Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

Anh (Chị) hãy tìm hiểu về thời cơ trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945? Những bài học kinh nghiệm về thời cơ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (310.92 KB, 23 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
KHOA KHÁCH SẠN – DU LỊCH

BÁO CÁO THẢO LUẬN
HỌC PHẦN: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

Đề tài: Anh (Chị) hãy tìm hiểu về thời cơ trong Cách mạng Tháng Tám năm
1945? Những bài học kinh nghiệm về thời cơ.

Nhóm: 02
Giảng viên giảng dạy: Lê Văn Nguyên
Mã lớp HP: 2364HCMI0131

Hà Nội 2023
1


BẢNG PHÂN CÔNG NHIỆM VỤ
STT

HỌ VÀ TÊN

MÃ SINH
VIÊN
21D111175

1

Nguyễn Đặng Hà
Chi


2

Nội dung chương II

Hoàng Thanh Chúc

21D111176

Nội dung chương I

3

Trần Thị Hương
Đào

21D111179

4

Nguyễn Thu Hà

21D111180

Chỉnh sửa nội dung
Tổng hợp word
Thuyết trình
Phần mở đầu + Kết luận

5


Nguyễn Hồng Hân

21D111181

Nội dung chương I

6

Võ Sỹ Hiệp

21D111182

Thuyết trình

7

Phan Lê Thúy Hiền

21D111183

Powerpoint

8

Nguyễn Thị Huệ

21D111186

Nội dung chương II


9

Nghiêm Đức Huy

21D111187

Nội dung chương I

10

Lê Thu Huyền

21D111188

Nội dung chương I

2

NHIỆM VỤ

GHI
CHÚ

Nhóm
trưởng


MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN...........................................................................................................4
LỜI MỞ ĐẦU...........................................................................................................5

CHƯƠNG I: THỜI CƠ TRONG CÁCH MẠNG THÁNG 8 NĂM 1945...........6
1.1. Khái niệm thời cơ........................................................................................6
1.2. Bối cảnh lịch sử cách mạng tháng 8............................................................6
1.2.1. Tình hình trong nước................................................................................6
1.2.2. Tình hình quốc tế..........................................................................................7
1.3. Dự đốn thời cơ, xác định thời cơ, chớp thời cơ trong cách mạng Tháng
Tám........................................................................................................................8
1.3.1. Dự đoán thời cơ........................................................................................8
1.3.2. Xác định thời cơ.......................................................................................9
1.3.3.Chớp thời cơ............................................................................................10
1.4. Tính chất, ý nghĩa của thời cơ cách mạng Tháng Tám năm 1945..........14
1.4.1. Tính chất.................................................................................................14
1.4.2. Ý nghĩa...................................................................................................15
CHƯƠNG II: NHỮNG BÀI HỌC KINH NGHIỆM VÀ VẬN DỤNG THỜI
CƠ TRONG CÁCH MẠNG THÁNG 8 NĂM 1945............................................17
2.1. Những bài học kinh nghiệm........................................................................17
2.2 Vận dụng.......................................................................................................19
2.2.1. Vận dụng trong cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư......................19
2.2.2. Vận dụng trong đại dịch COVID-19......................................................20
KẾT LUẬN.............................................................................................................22
TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................................................23

3


LỜI CẢM ƠN
Chúng em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Trường Đại học Thương Mại
đã tạo điều kiện thuận lợi cho chúng em có cơ hội được học tập và hoàn thành đề tài
thảo luận . Đặc biệt, chúng em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến thầy Lê Văn
Nguyên đã dày công truyền đạt kiến thức và hướng dẫn chúng em trong q trình

làm bài.
Nhóm đã cố gắng vận dụng những kiến thức đã học được trong học kỳ qua
để hoàn thành bài tiểu luận. Nhưng do kiến thức hạn chế và khơng có nhiều kinh
nghiệm thực tiễn nên khó tránh khỏi những thiếu sót trong q trình nghiên cứu và
trình bày. Rất kính mong sự góp ý của q thầy cơ và các bạn để bài thảo luận của
nhóm được hồn thiện hơn. 
Một lần nữa, nhóm em xin trân trọng cảm ơn sự quan tâm giúp đỡ của các
thầy cô đã giúp đỡ trong quá trình thực hiện bài tiểu luận này.
Xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, tháng 3 năm 2023

4


LỜI MỞ ĐẦU
Dân tộc Việt Nam đã viết lên nhiều trang sử vẻ vang với những chiến công
chống xâm lược và chống ách thống trị của giặc ngoại xâm . Trong đó, cách mạng
tháng Tám năm 1945 là một trang sử vẻ vang nhất, chói lọi nhất, đánh dấu bước
ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc. Sự thành công của Cách mạng tháng Tám là sự
kết tinh những truyền thống tốt đẹp của một dân tộc anh hùng, bất khuất có lịch sử
hàng nghìn năm chống xâm lược phong kiến và ngót một trăm năm chống ách
thống trị của bọn đế quốc thực dân. Đó cũng là kết quả của 15 năm đấu tranh (1930
– 1945) của giai cấp cơng nhân và của tồn dân tộc Việt Nam dưới sự lãnh đạo sáng
suốt của Đảng, đứng đầu là chủ tịch Hồ Chí Minh.Có thể thấy rằng sự thành cơng
của Cách mạng tháng Tám là nhờ sự hội tụ những điều kiện khách quan và chủ
quan khác nhau. Và một trong những vấn đề đó chính là việc Đảng ta đã biết nhận
định về thời cơ và chớp lấy thời cơ.Đã mấy mươi năm đã trôi qua, nhưng bài học về
nhận định thời cơ và chớp thời cơ cách mạng của Ðảng trong Cách mạng Tháng
Tám 1945, vẫn còn nguyên giá trị thời sự. 
 Nhận thức được tầm quan trọng của những điều trên, bài thảo luận này dựa

trên những sự kiện lịch sử của dân tộc để đúc kết lại những kinh nghiệm , bài học
đắt giá mà thắng lợi Cách mạng Tháng Tám để lại. Qua đó giáo dục cho mỗi người
Việt Nam nhận thức được thời cơ và chớp lấy thời cơ. Nhận thức về ý nghĩa sâu sắc
của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đối với thế hệ trẻ sẽ góp phần làm cho truyền
thống tốt đẹp ngàn đời của dân tộc ta đi vào thực tiễn của sự nghiệp phát triển và
bảo vệ Tổ quốc hiện nay.

5


CHƯƠNG I: THỜI CƠ TRONG CÁCH MẠNG THÁNG 8 NĂM 1945
1.1. Khái niệm thời cơ
Thời cơ là một hoàn cảnh thuận lợi đến trong một thời gian ngắn, là tình thế
xuất hiện trong thời điểm nhất định có lợi nhất có lợi nhất cho việc phát huy mọi
sức mạnh, đảm bảo một việc nào đó có thể tiến hành để giành thắng lợi. Thời cơ, đó
là một thành tố khách quan, hồn tồn khơng phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của
một cá nhân nào, của một tổ chức chính trị nào. Nó xuất hiện một cách bất ngờ và
tồn tại trong một khoảng thời gian nhất định. Nói như vậy khơng có nghĩa là thời cơ
là một cái gì đó khơng thể biết trước được, khơng thể đốn định được. Tuy nhiên,
điều lý thú là ở chỗ, nó có mà khơng có và ngược lại. Vì thế, khơng phải ai cũng có
thể dự báo được thời cơ, theo dõi, nắm bắt nó và cuối cùng là lợi dụng nó để đạt tới
cái đích của mình.Thời cơ có thể do thực lực cách mạng trong nước tạo ra, cũng có
thể do hồn cảnh bên ngồi đưa đến. Nếu khơng có thực lực cách mạng đến mức đủ
mạnh thì khơng thể tạo ra được thời cơ và khi thời cơ đến sẽ không kịp thời tận
dụng hiệu quả.

Thời cơ cách mạng là tồn bộ những sự kiện, biến cố, những tình
huống diễn ra có lợi cho cách mạng trong một thời gian và khơng gian nhất định.
Thời cơ đến nhanh, chín muồi nhanh và trôi qua rất nhanh. Đối với cách mạng Việt
Nam, khi thời cơ đến, chớp lấy thời cơ để chiến thắng quân xâm lược vừa là khoa

học vừa là nghệ thuật. Cách mạng tháng Tám năm 1945 là một điển hình về chớp
lấy thời cơ giành chính quyền cách mạng về tay giai cấp công nhân và nhân dân lao
động.Việc nắm bắt thời cơ trong cuộc Cách mạng Tháng Tám mà Đảng và Mặt trận
Việt Minh phát động, như cơn sóng thần, đã cuốn phăng chính quyền phát-xít Nhật
và tay sai
1.2. Bối cảnh lịch sử cách mạng tháng 8
1.2.1. Tình hình trong nước
- Sự chuẩn bị của Đảng và nhân dân ta: Từ khi mới ra đời, Đảng Cộng sản
Việt Nam đã ra sức xây dựng lực lượng về các mặt, mở rộng mặt trận, xây dựng
khối đoàn kết toàn dân, lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang, căn cứ địa cách
mạng, lực lượng cách mạng ở thành phố,… để chuẩn bị khởi nghĩa giành chính
quyền khi thời cơ đến. Đồng thời, Đảng ta hết sức chăm chú theo dõi sự phát triển
của tình hình, diễn biến của chiến tranh thế giới lần thứ hai, dự đoán các khả năng,
phân tích mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù để có những quyết sách đúng đắn kịp
thời.
- Về mâu thuẫn Nhật - Pháp: Mâu thuẫn đã bị đẩy lên gay gắt đến cực độ khi
“hai con chó đế quốc không thể ăn chung một miếng mồi béo như Đông Dương”.
6


Trước tình hình sớm muộn quân đồng minh sẽ tiến vào Đơng Dương, phát xít Nhật
càng xúc tiến âm mưu diệt Pháp để trừ mối lo về sau. Đêm 09/3/1945 phát xít Nhật
làm cuộc đảo chính lật đổ Pháp độc chiếm Đông Dương, đúng như nhận định của
Đảng ta. Pháp chống cự yếu ớt rồi nhanh chóng đầu hàng. Sau khi đảo chính thành
cơng, Nhật thi hành một loạt chính sách nhằm củng cố quyền thống trị. Chính phủ
Bảo Đại – Trần Trọng Kim được Nhật dựng ra với cái bánh vẽ “ độc lập” để phục
vụ cho nền thống trị của chủ nghĩa Phát xít.
Ngay trong đêm Nhật đảo chính Pháp, Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương
đã mở rộng quyết định phát động cao trào cách mạng làm tiền đề cho cuộc tổng
khởi nghĩa, thay đổi các hình thức tuyên truyền, cổ động, tổ chức và đấu tranh cho

thích hợp.
Đồng thời lợi dụng tình hình Nhật đảo chính Pháp, bọn Quốc dân đảng cũng
nổi lên ở Hoàng Mai, Mật Minh, Đạo Ngạn (Việt Yên), Húi (Lục Ngạn, nay thuộc
Lục Nam), thị xã Phủ Lạng Thương... tranh giành ảnh hưởng, cản trở hoạt động của
ta.
1.2.2. Tình hình quốc tế
- Phe Đồng minh: Đầu năm 1945, Chiến tranh thế giới lần thứ hai bước vào
giai đoạn cuối, Hồng quân Liên Xô liên tiếp giành thắng lợi quyết định trên chiến
trường châu Âu, giải phóng một loạt nước và tiến thẳng vào sào huyệt phát xít Đức
tại Béc-lin. 
- Phe Phát xít: Ngày 9-5-1945, phát xít Đức đầu hàng vơ điều kiện, chiến
tranh kết thúc ở châu Âu. Ngày 8-8-1945, Hồng quân Liên Xô tiến công như vũ bão
vào quân đội Nhật. Ngày 14-8-1945, phát xít Nhật đầu hàng vơ điều kiện, Chiến
tranh thế giới lần thứ hai kết thúc. 
Theo thỏa thuận của các nước Đồng minh, sau khi phát xít Nhật đầu hàng,
quân đội Anh và Tưởng sẽ vào Đông Dương để giải giáp quân đội Nhật. Trong khi
đó, thực dân Pháp lăm le dựa vào Đồng minh hịng khơi phục địa vị thống trị của
mình; đế quốc Mỹ đứng sau các thế lực này cũng sẵn sàng can thiệp vào Đơng
Dương; những phần tử phản động, ngoan cố trong chính quyền tay sai Nhật đang
âm mưu thay đổi chủ, chống lại cách mạng.
1.3. Dự đoán thời cơ, xác định thời cơ, chớp thời cơ trong cách mạng
Tháng Tám
1.3.1. Dự đoán thời cơ
Trong những năm cuối của cuộc vận động giải phóng dân tộc (1941-1945),
khi phân tích về diễn biến cuộc chiến tranh giữa phe phát-xít và Đồng minh, Hồ Chí
7


Minh khẳng định thắng lợi cuối cùng sẽ thuộc về phe dân chủ và nhận định thời cơ
giải phóng dân tộc đang đến rất gần, tình thế cách mạng sắp xuất hiện:

“Ấy là nhịp tốt cho ta,
Nổi lên khôi phục nước nhà tổ tông”
Trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8, lý luận về thời cơ khởi nghĩa ở
Việt Nam đã được trình bày sáng rõ. Theo đó, thời cơ khởi nghĩa xuất hiện khi: lực
lượng đế quốc thống trị lung lay bối rối không đủ sức giữ địa vị của chúng như
trước nữa; dân chúng căm tức kẻ thù cực điểm, quyết hy sinh nổi dậy tranh đấu với
đế quốc đến cùng vì hiểu rằng ngồi yên cũng chết; chính đảng cách mạng có chính
sách đúng lãnh đạo dân chúng khởi nghĩa và được dân chúng tin cậy.
Từ những nét tổng quát về thời cơ tổng khởi nghĩa được xác định, vấn đề đặt
ra là phải theo dõi sát và đánh giá đúng xu hướng diễn biến của tình hình quốc tế và
trong nước để vận dụng lý luận đó trong cơng tác tổ chức và chỉ đạo thực hiện.
Đến năm 1945, tình hình quốc tế có nhiều thuận lợi, sự lớn mạnh và mở rộng
về thế và lực của Mặt trận Việt Minh đã là những tiền đề quan trọng để Hồ Chí
Minh đưa ra những quyết sách kịp thời, những biện pháp cụ thể, đón thời cơ, sửa
soạn chuẩn bị khởi nghĩa khi cục diện chiến tranh chống phát-xít đi vào giai đoạn
kết thúc, cách mạng Việt Nam đứng trước tình thế mới.
Lịch sử đã chứng minh, thành cơng đó có được là nhờ một đảng tiên phong
thật sự cách mạng, tiếp thu chủ nghĩa Mác-Lênin, được tư tưởng Hồ Chí Minh soi
sáng đã nắm vững hồn cảnh cụ thể của mỗi giai đoạn lịch sử, đề ra đường lối cách
mạng đúng đắn; biết nắm bắt thời cơ, xây dựng và tổ chức lực lượng; phát huy sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để dẫn dắt quần chúng đứng lên giành và giữ
chính quyền.
Ngay từ khi mới ra đời, Đảng ta đã biết chăm lo xây dựng lực lượng cách
mạng, làm cho lực lượng cách mạng đủ mạnh, thu hút được đông đảo Nhân dân
tham gia; từ đó làm thay đổi so sánh lực lượng giữa ta và địch, tạo ra những thời cơ
chín muồi để đưa Cách mạng đến thành công. Bàn về thành công của Cách mạng
Tháng Tám năm 1945, không thể không nhắc đến bài học về vấn đề nắm bắt thời
cơ, đề ra những quyết sách chính xác và kịp thời của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí
Minh.
Từ tháng 3 đến tháng 8/1945, Đảng ta tiếp tục đề ra nhiều chủ trương nhằm

chuyển hướng đấu tranh cách mạng, củng cố lực lượng như: thống nhất các lực
lượng vũ trang thành Việt Nam giải phóng quân (tháng 4/1945); ra Chỉ thị tổ chức
các Ủy ban Dân tộc giải phóng các cấp và chuẩn bị thành lập Ủy ban giải phóng
dân tộc Việt Nam, tức Chính phủ lâm thời cách mạng Việt Nam.
8


Từ tháng 04/1945 trở đi, cao trào kháng Nhật cứu nước diễn ra mạnh mẽ,
phong phú về nội dung và hình thức. Đầu tháng 05/1945, Hồ Chí Minh từ cao Bằng
về Tuyên Quang chọn Tân Trào làm căn cứ chỉ đạo cách mạng cả nước và chuẩn bị
Đại hội quốc dân. Tại đây, Người đã có Thư kêu gọi khởi nghĩa, ban hành Mệnh
lệnh khởi nghĩa, công bố Lệnh khởi nghĩa (Quân lệnh số 1 của Ủy ban Khởi nghĩa)

Ngày 04/06/1945, Khu giải phóng Việt Bắc được thành lập, đặt dưới sự lãnh
đạo của Ủy ban chỉ huy lâm thời, trở thành căn cứ địa của cả nước. Thời cơ khởi
nghĩa giành chính quyền như Đảng ta dự báo đã đến, Chủ tịch Hồ Chí Minh với
quyết tâm và tấm lòng khao khát giành độc lập dân tộc đã khẳng định: “Lúc này,
thời cơ thắng lợi đã tới, dù hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn
cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập". Ngay khi nhận được tin Nhật chính
thức đầu hàng Đồng minh vơ điều kiện (ngày 15/8/1945), Hội nghị đại biểu tồn
quốc của Đảng họp tại Tân Trào (Tuyên Quang) (tháng 8/1945) quyết định: “Cơ
hội rất tốt cho ta giành độc lập đã tới” và phát động tồn dân khởi nghĩa giành
chính quyền từ tay phát xít Nhật và tay sai trước khi quân Đồng minh vào Đông
Dương.
1.3.2. Xác định thời cơ
Dự đốn đúng tình hình Nhật nổ súng đảo chính lật đổ Pháp, độc chiếm
Đơng Dương, ngay trước lúc đó, Tổng Bí thư Trường Chinh triệu tập Hội nghị Ban
Thường vụ Trung ương Đảng họp mở rộng tại làng Đình Bảng (Từ Sơn, Bắc Ninh)
để phân tích tình hình và đề ra chủ trương chiến lược mới. Ngày 12-3-1945, Ban
Thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của

chúng ta”, chỉ rõ bản chất hành động của Nhật. Chỉ thị quyết định phát động một
cao trào kháng Nhật cứu nước mạnh mẽ làm tiền đề cho cuộc tổng khởi nghĩa, đồng
thời sẵn sàng chuyển lên tổng khởi nghĩa khi có đủ điều kiện. Bản chỉ thị ngày 123-1945 thể hiện sự lãnh đạo kiên quyết, kịp thời của Đảng. Đó là kim chỉ nam cho
mọi hành động của Đảng và Việt Minh trong cao trào chống Nhật cứu nước và có ý
nghĩa quyết định đối với thắng lợi của cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Việt Minh, từ giữa tháng 3-1945 trở đi, cao trào
kháng Nhật cứu nước diễn ra sôi nổi, mạnh mẽ.
Từ chỗ hợp tác với Việt Minh chống quân phiệt Nhật trong Chiến tranh thế
giới thứ hai, Chính phủ Mỹ khơng ngần ngại quay lưng lại phong trào giải phóng
dân tộc của nhân dân Việt Nam. Tại Hội nghị Ianta (2-1945), Tổng thống Mỹ
Roosevelt hồn tồn “nhất trí với đề nghị chỉ để các thuộc địa dưới quyền ủy trị nếu
“mẫu quốc” đồng ý”. “Mẫu quốc” của Đông Dương không ai khác là nước Pháp.
Từ đó, Mỹ ngày càng nghiêng về phía Pháp, ủng hộ Pháp trở lại xâm lược Đông
9


Dương, nhất là sau khi Roosevelt qua đời (12-4-1945) và Harry Truman bước vào
Nhà Trắng. Mùa hè năm 1945, Mỹ cam kết với Charles De Gaulle rằng sẽ không
cản trở việc Pháp phục hồi chủ quyền ở Đông Dương. Cuộc đấu tranh vì độc lập
dân tộc của nhân dân Việt Nam sẽ bị xếp vào “hoạt động phiến loạn do cộng sản
cầm đầu”. Trong tình hình ấy, “ai biết dịng chảy của lịch sử sẽ đi về đâu, với tốc
độ nào?”. Như vậy, thời cơ cách mạng chỉ tồn tại trong một khoảng thời gian xác
định: từ khi Nhật đầu hàng Đồng minh đến trước khi quân Đồng minh vào Đơng
Dương. Trong tình hình trên, vấn đề giành chính quyền được đặt ra như một cuộc
chạy đua nước rút với quân Đồng minh mà Đảng và nhân dân Việt Nam không thể
chậm trễ, không chỉ để tranh thủ thời cơ, mà còn phải khắc phục nguy cơ, đưa cách
mạng đến thành cơng.
Có thể khẳng định, thời cơ của Cách mạng Tháng Tám chỉ tồn tại trong một
thời gian rất ngắn - từ sau khi Nhật đầu hàng Đồng minh đến trước khi qn Đồng
minh vào Đơng Dương. Trong tình thế ngặt nghèo, Đảng ta đã hết sức khôn khéo,

linh hoạt đẩy lùi nguy cơ để tạo ra thời cơ thuận lợi. Theo phân tích của nhiều
chuyên gia, nếu khởi nghĩa sớm hơn, khi Nhật chưa đầu hàng, ta sẽ gặp sự kháng cự
quyết liệt, có thể tổn thất lớn và khó giành thắng lợi, chính quyền cách mạng chưa
thể thành lập trong tồn quốc. Cịn nếu để muộn hơn, khi Đồng minh đã vào Đơng
Dương, tình hình trở nên “vơ cùng nguy hiểm”.
1.3.3.Chớp thời cơ
Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân cả nước
đồng loạt vùng dậy, tiến hành tổng khởi nghĩa, giành chính quyền:

Ngày 12-8-1945, Ủy ban lâm thời khu giải phóng hạ lệnh khởi nghĩa
trong khu. 

Ngày 13-8-1945, Trung ương Đảng và Tổng bộ Việt Minh thành lập
Ủy ban Khởi nghĩa toàn quốc. 23 giờ cùng ngày, Ủy ban Khởi nghĩa toàn quốc ban
bố “Quân lệnh số 1”, phát đi lệnh tổng khởi nghĩa trong toàn quốc.

Ngày 14 và 15-8-1945, Hội nghị toàn quốc của Đảng họp ở Tân Trào,
do lãnh tụ Hồ Chí Minh và Tổng Bí thư Trường Chinh chủ trì, tập trung phân tích
tình hình và dự đốn: “Qn Đồng minh sắp vào nước ta và đế quốc Pháp lăm le
khôi phục lại địa vị cũ ở Đông Dương”. Hội nghị quyết định phát động toàn dân
nổi dậy tổng khởi nghĩa giành chính quyền từ tay phát xít Nhật trước khi quân
Đồng minh vào Đông Dương. Khẩu hiệu đấu tranh lúc này là: “Phản đối xâm lược!
Hoàn toàn độc lập! Chính quyền nhân dân!”. Hội nghị xác định ba nguyên tắc chỉ
đạo khởi nghĩa là tập trung, thống nhất và kịp thời. Phương hướng hành động trong
tổng khởi nghĩa: phải đánh chiếm ngay những nơi chắc thắng, không kể thành phố
hay nơng thơn; qn sự và chính trị phải phối hợp; phải làm tan rã tinh thần quân
10


địch và dụ chúng hàng trước khi đánh. Phải chộp lấy những căn cứ chính (cả ở các

đơ thị) trước khi quân Đồng minh vào, thành lập ủy ban nhân dân ở những nơi đã
giành được quyền làm chủ... Hội nghị cũng quyết định những vấn đề quan trọng về
chính sách đối nội và đối ngoại cần thi hành sau khi giành được chính quyền. 

Ngày 16-8-1945, Đại hội quốc dân họp tại Tân Trào. Về dự đại hội có
khoảng 60 đại biểu của các giới, các đảng phái chính trị, các đồn thể quần chúng
cứu quốc, các dân tộc, tơn giáo trong nước và đại biểu kiều bào ở nước ngoài. Đại
hội tán thành quyết định tổng khởi nghĩa của Đảng, thơng qua 10 chính sách lớn
của Việt Minh, lập Ủy ban giải phóng dân tộc Việt Nam do Hồ Chí Minh làm Chủ
tịch. Ngay sau Đại hội quốc dân, Hồ Chí Minh kêu gọi đồng bào cả nước: “Giờ
quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem
sức ta mà tự giải phóng cho ta... Chúng ta khơng thể chậm trễ. Tiến lên! Tiến lên!
Dưới lá cờ Việt Minh, đồng bào hãy dũng cảm tiến lên!”. Dưới sự lãnh đạo của
Đảng, nhân dân cả nước nhất tề vùng dậy ở cả thành thị và nơng thơn, với ý chí dù
có hy sinh đến đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng kiên quyết giành cho
được độc lập.

Ngày 17-8-1945, tại Hà Nội, Tổng hội viên chức tổ chức một cuộc
mít tinh ủng hộ chính phủ Trần Trọng Kim. Đảng bộ Hà Nội bí mật huy động quần
chúng trong các tổ chức cứu quốc ở nội và ngoại thành biến cuộc mít tinh đó thành
cuộc mít tinh ủng hộ Việt Minh. Các đội viên tuyên truyền xung phong bất ngờ
giương cao cờ đỏ sao vàng, kêu gọi nhân dân tham gia khởi nghĩa. Hàng vạn quần
chúng dự mít tinh nhiệt liệt hưởng ứng lời kêu gọi của Việt Minh. Lính bảo an,
cảnh sát của chính quyền Nhật có nhiệm vụ bảo vệ cuộc mít tinh cũng ngả theo Việt
Minh. Cuộc mít tinh biến thành một cuộc biểu tình tuần hành, có cờ đỏ sao vàng
dẫn đầu, rầm rộ diễu qua các phố đơng người, tiến đến trước phủ tồn quyền cũ, nơi
tư lệnh qn Nhật đóng, rồi chia thành từng tốn, đi cổ động chương trình Việt
Minh khắp các phố. Sau cuộc biểu dương lực lượng, Thành ủy Hà Nội nhận định đã
có đủ điều kiện để phát động tổng khởi nghĩa.


Sáng ngày 19-8-1945, Thủ đô Hà Nội tràn ngập cờ đỏ sao vàng. Quần
chúng cách mạng xuống đường tập hợp thành đội ngũ, rầm rộ kéo đến quảng
trường Nhà hát thành phố trong tiếng hát “Tiến quân ca” và cờ đỏ sao vàng để dự
cuộc mít tinh lớn do Mặt trận Việt Minh tổ chức. Ủy ban quân sự cách mạng đọc lời
hiệu triệu khởi nghĩa của Việt Minh. Cuộc mít tinh chuyển thành biểu tình vũ trang.
Quần chúng cách mạng chia thành nhiều đoàn đi chiếm Phủ Khâm sai, Tịa Thị
chính, Trại Bảo an binh, Sở Cảnh sát và các cơng sở của chính quyền thân Nhật.
Trước khí thế và sức mạnh áp đảo của quần chúng, hơn một vạn qn Nhật ở Hà
Nội khơng dám chống cự. Chính quyền về tay nhân dân.
11


Ngày 23-8-1945, Ủy ban khởi nghĩa Thừa Thiên - Huế huy động quần
chúng từ các huyện đã giành được chính quyền ở ngoại thành, kết hợp với nhân dân
trong nội thành Huế xuống đường biểu dương lực lượng. Bộ máy chính quyền và
qn đội Nhật hồn tồn tê liệt. Quần chúng lần lượt chiếm các công sở không vấp
phải sức kháng cự nào.

Đêm 24-8-1945, các lực lượng khởi nghĩa với gậy tầm vông, giáo
mác, từ các tỉnh xung quanh rầm rập kéo về Sài Gòn. Sáng 25-8-1945, hơn 1 triệu
người biểu tình tuần hành thị uy. Quân khởi nghĩa chiếm các cơng sở. Cuộc khởi
nghĩa thành cơng nhanh chóng.

Ngày 25-8-1945, Hồ Chí Minh cùng với Trung ương Đảng và Ủy ban
Dân tộc giải phóng về đến Hà Nội.

Sáng ngày 26-8-1945, Hồ Chí Minh chủ trì cuộc họp của Thường vụ
Trung ương Đảng, thống nhất những chủ trương đối nội và đối ngoại trong tình
hình mới; đề nghị mở rộng hơn nữa thành phần của Chính phủ lâm thời, chuẩn bị ra
Tun ngơn Độc lập, và tổ chức mít tinh lớn ở Hà Nội để Chính phủ ra mắt nhân

dân, cũng là ngày nước Việt Nam chính thức cơng bố quyền độc lập và thiết lập chế
độ dân chủ cộng hòa. Hồ Chí Minh nhấn mạnh những việc cần làm trước khi quân
Trung Hoa dân quốc vào Đông Dương.

Trong cuộc họp ngày 27-8-1945, Ủy ban Dân tộc Giải phóng cải tổ
thành Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hịa do Hồ Chí Minh làm
Chủ tịch. Danh sách Chính phủ lâm thời được chính thức cơng bố ngày 28-8-1945
tại Hà Nội. Một số thành viên là người của mặt trận Việt Minh tự nguyện rút khỏi
Chính phủ, trong đó có Tổng Bí thư Trường Chinh, để mời thêm nhân sĩ ngồi Việt
Minh tham gia. “Đó là một cử chỉ vô tư, tốt đẹp, không ham chuộng địa vị, đặt lợi
ích của dân tộc, của đồn kết tồn dân lên trên lợi ích cá nhân”.

Ngày 30-8-1945, tại cuộc mít tinh gồm hàng vạn người tham gia ở
Ngọ Môn, thành phố Huế, Bảo Đại thoái vị và giao nộp ấn, kiếm cho đại diện
Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hịa. Trong Tun cáo của
Hồng đế Việt Nam thối vị, Bảo Đại nói: “Sau hai mươi năm ngai vàng bệ ngọc
đã biết bao ngậm đắng nuốt cay, từ nay... lấy làm vui được làm dân tự do của một
nước độc lập”.

Trong tình hình hết sức khẩn trương, Ban Thường vụ Trung ương
Đảng, Tổng bộ Việt Minh và Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định sớm tổ chức lễ
Tuyên bố độc lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hịa. Mọi cơng việc chuẩn bị
được tiến hành khẩn trương. Tại một căn phòng trên gác nhà số 48, phố Hàng
Ngang, Hà Nội, Hồ Chí Minh đã thực hiện trách nhiệm lịch sử trọng đại, giữa bộn
về công việc, nhưng đã tập trung trí tuệ và tình cảm, soạn thảo bản Tuyên ngôn Độc


12



lập của nước Việt Nam mới. Để phát huy trí tuệ tập thể, ngày 30-8-1945, Hồ Chí
Minh mời một số cán bộ trong Ban Thường vụ Trung ương Đảng và các vị bộ
trưởng trong Chính phủ lâm thời đến trao đổi, góp ý kiến cho bản dự thảo Tun
ngơn Độc lập. Hồ Chí Minh nói, trong đời ơng “đã viết nhiều, nhưng đến bây giờ
mới được viết một bản Tuyên ngôn như vậy... Bản Tuyên ngôn Độc lập là hoa, là
quả của bao nhiêu máu đã đổ và bao nhiêu tính mạng đã hy sinh của những người
con anh dũng của Việt Nam trong nhà tù, trong trại tập trung, trong những hải đảo
xa xôi, trên máy chém, trên chiến trường. Bản Tuyên ngôn Độc lập là kết quả của
bao nhiêu hy vọng, gắng sức và tin tưởng của hơn 20 triệu nhân dân Việt Nam”.

Ngày 31-8-1945, Hồ Chí Minh bổ sung một số điểm, hồn chỉnh bản
Tun ngơn Độc lập.

Ngày 2-9-1945, Lễ độc lập được tổ chức trọng thể tại Quảng trường
Ba Đình, Hà Nội. Chính phủ lâm thời ra mắt quốc dân. Thay mặt Chính phủ lâm
thời Hồ Chí Minh đọc Tun ngơn Độc lập, trịnh trọng tun bố trước quốc dân và
thế giới: Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hịa ra đời. Bản Tun ngơn nêu rõ:
“Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào
cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”.
“Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập và sự thực đã
thành một nước tự do và độc lập. Toàn thể dân Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần
và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy!”
Tuyên ngôn Độc lập là một văn kiện lịch sử có giá trị tư tưởng lớn và ý
nghĩa thực tiễn sâu sắc. Đó là thiên anh hùng ca chiến đấu và chiến thắng, chứa
chan sức mạnh và niềm tin, tràn đầy lịng tự hào và ý chí đấu tranh của nhân dân
Việt Nam trong sự nghiệp giành và giữ nền độc lập, tự do. Cách mạng tháng Tám
nổ ra trong hoàn cảnh khách quan rất thuận lợi: kẻ thù trực tiếp của nhân dân Việt
Nam là phát xít Nhật đã đầu hàng Đồng minh, quân đội Nhật ở Đơng Dương mất
hết tinh thần chiến đấu, chính quyền thân Nhật rệu rã, tạo thời cơ thuận lợi để nhân
dân Việt Nam tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Đó là kết quả và đỉnh cao của 15

năm đấu tranh của toàn dân tộc Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng, mà trực tiếp
là cao trào vận động giải phóng dân tộc 1939-1945.
1.4. Tính chất, ý nghĩa của thời cơ cách mạng Tháng Tám năm 1945
1.4.1. Tính chất
Cách mạng tháng Tám năm 1945 là “một cuộc cách mạng giải phóng dân
tộc mang tính chất dân chủ mới. Nó là một bộ phận khăng khít của cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân Việt Nam”.Trước hết, Cách mạng tháng Tám năm 1945 là
một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc điển hình, thể hiện:
13


Thứ nhất, tập trung hoàn thành nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng là giải
phóng dân tộc, tập trung giải quyết mâu thuẫn chủ yếu của xã hội Việt Nam
lúc đó là mâu thuẫn giữa tồn thể dân tộc với đế quốc xâm lược và tay sai; đáp ứng
đúng yêu cầu khách quan của lịch sử và ý chí, nguyện vọng độc lập tự do của quần
chúng nhân dân.
Thứ hai, lực lượng cách mạng bao gồm toàn dân tộc, đoàn kết chặt chẽ
trong mặt trận Việt Minh với những tổ chức quần chúng mang tên “cứu
quốc”, động viên đến mức cao nhất mọi lực lượng dân tộc lên trận địa cách mạng.
Cuộc tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 là sự vùng dậy của lực lượng toàn
dân tộc.
Thứ ba, thành lập chính quyền nhà nước “của chung tồn dân tộc” theo chủ
trương của Đảng, với hình thức cộng hịa dân chủ, chỉ trừ tay sai của đế quốc và
những kẻ phản quốc, “còn ai là người dân sống trên giải đất Việt Nam đều thảy
được một phần tham gia giữ chính quyền, phải có một phần nhiệm vụ giữ lấy và
bảo vệ chính quyền ấy"
Nhưng Cách mạng Tháng Tám cịn có tính chất dân chủ. Bởi vì:
Một là, cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam là một bộ phận của phe dân
chủ chống phát xít. “Nó chống lại phát xít Nhật và bọn tay sai phản động, và nó là
một bộ phận của cuộc chiến đấu vĩ đại của các lực lượng dân chủ, tiến bộ trên thế

giới chống phát xít xâm lược”.
Hai là, cách mạng đã giải quyết một số quyền lợi cho nông dân, lực lượng
đông đảo nhất trong dân tộc. Do Cách mạng tháng Tám, một phần ruộng đất của
đế quốc và Việt gian đã bị tịch thu, địa tô được tuyên bố giảm 25%, một số
nợ lưu cữu được xóa bỏ.
Ba là, cuộc cách mạng đã xây dựng chính quyền nhà nước dân chủ nhân dân
đầu tiên ở Việt Nam, xóa bỏ chế độ quân chủ phong kiến. Các tầng lớp nhân dân
được hưởng quyền tự do, dân chủ. Cách mạng tháng Tám “chưa làm cách mạng
ruộng đất, chưa thực hiện khẩu hiệu người cày có ruộng”, “chưa xóa bỏ chế độ
phong kiến chiếm hữu ruộng đất, chưa xóa bỏ những tàn tích phong kiến và nửa
phong kiến để cho cơng nghiệp có điều kiện phát triển mạnh... quan hệ giữa địa chủ
và nông dân nói chung vẫn như cũ. Chính vì thế Cách mạng tháng Tám có tính chất
dân chủ, nhưng tính chất đó chưa được đầy đủ và sâu sắc” (Theo Trường Chinh:
Tuyển tập, Nxb Sự Thật, Hà Nội, 1987, tập 1, tr. 172.)
Cách mạng tháng Tám năm 1945 dưới sự lãnh đạo của Đảng mang đậm tính
nhân văn, hồn thành một bước hết sức cơ bản trong sự nghiệp giải phóng con
người ở Việt Nam khỏi mọi sự áp bức về mặt dân tộc, sự bóc lột về mặt giai cấp và
sự nô dịch về mặt tinh thần.
14


1.4.2. Ý nghĩa
Khẳng định ý nghĩa của Cách mạng tháng Tám năm 1945, Hồ Chí Minh
viết: “Chẳng những giai cấp lao động và nhân dân Việt Nam ta có thể tự
hào, mà giai cấp lao động và những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự hào
rằng: Lần này là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa và
nửa thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành cơng, đã nắm
chính quyền tồn quốc”.
Đối với Việt Nam:
Cách mạng tháng Tám năm 1945 đã đập tan xiềng xích nô lệ của chủ

nghĩa đế quốc trong gần một thế kỷ, chấm dứt sự tồn tại của chế độ quân chủ
chun chế ngót nghìn năm, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nhà nước
của nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á, giải quyết thành công vấn đề cơ bản của một
cuộc cách mạng xã hội là vấn đề chính quyền.
Với thắng lợi của Cách mạng tháng Tám, nhân dân Việt Nam từ thân
phận nô lệ bước lên địa vị người chủ đất nước, có quyền quyết định vận mệnh của
mình.
Nước Việt Nam từ một nước thuộc địa trở thành một quốc gia độc lập
có chủ quyền, vươn lên cùng các dân tộc trên thế giới đấu tranh cho những mục tiêu
cao cả của thời đại là hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Đảng
Cộng sản Đông Dương từ chỗ phải hoạt động bí mật trở thành một Đảng cầm
quyền. Từ đây, Đảng và nhân dân Việt Nam có chính quyền nhà nước cách mạng
làm công cụ sắc bén phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước.
Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám mở ra kỷ nguyên mới trong tiến
trình lịch sử dân tộc, kỷ nguyên độc lập tự do và hướng tới chủ nghĩa xã hội.
Về mặt quốc tế:
Cách mạng tháng Tám là một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc lần
đầu tiên giành thắng lợi ở một nước thuộc địa, đã đột phá một khâu quan trọng
trong hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc, mở đầu thời kỳ suy sụp và tan rã
của chủ nghĩa thực dân cũ.
Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám không chỉ là chiến cơng của dân
tộc Việt Nam mà cịn là chiến công chung của các dân tộc thuộc địa đang đấu tranh
vì độc lập tự do, vì thế nó có sức cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc trên
thế giới.
Cách mạng tháng Tám là thắng lợi của đường lối giải phóng dân tộc
đúng đắn, sáng tạo của Đảng và tư tưởng độc lập tự do của Hồ Chí Minh. Nó chứng
tỏ rằng: một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc do Đảng Cộng sản lãnh đạo hoàn
15



tồn có khả năng thắng lợi ở một nước thuộc địa trước khi giai cấp cơng nhân ở
“chính quốc” lên nắm chính quyền.
Cách mạng tháng Tám đã góp phần làm phong phú thêm kho tàng lý
luận của chủ nghĩa Mác-Lênin về cách mạng giải phóng dân tộc.

CHƯƠNG II: NHỮNG BÀI HỌC KINH NGHIỆM VÀ VẬN DỤNG
THỜI CƠ TRONG CÁCH MẠNG THÁNG 8 NĂM 1945
2.1. Những bài học kinh nghiệm
Sự thành công của Cách mạng Tháng Tám là minh chứng hùng hồn cho
nghệ thuật tạo thời cơ, chớp lấy thời cơ, khởi nghĩa giành chính quyền của Đảng ta.
Thể hiện sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng, dù lúc đó mới được 15 ngày tuổi.
Ngày nay, trong thời kỳ hội nhập quốc tế, Đảng ta cũng cần phải sáng suốt lãnh đạo
nhân dân ta nhanh chóng chớp lấy thời cơ, tạo thời cơ cho chính mình. Bằng việc đi
tắt đón đầu, nhạy bén tiếp thu các thành tựu khoa học kỹ thuật,…để tạo điều kiện
phát triển toàn diện đất nước. Xây dựng một nước Việt Nam giàu mạnh, dân chủ,
16


công bằng, văn minh. Đưa nước ta tiến lên chủ nghĩa xã hội để xứng đáng với sự
nghiệp mà cha ông ta đã dày công xây dựng.
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý báu,
nổi bật là:
Bài học thứ nhất là vấn đề về chỉ đạo chiến lược: Nước ta có một Đảng tiên
phong thật sự cách mạng, tiếp thu chủ nghĩa Mác-Lênin, được tư tưởng Hồ Chí
Minh soi sáng đã nắm vững hồn cảnh cụ thể của mỗi giai đoạn lịch sử, đề ra
đường lối cách mạng đúng đắn, có phương pháp và hình thức đấu tranh phù hợp;
biết nắm bắt thời cơ, xây dựng lực lượng và tổ chức, sử dụng lực lượng; phát huy
được sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để dẫn dắt quần chúng đứng lên
giành và giữ chính quyền. Cụ thể, phải giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc, giải
quyết đúng đắn mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ độc lập dân tộc và cách mạng ruộng

đất. Trong cách mạng thuộc địa, phải đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu,
cịn nhiệm vụ cách mạng ruộng đất cần tạm gác lại, rải ra thực hiện từng bước thích
hợp nhằm phục vụ cho nhiệm vụ chống đế quốc.
Bài học thứ hai là vấn đề xây dựng lực lượng: Trên cơ sở khối liên minh
công nông, cần khơi dậy tinh thần dân tộc trong mọi tầng lớp nhân dân, tập hợp mọi
lực lượng yêu nước trong mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi. Việt Minh là một
điển hình thành cơng của Đảng về huy động lực lượng toàn dân tộc lên trận địa
cách mạng, đưa cả dân tộc vùng dậy trong cao trào kháng Nhật cứu nước, tiến lên
tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Theo cách dùng từ của V.I.Lênin trong tác
phẩm Tổng kết một cuộc tranh luận về quyền tự quyết, thì đó chính là một “lị lửa
khởi nghĩa dân tộc”. Đảng ta đã biết chăm lo xây dựng lực lượng cách mạng, làm
cho lực lượng cách mạng đủ mạnh, thu hút được đơng đảo quần chúng tham gia, từ
đó làm thay đổi so sánh lực lượng giữa ta và địch, tạo ra thời cơ cách mạng để đưa
cuộc cách mạng đến thành cơng. Để giữ vững chính quyền, Đảng và Nhà nước ta đã
dựa chắc vào nhân dân, tạo nên sức mạnh vật chất và tinh thần để đấu tranh thắng
lợi với thù trong giặc ngoài. Đảng ta biết kiên quyết dùng bạo lực cách mạng và sử
dụng bạo lực cách mạng thích hợp và đúng lúc để đập tan bộ máy nhà nước cũ, lập
ra nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Bài học thứ ba là, vấn đề nắm bắt được thời cơ, phương pháp cách mạng, đề
ra được những quyết định chính xác và kịp thời: Nghệ thuật chỉ đạo tài tình của
Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc chọn đúng thời cơ, ra quyết định Tổng
khởi nghĩa đúng lúc thể hiện cụ thể trong Chỉ thị của Thường vụ Trung ương Đảng
tháng 3/1945 “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” và bản Quân lệnh
số 1 của Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc phát đi đêm 13/8/1945. Cũng nhờ chọn đúng
thời cơ mà sức mạnh của Nhân dân ta trong Cách mạng Tháng Tám được nhân lên
17


gấp bội, đã tiến hành tổng khởi nghĩa thành công trong phạm vi cả nước trong thời
gian ngắn.

Bài học thứ tư là, xây dựng Đảng: Phải xây dựng một Đảng cách mạng tiên
phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn dân tộc Việt Nam, tuyệt
đối trung thành với lợi ích của giai cấp và dân tộc; vận dụng và phát triển lý luận
Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đề ra đường lối chính trị đạo đức, một Đảng
vững mạnh về tư tưởng, chính trị và tổ chức, liên hệ chặt chẽ với quần chúng. Xây
dựng và củng cố lực lượng cách mạng, phát huy sức mạnh đại đoàn kết của toàn
dân tộc kết hợp với sức mạnh của thời đại. Từ khi mới thành lập, Đảng Cộng sản
Việt Nam đã sớm nhận thức đúng và đầy đủ về sức mạnh to lớn của đông đảo quần
chúng nhân dân, sớm đề ra đường lối chiến lược giương cao hai ngọn cờ độc lập
dân tộc và dân chủ, đáp ứng đúng nguyện vọng của đại đa số nhân dân là độc lập, tự
do, người cày có ruộng. Chính vì thế, Đảng ta đã tập hợp và phát huy được sức
mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân trên nền tảng liên minh công nhân - nông dân trí thức, khai thác và phát huy triệt để động lực tinh thần, nêu cao “ý chí Việt Nam”,
tinh thần dũng cảm, sáng tạo, sẵn sàng xông lên cứu nước cứu nhà, tạo thành nguồn
động lực to lớn để đưa Cách mạng Tháng Tám đến thắng lợi hoàn toàn. 
Với thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945, Đảng đã lãnh đạo nhân
dân đưa lịch sử dân tộc sang trang mới, đánh dấu bước nhảy vọt vĩ đại trong quá
trình tiến hóa của dân tộc. Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hịa từ khi ra đời, dù phải
trải qua mn vàn khó khăn thử thách, nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng, với tinh
thần đoàn kết phấn đấu của toàn dân, luôn được xây dựng và củng cố, vững bước
tiến trên con đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

2.2 Vận dụng
2.2.1. Vận dụng trong cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư
Từ năm 1986 đến nay, đất nước đã đạt nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa
nhiều mặt: Bảo vệ, đổi mới và phát triển chủ nghĩa xã hội; khắc phục khủng hoảng,
đưa đất nước thoát khỏi tình trạng kém phát triển; chính trị xã hội ổn định, đời sống
nhân dân có nhiều bước cải thiện rõ rệt, đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố;
quốc phòng, an ninh vững chắc, đối ngoại rộng mở, đảm bảo mơi trường hịa bình,
thuận lợi cho sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế… Trong
cuộc suy thối kinh tế tồn cầu đang diễn ra, vấn đề thực lực và nắm thời cơ để phát

triển vẫn luôn được coi trọng. Với thế và lực của đất nước, sức mạnh tổng hợp quốc
gia được nâng cao, đất nước ta đã có những tiền đề quý báu cho giai đoạn phát triển
tiếp theo. Trong những thành tựu và trong mỗi bước phát triển của đất nước hôm
18


nay đều khởi nguồn từ những bài học kinh nghiệm quý báu đúc kết từ các thời kỳ
cách mạng trước đây, trong đó, bài học kinh nghiệm nắm bắt và chớp thời cơ của
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 vẫn luôn mang những giá trị bền vững và ý nghĩa
thời đại.
Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư mang lại cơ hội phát triển cho
nhiều lĩnh vực, như kinh tế, văn hóa, xã hội, y tế, giáo dục,…
-Về kinh tế: Thị trường thương mại điện tử Việt Nam tăng trưởng đến 16%,
đạt mốc 14 tỷ USD trong năm 2021. Dự báo đến năm 2025, quy mô thương mại
điện tử Việt Nam có thể đạt 52 tỷ USD, trở thành nền kinh tế có thị trường thương
mại điện tử đứng thứ 3 khu vực ASEAN. Nhờ kết nối mạng internet, thương mại
điện tử giúp người tiêu dùng có thể mua hàng hóa, dịch vụ ở khắp mọi nơi mà
khơng phụ thuộc vào khơng gian, thời gian; nguồn hàng hóa đa dạng, phong phú,
mang lại cho người mua nhiều sự lựa chọn; chất lượng sản phẩm được nâng cao,
trong khi giá thành giảm nhờ việc áp dụng công nghệ cao (công nghệ nano, in 3D,
điện tốn đám mây, trí tuệ nhân tạo,…). Nền tảng của công nghệ 4.0 cũng tạo cơ
hội cho ngành du lịch, dịch vụ phát triển, cùng sự gia tăng của nền kinh tế trải
nghiệm,… nhờ áp dụng công nghệ thực tế ảo, cá nhân hóa siêu dữ liệu…
-Về văn hóa - xã hội: Cách mạng cơng nghiệp lần thứ tư tạo sự liên kết, hỗ
trợ rất lớn cho sự phát triển thơng tin số, góp phần gìn giữ và bảo lưu, quảng bá các
giá trị văn hóa của dân tộc. Ngành cơng nghiệp văn hóa phát triển, vừa mang lại giá
trị tinh thần, giá trị truyền thống, góp phần giáo dục đạo đức nhân văn, vừa tạo nên
các giá trị kinh tế đóng góp cho GDP của đất nước .
Để có thể nắm bắt được những thời cơ và cơ hội mà Cách mạng công nghiệp
lần thứ tư mang lại cho Việt Nam, đội ngũ trí thức cần phát huy vai trò tiên phong,

từ việc nghiên cứu đến ứng dụng, chuyển giao cơng nghệ, góp phần tạo nên thành
công trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Cần coi trọng và tận dụng
những thành tựu của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư để đổi mới phương pháp
dạy học, nội dung giảng dạy… nhằm xây dựng được đội ngũ nhân lực của Việt
Nam có trình độ học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ ngày càng nâng cao, tiến tới
chuẩn quốc tế.
2.2.2. Vận dụng trong đại dịch COVID-19
Đã 77 năm trôi qua, nhưng bài học về nhận định thời cơ và chớp thời cơ
cách mạng của Ðảng trong Cách mạng Tháng Tám 1945, vẫn còn nguyên giá trị
thời sự. Qua đó chúng ta càng cảm nhận sâu sắc hơn về những câu thơ của Bác ở
bài thơ “Học đánh cờ” trong tập thơ phẩm “Nhật ký trong tù”:
“Phải nhìn cho rộng suy cho kỹ,
Kiên quyết, không ngừng thế tấn công;
19


Lạc nước, hai xe đành bỏ phí,
Gặp thời, một tốt cũng thành cơng”
Nói về câu chuyện thời cơ. Dĩ nhiên, khơng thể coi Covid-19 là một thời cơ,
nhưng nó cũng là một yếu tố đến bất ngờ, nhưng không thể khác được và quan
trọng là cách mỗi quốc gia, mỗi doanh nghiệp, thậm chí là mỗi người đối mặt với
nó.
Trước đây, đại dịch COVID-19 đã từng gây ảnh hưởng to lớn tới sự phát
triển của đất nước và đời sống của nhân dân. Nhờ áp dụng những sản phẩm của
cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, như tự động hóa để tránh tiếp xúc gần giữa
mọi người, in 3D để sản xuất nhanh các thiết bị y tế, tư vấn hỗ trợ chữa bệnh từ xa,
phần mềm truy vết Bluezone, Ncovid, Code QR…, nên chúng ta đã từng bước
khống chế được dịch bệnh, chuyển sang giai đoạn thích ứng an tồn, linh hoạt, kiểm
sốt hiệu quả dịch COVID-19, “biến nguy thành cơ”, đẩy nhanh quá trình phục hồi
và phát triển kinh tế - xã hội.

Mỗi thành tựu của Việt Nam trong cơng cuộc đổi mới đều có sự kế thừa và
phát triển những bài học kinh nghiệm quý báu được đúc kết qua các thời kỳ cách
mạng, trong đó, bài học kinh nghiệm về tạo dựng, nắm bắt và chớp thời cơ của
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 luôn ln có giá trị lâu bền và ý nghĩa thời đại,
cần được thấm nhuần và vận dụng sáng tạo trong giai đoạn phát triển mới.

Ví dụ về hãng hàng khơng Vietnam Airlines vận dụng nắm bắt thời cơ
2 năm dịch bệnh Covid-19 vơ vàn khó khăn với ngành hàng khơng nói
chung và VNA nói riêng, nhưng với sự lãnh đạo linh hoạt, sáng suốt của Ban lãnh
đạo TCT, người VNA đã và đang cùng nhau từng bước vượt qua những thử thách
chưa từng có trong lịch sử để dần hồi phục. 
Trong dịch bệnh, VNA đã thể hiện khả năng nắm bắt thời cơ, thích ứng
linh hoạt với hàng loạt những thay đổi trong cơ cấu tổ chức, phương án SXKD mới
hay những sáng kiến giúp cải tiến, nâng cao chất lượng lao động. Đó là 30 đường
bay quốc tế để vận chuyển hàng hố, thực hiện trung bình 160 chuyến bay chở
hàng/tuần tới nhiều nước trên thế giới. Đó là triển khai hốn cải 9 tàu bay thân rộng,
8 tàu bay thân hẹp vốn dùng để chở khách thành các tàu bay chở hàng bằng cách
tháo toàn bộ ghế trên khoang khách, hoặc bọc ghế lại để chất xếp hàng hoá trên
khoang khách. Với phương án SXKD linh hoạt này, năm 2021 doanh thu từ hoạt
động này đã đóng góp 48% doanh thu cho cơng ty mẹ.
Bên cạnh đó, VNA cũng tận dụng thời cơ, nhanh chóng thực hiện chuyển đổi
số tồn diện trên quy mơ TCT, từ đó tạo những điều kiện thuận lợi trong việc phát
triển. Minh chứng là trong thời gian giãn cách, VNA cũng đã nhanh chóng mở rộng
hợp tác và ra mắt các sản phẩm mới như sàn thương mại điện tử VNAMALL,
20



×