về việc bình thờng hoá quan
hệ với Việt Nam đã nêu rõ những vấn đề mà Mỹ rất quan tâm. Đó là, việc tìm
kiếm hết những ngời Mỹ mất tích trong chiến tranh, tạo điều kiện cho Mỹ
thoát khỏi hội chứng Việt Nam và làm cho xã hội Mỹ khỏi bị chia rẽ. Mỹ
cũng hy vọng Việt Nam sẽ phồn vinh hơn với sự hỗ trợ của Mỹ trong tơng lai
để thực hiện nền kinh tế thị trờng và mở cửa.
Chỉ sau ba năm bình thờng hoá quan hệ với Việt Nam, Mỹ đã trở thành
một trong những nớc đầu t lớn vào Việt Nam (trên 1 tỷ USD - đứng hàng thứ
8), kim ngạch buôn bán giữa hai nớc tăng lên nhanh chóng hàng năm. Tơng
lai Mỹ có thể là nớc dẫn trong việc đầu t và buôn bán với Việt Nam. Tất cả các
công ty lớn của Mỹ đã mở văn phòng ở Việt Nam.
- Bên cạnh đó Mỹ theo chiến lợc lâu dài, thực hiện diễn biến hoà bình
để chuyển hoá Việt Nam đi vào quỹ đạo của Mỹ, triệt tiêu mục tiêu và bản
chất xã hội chủ nghĩa của Việt Nam.
Dới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản của Việt Nam, toàn quân, toàn dân
ta đoàn kết với tinh thần Việt Nam muốn là bạn của tất cả các nớc trong cộng
đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển. Thực hiện đa dạng

hoá, đa phơng hoá các quan hệ đối ngoại, tranh thủ sức mạnh của thời đại kết
hợp với việc phát huy nội lực đất nớc và con ngời Việt Nam, nhất định chúng
ta sẽ thực hiện thành công sự nghiệp dân giàu, nớc mạnh, xã hội công bằng,
văn minh. Mọi âm mu nham hiểm của các thế lực thù địch nhất định sẽ bị thất
bại.
Trong quan hệ với Mỹ, Chính phủ Việt Nam luôn luôn xuất phát từ lập
trờng nguyên tắc là đảm bảo cho quan hệ giữa hai nớc trên cơ sở bình đẳng,
tôn trọng độc lập, chủ quyền, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau,
cùng có lợi và phù hợp với các nguyên tắc phổ biến của luật pháp quốc tế.
11
Đến ngày 19-7-2000 hai nớc Việt Nam - Mỹđã hoàn thành việc ký kết
Hiệp định thơng mại giữa hai nớc, đánh dấu sự phát triển hơn nữa quan hệ th-
ơng mại giữa hai nớc. Và gần đây nhất, chuyến đi thăm lịch sử lần đầu tiên
11
11: Tuyên bố của Thủ tớng CHXHCNVN Võ Văn Kiệt - Báo Nhân dân 13/7/1995
17
của Tổng thống Mỹ W.J.Clinton từ ngày 16 đến ngày 19-11-2000 đã đánh dấu
mong muốn hơn nữa phát triển trong quan hệ giữa hai nớc trên tinh thần
Khép lại quá khứ, hớng tới tơng lai phấn đấu vì lợi ích của nhân dân hai n-
ớc.
Tóm lại, bình thờng hoá quan hệ với Mỹ là một thành công quan trọng
của ngoại giao Việt Nam. Việt Nam đã đánh bại âm mu cô lập, cấm vận về
kinh tế của các thế lực thù địch đối với Việt Nam và các nớc, các tổ chức quốc
tế khác. Bình thờng hoá quan hệ Việt - Mỹ mở ra cho Việt Nam những cơ hội
mới, đồng thời cũng tạo ra những thách thức mới. Việt Nam cần khai thác
những mặt thuận lợi để thúc đẩy phát triển kinh tế đồng thời luôn phải cảnh
giác với âm mu Diễn biến hoà bình của Mỹ.
* Đối với EU.
Trong chính sách đối ngoại đổi mới của Việt Nam, việc tăng cờng hợp
tác và mở rộng quan hệ với các nớc EU là rất quan trọng. Bởi đây là một trong

ba trung tâm kinh tế chính trị của thế giới có thế mạnh đặc biệt về vốn và công
nghệ. Tranh thủ đợc các nớc Tây, Bắc Âu này sẽ tạo điều kiện rất thuận lợi cho
sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nớc ta. Việc thi hành chính
sách đổi mới của Việt Nam đã tạo cơ sở, hành lang vững chắc cho quan hệ của
Việt Nam với các quốc gia trên khu vực này. Ngay từ khi Mỹ cha gỡ bỏ lệnh
cấm vận đối với Việt Nam, các quốc gia EU đã khởi động quan hệ kinh tế th-
ơng mại với nớc ta, nối lại ODA (viện trợ không hoàn lại) cho Việt Nam.
Ngay từ 22 - 10 -1990 nớc ta và EU ký hiệp định về lập quan hệ ngoại
giao và trao đổi Đại sứ. Đây là bớc phát triển quan trọng thể hiện thiện chí
quan hệ hợp tác giữa hai bên. Từ đó quan hệ hợp tác ta và EU không ngừng đ-
ợc tăng cờng và mở rộng. Ta chủ trơng thúc đẩy quan hệ hợp tác với các nớc
EU và cả cộng đồng Châu Âu dới cả hai hình thức: song phơng và đa phơng.
Do vậy Pháp đã vận động các nớc EC và EU cho Việt Nam vay 1 tỷ 800 triệu
USD năm 1994 và 2 tỷ USD năm 1995
12
và từ khi Mỹ bỏ cấm vận, các tổ
chức IMF, WB đã cho Việt Nam vay 1 tỷ 500 triệu USD
12
. Ngày 17-7-1995,
tại trụ sở EU ở Bruxcells (Bỉ) Bộ trởng ngoại giao Việt Nam Nguyễn Mạnh
Cầm và Chủ tịch Hội đồng bộ trởng liên minh Châu Âu Javier Salana đã ký
chính thức hiệp định hợp tác giữa Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và
Cộng đồng Châu Âu trớc sự chứng kiến của 15 bộ trởng ngoại giao của 15 nớc
thành viên EU. Hiệp định này quy định những điều khoản về đầu t, thơng mại,
buôn bán trao đỏi, cho vay giữa EU và Việt Nam, tạo dựng một môi trờng
12
12: Nguyễn Minh Hằng - Cải cách Kinh tế ở CHND Trung Hoa - Lựa chọn mới cho sự phát triển - NXB
1995 trang 19 -Hội thảo khoa học: 50 năm NGVN dới sự lãnh đạo của Đảng - Viện QHQT, 1995 trang 19
18
thuận lợi để mở rộng quan hệ hợp tác trên nhiều lĩnh vực giữa hai bên. Tháng

9-1996, Uỷ ban hỗn hợp Việt Nam - EU họp tại Hà Nội đã ký hai văn kiện
quan trọng, đó là: Chiến lợc hợp tác Việt Nam - EU 1996-2000 và chơng trình
hành động có định hớng 3 năm 1996-1998, lập ra 3 tổ công tác hỗ hợp phụ
trách các lĩnh vực hợp tác phát triển, kinh tế, đầu t. Tháng 3-1997, Việt Nam
chính thức tham gia hiệp định hợp tác ASEAN - Eu. Hai bên đã thực hiện
nhiều chuyến thăm cấp cao, tăng cờng hợp tác chính trị. Là một nớc thành
viên của ASEAN, Việt Nam đã tham dự cuộc gặp cấp cao á - Âu lần thứ nhất
(1996) và lần thứ hai (1998) gọi tắt là ASEM-1 và ASEM-2, lần thứ ba tại
Xơun (Hàn Quốc) - ASEM 3. Đây là một cơ chế hợp tác liên châu lục, giữa
một châu Âu hiện đại đang phát triển, giầu tiềm năng.
Tóm lại, việc mở rộng quan hệ, thúc đẩy hợp tác giữa Việt Nam và Eu
là chủ trơng đúng đắn phù hợp với quan điểm đa dạng hoá, đa phơng hoá mà
Đảng ta đã đề ra cho công tác đối ngoại trong thời kỳ đổi mới. Tăng cờng
quan hệ với EU sẽ có lợi rất lớn đối với sự nghiệp phát triển kinh tế của nớc ta.
Song chúng ta cũng không quên rằng đa số thành viên EU là đồng minh chiến
lợc của Mỹ, cùng chung những giá trị về dân chủ tự do kiểu phơng Tây.
Vì vậy, việc thúc đẩy, mở rộng quan hệ dựa trên cơ sở thận trọng, cân
nhắc kỹ lỡng, nắm vững nguyên tắc độc lập tự chủ vừa hợp tác vừa đấu tranh
trong cùng tồn tại hoà bình.
* Đối với Liên bang Nga.
Sau khi Liên Xô tan rã (1991), so với 14 nớc cộng hoà còn lại, Liên
bang Nga là nớc lớn nhất kế thừa Liên Xô về mọi mặt. Bớc lên vũ đài quốc tế
với một thể chế chính trị mới, với những hành trang trong đó có chính sách
đối ngoại Định hớng Đại Tây Dơng đợc áp dụng trong giai đoạn từ 1991-
1993. Nội dung cơ bản của chính sách đối ngoại này là thân phơng Tây, tìm
kiếm sự công nhận về mặt ngoại giao và thu hút vốn đầu t từ phơng Tây để
khôi phục nền kinh tế. Vì vậy, quan hệ Việt - Nga thời kỳ này cơ bản là ngng
trệ, một phần do chính sách đối ngoại của Liên bang Nga, phần khác Việt
Nam cũng muốn có thời gian để nhận diện lại đối tác của minh.
Từ 1994 đến nay, quan hệ Việt - Nga đã có những chuyển biển tích cực,

trớc hết do sự điều chỉnh trong chính sách đối ngoại của Liên Bang Ngan và
các cuộc viếng thăm của lãnh đạo hai nớc.
Với việc phát triển quan hệ với Liên Bang Nga, một bạn hàng truyền
thống, Việt Nam có thể đi trớc các nớc trong khu vực trong việc tranh thủ thị
19
trờng gần 170 triệu dân, có thể tranh thủ các nớc SNG khác. Ngợc lại Nga
cũng muốn thông qua bạn hàng truyền thống là Việt Nam để vũ khí Nga thâm
nhập và thị trờng ASEAN.
Hiện nay lĩnh vực hợp tác mà hai nớc Việt Nam và Liên Bang Nga quan
tâm nhất là dầu khí, tiêu biểu là VietSopetro, nhà máy lọc dầu Dung Quất
Nói chung, trong xu thế toàn cầu hoá, quốc tế hoá nền kinh tế thế giới
hiện nay, việc thúc đẩy quan hệ hợp tác với các nớc lớn nh Liên Bang Nga sẽ
rất có lợi cho việc phát triển kinh tế của các nớc đang phát triển nh Việt Nam.
Mặc dù quan hệ hợp tá giữa hai nớc hiện nay cha tơng xứng với tiềm năng của
hai nớc. Song với những u thế của mình, Liên Bang Nga - Việt Nam sẽ trở
thành đối tác quan trọng của nhau vì lợi ích của nhân dân hai nớc.
* Bên cạnh việc thúc đẩy quan hệ với các nớc, các nớc láng giềng và
truyền thống, chính sách đối ngoại đổi mới của Việt Nam cũng rất chú
trọng đến khu vực Châu á - Thái Bình Dơng.
Đợc đánh giá là khu vực năng động nhất của thế giới, thế kỷ XXI là thế
kỷ của Châu á - Thái Bình Dơng. Khu vực này đã, đang và sẽ là một điểm
nóng của nền kinh tế thế giới.
Việt Nam chủ trơng mở rộng các nớc của khu vực này, từ Đông Bắc á
đến Nam Thái Bình Dơng. Nhiều nớc ở đây có nền kinh tế phát triển cao và
giàu tiềm năng nh Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc, Nga Bằng sự nỗ lực hoạt
động ngoại giao từ sau khi áp dụng chính sách đối ngoại đổi mới, Việt Nam
đã có những bớc phát triển mạnh mẽ trong quan hệ với các nớc ở khu vực này.
Đối với Nhật Bản, quan hệ giữa hai nớc đợc đánh dấu bằng hành động mở lại
viện trợ phát triển (ODA) cho Việt Nam của Nhật Bản. Sau 14 năm gián đoạn,
đây là bớc khởi đầu thuận lợi, tạo ấn tợng tốt đẹp thúc đẩy quan hệ hợp tác

giữa hai nớc. Những cuộc đi thăm chính thức của các quan chức cấp cao giữa
hai nớc đã taok tiền đề cho quan hệ buôn bán, đầu t trên quy mô lớn của Nhật
Bản vào Việt Nam.
Về cơ bản, cho đến năm 1997 đã có 9 nớc thuộc khu vực Châu á - Thái
Bình Dơng trong tổng số 11 nớc đầu t vào Việt Nam hơn 1 tỷ USD. Đó là
Singapore 4918,8 triệu USD; Đài Loan 4255,3 USD; Hồng Kông 3433,8 triệu
USD; Nhật Bản 3275,1 triệu USD; Hàn Quốc3053,3 triệu USD; Thái Lan
1035 triệu USD và Malayxia 1048 triệu USD
13
. Có thể nói sự thật đây là
những đối tác quan trọng của Việt Nam. Ta không chỉ khai thác đợc ở họ vốn,
13
13: Dơng Ngọc: Đầu t nớc ngoài qua những con số - Thời báo kinh tế Việt Nam 14/2/1998 trang 8
20
công nghệ hay các kỹ năng quản lý mà còn có thể học hỏi, rút kinh nghiệm từ
quá trình phát triển kinh tế của các nớc này.
Để mở rộng quan hệ hợp tác và phù hợp với chủ trơng đã đề ta, chúng ta
không dừng lại ở mức độ hợp tác song phơng mà còn đẩy mạnh quan hệ đa
phơng của khu cực. Tháng 6-1996 ta đã chính thức nộp đơn xin ra nhập tổ
chức Hợp tác kinh tế Châu á - Thái Bình Dơng (APEC). Với những nỗ lực
trong việc tham gia ASEAN, APEC chúng ta đã thực hiện thành công chính
sách đối ngoại khu vực và thế giới.
Cùng với việc tăng cờng và mở rộng quan hệ hợp tác với các nớc, các
khu vực trên thế giới trong thời gian qua, ngoại giao Việt Nam còn tham gia
tích cực vào việc giải quyết những vấn đề toàn cầu nh môi trờng, dân số, y tế,
giáo dục Năm 1997, Việt Nam đợc bầu làm phó chủ tịch Đại hội đồng Liên
Hợp Quốc khoá 52 (1997 - 1998). Việt Nam còn đợc bầu làm uỷ viên Hội
đồng kinh tế - xã hội của LHQ (ECOSOC), một cơ quan quan trọng vào bậc
nhất của LHQ. Là thành viên mới của Hội nghị giải trừ quân bị, Việt Nam đã
tham gia soạn thảo và ký kết hiệp ớc cấm thử vũ khí hạt nhân toàn diện

(CTBT). Bên cạnh đó ta cũng góp phần tích cực vào mục tiêu chung là đòi cải
tổ LHQ theo hớng dân chủ hoá, đảm bảo quyền bình đẳng giữa các quốc gia.
Ngoài ra chúng ta tham gia tích cực và chủ động vào tổ chức không liên kết,
thúc đẩy hợp tác giữa các nớc G77 kêu gọi tăng cờng hợp tác Nam - Nam, đấu
tranh vì công bằng trong quan hệ Bắc - Nam. Không những thế chúng ta cũng
là một nhân tố năng động trong cộng đồng các nớc có sử dụng tiếng Pháp.
Điều này đã đợc chứng tỏ bằng việc tổ chức thành công Hội nghị thợng đỉnh
các nớc có sử dụng tiếng Pháp vào cuối tháng 5-1998 đã gây ấn tợng tốt đẹp
đối với các thành việc của tổ chức này.
* Đối với các Đảng cộng sản và công nhân quốc tế. Trong điều kiện
phong trào đảng cộng sản và công nhân quốc tế đang bị thoái trào, quan hệ
giữa các Đảng cộng sản và Nhà nớc với các Đảng cộng sản và công nhân quốc
tế đợc chúng ta coi là u tiên trong chính sách đối ngoại. Đại hội VIII đã khẳng
định: Đảng ta tiếp tục phát triển quan hệ đoàn kết, hữu nghị với các Đảng
cộng sản và công nhân, các phong trào độc lập dân tộc, các tổ chức và phong
trào tiến bộ trên thế giới.
14
Đối với các Đảng cộng sản và công nhân đang cầm quyền, Đảng cộng
sản Việt Nam tăng cờng đoàn kết, hữu nghị trên cơ sở tôn trọng độc lập, tự
chủ với tinh thần khai thác những điểm tơng đồng, hạn chế bất đồng, phấn đấu
14
14: Đảng CSVN - Văn kiện Đậi hội VIII - NXB Chính trị quốc gia trang 62
21
vì mục tiêu xã hội chủ nghíac. Các Đảng cộng sản và công nhân cầm quyền
hiện nay chỉ còn 5 nớc, đó là Việt Nam; Trung Quốc; Lào; CuBa; Bắc Triều
Tiên. Với Là và CuBa quan hệ đó vừa là quan hệ với các Đảng cộng sản và
công nhân, vừa là quan hệ với các nớc láng giềng.
Bên cạnh việc xây dựng quan hệ tốt với Trung Quốc, Lào. Đối với
CuBa, Việt Nam luôn khẳng định đây là mối quan hệ tốt đẹp truyền thống.
Việt Nam cũng luôn ủng hộ cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân CuBa vì

mục tiêu hoà bình, đọc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Việt Nam
tích cực giúp đỡ CuBa trong khả năng cho phép của mình. Với Cộng hoà nhân
dân Triều Tiên, Việt Nam vẫn giữ vững hợp tác, quan hệ hữu nghị bình đẳng,
ủng hộ sự nghiệp thống nhất đất nớc của nhân dân Triều Tiên. Gần đâu quan
hệ giữa hai Đảng và hai Nhà nớc có những bớc tiến mới sau một thời gian dài
chững lại.
Đối với các Đảng cộng sản và công nhân cha cầm quyền, Việt Nam tiếp
tục ủng hộ về chính trị, trao đổi kinh nghiệm đấu tranh và giúp đỡ về vật chất
trong điều kiện cho phép của Việt Nam.
Tóm lại: Từ sau những năm 1975, Việt Nam từ một nớc bị bao vây cấm
vận về kinh tế, cô lập chính trị. Đến những năm 1990 Việt Nam đã bình thờng
hoá quan hệ với Trung Quốc, ký hiệp định Paris về Campuchia, đặc biệt Việt
Nam bớc đầu thành công trong công cuộc đổi mới, thực hiện đa dạng hoá, đa
phơng hoá quan hệ đối ngoại trên cơ sở độc lập tự chủ nên đã mở ra thời kỳ
cải thiện quan hệ với hầu hết các nớc và các tổ chức quốc tế, phá đợc thế bao
vây, cô lập và cấm vận.
Hiện nay Việt Nam đã lập quan hệ ngoại giao với 168 nớc và hơn 200
tổ chức chính trị trên thế giới, vị thế quốc tế của Việt Nam trên trờng quốc tế
ngày càng đợc nâng cao.
Thắng lợi của hoạt động đối ngoại trong những năm qua cùng với
những thắng lợi trên lĩnh vực đối ngoại đảm bảo cho các hoạt động của Đảng
và Nhà nớc dứng vững trong điều kiện thế giới có nhiều biến động, đồng thời
những thắng lợi này cũng khẳng định chính sách Đa dạng hoá, đa phơng hoa
quan hệ đối ngoại của Đảng và Nhà nớc Việt Nam là hoàn toàn đúng đắn phù
hợp với mục tiêu Việt Nam là bạn với tất cả các nớc trong cộng đồng quốc tế

15
. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam có quan hệ bình thờng với tất
cả các nớc lớn, các tổ chức quốc tế có vai trò quan trọng trên thế giới, đây là
nền tảng thuận lợi cho Việt Nam bớc vào thiên niên kỷ mới.

15
15: Nguyễn Mạnh Cầm: 3 nét nổi bật của hoạt động ngoại giao năm 1993 - Tuần báo quốc tế 2/1994
22
23
Chơng 3
Triển vọng quan hệ đối ngoại của Việt Nam những năm đầu thế
kỷ XXI
3.1. Những thuận lợi và khó khăn.
* Thuận lợi.
Dới sự lãnh đạo sáng suốt, đúng đắn của Đảng ta, với bản lính chính trị
vững vàng, sau 15 năm đổi mới Đảng dẫn dắt dân tộc ta thoát khỏi khủng
hoảng trầm trọng và giành đợc những thành tựu to lớn và quan trọng, làm cho
thế và lực của nớc ta lớn mạnh lên nhiều. Cơ sở vật chất kỹ thuật của nền kinh
tế đợc tăng cờng. Đất nớc còn nhiều tiềm năng lớn về tài nguyên lao động.
Nhân dân ta có nhiều phẩm chất cao quy. Tình hình chính trị - xã hội ổn địng.
Môi trờng hoà bình, sự hợp tác, liên kết, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế
ngày càng phát triển tạo điều kiện để chúng ta tiếp tục phát huy nội lực và lợi
thế so sánh, tranh thủ ngoại lực, nguồn vốn, công nhệ mới, kinh nghiệm quản
lý, mở rộng thị trờng phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đó là
cơ hội lớn để chúng ta tạo ra bớc phát triển mới.
Đầu thập kỷ 90, Việt Nam bình thờng hoá quan hệ với Trung Quốc, ký
kết hiệp địng Paris về Campuchia, cải thiện quan hệ với các nớc phơng Tây,
ASEAN và các tổ chức tiền tệ quốc tế.
Hiện nay quan hệ đối ngoại của Việt Nam đã đợc rộng mở. Việt Nam
bình thờng quan hệ với các nớc lớn, với hầu hết các chủ thể trong quan hệ
quốc tế. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam có quan hệ bình thờng với
tất cả các nớc lớn, các tổ chức quốc tế chủ chốt. Vị thế của Việt Nam ngày
càng đợc nâng cao trên trờng quốc tế, đây là nền tảng, thuận lợi cho việc đặt
nền móng cho đờng lôứi đối ngoại của Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ
XXI.

* Khó khăn.
Bên cạnh những thuận lợi, cơ hội lớn chúng ta cũng phải đối mặt với
nhiều khó khăn thách thức.
Thách thức lớn nhất là tình trạng thấp kém vủa nền kinh tế, khoảng
cách về trình độ phát triển giữa nớc ta với nhiều nớc trên thế giới còn rất lớn,
trong khi đó đất nớc đi lên trong điều kiện cuộc cạnh tranh quốc tế ngày càng
quyết liệt, trong bộ máy của Đảng và Nhà nớc tệ quan liên, tham nhũng và sự
thoái hoá về phẩm chất, đạo đức của một bộ phận cán bộ đảng viên cha đợc
đẩy lùi. Bốn nguy cơ mà Đảng ta từng cảnh báo vẫn tồn tại và diễn biến phức
24
tạp. Các nguy cơ này đan xen và tác động lẫn nhau, không thể xem nhẹ nguy
cơ nào.
Bên cạnh đó về công tác đối ngoại của Việt Nam cũng còn nhiều tồn tại
đáng lu ý:
Sự tham gia của Việt Nam vào các tổ chức đa phơng ở khu vực trên thế
giới còn nhiều hạn chế. Một phần do tình độ tổ chức, quản lý và do thực lực
kinh tế có hạn. Nhng cần phải khẳng định thêm rằng trong tơng lai sự tham
gia này là rất cần thiết.
Bên cạnh đó việc nghiên cứu dự báo chiến lợc của chúng ta còn cha đợc
đầu t thích đáng. Bởi nếu không dự báo đợc tình hình lờng trớc những nguy
cơ, đe doạ có thể xảy ra, sẽ rất khó khăn cho chúng ta nếu các thế lực thù địch
thay đổi chiến lợc chống phá cách mạnh Việt Nam.
Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu á vừa qua đã và đang nhắc nhở
chúng ta về tinh thần độc lập tự chủ giảm bớt phụ thuộc vào bên ngoài, bởi
nếu phục thuộc quá nhiều vào nớc ngoài, khi học cắt giảm liên kết kinh tế rất
dễ dẫn tới mất ổn định về chính trị.
Mặt khác phải dự báo đợc nhu cầu, sở thích của thị trờng thế giới để có
chủ trơng đầu t sản xuất trong nớc thích hợp mới tăng đợc khả năng cạnh
tranh. Chúng ta phải năng động, nhạy bén hơn trong việc tìm kiếm thị trờng và
nắm bắt thông tin kinh tế đối ngoại tạo điều kiện định hớng cho các doanh

nghiệp trong nớc.
Tựu trung lại, hơn 10 năm thực hiện công cuộc đổi mới, nớc ta đã đạt đ-
ợc những bớc tiến căn bản tạo nền móng vững chắc cho quá trình công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nớc. Tuy nhiên trong một thế giới sôi động, phát triển
nh vũ bão hiện nay, tiềm ẩn rất nhiều những thức thức. Việt Nam có tận dụng
đợc thời cơ thuận lợi hay không , có vợt qua đợc những trở ngại thác thức đa
đất nớc tiến vào thế kỳ 21 hay không tuỳ thuộc rất nhiều vào đờng lối phát
triển đất nớc nói chung và hoạt động đối ngoại của Đảng và Nhà nớc ta nói
riêng.
3.2. Triển vọng của quan hệ đối ngoại của Việt Nam những năm đầu thế kỳ XXI.
Chúng ta tự hào về những thành tựu của Đảng và Nhà nớc ta giành đợc
trong 15 năm đổi mới, chúng ta vững tin vào tiền đồ của đất nớc những năm
tới.
25

×