Câu 1: Phân tích thực trạng phát triển kinh tế của hệ thống các nước Tư bản từ
sau khủng hoảng 2008 đến nay.
1. Nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng:
a- Nguyên nhân sâu xa: Khủng hoảng tài chính bùng phát tại Mỹ và lan rộng toàn
cầu, kéo theo sự sụp đổ đồng loạt của nhiều định chế tài chính khổng lồ, thị trường
chứng khoán khuynh đảo. Năm 2008 cũng chứng kiến nỗ lực chưa từng có của các
nền kinh tế để chống chọi với "bão".Cuộc khủng hoảng tài chính tồi tệ "hàng trăm
năm mới có một lần"
Nguyên nhân sâu xa của cơn địa chấn tài chính bắt nguồn từ khủng hoảng tín dụng
và nhà đất tại Mỹ. Bong bóng bất động sản càng lúc càng phình to đã đặt thị
trường nhà đất và tiếp đó là tín dụng tại Mỹ cũng như nhiều quốc gia châu Âu vào
thế nguy hiểm. Cho vay dưới chuẩn tăng mạnh là khởi điểm cho quả bong bóng tại
thị trường nhà đất. Các ngân hàng cho vay cầm cố bất động sản mà không quan
tâm tới khả năng chi trả của khách. Dư nợ trong mảng này nhảy từ 160 tỷ USD của
năm 2001 lên 540 tỷ vào năm 2004 và bùng nổ thành 1.300 tỷ vào năm 2007. Theo
ước tính vào cuối quý III năm 2008, hơn một nửa giá trị thị trường nhà đất Mỹ là
tiền đi vay với một phần ba các khoản này là nợ khó địi. Trước đó, để đối phó với
lạm phát, FED đã liên tiếp tăng lãi suất từ 1% vào giữa năm 2004 lên 5,25% vào
giữa năm 2006 khiến lãi vay phải trả trở thành áp lực quá lớn với người mua nhà.
Thị trường bất động sản thời điểm này bắt đầu có dấu hiệu đóng băng và sụt giảm.
Trước tình hình trên, các ngân hàng, cơng ty bảo hiểm, tổ chức tài chính... đã mua
lại các hợp đồng thế chấp và biến chúng thành tài sản đảm bảo để phát hành trái
phiếu ra thị trường. Loại sản phẩm phái sinh này được đánh giá cao bởi các tổ chức
định giá tín dụng, nên thanh khoản tốt. Khơng chỉ dừng lại ở đó, nhiều cơng ty bảo
hiểm, trong đó có AIG, cịn sẵn sàng bảo lãnh cho những hợp đồng hoán đổi này.
Còn nguyên nhân sâu xa nữa cần phải kể đến là sự dư thừa các dịng vốn khơng
tìm được địa chỉ đầu tư có hiệu quả. Nếu đầu tư vào cơng nghiệp, thì mức tiêu
dùng hàng cơng nghiệp ln ln có giới hạn ngặt nghèo, hơn nữa sản xuất cơng
nghiệp tại các nước phát triển ngày càng mất lợi thế so sánh do tiền lương cao, chi
phí lớn, lợi nhuận giảm dần. Do vậy, các nước phát triển buộc phải chuyển sản
xuất công nghiệp sang các nước đang phát triển, để tận dụng lợi thế của các nước
này, tìm kiếm siêu lợi nhuận. Vốn đầu tư vào các ngành công nghiệp truyền thống
ngày càng có xu hướng giảm đi do tiến bộ công nghệ mang lại. Trong những năm
gần đây, nguồn tiền từ dầu mỏ tăng lên do giá dầu mỏ tăng cao (theo ước tính
khoảng 3.000 - 6.000 tỷ USD). Hệ thống huy động tiền tiết kiệm, tiền bảo hiểm các
loại ngày càng hiện đại, tạo ra dòng vốn ngày càng lớn, nhưng nơi đầu tư có lợi
ngày càng khan hiếm. Đầu tư vào công nghiệp bị giới hạn bởi thị trường tiêu thụ
ngày càng thu hẹp, đầu tư vào công nghệ cao lại chưa phát triển mạnh, do đó việc
hấp thu vốn cũng ảnh hưởng khơng nhỏ; đầu tư vào bất động sản, thị trường này có
thể thu hút một lượng vốn vơ cùng lớn, có thể tới hàng nghìn tỷ đơ-la, điều đó giải
thích vì sao “bong bóng bất động sản” đã nổ ở Nhật Bản mà Mỹ và phương Tây
vẫn lặp lại sai lầm. Theo lập luận của giới đầu tư phương Tây rằng họ có hệ thống
tài chính hiện đại đủ khả năng kiểm sốt tình hình, nhưng thực tế diễn ra lại trái
với lập luận của họ.
b- Nguyên nhân trực tiếp
- Quản lý hệ thống tài chính ở Mỹ xuống cấp:
Một nguyên nhân cơ bản dẫn đến khủng hoảng là những yêu cầu của pháp luật về
sự minh bạch hóa và năng lực kiểm tra, giám sát của các cơ quan nhà nước đã
không bắt kịp với những biến đổi sâu rộng của thị trường trong hơn hai mươi năm
qua.
Kể từ thập niên 1980, thị trường tài chính Mỹ và thế giới đã nhanh chóng phát
triển các cơng cụ chứng khốn phái sinh và mở rộng hoạt động chứng khốn hóa
các khoản nợ và đầu tư. Chứng khốn phái sinh và chứng khốn hóa, mặc dù giúp
tăng nguồn tài chính và phân tán rủi ro, đã dẫn đến việc giá cả của trái phiếu và cổ
phiếu ngày càng xa rời giá trị đích thực của tài sản bảo đảm.
Khơng một cơ quan nhà nước, đơn vị kiểm tốn hay phân tích tín dụng và tài chính
có đủ thơng tin và khả năng nhìn xuyên qua lớp lớp các thao tác chứng khốn để
có thể đánh giá chính xác giá trị và độ rủi ro của các khoản đầu tư và tài sản nằm
trên sổ sách của các công ty tài chính và ngân hàng.
Thêm vào đó nhiều thao tác này lại được che đậy qua hoạt động đầu cơ của các
quỹ đầu tư .Ví dụ như hedge funds, một loại hình quỹ đầu tư có tính đại chúng
thấp,và ko bị quản chế quá nghiêm ngặt,nắm giữ tới gần 3000 tỉ đô la giá trị tài sản
nhưng không hề phải cáo bạch tài sản với công chúng và gần như khơng chịu sự
giám sát của bất kì một cơ quan nhà nước nào.
Ngoài ra, những nới lỏng của pháp luật bắt đầu từ thập niên 1980, chẳng hạn như
việc hủy bỏ đạo luật Glass-Steagall vốn tách biệt ngân hàng thương mại chuyên
thực hiện những hoạt động cho vay an toàn với ngân hàng đầu tư chuyên thực hiện
những nghiệp vụ đầu tư rủi ro cao, đã góp phần khuyến khích những hoạt động đầu
cơ và tạo điều kiện cho xung đột lợi ích phát triển. Chính mơi trường thiếu minh
bạch và thiếu giám sát đã thổi bùng lên bong bóng đầu cơ bất động sản.
- Khủng hoảng niềm tin:
Một nguyên nhân khác dẫn đến cuộc khủng hoảng thị trường chứng khoán ngày
càng sâu rộng là sự khủng hoảng về niềm tin của người dân Mỹ đối với đội ngũ
lãnh đạo của đất nước này. Kế hoạch giải cứu tài chính tưởng chừng như được
thơng qua khi hầu hết các lãnh đạo chính trị Mỹ đều ủng hộ thì đến phút cuối lại
không được Hạ viện thông qua. Ngay lập tức thị trường có những phản ứng tiêu
cực với kết quả này khi các chỉ số chính trên tồn thế giới đều giảm rất sâu. Một kế
hoạch giải cứu trị giá rất lớn như vậy mà khi đưa ra Hạ viện bỏ phiệu lại chưa chắc
rằng liệu nó có đạt được đủ số phiếu để thơng qua hay khơng thì trong bất cứ
trường hợp nào cũng là một rủi ro đối với thị trường và đặc biệt trong tình trạng thị
trường đang suy yếu. Mặc dù vài ngày sau gói giải pháp này đã được thông qua
nhưng rõ ràng đã có sự khơng nhất qn trong nội bộ các nhà lập pháp Mỹ về cách
thức điều hành và quản lý thị trường. Nhiều chính sách điều tiết thị trường đã
khơng cịn phù hợp và khơng theo kịp được sự phát triển của thị trường. Vấn đề là
khi lòng tin vào vai trị của Chính phủ đã bị giảm sút và những dầu hiệu của một
cuộc cuộc đại khủng hoảng và suy thoái trong dài hạn vẫn cịn hiển hiện thì những
giải pháp tài chính tức thời cũng khó làm thay đổi được thị trường. Niềm tin nhà
đầu tư vào hệ thống tài chính giảm sút nhanh chóng, giá cổ phiếu ngân hàng và các
tổ chức tài chính giảm mạnh, người dân mất niềm tin và phản ứng tự vệ bằng cách
nhanh chóng rút tiền tiết kiệm khỏi hệ thống ngân hàng làm cho hệ thống ngân
hàng thiếu thanh khoản trầm trọng
2. Diễn biến khủng hoảng:
Diễn biến kinh tế quốc tế năm 2008
2/1: Giá dầu thô lần đầu tiên vượt 100 USD mỗi thùng
16/3: Bear Stears tuyên bố phá sản, báo hiệu chuỗi đổ vỡ của các định chế tài
chính vào những tháng tiếp theo
11/7: Giá dầu chạm mức lịch sử 147,27 USD mỗi thùng
7/9: Mỹ chi 200 tỷ USD tiếp quản Freddie Mac và Fannie Mae
14/9: Bank of America mua lại Merrill Lynch
15/9: Lehman Brothers tuyên bố phá sản
16/9: Mỹ giải cứu AIG
21/9: Goldman Sachs và Morgan Stanley thay đổi mơ hình hoạt động
28/9: Ngân hàng Bradford & Bingley (Anh) sụp đổ
29/9: Quốc hội Mỹ bác kế hoạch 700 tỷ USD, khiến Dow Jones có mức sụt giảm
lớn nhất lịch sử, gần 778 điểm, và phố Wall mất 1.200 tỷ USD
3/10: Hạ viện Mỹ thơng qua gói 700 tỷ USD
7/10: Anh chi 88 tỷ USD cứu hệ thống ngân hàng
8/10: Các ngân hàng trung ương đồng loạt hạ lãi suất
12/10: Chính phủ Iceland có nguy cơ sụp đổ vì khủng hoảng tài chính
27/10: IMF bơm tiền hỗ trợ hàng loạt nền kinh tế
5/11: Ông Barack Obama đắc cử Tổng thống Mỹ, với đường lối kinh tế được thế
giới kỳ vọng thay đổi hiện trạng kinh tế Mỹ và toàn cầu
10/11: Trung Quốc chi gần 600 tỷ USD kích thích kinh tế
14/11: 15 nước châu Âu thừa nhận lâm vào suy thối
17/11: Nhật thơng báo đã suy thối
25/11: Mỹ chi thêm 800 tỷ USD hỗ trợ kinh tế
1/12: Mỹ thừa nhận đã suy thoái từ cuối năm 2007
11/12: Vụ lừa đảo 50 tỷ USD của Bernard Madoff vỡ lở, với hàng nghìn nạn nhân
Nguồn: />3. Giải pháp đối phó với khủng hoảng
a,Các chính sách của Mỹ:
Sau cuộc đại khủng hoảng 2008, Chính phủ Mỹ đã phải can thiệp trực tiếp đến hệ
thống tài chính bằng những chính sách quyết liệt như bơm tiền, hạ lãi vay, mua trái
phiếu, sáp nhập ngân hàng, quốc hữu hóa ngân hàng...
Sau khi giải cứu phố Wall, Chính phủ Mỹ u cầu kiểm kê lại tình hình tài chính
các tổ chức, phát hiện ra lỗ hổng khoảng 700 tỷ USD trong hệ thống tài chính nước
Mỹ.
Ngày 3/10/2008, Chính phủ của Tổng thống Bush thơng qua kế hoạch Paulson
với một số nội dung chính sau đây:
Chính phủ có thể mua lại tồn bộ các tín phiếu có thế chấp bất động sản từ các
định chế tài chính với giá cao nhất là 700 tỷ USD.
Khoản tiền 700 tỷ USD được chia làm 3 giai đoạn, trước mắt là 250 tỷ sau đó là
100 tỷ do Nhà Trắng quyết định cịn 350 tỷ phải thơng qua Quốc hội.
Nếu sau khi bán các bất động sản mà các tổ chức này khơng trả tiền cho Nhà nước
thì Nhà nước sẽ mua cổ phiếu của chính các tổ chức này.
Chính phủ lập ra một quỹ bảo hiểm các tín phiếu bất động sản rủi ro, các định chế
tài chính sẽ đóng góp tài trợ cho quỹ này.
Chính phủ giới hạn tiền lương các bộ cao cấp của các tổ chức khơng q 500000
USD/năm.
Chính phủ tăng tiền gửi của dân chúng từ 100000 USD/năm lên 250000 USD/năm
một người/1 Tài khoản/1 ngân hàng.
5 năm nữa Chính phủ sẽ ban hành kế hoạch mới cho phép các tổ chức hoàn trả lại
các khoản vay
Ban hành quy tắc mới về kế tốn, có thể đánh giá chính xác hơn về tình hình tài
chính của các tổ chức.
Giảm thuế tại thời cho các tổ chức tài chính nào khơng thu tiền lãi các khoản vay
bất động sản
Sau khi thông qua kế hoạch Paulson, 700 tỷ USD này sẽ được dùng một phần để
tăng vốn cho các ngân hàng. FED cho danh sách 10 – 15 tổ chức mỗi đơn vị nhận
được 10 tỷ USD vốn để đổi lại 1 phần cổ phần cho Nhà nước.
Đánh giá của nhóm nghiên cứu về kế hoạch này:
Cộng với sự căng thẳng từ cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ cuối năm 2008 khiến sự
đồng thuận trong Quốc hội về kế hoạch này càng ít. Điều gì đến đã phải đến, tháng
3/2009 chính quyền Obama mới nhậm chức đã đưa ra phương án Geithner với
khoản chi 2000 tỷ USD để làm sách hệ thống ngân hàng và giải quyết các món tài
sản độc hại về địa ốc, kèm theo đó là những khoản tiền ”tín dụng thuế” hay ưu đãi
để khích lệ người dân tiêu dùng trong việc mua nhà và tiêu thụ xe hơi. Cụ thể
khoản tiền ưu đãi về thuế này lên đến 300 tỷ USD kèm theo rất nhiều khoản ưu đãi
khác cho người dân khi mua nhà ở hay xe hơi. Nhưng theo đánh giá thì số tiền của
gói cứu trợ này q lớn và Chính phủ Mỹ buộc phải in tiền và phát hành trái phiếu.
Điều tất yếu là sẽ làm thâm hụt ngân sách và lạm phát bởi Chính phủ sẽ phải trả số
lãi của việc in tiền và của trái phiếu. Nhưng cũng có thể nhận xét rằng gói cứu trợ
này của chính quyền Obama sẽ đưa lại những hiệu quả tích cực, ít nhất trong thời
gian khó khăn đầu năm 2009.
b- Các chính sách của châu Âu
Ngày 8/10, kế hoạch giải cứu ngành ngân hàng của Anh được cơng bố. Trong đó
bao gồm khoản tiền 50 tỷ Bảng (tương đương 87 tỷ USD) để mua lại cổ phần trong
các ngân hàng lớn, 200 tỷ Bảng để tái cấp vốn cho các ngân hàng và 250 tỷ Bảng
để bảo lãnh nợ cho các ngân hàng.
Hai đặc trưng trong biện pháp đối phó lần khủng hoảng này của người Anh bao
gồm hai điểm chính:
Tạm thời quốc hữu hóa một phần các ngân hàng thơng qua việc bơm vốn vào các
ngân hàng này để đổi lấy cổ phần.
Đảm bảo cho các khoản vay giữa các ngân hàng với nhau.
Cần phải nói thêm, việc bơm vốn để đổi lấy cổ phần này không giống như việc các
ngân hàng trung ương vẫn thường bơm vốn vào thị trường tài chính với tư cách là
hoạt động tái cấp vốn ngắn hạn cho các ngân hàng.
Gần như sau đó chính sách này đã được nhân rộng trên phạm vi toàn cầu. Ở châu
Âu, ngày 12/10, 15 nước thuộc khu vực sử dụng đồng Euro (Eurozone) đã bất ngờ
đạt được một kế hoạch hành động tập thể để giải quyết khủng hoảng. Kế hoạch trị
giá 1.300 tỷ Euro, tương đương 1.800 tỷ USD, của Eurozone gần như là một bản
sao kế hoạch giải cứu ngành ngân hàng của Anh vì cũng bao gồm các biện pháp
bảo lãnh cho các khoản vay liên ngân hàng và cho phép các chính phủ mua lại cổ
phần trong các ngân hàng có vai trị quan trọng trong trường hợp cần thiết.
4. Kinh tế các nước tư bản thời kỳ hậu khủng hoảng:
a- Đối với Hoa Kì
Cuộc khủng hoảng đã đưa nước Mỹ bước vào thời kì tồi tệ nhất trong lịch sử từ
sau cuộc đại suy thoái thập niên 1930. Hàng loạt các ngân hàng hàng đầu thế giới
như Lehman, Merrill Lynch,… tuyên bố phá sản hoặc bị bán rẻ cho nước ngoài.
Năm 2008, Mỹ nợ 10000 tỷ đơ-la, một món nợ lứn nhất mà chưa quốc gia nào có.
Năm 2009, kinh tế mỹ tăng trưởng âm 2,4%, thấp nhất từ 1946. Tỉ lệ thất nghiệp
tăng ảnh hưởng tiêu cực đến thu nhập và qua đó tiêu dùng của các hộ gia đình
giảm làm cho các doanh nghiệp khó bán được hàng hóa. Hàng hóa ế thừa, mức giá
chung của nền kinh tế giảm liên tục, dẫn đến lạm phát cao.
Tỷ lệ thất nghiệp Hoa kì (%)
Tháng 1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
2007
4.5
4.4
4.5
4.5
4.6
4.7
4.6
4.7
4.8
4.7
4.9
4.6
2008
4.9
4.8
5.4
5.0
5.5
5.6
5.8
6.2
6.2
2009
7.6
8.1
8.5
8.9
9.4
9.5
9.4
9.7
9.8
6.6
6.8
7.2
Cuộc khủng hoảng đã làm cho nền công nghiệp hàng đầu nước Mỹ sụp đổ-Công
nghiệp ô tô với sự kiện phá sản của ba hãng ô tô hàng đầu là General Mơtors
(GM), Ford Motor và Chrysler. Tình hình khủng hoảng của ngành chế tạo ô tô Hoa
Kỳ thể hiện rõ nhất qua tình hình kinh doanh của Detroit's Big Three từ quý IV
năm 2007. Tháng 2 năm 2008, GM thông báo rằng năm 2007 hãng bị lỗ 38,7 tỷ
dollar (trước khi trừ thuế và phần trả nợ). Ford có mức lỗ kinh doanh trong năm
2007 là 2,723 tỷ dollar. Sang năm 2008, tình hình kinh doanh càng tồi tệ hơn.
Doanh số của 3 hãng chế tạo ô tô lớn nhất nước này trong năm 2008 giảm xuống
mức 15 thấp ngang hồi thập niên 1950. Tám tháng đầu năm 2008, Chrysler bị lỗ
tới 400 triệu dollar. GM bị lỗ trước thuế 4,2 tỷ dollar chỉ riêng trong quý III năm
2008, trong khi Ford lỗ 2,75 tỷ dollar. Mặc dù nhận được các khoản vay của Chính
phủ nhưng các cơng ty này vẫn lần lượt tuyên bố phá sản. Tỷ trọng của nền kinh tế
Hòa Kỳ đối với kinh tế thế giới càng giảm, tỷ trọng này năm 2008 là 23.79% - mức
thấp nhất trong vòng 20 năm trở lại đây, giảm 8% so với năm 2001. Tốc độ tăng
trưởng trung bình của kinh tế Hoa Kỳ giảm từ 3,42%/năm (từ 1991-2000) xuống
1,61%/năm (từ 2001- 2010) trong khi tốc độ tăng trưởng trung bình của kinh tế thế
giới tăng từ 3,07%/năm (1991-2000) lên 3,2%/năm (2001-2010). Trong suốt giai
đoạn 10 năm trở lại đây, kinh tế Hoa Kỳ liên tục có tốc độ phát triển thấp hơn tốc
độ trung bình của tồn thế giới. Giá trị đồng USD giảm sút, tính đến tháng 9 năm
2009, đồng USD đã mất giá 10% so với tháng 12 năm 2005 và 18% so với tháng
12 năm 2000 (tính theo tỷ giá USD/SDR).
b- Đối với thế giới
Hoa kì là thị trường nhập khẩu quan trọng của nhiều nước, do đó khi kinh tế Mỹ
suy thối, xuất khẩu nhiều nước bị thiệt hại. Nhất là các nước xuất khẩu theo
hướng đông á. Một số nền kinh tế như Nhật bản, Đài Loan, Singapo rơi vào suy
thoái, Các nền kinh tế khac tăng trưởng chậm lại. Châu Âu vốn có mối quan hệ
mật thiết với Mỹ chịu tác động nghiêm trọng cả về tài chính lẫn kinh tế. Nhiều tổ
chức tài chính ở đây lâm vàophá sản đến mức khủng hoảng ở một số nước như
Iceland, Nga…Khu vực đồng Euro chính thức rơi vào cuộc khủng hoảng kể từ
ngày đầu thành lập. Các nền kinh tế Mỹ Latinh cũng bị ảnh hưởng tiêu cực khi các
dòng vốn ngắn hạn bị rút khỏi khu vực và giá dầu giảm mạnh. Khủng hoảng ở Mỹ
là nguyên nhân cuộc khủng hoản kinh tế tồn cầu 2008-2009 Chi phí để thế giới
khắc phục hậu quả của cuộc khủng hoảng này là khoảng 11.900 tỉ USD, theo ước
tính của Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF). Điều đó có nghĩa là nếu chia bình quân, mỗi
người trong thế giới 6,7 tỉ dân vào thời điểm đó đã có thể có thêm 1.779 USD nếu
cuộc khủng hoảng khơng xảy ra. Tính ra thiệt hại tương đương 1/5 sản lượng kinh
tế toàn cầu đã biến mất. Khoản tiền chi ra để cứu nguy nền kinh tế thế giới lần này
là lớn nhất trong lịch sử. Theo tính tốn của IMF trong báo cáo đưa ra trước dịp
“kỷ niệm” hai năm bắt đầu khủng hoảng, chi phí cứu nguy này vẫn đang tiếp tục
tăng. Hầu hết số tiền chi ra là từ các nước phát triển, với con số lên tới 10.200 tỉ
USD. Trong khi đó, các nước đang phát triển chỉ chi 1.700 tỉ USD. GDP toàn cầu
năm 2009 giảm 5.826 tỷ USD so với năm 2008 (đây là lần đầu tiên GDP tồn cầu
tăng trưởng âm trong vịng 20 năm trở lại đây), kéo tốc độ phát triển trung bình của
tồn giai đoạn đi xuống, từ 4,04%/năm cho giai đoạn 2001 đến 2007, xuống còn
3,2% cho cả giai đoạn 2001-2010. Trong năm 2010, ước tính kinh tế thế giới đã
bước đầu phục hồi với tốc độ tăng trưởng là 4,8% tuy nhiên tốc độ tăng trưởng này
được dự báo sẽ giảm xuống 4,2% trong năm 2011 và tăng trở lại vào năm 2012
Câu 2: Phân tích thực trạng phát triển kinh tế Nhật Bản từ năm 1992 đến nay.
Có thể nói, năm 1973 này cũng là thời điểm đánh dấu một mốc hệ trọng đối với
nền kinh tế Nhật Bản. Chế độ tỷ giá hối đoái cố định (Bretton Woods) từng là nền
tảng cho sự thịnh vượng của kinh tế Nhật Bản sau thế chiến II được thay thế bằng
chế độ tỷ giá thả nổi, cú sốc dầu mỏ gây ra những ảnh hưởng nặng nề đối với nền
kinh tế, và thời kỳ tăng trưởng kinh tế cao độ từng làm nên biểu tượng của nước
Nhật đã khép lại. Sau đó, do hiện tượng đồng yên tăng giá so với đồng đô la Mỹ,
giá cả hàng nhập khẩu giảm, lượng tiền dư thừa tăng, tăng trưởng kinh tế Nhật Bản
đã đi theo hướng chủ yếu dựa vào xuất khẩu, và nước Nhật đã trải qua một giai
đoạn kinh tế bong bóng mang tính chất đầu cơ. Sự đổ vỡ của bong bóng kinh tế và
làn sóng tồn cầu hóa sau đó đã khơng chỉ đưa nền kinh tế bước vào một thời kỳ trì
trệ kéo dài vẫn được gọi với cái tên là "hai thập kỷ mất mát", mà ngay cả tính bền
vững của hệ thống kinh tế kiểu Nhật Bản cũng đã bị đặt dấu chấm hỏi. Với nền
tảng là chủ nghĩa tự do mới và chủ nghĩa ngun lý thị trường, tồn cầu hóa kinh tế
địi hỏi cơ chế với sự can thiệp của chính phủ và các mối quan hệ nội bộ doanh
nghiệp
Trải qua nhiều biến động trong suốt lịch sử, cuối cùng, kinh tế Nhật Bản đã và
đang tăng trưởng, nhưng cũng nảy sinh không ít vấn đề. Vào thế kỉ 16 - 17, kinh tế
Nhật Bản chủ yếu là nông nghiệp trồng lúa nước và đánh bắt cá.
Công nghiệp bắt đầu phát triển sau cuộc Phục hưng Minh Trị vào giữa thế kỉ 19
(năm 1868). Bước sang thế kỉ 20, ngành công nghiệp của Nhật Bản đã phát triển rõ
rệt. Trong suốt đầu thế kỉ 20, các ngành công nghiệp được ưa chuộng và phát triển
nhất là sắt thép, đóng tàu, chế tạo vũ khí, sản xuất xe cộ. Nhờ các ngành này mà
quân đội Nhật Bản bành trướng ra ngoài. Trong số những vùng mà Nhật chiếm
được, đáng chú ý nhất là Mãn Châu Lý của Trung Hoa và Triều Tiên.
Nhật Bản đã phải trải qua một cuộc suy thoái kinh tế tồi tệ nhất kể từ khi kết thúc
Thế chiến thứ hai. Từ năm 1988, tỉ lệ tăng trưởng hàng năm của quốc gia so với
tổng sản phẩm quốc nội thực tế (GDP) đã sụt giảm mạnh. Năm 1993, GDP thực tế
của Nhật Bản giảm 0,2%. Cuộc suy thoái kinh tế giai đoạn 1991-1993 đã thách
thức tính hiệu quả của chính sách kinh tế, chính trị, đối nội và các hoạt động kinh
tế mà đã phục vụ rất tốt cho Nhật Bản trong gần 4 thập kỷ. Sự suy thoái này cũng
đồng thời thử thách độ tin cậy và khả năng áp dụng thực tiễn của cái gọi là mơ
hình Nhật Bản mẫu mực về sự phát triển trong kỷ nguyên hậu Chiến tranh Lạnh
đối với các quốc gia khác. Thậm chí ngay khi nền kinh tế Nhật Bản đã hoàn toàn
phục hồi khỏi sự suy thối hiện tại, thì mức tăng trưởng dài hạn vẫn có vẻ như cịn
rất thấp.
1. Ngun nhân của cuộc suy thoái kinh tế
Vào thời điểm năm 1973 người ta vẫn cịn có thể thấy được những dấu tích của
giai đoạn tăng trưởng kinh tế cao độ trước đó. Tốc độ tăng trưởng danh nghĩa so
với cùng kỳ năm trước vượt quá con số 20%. Thế nhưng sau đó tăng trưởng kinh tế
bắt đầu đình trệ, đặc biệt là sau sụp đổ bong bóng, nền kinh tế đã rơi vào tình trạng
suy thối kéo dài vẫn được gọi là "hai thập kỷ mất mát". Mức giá các tài sản bị sụt
giảm do tác động ngược của kinh tế bong bóng trong thập niên 1990 thậm chí cịn
lớn hơn cả mức giá tăng trong nửa sau của thập niên 1980. Sự giảm sút của giá tài
sản đã gây nên những tác động không tránh khỏi đối với thực thể kinh tế.
Thời kỳ này có hai vấn đề khó khăn đã gây nên áp lực rõ rệt đối với nền kinh tế
Nhật Bản. Thứ nhất là sự thâm hụt của ngân sách nhà nước. Cho đến năm 1992 tài
chính chính phủ vẫn là thặng dư, tuy nhiên sau đó thâm hụt ngày càng chồng chất.
Khoản thu từ thuế giảm, trong khi nguồn chi cho việc vực dậy nền kinh tế tăng cao
đã khiến cho cán cân tài chính trở nên tồi tệ, đến năm 1996 thâm hụt lũy kế đã
chiếm tới 95% GDP. Sự suy giảm của nguồn thu từ thuế này đã kéo dài suốt "hai
thập kỷ mất mát". Mức thuế thu năm 2011 là 42 nghìn tỷ yên, so với mức 58 nghìn
tỷ yên của năm 1990 chỉ tương đương 72%. Tỷ lệ thu thuế (thuế/ tổng thu ngân
sách) ở mức 81% vào năm 1990 giảm mạnh xuống 39% vào năm 2011. Mặt khác,
chi ngân sách khơng những khơng giảm mà cịn liên tục gia tăng, đặc biệt do vấn
đề già hóa dân số mà chi phí cho an sinh xã hội càng tăng cao và nợ công tăng đã
trở thành áp lực lớn, chi ngân sách năm 2011 lên tới 108 nghìn tỷ yên. Với tình
hình ngân sách như vậy, tỷ lệ thâm hụt lũy kế năm 2008 đã lên tới 170% GDP,
nghĩa là trầm trọng nhất trong số các quốc gia phát triển. Đây chính là yếu tố có
thể dẫn đến khủng hoảng tiềm năng của nền kinh tế Nhật Bản.
Vấn đề tài chính thứ hai của Nhật Bản là nợ xấu. Sau sự sụp đổ của nền kinh tế
bong bóng, do giá cả các tài sản như đất đai, cổ phiếu... giảm đi nhanh chóng, tình
hình tài chính của các ngân hàng là bên cho vay xấu đi, hiện tượng phá sản đã xuất
hiện. Từ năm 1993 đến năm 2002 đã có tới 180 ngân hàng phá sản. Đặc biệt,
những doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực tài chính phi ngân hàng nằm ở tâm
điểm của tình trạng gia tăng nợ xấu. Những đơn vị không phải là đối tượng của
những quy định về tài chính bất động sản như Cơng ty chun cho vay mua nhà trả
góp, Ngân hàng Hokkaido Takushoku, Cơng ty chứng khốn Yamaichi nằm trong
số những trường hợp như vậy. Tình hình tài chính kể từ sau năm 1998 vẫn tiếp tục
ở trong tình trạng hết sức khó khăn.
Trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế tồn cầu, một hiện tượng mang tính chất hết
sức đặc thù diễn ra tại Nhật Bản là sự thiếu ổn định về chính trị. Nhiều chính
quyền khác nhau đã thay đổi chỉ trong thời gian ngắn. Đồng thời, sự hoán đổi đảng
cầm quyền cũng lần đầu diễn ra tại Nhật Bản. Ban đầu là vào tháng 8/2009, đảng
Dân chủ Nhật Bản (DPJ) đã thay thế đảng Dân chủ Tự do (LDP) lên nắm giữ vị trí
lãnh đạo. Những chính sách theo chủ nghĩa tự do mới đã khiến cho bất mãn gia
tăng, và cả sự chuyển hướng của những chính sách theo chủ nghĩa tự do mới này
cũng tạo nên những bất bình của người dân trong nước đối với LDP.
Những tác động dễ thấy nhất của cuộc khủng hoảng tài chính tồn cầu đối với nền
kinh tế Nhật Bản (cũng như đối với các nền kinh tế khác) là sự suy giảm tốc độ
tăng trưởng GDP, tình trạng phá sản của các công ty và nạn thất nghiệp gia tăng,
giá cả thị trường bất ổn định.
Nền kinh tế Nhật Bản đã suy giảm mạnh kể từ quý IV năm 2008, và đặc biệt
nghiêm trọng trong quý I/2009. Các số liệu được Văn phịng Nội các Nhật Bản
cơng bố ngày 20/5/2009 cho thấy Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của nền kinh tế
lớn thứ hai thế giới này trong quý I đã giảm 4% so với quý trước và giảm tới
15,2% so với cùng kỳ năm ngối. Ngun nhân chính là do nhu cầu đối với các
mặt hàng ôtô, điện tử và nhiều mặt hàng khác của Nhật Bản giảm mạnh trong bối
cảnh kinh tế tồn cầu suy thối. Tính chung trong năm tài chính 2008 tính đến hết
tháng 3/2009, theo số liệu cơng bố chính thức, GDP của Nhật Bản đã lần đầu tiên
sụt giảm trong 7 năm qua và ở mức giảm kỷ lục 3,5%
Cũng theo thống kê của Bộ Tài chính Nhật Bản, trong năm tài chính 2008 lần đầu
tiên sau 28 năm (kể từ năm 1980 - ngay sau thời kỳ khủng hoảng dầu lửa lần 2),
cán cân ngoại thương Nhật Bản đã bị thâm hụt, và mức thâm hụt đã lên tới 725,3
tỷ Yên. Trong suốt các năm từ 2002 đến 2007, thặng dư ngoại thương của Nhật
Bản ln đạt mức trên dưới 10 nghìn tỷ n. Như vậy, có thể nói ảnh hưởng của
cuộc khủng hoảng tài chính tồn cầu đã làm cho cán cân ngoại thương Nhật Bản từ
chỗ có mức thặng dư khổng lồ trở thành thâm hụt chỉ trong vòng 1 năm. Trong đó,
xuất khẩu trong năm tài chính 2008 đạt 71,1435 nghìn tỷ Yên, giảm 16,4% và là
mức giảm lớn nhất từ trước đến nay. Nhập khẩu đạt 71,8688 nghìn tỷ Yên, giảm
4,1%. Đặc biệt là kim ngạch xuất khẩu sang Mỹ chỉ đạt 12,876 nghìn tỷ Yên, giảm
tới 27,2% so với năm trước, và là mức giảm lớn nhất từ trước đến nay. Kim ngạch
xuất khẩu sang các nước Châu Âu giảm 23%, và cũng là mức giảm lớn thứ 2 so
với trong quá khứ. Xuất khẩu sang thị trường Châu Á cũng giảm tới 13,4%. Trong
đó xuất khẩu sang Trung Quốc giảm 9,8%. Xuất khẩu sang Hàn Quốc, Hồng Kông
cũng giảm mạnh.
2. Giải pháp chủ yếu
2.1. Điều chỉnh chính sách tài chính
Chính phủ Nhật Bản đã thực hiện một số biện pháp cứu trợ, chẳng hạn như bơm
vốn, đồng thời thực hiện quốc hữu hóa một số ngân hàng. Điều này hồn tồn có
thể khiến người ta liên tưởng tới việc quốc hữu hóa GM của chính phủ Mỹ. Ngân
hàng Tín dụng dài hạn Nhật Bản, Ngân hàng Chứng khốn Nhật Bản, Ngân hàng
Ashikaga nằm trong số những trường hợp như vậy. Mặc dù đã có những bước tiến
về xử lý nợ xấu, tuy nhiên do bối cảnh suy thoái kinh tế trong thập niên 1990,
những khoản nợ xấu mới lại tiếp tục chồng chất. Đến năm 2005, nghĩa là phải cần
đến một khoảng thời gian là 15 năm sau khi bong bóng kinh tế sụp đổ, việc hồn
trả những khoản nợ này mới được công bố. Với con số 96 nghìn tỷ yên, kim ngạch
này tương đương với khoản thu ngân sách trong 2 năm vào thời điểm hiện nay. Vả
lại nguyên nhân chủ yếu của tình hình kinh tế suy thối dài hạn cũng khơng chỉ
nằm ở những khoản nợ xấu này, mà còn do sự thiếu vắng các chính sách tài chính
và tiền tệ thích hợp của chính phủ. Đặc biệt, dù Ngân hàng Nhật Bản đã áp dụng
chính sách nới lỏng tiền tệ mang tính tượng trưng là lãi suất tiền gửi bằng 0, tuy
nhiên nhìn chung các biện pháp nới lỏng được áp dụng trong những năm 1990 này
là chưa đầy đủ.
2.2. Thay đổi trong chính sách thuế
Các nhà chính trị học hàng đầu như Ichiro, Ozawa của Shishinto và Yoshiro Mori
của Đảng Dân chủ ủng hộ việc cắt giảm thuế thu nhập kết hợp với tăng thuế tiêu
dùng. Ủy Ban Điều tra Chính phủ về Hệ thống Thuế đã tán thành sự kết hợp này.
Các chỉ trích tập trung vào vấn đề cắt giảm thuế thu nhập, kích thích nền kinh tế có
thể bị mất đi do ảnh hưởng của tăng thuế tiêu dùng. Cuối cùng thì người ta cũng đi
đến một thỏa hiệp, Liên minh ba Đảng đồng ý giảm 20% thuế thu nhập cá nhân
trong những năm cuối thập kỷ 1990. Cùng lúc đó, Chính phủ ban hành sắc lệnh
tăng thuế tiêu dùng từ 3% lên 5%. Tuy nhiên, khoản tăng này không được áp dụng
cho đến năm 1997. Điều cần nhấn mạnh là, MOF đã thành công khi có được sự
chấp nhận của Quốc hội Nhật Bản trong việc tăng tỉ giá đồng Yên so với đồng đơla
và đưa nước này thốt khỏi sự phụ thuộc vào thuế trực thu và chuyển sang thuế
gián thu.
Tất cả các vấn đề này cho thấy, có một sự khơng đồng thuận và phản ứng mạnh
trong chính trường Nhật Bản đối với sự thâm hụt tài chính khi Quốc hội ban hành
một cơng cụ chính sách đi ngược chính sách tài chính. Người ta thấy nổi lên trong
cuộc suy thối này là sự chuyển đổi cơ cấu của tài chính cơng để Chính phủ có
doanh thu rộng lớn hơn và ổn định hơn. Một số nhà kinh tế học tin rằng, thuế tiêu
dùng cao và sự chuyển đổi tổng thể từ thuế trực thu sang thuế gián thu sẽ giúp
nước này tiếp nhận được khoản vượt trội từ tiết kiệm cá nhân và hướng các nguồn
đó vào đầu tư xã hội nhằm cải thiện chất lượng cuộc sống của người dân Nhật Bản.
Sự thay đổi chính sách khơng chỉ giúp Chính phủ Nhật Bản giảm được khoản
thặng dư tài chính hiện tại mà còn giảm được lượng vốn đầu tư cho sản xuất. Điều
đó đã thúc đẩy mạnh mẽ nền kinh tế và điều tiết xuất khẩu của Nhật Bản. Và tất
yếu là các chương trình đầu tư của Nhật Bản sẽ trở nên hài hịa và có hiệu quả hơn
so với các quốc gia công nghiệp phát triển khác trên thế giới.
2.3. Cải tổ cơ cấu công nghiệp và thị trường lao động
Nhằm điều chỉnh việc đầu tư quá theo hướng nâng cao hiệu quả, hầu hết các công
ty Nhật Bản tập trung khai thác theo chiều sâu, tức là tìm mọi cách để đổi mới
quản lý và nâng cao năng suất lao động. Trên thực tế, các doanh nghiệp Nhật Bản
xúc tiến cải tổ cơ cấu theo các hướng sau đây:
Một là, thay đổi trong Keiretsu và các mối quan hệ hợp đồng phụ
Cần phải nhấn mạnh rằng, sự tăng giá của đồng n và q trình quốc tế hóa nền
sản xuất đã và đang bắt đầu làm thay đổi các mối quan hệ giữa nhà thầu phụ và
Keiretsu. Do chi phí cao và lợi nhuận thấp nên nhiều hãng lớn phải giảm số lượng
các nhà cung cấp và thậm chí phải cắt bỏ các đơn đặt hàng với các nhà thầu phụ
vốn được ưa chuộng. Trong khi đó, một số nhà sản xuất lớn như nhà sản xuất ơtơ
ít do dự hơn trong việc tìm kiếm nguồn cung cấp bên ngồi mạng lưới truyền
thống của mình nhằm giảm chi phí. Đồng thời để có thể tồn tại được, các nhà thầu
phụ bắt đầu tìm kiếm các cơ hội kinh doanh trong phạm vi rộng hơn với các hãng
lớn khác, thậm chí cả các cơng ty là đối thủ của chính Keiretsu. Áp lực cắt giảm
chi phí đã làm tăng khối lượng giao dịch thương mại chéo của Keiretsu.
Các công ty tận dụng việc tăng giá của đồng Yên và chi phí nhân cơng rẻ để mua
hàng nhiều hơn từ các nhà cung cấp có cơ sở ở nước ngồi. Một loạt các cơng trình
nghiên cứu do các nhà kinh tế thực hiện gần đây đã bắt đầu lí giải tại sao các hoạt
động này lại có được các lợi ích rõ rệt như vậy. Điều dễ nhận thấy là, các cơng ty
tìm nguồn cung từ nước ngồi sẽ quay lại với các nhà thầu phụ. Với các nhà thầu
phụ, họ lại phát triển các mối quan hệ lâu dài thông qua hình thức liên doanh hoặc
thơng qua các cơ chế khác. Đồng thời, họ cũng nhận được sự khuyến khích đầu tư
ra nước ngoài của mạng lưới nhà cung cấp truyền thống. Liên quan tới vấn đề này,
nhà kinh tế học Nhật Bản nổi tiếng Dr. Yoshio Suzuki nhận xét rằng “tối đa hóa lợi
nhuận trong nền kinh tế thị trường diễn ra lâu hơn trong khu vực Đông Á so với
phương Tây. Tương tự, ở Đông Á việc cạnh tranh lành mạnh trong một thị trường
không cần thiết phải cân bằng cơ hội trong các giao dịch điểm diễn ra thường
xuyên. Thỉnh thoảng trong các giao dịch cũng xuất hiện cơ hội ngang bằng, nhất là
trong mối quan hệ lâu dài với những người tiêu dùng thuỷ chung”.
Hai là, điều chỉnh thị trường lao động
Tỉ lệ thất nghiệp đã tăng từ 2,1% năm 1990 lên đến 3,2% vào tháng 4 năm 1995.
Các dự đoán bi quan hơn cho thấy, tỉ lệ thất nghiệp có thể vượt quá 4% trong thập
niên đầu thế kỷ 21. Đối với tầng lớp lao động trẻ mới vào nghề (từ 15 đến 24 tuổi)
thì tỉ lệ thất nghiệp cịn cao hơn. Tuy nhiên, với tỉ lệ như vậy khi đem so sánh với
các nền cơng nghiệp phát triển khác thì tỉ lệ thất nghiệp của Nhật Bản vẫn còn
thấp. Điều lưu ý là, xu hướng trong tương lai của thị trường lao động Nhật Bản là
việc khan hiếm lao động, chứ không phải là sự dư thừa lao động. Theo một số nhà
kinh tế học, khi nguồn lao động Nhật Bản tăng theo tỉ lệ là 0,92% trong thời gian
1980-1990 thì tỉ lệ tăng trưởng sẽ vẫn giảm xuống 0,36% trong giai đoạn 19902000. Từ năm 2000 đến 2010, tăng trưởng nguồn nhân lực có thể chùn lại ở tỉ lệ
0,25%/năm. Việc già hố của dân số Nhật Bản trong vịng hơn hai thập kỉ tiếp theo
không chỉ làm tăng đáng kể các chi phí xã hội của Chính phủ mà cịn đẩy chi phí
lương tăng lên đối với các tập đồn tư nhân. Trong bối cảnh này các công ty lớn đã
điều chỉnh bằng cách giảm mức độ quan trọng của tính thâm niên làm việc trong
việc tính tốn tiền lương. Giảm sự khuyến khích cơng nhân làm việc suốt đời tại
một công ty. Điều này không chỉ làm thay đổi cơ cấu tiền lương mà cịn làm tăng
tính linh hoạt của thị trường lao động và khuyến khích người lao động tìm kiếm
các cơ hội cơng việc tốt hơn trong các lĩnh vực mở rộng hơn.
Người ta thấy rõ tác động của việc suy giảm kinh tế đối với việc tuyển dụng các
sinh viên mới ra trường tham gia vào thị trường lao động lần đầu tiên. Vài năm
trước, những sinh viên mới ra trường trẻ tuổi này có rất nhiều cơ hội việc làm.
Nhưng hiện nay, khi các công ty cạnh tranh nhau nhằm tối thiểu hóa chi phí nhân
cơng “suốt đời” thì họ trở nên do dự khi tuyển thêm người lao động. Việc giảm
tuyển dụng lao động và thậm chí đóng băng trong nhiều cơng ty cao cấp đã làm
sâu sắc thêm tính cạnh tranh việc làm đối với lao động trẻ tuổi và buộc nhiều ứng
cử viên có trình độ cao phải theo đuổi những nghề nghiệp kém phù hợp. Những
người lao động trẻ khi có được một công việc tốt lại gặp phải nguy cơ bị đóng
băng về mức lương.
Và ba là, tăng số lượng cơng nhân nước ngồi
Điều có thể gây ra khó khăn lớn đối với các chính sách dài hạn đó là vấn đề lao
động nước ngồi.Các cơng ty lớn của Nhật Bản thường ưu tiên sử dụng công nghệ
kỹ thuật sản xuất tiết kiệm lao động hơn là phải thuê lao động nước ngoài. Nhưng
do giá trị cao của đồng Yên đã khiến cho Nhật Bản trở nên hấp dẫn đặc biệt đối
với những người lao động từ Đông Nam Á hay Mỹ Latinh. Áp lực của việc cắt
giảm chi phí cũng khiến cho các chủ sở hữu cơng ty nhỏ có được sự khuyến khích
mạnh mẽ trong việc th các nhân cơng nước ngồi với mức lương thấp hơn và ít
chế độ bảo đảm thuê tuyển hơn. Các ngành công nghiệp bị ảnh hưởng mạnh mẽ
nhất bởi việc thiếu nhân lực là các doanh nghiệp dịch vụ, công ty sản xuất quy mô
nhỏ và ngành xây dựng. Đến năm 2010, Nhật Bản đối mặt với tình trạng thiếu
khoảng ba triệu lao động.
Vì bản thân những người công nhân Nhật Bản phải đối mặt với tình trạng bị cắt
giảm biên chế trong khi một số vị trí cơng việc khác lại được dành cho người nước
ngồi nên làn sóng phản đối người lao động nước ngoài của dân Nhật tương tự như
đã xảy ra tại Đức trước đây. Nhưng vấn đề quan trọng hơn lại là những rắc rối về
mặt xã hội của Nhật Bản. Sự đồng nhất về dân tộc của Nhật Bản và sự cảnh giác
với những kẻ ngoại lai đã khiến cho việc hịa đồng của cơng nhân nước ngồi vào
xã hội Nhật Bản trở nên cực kỳ khó khăn. Căng thẳng giữa người Nhật và người
nước ngồi có thể gây nên phản ứng bài ngoại của dân Nhật cũng như làm trỗi dậy
sự phê phán của cộng đồng quốc tế đối với Nhật Bản.
3.kinh tế nhật sau khủng hoảng
Tình trạng kinh tế trầm lắng cuối cùng cũng đã hé lộ những dấu hiệu đảo chiều từ
sau năm 2002. Lợi nhuận và đầu tư của doanh nghiệp đã kéo theo sự tăng trưởng.
Cung cầu về lao động đã dần bình thường trở lại, dù đi kèm với đó là sự gia tăng
số lượng việc làm không thường xuyên. Ngân hàng Nhật Bản đã thúc đẩy chính
sách lãi suất bằng 0 và nới lỏng quy chế về số lượng. Tiêu thụ của khu vực hộ gia
đình cũng cho thấy sự hồi phục. Sự tăng trưởng này đã được khích lệ bởi tình hình
khả quan của kinh tế thế giới, cũng như được củng cố bởi nhu cầu tại Mỹ. Quá
trình này đã kéo dài đến năm 2006, và đây là thời kỳ tăng trưởng dài nhất kể từ sau
chiến tranh.
Khu vực doanh nghiệp là trung tâm của sự tăng trưởng. Tuy nhiên lợi nhuận không
hẳn đã được phân phối cho tất cả mà tập trung vào các lĩnh vực phục vụ xuất khẩu
như điện khí, ơ tơ. Nói cách khác, nền kinh tế Nhật Bản giai đoạn phục hồi từ sau
năm 2002 đã gia tăng hơn nữa sự phụ thuộc vào xuất khẩu. Thêm vào đó ngành
xuất khẩu chủ yếu là máy móc với tâm điểm là sản phẩm ô tô. Nền kinh tế Nhật
Bản đã trở nên hết sức nhạy cảm với tồn cầu hóa kinh tế.
Tuy vậy nhưng cũng không thể đánh giá quá cao giai đoạn tăng trưởng kinh tế dài
nhất kể từ thời hậu chiến. Tăng trưởng trong giai đoạn 2002~2006 có sự khác biệt
rất lớn so với kết quả tăng trưởng kinh tế thực tế diễn ra trong q khứ trước đó.
Q trình tăng trưởng kéo dài hơn bất cứ giai đoạn nào khác, tuy nhiên lực tăng
trưởng lại yếu (Hình 1). Ngồi ra, khác biệt với các giai đoạn tăng trưởng kinh tế
kéo dài trước kia, tiền lương vào thời kỳ này giảm sút hơn và tiêu dùng cũng
khơng đóng góp gì nhiều vào tăng trưởng. Tình hình tuyển dụng trong giai đoạn
2000~2006 xấu đi, lương bị giảm thiểu, tuy vậy số giờ làm việc của người lao
động lại nhiều hơn. Trái ngược với sự đi xuống của đời sống người lao động, giá
trị gia tăng của các doanh nghiệp pháp nhân lại tăng lên nhanh chóng. Sự gia tăng
này khơng hẳn sẽ trở thành thu nhập của cán bộ trong doanh nghiệp mà hướng về
các cổ đông và lợi nhuận bảo lưu. Qua đây cũng có thể thấy rõ sức mạnh của
quyền cổ đông và doanh thu của bản thân doanh nghiệp đã được mở rộng như thế
nào,công nghiệp chế tạo của Nhật Bản đã phát triển hơn, thế nhưng năng suất của
lĩnh vực phi chế tạo vẫn thấp và "hai thập kỷ mất mát" vẫn còn tiếp diễn. Thực sự
người ta đã đúng khi nói, "hai thập kỷ mất mát" này chính là 20 năm đánh mất
trong giảm phát"
Nền kinh tế Nhật Bản trong thập niên đầu thế kỷ 21 đã chịu
ảnh hưởng rất nhiều của sự suy thoái kinh tế trong nước những năm 1990 và khủng
hoảng tài chính châu Á 1997-98. Ưu tiên cao nhất của Nhật Bản những năm đầu
của
thế kỷ 21 là giải quyết các khoản nợ xấu và đưa nền kinh tế trở lại quĩ đạo
tăng trưởng tốt và bền vững. Những cải cách kinh tế của Thủ tướng Koizumi đã
phát huy tác dụng. Trong giai đoạn này kinh tế Nhật Bản đã thốt khỏi suy thối
và có mức tăng trưởng dương mặc dù mức độ còn khiêm tốn. Tuy nhiên, sau khi
Thủ
tướng Koizumi kết thúc nhiệm kỳ vào năm 2006, nền kinh tế Nhật Bản lại bắt đầu
rơi vào suy thoái với mức độ ặc biệt nghiêm trọng trong những năm 2008-2009 do
tác động của cuộc khủng hoảng tài chính tồn cầu.
Nhờ những giải pháp khắc phục khủng hoảng của Chính phủ Nhật
Bản, nền kinh tế Nhật Bản từ năm 2009 đến nay đã ra khỏi tình trạng suy
thối và bước đầu có những phát triển khả quan. Tuy nhiên, những nhân tố cho sự
phục hồi này vẫn là những nhân tố không bền vững với rất nhiều thách thức đáng
kể vẫn cịn hiện hữu. Đó là tình trạng giảm phát, cầu yếu, thất nghiệp, và tỉ lệ
nợ công cao. Từ đó có thể khẳng định nền kinh tế Nhật Bản trong những
năm sắp tới chưa thể có đột phá gì. Mặc dù vẫn có tăng trưởng, song với tốc độ
khơng cao và khơng bền vững.
Câu 3: Trình bày những thành tựu và hạn chế của đổi mới kinh tế từ năm 1986
đến nay.
I/ Nội dung đổi mới Kinh tế nước ta từ năm 1986:
Đặc trưng nổi bật trong thời kỳ này là đổi mới. Đại hội VI (tháng 12/1986) của
Đảng là mốc lịch sử quan trọng trên con đường đổi mới tồn diện ở nước ta. Sau
khi phân tích phê phán nghiêm túc sai lầm, thiếu sót trong thời gian qua, Đại hội đã
đề ra đường lối đổi mới kinh tế toàn diện cho đất nước trong thời kỳ mới. Tiếp
theo, các Đại hội VII (tháng 6/1991), Đại hội VIII (tháng 6/1996) và Đại hội IX
(tháng 12/2001) đã tiếp tục khẳng định và bổ sung, hồn thiện các chủ trương
chính sách đổi mới kinh tế, có đổi mới phát triển cơng nghiệp và thực hiện cơng
nghiệp hố xã hội chủ nghĩa. Có những nội dung chủ yếu sau:
- Đổi mới về công nghiệp hố xã hội chủ nghĩa và chính sách cơ cấu: Trong những
năm qua, do nhận thức phiến diện về công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa đã dẫn đến
khuynh hướng ham phát triển công nghiệp nặng, ham quy mô lớn và xây dựng
mới, đã gây ra mất cân đối nghiêm trọng trong nền kinh tế. Để khắc phục tình
trạng đó, Đại hội VI đã đề ra chủ trương bố trí lại cơ cấu sản xuất, cơ cấu đầu tư
các ngành kinh tế, mà thực chất là cụ thể hoá nội dung chính của cơng nghiệp hố
xã hội chủ nghĩa cho phù hợp với trình độ phát triển kinh tế ở nước ta trong từng
giai đoạn cụ thể. Trong chặng đường đầu tiên, cần tập trung thực hiện ba chương
trình kinh tế lớn, tạo tiền đề cho đẩy mạnh công nghiệp hố ở giai đoạn tiếp theo;
đưa nơng nghiệp lên vị trí hàng đầu, nhấn mạnh vai trị to lớn của công nghiệp nhẹ,
tiểu thủ công nghiệp; phát triển công nghiệp nặng một cách có chọn lọc, hợp với
sức mình, nhằm phục vụ đắc lực cho ba chương trình kinh tế, khơng bố trí xây
dựng cơng nghiệp vượt q điều kiện cũng như khả năng cho phép.
- Đổi mới trong cải tạo và xây dựng, củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa,
thực hiện chính sách cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, giải phóng mọi năng lực sản
xuất. Phê phán quan điểm nóng vội trong cải tạo xã hội chủ nghĩa trước đây, Đại
hội VI đã khẳng định sự tồn tại lâu dài của các thành phần kinh tế trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Điều này là xuất phát từ thực trạng kinh tế xã hội còn thấp của Việt Nam. Nó cho phép có nhiều hình thức sản xuất kinh
doanh đa dạng, phù hợp về qui mơ, trình độ và hình thức với từng khâu của quá
trình sản xuất và lưu thông, nhằm khai thác các tiềm năng kinh tế của xã hội. Đảng
coi đây là giải pháp chiến lược để giải phóng sức sản xuất và xây dựng cơ cấu kinh
tế hợp lý.