Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Tài liệu môn Chủ nghĩa xã hội khoa học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (199.85 KB, 23 trang )

Câu 1: Phân tích khái niệm tôn giáo, gia đình:
Tôn giáo hay đạo, đôi khi đồng nghĩa với tín ngưỡng, thường được định
nghĩa là niềm tin vào những gì siêu nhiên, thiêng liêng hay thần thánh, cũng
như những đạo lý, lễ nghi, tục lệ và tổ chức liên quan đến niềm tin đó.
Những ý niệm cơ bản về tôn giáo chia thế giới thành hai phần: thiêng liêng
và trần tục. Trần tục là những gì bình thường trong cuộc sống con người,
còn thiêng liêng là cái siêu nhiên, thần thánh. Đứng trước sự thiêng liêng,
con người sử dụng lễ nghi để bày tỏ sự tôn kính, sùng bái và đó chính là cơ
sở của tôn giáo. Trong nghĩa tổng quát nhất, có quan điểm đã định nghĩa tôn
giáo là kết quả của tất cả các câu trả lời để giải thích nguồn gốc, quan hệ
giữa nhân loại và vũ trụ; những câu hỏi về mục đích, ý nghĩa cuối cùng của
sự tồn tại. Chính vì thế những tư tưởng tôn giáo thường mang tính triết học.
Số tôn giáo được hình thành từ xưa đến nay được xem là vô số, có nhiều
hình thức trong những nền văn hóa và quan điểm cá nhân khác nhau. Tuy
thế, ngày nay trên thế giới chỉ có một số tôn giáo lớn được nhiều người theo
hơn những tôn giáo khác.
Đôi khi từ "tôn giáo" cũng có thể được dùng để chỉ đến những cái gọi đúng
hơn là "tổ chức tôn giáo" – một tổ chức gồm nhiều cá nhân ủng hộ việc thờ
phụng, thường có tư cách pháp nhân.
Tôn giáo là một từ phương Tây. Trước khi du nhập vào Việt Nam, tại Việt
Nam cũng có những từ tương đồng với nó. Đó là:
- Đạo: từ này xuất xứ từ Trung Hoa, tuy nhiên “đạo” không hẳn đồng nghĩa
với tôn giáo vì bản thân từ đạo cũng có thể có ý nghĩa phi tôn giáo. “Đạo” có
thể hiểu là con đường, học thuyết. Mặt khác, “đạo” cũng có thể hiểu là cách
ứng xử làm người: đạo vợ chồng, đạo cha con, đạo thầy trò… Vì vậy khi sử
dụng từ “đạo” với ý nghĩa tôn giáo thường phải đặt tên tôn giáo đó sau
“đạo”. Ví dụ: đạo Phật, đạo Tin lành…
- Giáo: từ này có ý nghĩa tôn giáo khi nó đứng sau tên một tôn giáo cụ thể.
Chẳng hạn: Phật giáo, Nho giáo, Kitô giáo… “Giáo” ở đây là giáo hóa, dạy
bảo theo đạo lý của tôn giáo. Tuy nhiên “giáo” ở đây cũng có thể được hiểu
với nghia phi tôn giáo là lời dạy của thầy dạy học. Cần chú ý rằng người ta


không sử dụng từ “giáo” đối với tôn giáo mới phát sinh như Cao đài, Hòa
Hảo…
- Thờ: đây có lẽ là từ thuần Việt cổ nhất. Thờ có ý bao hàm một hành động
biểu thị sự sùng kính một đấng siêu linh: thần thánh, tổ tiên… đồng thời có ý
nghĩa như cách ứng xử với bề trên cho phải đạo như thờ vua, thờ cha mẹ,
thờ thầy hay một người nào đó mà mình mang ơn… Thờ thường đi đôi với
cúng, cúng cũng có nhiều nghĩa: vừa mang tính tôn giáo, vừa mang tính thế
tục. Cúng theo ý nghĩa tôn giáo có thể hiểu là tế, là tiến dâng, là cung phụng,
là vật hiến tế… Ở Việt Nam, cúng có nghĩa là dâng lễ vật cho các đấng siêu
linh, cho người đã khuất nhưng cúng với ý nghĩa trần tục cũng có nghĩa là
đóng góp cho việc công ích, việc từ thiện… Tuy nhiên, từ ghép “thờ cúng”
chỉ dành riêng cho các hành vi và nội dung tôn giáo. Đối với người Việt, tôn
giáo theo thuật ngữ thuần Việt là thờ hay thờ cúng hoặc theo các từ gốc Hán
đã trở thành phổ biến là đạo, là giáo.
Câu 2: Chính sách về Tôn giáo
Cùng với sự nghiệp đổi mới của đất nước, công tác tôn giáo đã
có những biến đổi sâu sắc và đạt được kết quả khả quan hơn.
Việc thực hiện tự do tín ngưỡng đã đi vào nề nếp bên cạnh việc
bảo đảm sự phát triển của kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống
nhân dân, trong đó có cả đồng bào có đạo.
Trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội của
đất nước, hoạt động tôn giáo trong cả nước khá sôi động; đó là kết
quả của đường lối lãnh đạo đúng đắn của Đảng cũng như sự quản lý
có hiệu quả của Nhà nước ta. Những thành quả trong công tác này,
được thể hiện rõ trên một số mặt:
1. Hoàn thiện pháp luật, cơ chế chính sách về tôn giáo và công
tác tôn giáo
Từ khi có Nghị quyết 25/NQ-TW ngày 12-3-2003 của Trung ương
Đảng về công tác tôn giáo, Chính phủ đã chỉ đạo các bộ, ngành từng
bước cụ thể hóa các quan điểm, giải pháp và các nhiệm vụ chủ yếu

trong Nghị quyết của Đảng thành các quy định của pháp luật, các kế
hoạch, giải pháp, cơ chế. Điều đó đã bảo đảm việc thực hiện và đưa
Nghị quyết của Đảng vào cuộc sống, tạo hành lang pháp lý cho các
hoạt động tôn giáo, sự thống nhất trong việc giải quyết nhu cầu sinh
hoạt tôn giáo trên phạm vi cả nước, tăng cường hiệu lực và hiệu quả
công tác tôn giáo.
Các bộ, ngành liên quan đã tham mưu và giúp Chính phủ, Thủ tướng
xây dựng và trình Quốc hội thông qua các văn bản liên quan trực tiếp
và gián tiếp đến công tác quản lý nhà nước về hoạt động tôn giáo.
Ban Tôn giáo Chính phủ chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành liên
quan tiến hành bổ sung vào Dự thảo Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo,
cụ thể hóa chính sách tôn giáo của Đảng trong Nghị quyết 25/NQ-
TW; tổ chức lấy ý kiến rộng rãi của các nhà khoa học, quản lý và
chức sắc đại diện cho các tổ chức tôn giáo. Thừa ủy quyền của
Chính phủ, Ban Tôn giáo Chính phủ đã trình Ủy ban Thường vụ
Quốc hội thông qua và Chủ tịch nước đã ký Lệnh công bố ban hành
Pháp lệnh Tín ngưỡng tôn giáo ngày 29-6-2004 và có hiệu lực thi
hành từ ngày 15-11-2004.
Ban Tôn giáo Chính phủ chủ trì soạn thảo Nghị định số 22/2005/NĐ-
CP hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn
giáo trình Chính phủ và được ban hành ngày 01-3-2005. Sau đó,
Chính phủ ban hành tiếp Chỉ thị số 01/2005/CT-TTg ngày 4-2-2005
về một số công tác đối với đạo Tin Lành. Như vậy, Nghị quyết số
25/NQ-TW cùng với ba văn bản nói trên đã công khai, minh bạch
đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước ta trong
lĩnh vực tôn giáo; đồng thời là cơ sở để giải quyết các nhu cầu sinh
hoạt tôn giáo, bảo đảm quyền tự do tôn giáo của nhân dân, xác định
rõ trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước về tôn giáo, quyền
và nghĩa vụ của các tổ chức, cá nhân tôn giáo đang hoạt động ở Việt
Nam.

Mặt khác, Quốc hội, Chính phủ đã ban hành và sửa đổi 16 văn bản
quy phạm pháp luật có những nội dung liên quan đến các lĩnh vực
hoạt động tôn giáo như: về đất đai có Luật Đất đai sửa đổi năm
2003, Nghị quyết số 23/2003/QH XI về nhà đất do Nhà nước quản lý
nhà đất và chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa trước ngày 01-7-
1991; về xây dựng có Luật Xây dựng; về thanh tra và giải quyết
khiếu nại, tố cáo, có Luật Khiếu nại, tố cáo; về đăng ký hộ khẩu, có
Luật Cư trú… Hệ thống chính sách mới được ban hành, sửa đổi, bổ
sung có tác động tích cực trong việc bảo đảm nhu cầu sinh hoạt tôn
giáo của nhân dân, cũng như quản lý các hoạt động tôn giáo theo
pháp luật một cách cụ thể, rành mạch, nghiêm chỉnh.
Như vậy, việc xây dựng các văn bản pháp luật và cơ chế chính sách
về tôn giáo và công tác tôn giáo trong thời gian qua đã được chú
trọng hơn, có sự phối hợp của các bộ, ngành liên quan và Ủy ban
nhân dân các tỉnh, thành phố, phát huy được sự đóng góp trí tuệ của
hệ thống chính trị, các nhà khoa học, chức sắc tôn giáo. Vì vậy, các
văn bản ban hành đã tạo được sự đồng bộ và hiệu lực hơn. Đặc biệt,
khi đã hình thành được hệ thống chính sách pháp luật rồi thì công
việc tiếp theo là tuyên truyền nó sâu rộng trong nhân dân là rất quan
trọng. Theo báo cáo của các tỉnh, thành phố trong những năm vừa
qua, cả nước đã tổ chức 4.517 lớp, với 221.953 lượt người tham dự
để tuyên truyền, phổ biến chủ trương của Đảng và chính sách pháp
luật của Nhà nước cho đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị.
Do có hệ thống luật pháp về tôn giáo và được tuyên truyền sâu rộng
trong xã hội nên việc thực thi luật pháp diễn ra suôn sẻ. Tập thể, tổ
chức, cá nhân thực hiện tốt được biểu dương khen thưởng; ngược
lại, nếu không thực hiện tốt hay vi phạm luật pháp thì bị trừng trị.
Điều này giải thích tại sao vừa qua ở nước ta có những cá nhân, tín
đồ vi phạm luật pháp đã bị Nhà nước ta xử phạt. Việc xử phạt đó
chính là nhằm thực hiện nghiêm luật pháp.

2. Tăng cường đầu tư và thực hiện các chương trình phát triển
kinh tế - xã hội vùng đồng bào các tôn giáo
Trong thời kỳ đổi mới, đặc biệt là khi có Nghị quyết 25/NQ-TW cũng
như Chương trình hành động của Chính phủ, Đảng và Nhà nước ta
đã xác định, việc thực hiện có hiệu quả chủ trương, chính sách và
chương trình phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất,
văn hóa của nhân dân, trong đó có đồng bào các tôn giáo là nhiệm
vụ quan trọng hàng đầu của công tác tôn giáo. Từ nhiệm vụ tổng thể
trên, các chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị
quyết của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh
quốc phòng, các khu vực như: Tây Nguyên, miền núi phía Bắc, đồng
bằng sông Cửu Long,… được xác định khá cụ thể trong việc phát
triển kinh tế, bảo đảm đời sống vật chất và tinh thần, đời sống tín
ngưỡng, tôn giáo của đồng bào trên nguyên tắc tôn trọng và bảo
đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân.
Các bộ, ngành, trung ương trong quá trình hướng dẫn địa phương
xây dựng định hướng quy hoạch, kế hoạch và cơ chế chính sách
phát triển kinh tế - xã hội của các vùng, các địa phương đều đã gắn
với kế hoạch chung của cả nước về chính sách hỗ trợ đất ở và đất
sản xuất cho đồng bào dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên, Tây Nam Bộ;
về công tác định canh, định cư cho đồng bào dân tộc thiểu số; về
phát triển văn hóa, y tế, giáo dục trong vùng đồng bào dân tộc thiểu
số, vùng có đông đồng bào các tôn giáo khó khăn, các xã, bản
nghèo,… Trên cơ sở đó, tham mưu cho Chính phủ cân đối nguồn lực
bảo đảm thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia như: Chương
trình Xóa đói giảm nghèo, Chăm sóc sức khỏe, Phát triển giáo dục,
Văn hóa thông tin…Các chương trình này được chú trọng và ưu tiên
đã tạo điều kiện tốt cho việc bố trí nguồn lực ở các xã, thôn, bản có
đông đồng bào dân tộc, đồng bào tôn giáo. Quá trình triển khai thực
hiện chính sách tôn giáo trong các vùng, miền trọng điểm như Tây

Nguyên, Tây Bắc, Tây Nam Bộ đã mang lại những kết quả ban đầu
quan trọng, tạo lập được niềm tin của đại đa số đồng bào dân tộc nói
chung, đồng bào theo đạo nói riêng đối với Đảng và Nhà nước. Điều
này đã góp phần giữ vững ổn định tình hình xã hội, an ninh chính trị
ở các vùng; đồng thời; tín ngưỡng, tôn giáo được bảo đảm, đoàn kết
dân tộc được củng cố.
Vấn đề tôn giáo và công tác tôn giáo đã được ghi nhận và cân đối
trong các kế hoạch, cơ chế, chính sách của các bộ, ngành liên quan
và của Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
Đây là cơ sở để cân đối và bảo đảm nguồn lực phát triển hài hòa của
hệ thống chính sách của Nhà nước.
Kết quả thực hiện các chương trình kinh tế - xã hội thời gian qua với
số vốn hàng trăm tỉ đồng đã tác động tích cực đến đời sống kinh tế,
văn hóa, xã hội của đồng bào nói chung, đồng bào các tôn giáo nói
riêng, góp phần ổn định và phát triển, làm cho đồng bào an tâm,
đoàn kết xây dựng đời sống “tốt đời, đẹp đạo”. Một bộ phận lớn đồng
bào dân tộc, tôn giáo được giao đất ở, đất sản xuất; được hướng
dẫn kỹ thuật, được vay vốn, nhận các điều kiện hỗ trợ cần thiết để
sản xuất, tăng thu nhập; tích cực tham gia xây dựng đời sống văn
hóa ở khu dân cư, góp phần giữ vững ổn định tình hình xã hội vùng
giáo, vùng đồng bào dân tộc.
3. Mở rộng các hoạt động đối ngoại trong lĩnh vực tôn giáo
Trong những năm đổi mới, nhất là 3 năm qua, Chính phủ, các bộ,
ngành, các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đã thực sự quan
tâm đẩy mạnh các hoạt động đối ngoại tôn giáo và liên quan đến tôn
giáo nhằm tháo gỡ những rào cản, vướng mắc ảnh hưởng đến các
hoạt động kinh tế, chính trị, ngoại giao và nhiều mặt khác.
Thông qua kênh Chính phủ, các tổ chức phi chính phủ, các tổ chức,
cá nhân tôn giáo và liên quan đến tôn giáo ở trong nước với các tổ
chức, cá nhân tôn giáo ở nước ngoài; các cuộc hội thảo chuyên đề

do các tổ chức phi chính phủ tổ chức, cũng như việc tạo điều kiện
thuận lợi để các tổ chức, cá nhân có dịp tiếp cận với thực tế ở các
vùng, miền nhạy cảm về tôn giáo, các nhân vật tôn giáo đã làm cho
dư luận quốc tế hiểu rõ hơn tình hình và chính sách tôn giáo của Nhà
nước Việt Nam.
Các kênh đối ngoại tôn giáo được tăng cường như: trao đổi đoàn;
tham dự các diễn đàn, hội thảo đối thoại về nhân quyền, tôn giáo với
các nước EU, Mỹ, Ốt-xtrây-lia, với Ủy ban Tự do tôn giáo quốc tế
(Mỹ), diễn đàn nhân dân ASEM hàng năm, hội thảo về pháp luật tôn
giáo các nước Đông Nam Á, các cuộc tiếp xúc giữa sứ quán các
nước, các tổ chức quốc tế, phóng viên, báo chí nước ngoài với các
cơ quan trung ương, các tỉnh, thành phố một cách thường xuyên,
thân tình, khách quan đã mang lại kết quả quan trọng tạo được niềm
tin, sự hiểu biết, chia sẻ của các nước, các tổ chức về chính sách tôn
giáo, cũng như những vướng mắc trong công tác xử lý một số vấn đề
tôn giáo của Việt Nam.
Các cuộc trao đổi kinh nghiệm quản lý với các nước trong khu vực
như: Lào, Căm-pu-chia, Trung Quốc, trên kênh cơ quan chức năng
nhà nước và các tổ chức tôn giáo được tiếp tục duy trì và tăng
cường hơn trong thời gian qua. Cùng với các hoạt động đó là việc
hướng dẫn, giúp đỡ các tổ chức tôn giáo cử đoàn tham dự các hội
nghị, hội thảo, các sinh hoạt tôn giáo ở nước ngoài như Hội đồng
Giám mục Việt Nam tham gia làm thành viên Hội đồng Giám mục Á
châu, các Giám mục tham dự lễ tang Giáo hoàng Gioan Phao-lô II và
lễ đón nhận chức Giáo hoàng Bên-dic-to XVI, các đại hội Giới trẻ
Công giáo thế giới,… Giáo hội Phật giáo Việt Nam tham dự Hội nghị
thượng đỉnh Phật giáo quốc tế được tổ chức hàng năm, thăm và trao
đổi với Hiệp hội Phật giáo Trung Quốc, Phật giáo Thái Lan, Liên minh
Phật giáo Lào, Phật giáo Căm-pu-chia và các cuộc hội thảo về Phật
giáo do các nước trong khu vực tổ chức…là những nét mới trong

chính sách tôn giáo của Nhà nước ta. Đáng chú ý là: Hội đồng Trị sự
Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã mời và tổ chức đón đoàn Thiền sư
Thích Nhất Hạnh và Tăng thân Làng Mai (Pháp) vào thăm và tổ chức
một số hoạt động tôn giáo trong thời gian 3 tháng đầu năm 2005 và
chuyến thứ hai vào đầu năm 2007; Hội đồng Giám mục Việt Nam tổ
chức đón đoàn Bộ trưởng Bộ Truyền giáo Tòa Thánh Va-ti-căng
thăm Hội đồng Giám mục Việt Nam và một số giáo phận; Đoàn các
Mục sư Mỹ tham dự Đại hội đồng Hội thánh Tin Lành Việt Nam (miền
Nam) lần thứ hai,…
Đặc biệt, việc sinh hoạt tôn giáo của người nước ngoài đang sinh
sống và làm việc tại Việt Nam được các ngành liên quan, các tỉnh,
thành phố quan tâm tạo điều kiện phù hợp với truyền thống mỗi
nước, mỗi tôn giáo, đã tạo được sự ủng hộ của dư luận trong và
ngoài nước.
Thực tiễn công tác đối ngoại tôn giáo và liên quan đến tôn giáo từ
sau khi có Nghị quyết 25/NQ-TW và Chương trình hành động của
Chính phủ đã thực sự thấm nhuần đường lối đối ngoại của Đảng và
Nhà nước, có sự quan tâm, điều hành khá thống nhất, đồng bộ và có
sự tham gia tích cực chủ động, của các bộ, ngành, các tỉnh, thành
phố liên quan đã mang lại kết quả rất quan trọng trong việc làm thay
đổi nhận thức, tình cảm của bạn bè quốc tế.
Có thể nói, công tác tôn giáo trong những năm gần đây của Đảng và
Nhà nước ta có nhiều thành tựu và nhiều bài học kinh nghiệm quý.
Những thành tựu và kinh nghiệm ấy đã và đang được đúc kết thành
những bài học để làm cơ sở cho những năm tới thực hiện tốt hơn.
Chỉ với một số mặt rất cơ bản nêu trên, đã chứng tỏ Đảng và Nhà
nước ta rất tôn trọng tự do tín ngưỡng, quan tâm sâu sắc đến đời
sống vật chất, tinh thần của nhân dân lao động, trong đó có cả đồng
bào có đạo. Rõ ràng, chính sách của Đảng và Nhà nước ta là nhân
đạo, đúng đắn, là phù hợp với xu thế tiến bộ của nhân loại. Không

thể chỉ vì vừa qua, một vài tín đồ vi phạm luật pháp, bị Nhà nước Việt
Nam trừng trị theo luật pháp mà phủ nhận thành tựu của Đảng và
Nhà nước Việt Nam về vấn đề tôn giáo.
Câu 3: Nhiệm vụ của công tác tôn giáo hiện nay
Thứ nhất, Làm cho toàn Đảng, toàn dân nói chung và bà con tín đồ, chức
sắc tôn giáo nói riêng hiểu rõ và thực hiện đúng quan điểm, tư tưởng, chính
sách tôn giáo của Đảng và nhà nước hiện nay, góp phần tăng cường khối đại
đoàn kết toàn dân, đoàn kết tôn giáo, bảo đảm cho cho tôn giáo đồng hành
gắn bó với dân tộc, tuân thủ pháp luật, giữ vững độc lập dân tộc và chủ
quyền quốc gia.
Thứ hai, Thường xuyên chăm lo đời sống vật chất và văn hóa tinh thần,
nâng cao trình độ mọi mặt tín đồ các tôn giáo. Thực hiện tự do tín ngưỡng,
tích cực vận động đồng bào có đạo tăng cường đoàn kết xây dựng cuộc sống
“tốt đời, đẹp đạo”, góp phần phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững ổn định
chính trị, an ninh quốc phòng.
Thứ ba, Tăng cường công tác quản lý nhà nước, tạo điều kiện bảo đảm cho
các tôn giáo hoạt động bình thường theo pháp luật, mọi tín đồ, chức sắc, nhà
tu hành thực hiện tốt nghĩa vụ công dân, góp phần vào việc bảo vệ và xây
dựng cuộc sống mới.
Thứ tư, Tăng cường tuyên truyền, hướng dẫn, giúp đỡ các tín đồ và chức
sắc tôn giáo nâng cao tinh thần cảnh giác, chủ động ngăn ngừa và đấu tranh
làm thất bại âm mưu và hoạt động lợi dụng tôn giáo của các thế lực thù địch
chống lại sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước của dân tộc ta.
Thứ năm, Xây dựng và củng cố tổ chức Đảng và hệ thống chính trị ở cơ sở
địa bàn có các tín đồ tôn giáo thật vững mạnh. Đảng viên nói chung và Đảng
viên theo tôn giáo nói riêng phải gương mẫu thực hiện và vận động các tín
đồ tôn giáo thực hiện tốt những chủ trương chính sách của Đảng và nhà
nước. Kiện toàn bộ máy và có kế hoạch đào tạo cán bộ làm công tác tôn giáo
ở các cấp, ngành. Mặt trận và các đoàn thể tăng cường công tác vận động tín
đồ, chức sắc tôn giáo tham gia thực hiện tốt cuộc vận động “Toàn dân đoàn

kết xây dựng đời sống văn hóa”, hăng hái tham gia phong trào thi đua yêu
nước ở từng cơ sở, ở từng địa phương.
Những chính sách cụ thể đối với tôn giáo hiện nay
Đối với các tín đồ tôn giáo
- Tín đồ có quyền thực hiện các hoạt động tôn giáo không trái với chủ
trương chính sách và pháp luật của nhà nước, tiến hành các nghi thức thờ
cúng, cầu nguyện tại gia đình và tham gia các hoạt động tôn giáo, học tập
giáo lý, đạo đức, phục vụ nghi lễ tôn giáo tại cơ sở thờ tự.
- Tín đồ không được lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo làm trái pháp luật,
không được hoạt động mê tín dị đoan.
- Người nước ngoài cư trú hợp pháp tại Việt Nam được sinh hoạt tôn giáo
theo pháp luật Việt Nam.
Đối với chức sắc, nhà tu hành tôn giáo
- Chức sắc, nhà tu hành tôn giáo có quyền
+ Được thực hiện các chức trách, chức vụ tôn giáo của mình trong phạm vi
trách nhiệm đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền chấp thuận.
+ Được nhà nước xét khen thưởng công lao đóng góp trong sự nghiệp đoàn
kết toàn dân, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
+ Được hưởng các quyền lợi chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội của công
dân.
- Chức sắc, nhà tu hành tôn giáo có nghĩa vụ:
+ Thực hiện đúng chức trách, chức vụ tôn giáo trong phạm vi trách nhiệm
tôn giáo đã được cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền chấp nhận và
chịu trách nhiệm trước pháp luật về mọi hoạt động tôn giáo trong phạm vi
trách nhiệm đó.
+ Động viên tín đồ chấp hành nghiêm chỉnh chính sách và pháp luật của
nhà nước.
- Người mạo danh chức sắc, nhà tu hành tôn giáo bị xử lý hành chính hoặc
truy cứu trách nhiệm hình sự.
- Người đang chấp hành án phạt tù hoặc đang bị quản chế hành chính

không được thực hiện chức trách, chức vụ tôn giáo. Việc phục hồi chức
trách, chức vụ tôn giáo khi đã hết hạn hình phạt trên phải do tổ chức tôn giáo
quản lý người đó đề nghị và được cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền
chấp thuận.
- Việc mở trường đào tạo các chức sắc, nhà tu hành tôn giáo phải được
phép của thủ tướng chính phủ. Tổ chức và hoạt động của các trường thực
hiện theo các quy định của Ban Tôn giáo Chính phủ và Bộ Giáo dục và Đào
tạo. Các trường thực hiện các quy chế chính sách, pháp luật của nhà nước
theo sự hướng dẫn, giám sát kiểm tra của các cơ quan chức năng của Nhà
nước và Ủy ban nhân dân sở tại.
- Việc phong giáo phẩm, phong chức cho các chức sắc, nhà tu hành tôn
giáo, việc bổ nhiệm, thuyên chuyển những chức sắc phải được sự chấp thuận
của Thủ tướng Chính phủ hoặc Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh (tùy theo
giáo phẩm). Đối với các chức sắc, nhà tu hành tôn giáo được tổ chức, cá
nhân ở nước ngoài phong giáo phẩm, phong chức, bổ nhiệm phải được sự
chấp thuận của Thủ tướng chính phủ.
Đối với các tổ chức tôn giáo
- Tổ chức tôn giáo có tôn chỉ, mục đích, đường hướng hành đạo, cơ cấu tổ
chức phù hợp với pháp luật và được Thủ tướng Chính phủ cho phép hoạt
động thì được pháp luật bảo hộ.
- Tổ chức tôn giáo hoạt động trái với tôn chỉ, mục đích, đường hướng hành
đạo, cơ cấu tổ chức đã được Thủ tướng Chính phủ cho phép thì bị đình chỉ
hoạt động. Các cá nhân chịu trách nhiệm về những vi phạm đó bị xử lý theo
pháp luật.
- Chức sắc, nhà tu hành và tổ chứ tôn giáo hoạt động từ thiện theo quy định
và hướng dẫn của Nhà nước và các cơ quan chức năng.
Đối với các hoạt động tôn giáo
- Các hoạt động tôn giáo tại cơ sở thờ tự đã đăng ký hàng năm và thực hiện
trong khuôn viên cơ sở thờ tự thì không phải xin phép.
- Những hoạt động tôn giáo vượt ra khỏi khuôn viên cơ sở thờ tự hoặc

chưa đang ký hàng năm phải được phép của cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền.
- Các cuộc tĩnh tâm của linh mục trong giáo phận, của các tu sĩ tập trung từ
nhiều cơ sở, dòng tu của Công giáo, các cuộc bồi linh của mục sư và truyền
đạo của đạo Tin lành, các kỳ an cư của tăng ni đạo Phật và các sinh hoạt tôn
giáo tương tự khác thực hiện theo quy định của cơ quan quản lý Nhà nước
cấp tỉnh về tôn giáo .
- Các đại hội, hội nghị cấp toàn quốc hoặc có liên quan đến nhiều tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương thì phải được phép của Thủ tướng chính
phủ. Những đại hội, hội nghị tôn giáo ở các cấp địa phương phải được phép
của Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp tỉnh.
- Việc in, xuất bản các loại kinh sách và các xuất bản giáo phẩm tôn giáo,
việc sản xuất kinh doanh, xuất nhập khẩu văn hóa phẩm tôn giáo, đồ dùng
trong việc đạo thực hiện theo quy chế của Nhà nước về in, xuất bản, sản xuất
kinh doanh, xuất nhập nhập khẩu văn hóa phẩm, hàng hóa. Cấm in, sản xuất,
kinh doanh, lưu hành và tàng trữ sách báo, văn hóa phẩm có nội dung chống
lại Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, gây chia rẽ tôn giáo,
chia rẽ dân tộc, gây mất đoàn kết trong nhân dân.
Đối với nơi thờ tự và tài sản của các tổ chức tôn giáo
- Nhà nước bảo hộ nơi thờ tự của tổ chức tôn giáo. Các tổ chức tôn giáo có
trách nhiệm giữ gìn, tu bổ nơi thờ tự.
- Nhà đất và các tài sản khác đã được các tổ chức cá nhân, tôn giáo chuyển
giao cho các cơ quan nhà nước quản lý, sử dụng hoặc tặng, hiến cho Nhà
nước đều thuộc quyền sở hữu của Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam.
- Việc tu bổ và sửa chữa nhỏ, không làm thay đổi cấu trúc, kiến trúc công
trình thuộc cơ sở thờ tự thì tổ chức thực hiện sau khi thông báo cho Chủ tịch
Ủy ban nhân dân cấp xã sở tại. Việc sửa chữa lớn làm thay đổi cấu trúc, kiến
trúc công trình tại cơ sở thờ tự, việc khôi phục công trình thờ tự bị hoang
phế, bị hủy hoại do chiến tranh, thiên tai, rủi ro, việc tạo lập cơ sở thờ tự

mới, xây dựng các công trình thờ tự (nhà, tượng, đài, bia, tháp…) phải được
phép của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.
- Tổ chức tôn giáo được nguồn tài chính từ sự ủng hộ tự nguyệncủa các cá
nhân, tổ chức, từ những thu nhập hợp pháp khác. Việc tổ chức quyên góp
(kể cả quyên góp vì mục đích xây dựng, sửa chữa nơi thờ tự) phải được Chủ
tịch Ủy ban nhân dân tỉnh cho phép. Nghiêm cấm việc ép buộc tín đồ đóng
góp. Việc quản lý, sử dụng các nguồi tài chính có được từ các nguồn trên
đây thực hiện theo quy định của pháp luật.
Đối với hoạt động đối ngoại của tôn giáo
- Hoạt động quốc tế của các tổ chức, cá nhân tôn giáo phải tuân thủ pháp
luật và phù hợp với chính sách đối ngoại của của Nhà nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền quốc gia, vì hòa
bình, ổn định, hợp tác và hữu nghị.
- Tổ chức, cá nhân tôn giáo ở trong nước mời tổ chức, cá nhân tôn giáo ở
nước ngoài vào Việt Nam phải được sự chấp thuận của Ban Tôn giáo Chính
phủ.
- Tổ chức, cá nhân tôn giáo ở trong nước tham gia làm thành viên của tổ
chức tôn giáo nước ngoài, tham gia các hoạt động tôn giáo hoặc có liên quan
đến các tôn giáo nước ngoài thực hiện theo quy định của Ban Tôn giáo
Chính phủ.
- Tổ chức cá nhân nước ngoài, kể cả tổ chức, cá nhân tôn giáo vào Việt
Nam để hoạt động ở các lĩnh vực không phải là tôn giáo thì không được tổ
chức, điều hành hoặc tham gia tổ chức điều hành các hoạt động truyền bá
tôn giáo.
- Các tổ chức, cá nhân tôn giáo trong nước muốn nhận viện trợ thuần tuý
tôn giáo phải xin phép Chính phủ./.
Câu 4: Phần quan điểm chính sách tôn giáo.
1. Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của quan điểm, chính sách tôn giáo.
(Theo tinh thần NQ 25-NQ/TƯ ngày 12/3/2003)
Quan điểm chính sách tôn giáo hiện nay của đảng và nhà nước ta được đề ra

dựa trên các cơ sở sau:
- Xuất phát từ quan điểm của CNMLN về tôn giáo:
+ Từ khái niệm, bản chất của tôn giáo(tôn giáo là một hình thái ý thức xã
hội đặc biệt, vừa là một thực thể xã hội, tôn giáo vừa có mặt tích cực, vừa có
mặt tiêu cực)
+ Từ nguồn gốc ra đời của tôn giáo: Nguồn gốc KT-XÃ HộI, nguồn gốc
nhận thức, nguồn gốc tâm lý tình cảm.
+ Từ tính chất của tôn giáo: Tính lịch sử, tính quần chúng, tính chính trị.
+ Từ phương pháp giải quyết vấn đề về tôn giáo của chủ nghĩa Mác-Lê
Trong đó trước hết dựa vào thái độ của những người mác xít đối với tôn
giáo đó là vấn đề tôn giáo phải được đặt ra và giải quyết trên cơ sở của thế
giới quan duy vật. CNMLN phê phán các mưu toan tuyên chiến với tôn giáo,
bạo lực, nóng vội trong giải quyết các vấn đề về tôn giáo, dùng chính sách
đàn áp đối với tôn giáo.
Dựa trên những bài học kinh nghiệm của chủ nghĩa Mác - Lênin trong giải
quyết vấn đề về tôn giáo (1) không thể thuần tuý về tư tưởng trong giải
quyết vấn đề về tôn giáo (2) Không tả khuynh hoặc đồng nhất tôn giáo với
kẻ thù của CNXH (3) Không hữu khuynh coi tôn giáo chỉ là nhận thức chưa
đầy đủ của nhân dân, cứ xây dựng thành công CNXH thì tự nhiên tôn giáo
sẽ tiêu vong.
Dựa trên những vấn đề mang tính nguyên tắc của chủ nghĩa Mác - Lênin:
(1)Khắc phục dần những tiêu cực của tôn giáo phải gắn liền với quá trình cải
tạo xã hội cũ và xây dựng xã hội mới (2) Tôn trọng tự do tín ngưỡng và tự
do không tín ngưỡng của nhân dân (3) cần phải có quan điểm lịch sử cụ thể
khi giải quyết các vấn đề về tôn giáo (4) cần phân biệt hai mặt nhu cầu tự do
tín ngưỡng và lợi dụng TGTN.
- Xuất phát từ quan điểm, tư tưởng HCM về tôn giáo
+ Tư tưởng đoàn kết, lương giáo hoà hợp
+ Tư tưởng tự do tín ngường và không tín ngưỡng
+ Tư tưởng đấu tranh chống lợi dụng tôn giáo, bài trừ mê tín dị đoan

- Xuất phát từ những tư tưởng, quan điểm của đảng, nhà nước ta về tôn
giáo qua các văn kiện chủ yếu như NQ 24 của BCT (10/1990); NĐ 69
HĐBT (3/1991) NĐ 26 CP (4/1999)
- Xuất phát từ tình hình thực tiễn tôn giáo trong nước và thế giới.
+ Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc, đa TNTG , đời sống tâm linh
TNTG đang phục hồi và phát triển mạnh, tôn giáo luôn là vấn đề phức tạp,
nhạy cảm và tác động sâu sắc đến mọi mặt của ĐSXH.
+ Tôn giáo thế giới cũng đang phục hồi và phát triển sôi động ở nhiều quốc
gia, châu lục và đang đặt ra nhiều vấn đề cần phải giải quyết
- Xuất phát từ những bài học kinh nghiệm trong thực hiện chinhs sách tôn
giáo của nước ta thời gian qua cả những thành công và chưa thành công.
2. Những nguyên tắc chung của chính sách cần phải quán triệt.
- Bảo đảm quyền TDTNTG hay không TNTG. Nghiêm cấm phân biệt đối
xử vì lý do TNTG
- Mọi tôn giáo, tín đồ các tôn giáo được pháp luật thừa nhận đều bình đẳng
về quyền lợi và nghĩa vụ theo luật định.
- Mọi hoạt động tôn giáo đều phải tuân thủ pháp luật , mọi hoạt động vi
phạm pháp luật đều bị nghiêm trị
- Những hoạt động tôn giáo vì lợi ích chính đáng của tín đồ được đảm bảo.
Những hoạt động tôn giáo vì lợi ích của tổ quốc, nhân dân được khuyến
khích.
- Mọi hoạt động mê tín dị đoan bị bài trừ. Mọi hoạ động lợi dụng tôn giáo
chống lại nhà nước đều bị xử lý theo pháp luật
- Các cấp uỷ đảng, cơ quan, chính quyền, các đoàn thể quần chúng có
trách nhiệm làm tốt công tác vận động quần chúng thực hiện đúng đắn chính
sách tôn giáo
3. Phân tích nội dung, quan điểm chính sách tôn giáo
Một là: TGTN là nhu cầu tinh thần của 1 bộ phận nhân dân, đang và sẽ tồn
tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng CNXH ở nước ta
- Nước ta có gần 20 triệu đồng bào có đạo, chiếm 25% dân số cả nước và

có trên 80% dân số có đời sống tâm linh. TGTN hiện đang là nhu cầu tinh
thần
Chức năng:
- Ban Tôn giáo thành phố là cơ quan chuyên môn thuộc UBND thành phố,
giúp UBND thành phố thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về các hoạt
động tôn giáo theo pháp luật của Nhà nước trong phạm vi địa phương.
Nhiệm vụ, quyền hạn:
- Chủ trì, phối hợp với các cơ quan có liên quan để thực hiện chính sách
tôn giáo tại địa phương, là đầu mối quan hệ giữa chính quyền địa phương
với các tổ chức tôn giáo ở địa phương, kể cả hoạt động đối ngoại liên quan
đến tôn giáo.
- Nắm tình hình hoạt động của các tôn giáo và tình hình công tác tôn giáo
ở địa phương; nghiên cứu, quán triệt các chủ trương, chính sách, pháp luật
của Nhà nước về hoạt động tôn giáo và công tác tôn giáo; phối hợp với các
ngành chức năng của thành phố đề xuất các chủ trương công tác, đồng thời
giúp UBND thành phố cụ thể hóa các chủ trương công tác thành các quyết
định của UBND phù hợp với chính sách, pháp luật của Nhà nước về công
tác tôn giáo.
- Hướng dẫn, kiểm tra các tổ chức tôn giáo, các cấp, các ngành, tổ chức xã
hội và công dân trong việc chấp hành và thực hiện các chủ trương, chính
sách, pháp luật của Nhà nước về tôn giáo.
- Tạo điều kiện giúp Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân,
các tổ chức xã hội xây dựng phong trào quần chúng và tổ chức quần chúng ở
nơi có đông tín đồ tôn giáo; phối hợp với các cơ quan chức năng trong việc
thực hiện chính sách đối với chức sắc, nhân sĩ tôn giáo.
- Có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác tôn giáo ở địa
phương.
Câu 4: Phần quan điểm chính sách tôn giáo.
1. Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của quan điểm, chính sách tôn giáo.
(Theo tinh thần NQ 25-NQ/TƯ ngày 12/3/2003)

Quan điểm chính sách tôn giáo hiện nay của đảng và nhà nước ta được đề ra
dựa trên các cơ sở sau:
- Xuất phát từ quan điểm của CNMLN về tôn giáo:
+ Từ khái niệm, bản chất của tôn giáo(tôn giáo là một hình thái ý thức xã
hội đặc biệt, vừa là một thực thể xã hội, tôn giáo vừa có mặt tích cực, vừa có
mặt tiêu cực)
+ Từ nguồn gốc ra đời của tôn giáo: Nguồn gốc KT-XÃ HộI, nguồn gốc
nhận thức, nguồn gốc tâm lý tình cảm.
+ Từ tính chất của tôn giáo: Tính lịch sử, tính quần chúng, tính chính trị.
+ Từ phương pháp giải quyết vấn đề về tôn giáo của chủ nghĩa Mác-Lê
Trong đó trước hết dựa vào thái độ của những người mác xít đối với tôn
giáo đó là vấn đề tôn giáo phải được đặt ra và giải quyết trên cơ sở của thế
giới quan duy vật. CNMLN phê phán các mưu toan tuyên chiến với tôn giáo,
bạo lực, nóng vội trong giải quyết các vấn đề về tôn giáo, dùng chính sách
đàn áp đối với tôn giáo.
Dựa trên những bài học kinh nghiệm của chủ nghĩa Mác - Lênin trong giải
quyết vấn đề về tôn giáo (1) không thể thuần tuý về tư tưởng trong giải
quyết vấn đề về tôn giáo (2) Không tả khuynh hoặc đồng nhất tôn giáo với
kẻ thù của CNXH (3) Không hữu khuynh coi tôn giáo chỉ là nhận thức chưa
đầy đủ của nhân dân, cứ xây dựng thành công CNXH thì tự nhiên tôn giáo
sẽ tiêu vong.
Dựa trên những vấn đề mang tính nguyên tắc của chủ nghĩa Mác - Lênin:
(1)Khắc phục dần những tiêu cực của tôn giáo phải gắn liền với quá trình cải
tạo xã hội cũ và xây dựng xã hội mới (2) Tôn trọng tự do tín ngưỡng và tự
do không tín ngưỡng của nhân dân (3) cần phải có quan điểm lịch sử cụ thể
khi giải quyết các vấn đề về tôn giáo (4) cần phân biệt hai mặt nhu cầu tự do
tín ngưỡng và lợi dụng TGTN.
- Xuất phát từ quan điểm, tư tưởng HCM về tôn giáo
+ Tư tưởng đoàn kết, lương giáo hoà hợp
+ Tư tưởng tự do tín ngường và không tín ngưỡng

+ Tư tưởng đấu tranh chống lợi dụng tôn giáo, bài trừ mê tín dị đoan
- Xuất phát từ những tư tưởng, quan điểm của đảng, nhà nước ta về tôn
giáo qua các văn kiện chủ yếu như NQ 24 của BCT (10/1990); NĐ 69
HĐBT (3/1991) NĐ 26 CP (4/1999)
- Xuất phát từ tình hình thực tiễn tôn giáo trong nước và thế giới.
+ Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc, đa TNTG , đời sống tâm linh
TNTG đang phục hồi và phát triển mạnh, tôn giáo luôn là vấn đề phức tạp,
nhạy cảm và tác động sâu sắc đến mọi mặt của ĐSXH.
+ Tôn giáo thế giới cũng đang phục hồi và phát triển sôi động ở nhiều quốc
gia, châu lục và đang đặt ra nhiều vấn đề cần phải giải quyết
- Xuất phát từ những bài học kinh nghiệm trong thực hiện chinhs sách tôn
giáo của nước ta thời gian qua cả những thành công và chưa thành công.
2. Những nguyên tắc chung của chính sách cần phải quán triệt.
- Bảo đảm quyền TDTNTG hay không TNTG. Nghiêm cấm phân biệt đối
xử vì lý do TNTG
- Mọi tôn giáo, tín đồ các tôn giáo được pháp luật thừa nhận đều bình đẳng
về quyền lợi và nghĩa vụ theo luật định.
- Mọi hoạt động tôn giáo đều phải tuân thủ pháp luật , mọi hoạt động vi
phạm pháp luật đều bị nghiêm trị
- Những hoạt động tôn giáo vì lợi ích chính đáng của tín đồ được đảm bảo.
Những hoạt động tôn giáo vì lợi ích của tổ quốc, nhân dân được khuyến
khích.
- Mọi hoạt động mê tín dị đoan bị bài trừ. Mọi hoạ động lợi dụng tôn giáo
chống lại nhà nước đều bị xử lý theo pháp luật
- Các cấp uỷ đảng, cơ quan, chính quyền, các đoàn thể quần chúng có
trách nhiệm làm tốt công tác vận động quần chúng thực hiện đúng đắn chính
sách tôn giáo
3. Phân tích nội dung, quan điểm chính sách tôn giáo
Một là: TGTN là nhu cầu tinh thần của 1 bộ phận nhân dân, đang và sẽ tồn
tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng CNXH ở nước ta

- Nước ta có gần 20 triệu đồng bào có đạo, chiếm 25% dân số cả nước và
có trên 80% dân số có đời sống tâm linh. TGTN hiện đang là nhu cầu tinh
thần
Chức năng:
- Ban Tôn giáo thành phố là cơ quan chuyên môn thuộc UBND thành phố,
giúp UBND thành phố thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về các hoạt
động tôn giáo theo pháp luật của Nhà nước trong phạm vi địa phương.
Nhiệm vụ, quyền hạn:
- Chủ trì, phối hợp với các cơ quan có liên quan để thực hiện chính sách
tôn giáo tại địa phương, là đầu mối quan hệ giữa chính quyền địa phương
với các tổ chức tôn giáo ở địa phương, kể cả hoạt động đối ngoại liên quan
đến tôn giáo.
- Nắm tình hình hoạt động của các tôn giáo và tình hình công tác tôn giáo
ở địa phương; nghiên cứu, quán triệt các chủ trương, chính sách, pháp luật
của Nhà nước về hoạt động tôn giáo và công tác tôn giáo; phối hợp với các
ngành chức năng của thành phố đề xuất các chủ trương công tác, đồng thời
giúp UBND thành phố cụ thể hóa các chủ trương công tác thành các quyết
định của UBND phù hợp với chính sách, pháp luật của Nhà nước về công
tác tôn giáo.
- Hướng dẫn, kiểm tra các tổ chức tôn giáo, các cấp, các ngành, tổ chức xã
hội và công dân trong việc chấp hành và thực hiện các chủ trương, chính
sách, pháp luật của Nhà nước về tôn giáo.
- Tạo điều kiện giúp Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân,
các tổ chức xã hội xây dựng phong trào quần chúng và tổ chức quần chúng ở
nơi có đông tín đồ tôn giáo; phối hợp với các cơ quan chức năng trong việc
thực hiện chính sách đối với chức sắc, nhân sĩ tôn giáo.
- Có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác tôn giáo ở địa
phương.
Câu 5: Về vấn đề tôn giáo ở Việt Nam
Việt Nam là quốc gia có nhiều loại hình tín ngưỡng, tôn giáo. Với vị trí địa

lý nằm ở khu vực Đông Nam Á có ba mặt giáp biển, Việt Nam rất thuận lợi
trong mối giao lưu với các nước trên thế giới và cũng là nơi rất dễ cho việc
thâm nhập các luồng văn hoá, các tôn giáo trên thế giới.
Về mặt dân cư, Việt Nam là quốc gia đa dân tộc với 54 dân tộc anh em.
Mỗi dân tộc, kể cả người Kinh (Việt) đều lưu giữ những hình thức tín
ngưỡng, tôn giáo riêng của mình. Người Việt có các hình thức tín ngưỡng
dân gian như thờ cũng ông bà tổ tiên, thờ Thành hoàng, thờ những người có
công với cộng đồng, dân tộc, thờ thần, thờ thánh, nhất là tục thờ Mẫu của cư
dân nông nghiệp lúa nước. Đồng bào các dân tộc thiểu số với hình thức tín
ngưỡng nguyên thuỷ (còn gọi là tín ngưỡng sơ khai) như Tô tem giáo, Bái
vật giáo, Sa man giáo.
Ở Việt Nam, do đặc điểm lịch sử liên tục bị xâm lược từ bên ngoài nên
việc Lão giáo, Nho giáo - những tôn giáo có nguồn gốc ở phía Bắc thâm
nhập; Công giáo - một tôn giáo gắn với văn minh Châu Âu vào truyền đạo
và sau này đạo Tin lành đã khai thác điều kiện chiến tranh ở miền Nam để
truyền giáo thu hút người theo đạo là điều dễ hiểu.
Ở Việt Nam có những tôn giáo có nguồn gốc từ phương Đông như Phật
giáo, Lão giáo, Nho giáo; có tôn giáo có nguồn gốc từ phương Tây như
Thiên chúa giáo, Tin lành; có tôn giáo được sinh ra tại Việt Nam như Cao
Đài, Phật giáo Hoà Hảo; có tôn giáo hoàn chỉnh (có hệ thống giáo lý, giáo
luật, lễ nghi và tổ chức giáo hội), có những hình thức tôn giáo sơ khai. Có
những tôn giáo đã phát triển và hoạt động ổn định; có những tôn giáo chưa
ổn định, đang trong quá trình tìm kiếm đường hướng mới cho phù hợp.
Ước tính, hiện nay ở Việt Nam có khoảng 80% dân số có đời sống tín
ngưỡng, tôn giáo, trong đó có khoảng gần 20 triệu tín đồ của 6 tôn giáo đang
hoạt động bình thường, ổn định, chiếm 25% dân số. Cụ thể:
- Phật giáo: Gần 10 triệu tín đồ (những người quy y Tam Bảo), có mặt hầu
hết ở các tỉnh, thành phố trong cả nước, trong đó tập trung đông nhất ở Hà
Nội, Bắc Ninh, Nam Định, Hải Phòng, Hải Dương, Thừa Thiên-Huế, Đà
Nẵng, Quảng Ngãi, Bình Định, Khánh Hoà, TP Hồ Chí Minh, Đồng Nai,

Lâm Đồng, Sóc Trăng, Trà Vinh, thành phố Cần Thơ
- Thiên chúa giáo: Hơn 5,5 triệu tín đồ, có mặt ở 50 tỉnh, thành phố, trong
đó có một số tỉnh tập trung đông như Nam Định, Ninh Bình, Thái Bình, Hải
Phòng, Nghệ An, Hà Tĩnh, Đà Nẵng, Kon Tum, Đắk Lắk, Khánh Hoà, Bình
Thuận, Đồng Nai, TP Hồ Chí Minh, Tiền Giang, Vĩnh Long, An Giang,
thành phố Cần Thơ
- Đạo Cao Đài: Hơn 2,4 triệu tín đồ có mặt chủ yếu ở các tỉnh Nam Bộ như
Tây Ninh, Long An, Bến Tre, TP Hồ Chí Minh, Đồng Tháp, Tiền Giang,
Cần Thơ, Vĩnh Long, Kiên Giang, Cà Mau, An Giang .
- Phật giáo Hoà Hảo: Gần 1,3 triệu tín đồ, tập trung chủ yếu ở các tỉnh
miền Tây Nam Bộ như: An Giang, Cần Thơ, Hậu Giang, Đồng Tháp, Vĩnh
Long.
- Đạo Tin lành: khoảng 1 triệu tín đồ, tập trung ở các tỉnh: Đà Nẵng,
Quảng Nam, TP Hồ Chí Minh, Bến Tre, Long An, Lâm Đồng, Đắk Lắk, Gia
Lai, Đắk Nông, Bình Phước và một số tỉnh phía Bắc.
- Hồi Giáo: Hơn 60 nghìn tín đồ, tập trung ở các tỉnh: An Giang, TP Hồ
Chí Minh, Bình Thuận, Ninh Thuận
Ngoài 6 tôn giáo chính thức đang hoạt động bình thường, còn có một số
nhóm tôn giáo địa phương, hoặc mới được thành lập có liên quan đến Phật
giáo, hoặc mới du nhập ở bên ngoài vào như: Tịnh độ cư sỹ, Bửu Sơn Kỳ
Hương, Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Tổ Tiên Chính giáo, Bàlamôn, Bahai và các hệ
phái tin lành.
Với sự đa dạng các loại hình tín ngưỡng, tôn giáo nói trên, người ta thường
ví Việt Nam như bảo tàng tôn giáo của thế giới. Về khía cạnh văn hoá, sự đa
dạng các loại hình tín ngưỡng tôn giáo đã góp phần làm cho nền văn hoá
Việt Nam phong phú và đặc sắc. Tuy nhiên đó là những khó khăn đặt ra
trong việc thực hiện chủ trương, chính sách đối với tôn giáo nói chung và
đối với từng tôn giáo giáo cụ thể.
Ở Việt Nam có một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số theo các tôn giáo.
Theo thống kê năm 1999, Việt Nam có 53 dân tộc thiểu số với khoảng trên

dưới 10 triệu người, sống tập trung ở ba khu vực chính là Tây Bắc, Tây
Nguyên và Tây Nam Bộ: Khu vực Tây Bắc có hơn 30 dân tộc thiểu số sinh
sống với khoảng gần 6 triệu người; Khu vực Tây Nguyên có 21 dân tộc thiểu
số cư trú với hơn 1,5 triệu người. Sau này có thêm các dân tộc thiểu số ở các
tỉnh miền núi phía Bắc vào Tây Nguyên sinh sống làm cho thành phần các
dân tộc ở đây càng thêm đa dạng; Khu vực Nam Bộ nhất là các tỉnh đồng
bằng sông Cửu Long với ba dân tộc: Khơme, Hoa và Chăm với số dân
khoảng 1 triệu.
Về mặt văn hóa, tín ngưỡng, tôn giáo, đồng bào các dân tộc thiểu số ở ba
khu vực nói trên có những nét riêng, độc đáo tạo nên nền văn hóa Việt Nam
đa dạng. Hầu hết các dân tộc thiểu số vẫn giữ tín ngưỡng nguyên thủy thờ đa
thần với quan niệm vạn vật hữu linh và thờ cúng theo phong tục tập quán
truyền thống. Sau này, theo thời gian các tôn giáo dần dần thâm nhập vào
những vùng đồng bào các dân tộc thiểu số hình thành các cộng đồng tôn
giáo, cụ thể:
- Cộng đồng dân tộc Khơme theo Phật giáo Nam tông. Hiện nay có
1.043.678 người Khơme, 8.112 nhà sư và 433 ngôi chùa trong đồng bào
Khơme.
- Cộng đồng người Chăm theo Hồi giáo. Có khoảng gần 100 nghìn người
Chăm, trong đó số người theo Hồi giáo chính thống (gọi là Chăm Ixlam) là
25.703 tín đồ, Hồi giáo không chính thống (Chăm Bàni) là 39.228 tín đồ.
Ngoài ra còn có hơn 30 nghìn người theo đạo Bàlamôn (Bà Chăm). Hồi giáo
chính thức truyền vào dân tộc Chăm từ thế kỷ XVI. Cùng với thời gian, Hồi
giáo đã góp phần quan trọng trong việc hình thành tâm lý, đạo đức, lối sống,
phong tục tập quán, văn hóa của người Chăm.
- Cộng đồng dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên theo Công giáo, Tin lành.
Hiện nay ở khu vực Tây Nguyên có gần 300 nghìn người dân tộc thiểu số
theo Công giáo và gần 400 nghìn người theo đạo Tin lành.
- Cộng đồng dân tộc thiểu số ở Tây Bắc một số theo Công giáo, Tin lành.
Hiện nay ở Tây Bắc có 38 nghìn người dân tộc thiểu số theo Công giáo; đặc

biệt, khoảng 20 năm trở lại đây có đến trên 100 nghìn người Mông theo đạo
Tin lành dưới tên gọi Vàng Chứ và hơn 10 nghìn Dao theo đạo Tin lành
dưới tên gọi Thìn Hùng.
Đa số tín đồ các tôn giáo là người lao động, trong đó chủ yếu là nông dân.
Ước tính, số tín đồ là nông dân của Phật giáo, Thiên chúa giáo chiếm đến
80-85%, của Cao Đài, Phật giáo, Hòa Hảo: 95% và của đạo Tin lành là 65%.
Là người lao động, người nông dân, tín đồ các tôn giáo ở Việt Nam rất cần
cù trong lao động sản xuất và có tinh thần yêu nước. Trong các giai đoạn
lịch sử, tín đồ các tôn giáo cùng với các tầng lớp nhân dân làm nên những
chiến thắng to lớn của dân tộc.
Tín đồ các tôn giáo ở Việt Nam có nhu cầu cao trong sinh họat tôn giáo,
nhất là những sinh họat tôn giáo cộng đồng mang tính chất lễ hội. Một bộ
phận tín đồ của một số tôn giáo vẫn còn mê tín dị đoan, thậm chí cuồng tín
dễ bị các phần tử thù địch lôi kéo, lợi dụng.
Ngày nay, các thế lực thù địch ở trong nước và nước ngoài đang thực hiện
chiến lược diễn biến hòa bình để chống phá cách mạng nước Việt Nam.
Trong chiến lược này, các thế lực thù địch đặc biệt quan tâm lợi dụng vấn đề
tôn giáo. Vấn đề tôn giáo được chúng gắn với vấn đề dân chủ nhân quyền và
được thực hiện qua nhiều thủ đoạn.
Thông qua việc trình bày một số đặc điểm tình hình tôn giáo Việt Nam có
thể thấy phần nào bức tranh toàn cảnh về tôn giáo ở Việt Nam. Đó cũng
chính là cơ sở thực tiễn để Đảng và Nhà nước họach định chủ trương, chính
sách đối với tôn giáo ở tầm vĩ mô.
Chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước Việt Nam được xây dựng trên
quan điểm cơ bản của học thuyết Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về tín
ngưỡng, tôn giáo và căn cứ vào đặc điểm tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam.
Tư tưởng nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước Việt Nam là tôn
trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân; đoàn kết tôn giáo, hòa
hợp dân tộc. Tinh thần đó được Đảng và Nhà nước Việt Nam thể hiện bằng
hệ thống chính sách phù hợp với từng giai đoạn cách mạng và đã có từ khi

mới thành lập Đảng.
Trong Chỉ thị của Thường vụ Trung ương về vấn đề thành lập Hội phản đế
Đồng Minh ngày 18-11-1930, Đảng đã có tuyên bố đầu tiên về chính sách
tôn trọng tự do tín ngưỡng của quần chúng: " phải lãnh đạo từng tập thể
sinh họat hay tập đoàn của nhân dân gia nhập một tổ chức cách mạng, để
dần dần cách mạng hóa quần chúng và lại đảm bảo tự do tín ngưỡng của
quần chúng ". Chính sách này cũng được Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra ngay
trong phiên họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hoà, ngày 3-9-1945" "Tín ngưỡng tự do và lương giáo đoàn kết", coi
đó là một trong sáu nhiệm của Nhà nước non trẻ. Hay trong lời kết thúc buổi
ra mắt vào ngày 3-3-1951, Đảng Lao động Việt Nam đã tuyên bố: " vấn đề
tôn giáo, thì Đảng Lao động Việt Nam hoàn toàn tôn trọng quyền tự do tín
ngưỡng của mọi người". Ngày 14-6-1955, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc
lệnh 234-SL ban hành chính sách tôn giáo của Chính phủ Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa, trong đó ghi rõ: "Việc tự do tín ngưỡng, thờ cúng là một quyền
lợi của nhân dân. Chính quyền Dân chủ Cộng hoà luôn luôn tôn trọng quyền
lợi ấy và giúp đỡ nhân dân thực hiện".
Ngay trong năm đầu của cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc, mặc dù phải
lo đối phó với cuộc chiến tranh ác liệt nhưng chính phủ vẫn quan tâm đến
nhu cầu tâm linh của nhân dân. Ngày 11-6-1964, Thủ tướng Phạm Văn
Đồng ký Thông tư số 60-TTg yêu cầu thi hành chính sách tôn giáo theo Sắc
lệnh 234.
Sau ngày giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, ngày 11-11-1977,
Chính phủ ban hành Nghị quyết số 297-CP về "Một số chính sách đối với
tôn giáo" trong đó nêu lên 5 nguyên tắc về tự do tôn giáo. Để đáp ứng với
yêu cầu của quá trình đổi mới, ngày 21-3-1991, Hội đồng Bộ trưởng đã ban
hành Nghị định 59-HĐBT "Quy định về các hoạt động tôn giáo". Nghị định
59 là văn bản mang tính pháp quy, là sự kế thừa thực tiễn của quá trình thực
hiện công cuộc đổi mới. Sự nghiệp cách mạng là của toàn dân, đổi mới về
nhận thức và thực hiện tốt công tác quản lý Nhà nước đối với các hoạt động

tôn giáo là nhằm đảm bảo nhu cầu tín ngưỡng chính đáng của nhân dân. Qua
đó đã phát huy được năng lực, sức sáng tạo của hàng chục triệu đồng bào
theo tôn giáo, góp phần dân chủ hoá đời sống xã hội trên cơ sở ổn định
chính trị.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn có quan điểm,
thái độ rõ ràng về tín ngưỡng, tôn giáo. Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ VII của Đảng năm 1991 đã khẳng định: "Tín ngưỡng, tôn
giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân. Đảng và Nhà nước ta
tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của nhân dân, thực
hiện bình đẳng, đoàn kết lương giáo và giữa các tôn giáo. Khắc phục mọi
thái độ hẹp hòi, thành kiến, phân biệt đối xử với đồng bào có đạo, chống
những hành vi lợi dụng tôn giáo phá hoại độc lập dân tộc và đoàn kết dân
tộc, chống phá chủ nghĩa xã hội, ngăn cản tín đồ làm nghĩa vụ công dân".
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
cũng ghi rõ: "Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận
nhân dân. Thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và đảm bảo quyền tự do
tín ngưỡng, đồng thời chống việc lợi dụng tín ngưỡng để làm tổn hại đến lợi
ích của Tổ quốc và nhân dân".
Chủ trương, chính sách của Đảng đối với tín ngưỡng, tôn giáo từng bước
được hoàn thiện. Đến đầu thập kỷ 90, trong những năm đầu thực hiện công
cuộc đổi mới, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 24-NQ/TƯ về công tác tôn giáo
trong tình hình mới, ghi dấu son về sự đổi mới đường lối, chính sách tín
ngưỡng, tôn giáo. Sau gần 10 thực hiện Nghị quyết 24, Đảng ta đã tổng kết,
đánh giá những thành tựu và nêu rõ những khuyết điểm, đồng thời Bộ Chính
trị ra Chỉ thị 37-CT/TƯ ngày 02-7-1998 về công tác tôn giáo trong tình hình
mới. Cho đến Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ
bẩy, khoá IX về công tác tôn giaó (Nghị quyết 25-NQ/TƯ ngày 12-3-2003)
quan điểm, chính sách của Đảng đối với tín ngưỡng, tôn giáo tiếp tục được
khẳng định và phát triển thêm một bước mới phù hợp với sự nghiệp đổi mới
của Đảng. Đó là "Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận

nhân dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở nước ta. Thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo đảm
quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào, quyền sinh
hoạt tôn giáo bình thường theo đúng pháp luật".
Những quan điểm của Đảng ta từ ngày thành lập đến nay chứng minh rằng
Đảng coi quyền tự do tín ngưỡng là một nhu cầu quan trọng của con người,
là một trong những quyền công dân, quyền chính đáng của con người. Vì
vậy, Đảng và Nhà nước ta luôn luôn tôn trọng đức tin của đồng bào theo tín
ngưỡng, tôn giáo khác nhau; tôn trọng quyền được theo bất cứ tôn giáo nào
cũng như quyền không theo tôn giáo nào, mong muốn cho người dân theo
tôn giáo được "phần hồn thong dong, phần xác ấm no".
Từ sau cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến nay, nước ta đã có 4 Hiến
pháp (năm 1946, 1959, 1980 và năm 1992), trong đó Hiến pháp đầu tiên
năm 1946 đã khẳng định quyền của người dân Việt Nam: "Mọi công dân
Việt có quyền tự do tín ngưỡng" (Chương II, mục B). Từ những nguyên tắc
cơ bản đó, Điều 80 Hiến pháp 1980 ghi rõ: "Công dân có quyền tự do tín
ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Không ai được lợi dụng tôn
giáo để làm trái pháp luật và chính sách của Nhà nước". Điều 70 của Hiến
pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 được bổ sung rõ
hơn: "Công dân Việt Nam có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc
không theo tôn giáo nào. Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật. Những
nơi thờ tự của các tín ngưỡng, tôn giáo được pháp luật bảo hộ. Không ai
được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn
giáo để làm trái pháp luật và chính sách của Nhà nước".
Tự do tín ngưỡng, tôn giáo là một quyền nhân thân cơ bản của công dân
cũng được đề cập trong Bộ luật Dân sự , được bảo vệ bằng pháp luật và
được cụ thể hoá trong các văn bản quy phạm pháp luật ngày càng ở mức độ
cao hơn, hoàn thiện hơn. Sau 5 năm thực hiện Nghị định số 26/1999/NĐ-CP,
ngày 19-4-1999 về các hoạt động tôn giáo đã được thay thế bằng Pháp lệnh
tín ngưỡng, tôn giáo do ủy ban Thường vụ Quốc hội khoá XI thông qua

ngày 18-6-2004 và Chủ tịch nước ký Lệnh công bố ngày 29-6-2004.
Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo ra đời là một minh chứng, một bước tiến và
một lần nữa tiếp tục khẳng định nguyên tắc nhất quán trong chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam là tôn trọng tự do tín ngưỡng,
tôn giáo.
Thực tế, những chủ trương, chính sách tín ngưỡng, tôn giáo không phải chỉ
được khẳng định ở Hiến pháp, pháp luật hay trong các chỉ thị, nghị quyết
của Đảng mà được thể hiện sống động trong cuộc sống hàng ngày.
Cho đến nay, Nhà nước ta đã công nhận tư cách pháp nhân cho 15 tổ chức
tôn giáo và tiếp tục xem xét theo tinh thần của Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn
giáo. Có thể khẳng định, hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo đã và đang diễn ra
bình thường ở mọi nơi trên đất nước Việt Nam.
Cả nước có 56.125 chức sắc, nhà tu hành, chưa kể hàng vạn người hoạt
động bán chuyên nghiệp của các tổ chức tôn giáo, trong đó Phật giáo có
33.066 tăng ni; Thiên chúa giáo có 42 giám mục, 2.700 linh mục và 11.282
tu sĩ, Tin lành có 492 mục sư, giảng sư và truyền đạo; Cao Đài có 8.340
chức sắc, chức việc; Phật giáo Hoà hảo có 982 chức việc và Hồi giáo có 699
chức sắc; 3 học viện Phật giáo với trên 1.000 tăng ni sinh, 30 trường trung
cấp Phật học, 4 trường cao đẳng phật học với 3.940 tăng ni sinh theo học.
Giáo hội Thiên chúa giáo có 6 Đại chủng viện với 1.085 chủng sinh và 1.712
chủng sinh dự bị. Viện Thánh kinh thần học của Tổng liên hội Hội thánh Tin
lành Việt Nam (miền Nam) đã chiêu sinh hai khoá với 150 học sinh. Hiện có
hàng trăm người của các tôn giáo đang theo học thạc sĩ, tiến sĩ ở các nước
trên thế giới.
Cả nước hiện có 22.000 cơ sở thờ tự, trong đó có nhiều cơ sở được xây
dựng mới, xây dựng lại khang trang, đẹp đẽ. Đó là bằng chứng sinh động về
đảm bảo tự do tín ngưỡng, tôn giaó là nguyên tắc hàng đầu và nhất quán của
Đảng và Nhà nước Việt Nam vì cuộc sống tinh thần của hàng triệu tín đồ các
tôn giáo và cũng là những công dân của Việt Nam.
Năm 1955 trước yêu cầu mới về công tác tôn giáo nói chung, công tác

quản lý Nhà nước về hoạt động tôn giáo nói riêng, Thủ tướng Chính phủ
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà căn cứ vào ý kiến của Hội đồng Chính
phủ đã ban hành Nghị định số 566-TTg ngày 2-8-1955 thành lập Ban Tôn
giáo trực thuộc Phủ Thủ tướng (tiền thân của Ban Tôn giáo Chính phủ ngày
nay) để "nghiên cứu kế hoạch thi hành những chủ trương chính sách của
Chính phủ về vấn đề tôn giáo, giúp Thủ tướng phối hợp với các ngành ở
Trung ương và theo dõi hướng dẫn, đôn đốc các địa phương trong việc thực
hiện những chính sách của Chính phủ về vấn đề tôn giáo và liên hệ với các
tổ chức tôn giáo".
Quá trình xây dựng và trưởng thành của Ban Tôn giáo Chính phủ có thể
chia thành 3 thời kỳ:
- Thời kỳ 1955-1975: Đây là thời kỳ Ban Tôn giáo thực hiện chức năng
giúp Thủ tướng trong việc thực hiện các chủ trương chính sách về tôn giáo,
nhất là sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh 234-SL về tôn giáo. Thời
kỳ này Ban Tôn giáo Chính phủ là đầu mối liên hệ với các tổ chức tôn giáo
nhằm động viên tín đồ, chức sắc tôn giáo tham gia công cuộc xây dựng đất
nước ở miền Bắc đấu tranh chống đế quốc Mỹ và chính quyền Sài Gòn đòi
thi hành Hiệp định Giơnevơ, đấu tranh chống âm mưu cưỡng ép tín đồ Công
giáo di cư vào Nam; động viên giới tôn giáo tham gia các phong trào cách
mạng giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.
- Thời kỳ 1975-1990: Đây là thời kỳ Ban Tôn giáo Chính phủ thực hiện
chức năng giúp Chính phủ quản lý Nhà nước về tôn giáo trong điều kiện đất
nước mới được thống nhất. Để đáp ứng yêu cầu quản lý hoạt động tôn giáo
trong phạm vi cả nước, Ban Tôn giáo Chính phủ đã trình Thủ tướng Chính
phủ ban hành Nghị quyết số 297-CP, ngày 11-11-1997 về hoạt động tôn
giáo. Đồng thời làm đầu mối giúp đỡ, hướng dẫn các tôn giáo đi tới thống
nhất về tổ chức và xây dựng Hiến chương đường hướng hành đạo theo
phương châm "tốt đời, đẹp đạo", gắn bó với dân tộc.
- Thời kỳ 1990 đến nay: Thời kỳ này, Ban Tôn giáo Chính phủ phối hợp
với các ngành thực hiện các mặt công tác đấu tranh chống các thế lực thù

địch lợi dụng tôn giáo chống phá cách mạng Việt Nam; đồng thời giúp Đảng
và Nhà nước khẳng định quan điểm, chủ trương chính sách đối với tôn giáo.
Đặc biệt trên cơ sở tổng kết thực tiễn "nhìn lại và đổi mới", Ban Tôn giáo
Chính phủ phối hợp với các ngành chức năng tham mưu cho Trung ương
ban hành các chủ trương chính sách đổi mới trong công tác tôn giáo như
Nghị quyết số 24-NQ/TƯ ngày 16-10-1990 về Đổi mới công tác tôn giáo
trong tình hình đổi mới; Chỉ thị 37-CT/TW ngày 2-7-1998 về Tăng cường
công tác tôn giáo trong tình hình mới; Nghị định số 59-HĐBT ngày 21-3-
1991 và sau này là Nghị định số 26/1999/NĐ-CP ngày 19-4-1999 về Hoạt
động tôn giáo. Tham mưu cho Ban Chấp hành Trung ương Đảng ban hành
Nghị quyết số 25-NQ/TƯ ngày 12-3-2003 về Công tác tôn giáo. Để thể chế
hoá tư tưởng đổi mới đối với công tác tôn giáo của Nghị quyết 25, Ban Tôn
giáo Chính phủ phối hợp với các ngành chức năng xây dựng và trình ủy ban
Thường vụ Quốc hội khoá XI, ban hành Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo.
Đánh giá sự trưởng thành và những đóng góp của Ban Tôn giáo Chính
phủ, năm 2002, Nhà nước trao tặng Huân chương Độc lập hạng Nhất và để
khẳng định truyền thống của ngành quản lý Nhà nước về tôn giáo và xác lập
cơ chế quản lý theo ngành - một ngành vốn có nhiều nét đặc thù, nhạy cảm,
ngày 27-5-2005, Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định số 445/QĐ-TTg lấy
ngày 2-8 hằng năm là Ngày truyền thống của ngành quản lý Nhà nước về
tôn giáo. Đây là phần thưởng cao quý của Đảng và Nhà nước dành cho các
thế hệ làm công tác tôn giáo trong cả nước./.

×