Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Thu hút fdi hàn quốc vào việt nam thực trạng và triển vọng khi thực thi hiệp định thương mại tự do việt nam hàn quốc vkfta

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (390.47 KB, 27 trang )

Mục lục
LỜI MỞ ĐẦU.......................................................................................................2
1.

Hiệp định VKFTA.........................................................................................3

1.1

Diễn tiến......................................................................................................3

1.2

Nội dung chính của VKFTA........................................................................3

2.
Thực trạng thu hút FDI từ Hàn Quốc vào Việt Nam trước khi thực thi
VKFTA.................................................................................................................4
3.
Thực trạng thu hút FDI từ Hàn Quốc vào Việt Nam – thực thi VKFTA
(giai đoạn 2016-2019)...........................................................................................8
3.1

Nguồn vốn đầu tư FDI theo các Quốc gia top đầu.....................................8

3.2

Dòng vốn FDI vào Việt Nam qua từng năm..............................................11

3.3

Sự phân bổ nguồn vốn FDI từ Hàn Quốc vào các tỉnh thành:.................12



3.4

Tỉ lệ phân bổ nguồn vốn FDI vào các ngành:...........................................13

4.
Cơ hội và thách thức của các doanh nghiệp Việt Nam khi tham gia
VKFTA...............................................................................................................17
4.1

Cơ hội........................................................................................................17

4.2

Thách thức.................................................................................................18

5.
Giải pháp tăng cường thu hút FDI từ Hàn Quốc vào Việt Nam đến năm
2025
6.

Kết luận.....................................................................................................25

Tài liệu tham khảo:.............................................................................................27

1


LỜI MỞ ĐẦU
Kể từ khi ban hành chính sách cải cách kinh tế, Đổi mới, năm 1986, Việt Nam

đã nỗ lực mở rộng để chuyển đổi nền kinh tế kế hoạch tập trung thành nền kinh tế thị
trường. Việc cải cách diễn ra đồng bộ trên nhiều lĩnh vực khác nhau, liên quan đến các
chính sách đầu tư, thương mại và doanh nghiệp nhà nước (SOE). Về đầu tư, bắt đầu từ
việc thành lập Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987, Việt Nam đã thống nhất các luật
khác nhau đối với các doanh nghiệp trong và ngoài nước thành Luật Đầu tư mới năm
2005.
Quan hệ Hàn Quốc – Việt Nam là mối quan hệ ngoại giao được thiết lập chính
thức giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Đại Hàn Dân Quốc, hai quốc gia
tuy khác nhau về địa lý, thể chế chính trị cũng như ý thức hệ nhưng lại có rất nhiều nét
tương đồng về con người, lịch sử và văn hóa. Khác với Quan hệ Triều Tiên – Việt
Nam chủ yếu mang tình hữu nghị Cộng sản thì quan hệ giữa Việt – Hàn (tương tự như
mối quan hệ ngoại giao Hoa Kỳ - Việt Nam) là một mối quan hệ ngoại giao kiểu mới,
giữa “Thù cũ bạn mới”, “Chuyển thù thành bạn” và “Khép lại quá khứ hướng tới
tương lai”. Ngày thiết lập quan hệ ngoại giao của Việt Nam với Hàn Quốc là ngày 22
tháng 12 năm 1992.
Tính tới nay, Hàn Quốc là đối tác hàng đầu của Việt Nam về đầu tư trực tiếp
nước ngoài (khoảng 66 tỷ vốn FDI đăng ký), về thương mại (tổng kim ngạch hàng
năm gần 70 tỷ USD), về hợp tác phát triển (khoảng 40 triệu USD/năm viện trợ khơng
hồn lại và 300-400 triệu USD/năm ODA vốn vay). Việt Nam và Hàn Quốc cũng
đang tích cực cùng các nước hướng tới mục tiêu kết thúc đàm phán Hiệp định RCEP
trong năm 2019, khẳng định hội nhập kinh tế quốc tế vẫn là xu thế chủ đạo trong bức
tranh kinh tế toàn cầu. Ngoài ra, hai bên cũng có nhiều hoạt động hợp tác chặt chẽ
trong các lĩnh vực: tài chính - ngân hàng, hạ tầng, giao thơng, công nghệ thông tin,
khoa học công nghệ, nông lâm ngư nghiệp, giáo dục đào tạo, văn hóa...
Đề án nghiên cứu sẽ tập trung tìm hiểu về: “Thu hút FDI Hàn Quốc vào Việt
Nam: Thực trạng và triển vọng khi thực thi hiệp định thương mại tự do Việt Nam –
Hàn Quốc (VKFTA)”

2



1 Hiệp định VKFTA
1.1

Diễn tiến

- 6/8/2012: Hai bên khởi động đàm phán;
- 8/2012 – 12/2014: Hai bên đã tiến hành 8 vịng đàm phán chính thức và 8 phiên họp
giữa kỳ, họp cấp Trưởng đoàn đàm phán;
- 10/12/2014: Hai bên ký kết Biên bản thỏa thuận về kết thúc đàm phán VKFTA;
- 29/3/2015: Hai bên ký tắt VKFTA, hướng tới ký kết chính thức Hiệp định trong
vịng 6 tháng đầu năm 2015;
- 5/5/2015: Hai bên ký chính thức VKFTA - Bước tiếp theo: Các bên sẽ tiến hành các
thủ tục phê chuẩn Hiệp định ở nội bội từng nước. Dự kiến VKFTA sẽ bắt đầu có hiệu
lực từ đầu năm 2016.

1.2

Nội dung chính của VKFTA

Hiệp định gồm 17 Chương (208 Điều), 15 Phụ lục và 01 Thỏa thuận thực thi
quy định. Theo VKFTA, các công ty từ Việt Nam và Hàn Quốc sẽ được hưởng lợi từ
việc giảm thuế quan. Hàn Quốc sẽ loại bỏ 95% dòng thuế đối với hàng nhập khẩu từ
Việt Nam và Việt Nam sẽ loại bỏ 90% dịng thuế đối với hàng hóa nhập khẩu từ Hàn
Quốc (trong vòng 15 năm kể từ ngày thỏa thuận có hiệu lực).
Hàn Quốc sẽ mở cửa thị trường cho thêm 499 mặt hàng từ Việt Nam bao gồm
trái cây nhiệt đới và tỏi.Ngoài ra,Quốc Gia này cũng giảm thuế nhập khẩu đối với
hàng nhập khẩu chính từ Việt Nam như tôm, cá, cua, trái cây, may mặc dệt may, và
các sản phẩm bằng gỗ.
Tại Việt Nam, VKFTA sẽ giúp tạo ra hơn 400.000 cơ hội việc làm bởi vì đang

có gần 3.000 doanh nghiệp Hàn Quốc hoạt động tại nước này.

3


VKFTA đặt mục tiêu tăng thương mại song phương giữa các quốc gia lên 70 tỷ
USD vào năm 2020, cũng như để thu hút các nhà đầu tư Hàn Quốc, chuyên môn quản
lý và công nghệ của họ.
Tương tự như các hiệp định đã ký giữa Việt Nam và các nước phát triển khác,
VKFTA thúc đẩy các cơ hội đầu tư, thương mại và tăng trưởng kinh tế. Nó cũng nhấn
mạnh một số vấn đề mà Việt Nam cần giải quyết, như quyền sở hữu trí tuệ, chính sách
cạnh tranh, thương mại dịch vụ và các quy tắc môi trường.
2 Thực trạng thu hút FDI từ Hàn Quốc vào Việt Nam trước khi thực thi
VKFTA
Là điểm đến đầu tư lớn thứ tư của Hàn Quốc năm 2014, Việt Nam là một thị
trường rất đáng chú ý trong tổng số FDI của Hàn Quốc. Hiệp định kinh tế song
phương đầu tiên giữa Hàn Quốc và Việt Nam sau khi Việt Nam thống nhất bắt đầu từ
năm 1993 và hai bên đã ký kết Hiệp định thương mại tự do Hàn Quốc-Việt Nam
(FTA) vào tháng 5 năm 2015. Lượng đầu tư và thương mại giữa hai nước đã tăng lên
đáng kể qua nhiều năm. Với việc Việt Nam mở cửa cho FDI thơng qua sáng kiến Đổi
mới và thúc đẩy tích cực FDI của Chính phủ Hàn Quốc, vốn FDI của Hàn Quốc tại
Việt Nam đã tăng vọt trong 23 năm qua lên 11 tỷ USD vào cuối năm 2014 và Bảng 1
cho thấy xu hướng FDI Hàn Quốc vào Việt Nam.
Số tiền đầu tư tăng nhanh, đạt mức 183 triệu USD vào năm 1995, gấp hơn 10
lần so với năm 1992. Xu hướng tăng tiếp tục cho đến năm 1997. Hiệp ước đầu tư song
phương (BIT) được kí kết vào năm 1993 giữa hai nước, đây được cho là một công cụ
góp phần vào xu hướng tăng mạnh mẽ nguồn vốn FDI tư Hàn Quốc chảy vào Việt
Nam những năm qua. Tuy nhiên, do cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1998 tại Hàn
Quốc, lượng FDI của Hàn Quốc tại Việt Nam đã giảm trong giai đoạn 1998-2001
xuống mức trung bình hàng năm là 64 triệu USD.

Vốn FDI của Hàn Quốc tại Việt Nam bắt đầu phục hồi vào năm 2002, rõ ràng
đây là kết quả của dự trữ ngoại hối ngày càng tăng của Hàn Quốc dẫn đến việc tiếp tục
thặng dư thương mại. Nỗ lực của Chính phủ Việt Nam nhằm tăng quyền tự chủ của
chính quyền địa phương cũng như minh bạch hơn trong việc ủy quyền cho các dự án

4


FDI cũng góp phần phục hồi nguồn vốn FDI tại Việt Nam tăng lên hơn 1 tỷ USD mỗi
năm. Chỉ một thời gian ngắn do cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu khiến nguồn vốn
FDI bị chậm lại trong năm 2009 và 2010. Đến năm 2014, FDI Hàn Quốc vào Việt
Nam đạt 1,6 tỷ USD. Ngoài ra, FTA Hàn Quốc-ASEAN về đầu tư có hiệu lực vào
năm 2009 là một động lực khác bên ngoài mở ra cơ hội cực kì to lớn trên nhiều lĩnh
vực đầu tư Việt Nam cho các nhà đầu tư, các cá mập đến từ Hàn Quốc.

Bảng 1: Vốn FDI Hàn Quốc vào Việt Nam
Số lượng dự án

Số doanh nghiệp

Số tiền đầu tư

được phê duyệt

mới

(triệu USD)

1992


23

8

16

1994

73

44

90

1996

90

41

124

1998

40

3

80


1998

69

27

71

2000

190

100

160

2004

265

110

183

2006

574

269


597

2008

828

287

1375

2010

772

215

857

2012

752

195

969

2014

1252


434

1558

3226

11.143

Năm

1994-2014

Nguồn: Ngân hàng Eximbank Hàn Quốc

5


Nhìn chung, vốn FDI của Hàn Quốc trong lĩnh vực sản xuất của Việt Nam gần
đây đã dược đa dạng hóa vào các ngành khác nhau hơn so với những năm 1990 và đầu
năm 2000, khi mà chúng chủ yếu tập trung vào hàng may mặc và giày dép. Trung
bình, tỷ lệ vốn của dệt may và giày dép chiếm 49,7% tổng đầu tư FDI trong lĩnh vực
sản xuất từ 1992 đến 2005 nhưng giảm xuống chỉ còn 26,7% từ năm 2006 đến 2014
và chính thức tăng nhẹ và chiếm 30,2% trong năm 2014. Một sự so sánh mà có thể
nhận thấy rất rõ ràng với ngành kim loại, bao gồm cả kim loại cơ bản và chế tạo, tuy
có một vài năm đột biến nhưng nhìn chung tỷ lệ của ngành này đã tăng từ dưới 10%
cho đến năm 2005 khi mà tỉ lệ vốn FDI của ngành này đã vượt qua 20% và ổn định từ
đấy đến các năm sau. Do đó, phần lớn thị phần của ngành may mặc và giày dép giảm
có thể là do đầu tư ngày càng tăng mạnh của Hàn Quốc vào các ngành kim loại của
Việt Nam.
Tuy nhiên nhắc đến ngành thu hút vốn đầu tư sản xuất hàng đầu của Hàn Quốc

vào Việt Nam phải kể đến điện tử và viễn thông, chiếm tới 25,1% giữa 1992 và 2014.
Đặc biệt vào năm 2013 và 2014, họ đã thu hút gần 40% vốn đầu tư của Hàn Quốc vào
lĩnh vực sản xuất của Việt Nam. Thực tế là tỷ lệ đầu tư của Hàn Quốc vào ngành dệt
may của Việt Nam cũng tương tự như trong ngành công nghiệp điện tử và viễn thơng
và có sự khác biệt so với với mơ hình FDI của Hàn Quốc trên thế giới, nơi mà đầu tư
vào điện tử và viễn thông vượt xa so với hàng may mặc và giày hơn 20%. Sự khác
biệt trong mơ hình đầu tư này phản ánh lợi thế so sánh của lực lượng lao động Việt
Nam với giá rẻ và dồi dào, đây là động lực lớn nhất để các công ty Hàn Quốc đầu tư
vào nước này. Tuy nhiên, các nhà đầu tư Hàn Quốc đang ngày càng chú trọng đến lao
động có trình độ hơn là khuyến khích lương thấp, vì họ đang có xu hướng dịch chuyển
đầu tư sang các lĩnh vực sản xuất công nghệ cao như điện tử và máy móc vận tải.

6


Một ví dụ về tầm quan trọng ngày càng được gia tăng của ngành cơng nghiệp
điện tử của dịng vốn FDI Hàn Quốc tại Việt Nam, đó khơng ai khác chính là
Samsung Electronics- nhà đầu tư lớn nhất tại Việt Nam. Tập đoàn này đã thành lập
một nhà máy sản xuất thiết bị điện thoại di động tại Thái Nguyên và đã xuất khẩu tới
24 tỷ USD vào năm 2013. Samsung cũng mở nhà máy thứ hai tại Bắc Ninh vào tháng
2 năm 2014, có nhiệm vụ nghiên cứu và phát triển bên cạnh các cơ sở sản xuất. Tổng
xuất khẩu của Samsung Electronics tại Việt Nam đạt 26 tỷ USD vào năm 2014, chiếm
16,8% tổng xuất khẩu của Việt Nam và chiếm khoảng 45% điện thoại Samsung toàn
cầu trong cùng năm. Xu hướng đầu tư có mối tương quan chặt chẽ với động lực thay
đổi của các công ty Hàn Quốc khi chọn Việt Nam làm điểm đến đầu tư. Do đó, các
mơ hình của FDI Hàn Quốc tại Việt Nam có thể được thể hiện rõ ràng hơn bằng việc
xét đến các động lực thay đổi của các nhà đầu tư Hàn Quốc, được thể hiện trong Bảng
2.
Cho đến năm 2006, việc xúc tiến xuất khẩu là động lực quan trọng nhất của các
nhà đầu tư, với thị phần trung bình là 37,9%, trong khi khả năng tiếp cận thị trường

nội địa Việt Nam vẫn ở mức thấp khoảng 7,5%. Điều này phù hợp với thái độ của
nhiều quốc gia châu Á khác, coi Việt Nam là nơi xuất khẩu sản phẩm của họ. Chẳng
hạn, việc ký kết BTA Việt Nam - Hoa Kỳ đã dẫn đến sự gia tăng vốn FDI của các nền
kinh tế châu Á tại Việt Nam so với các nước trong khu vực. Nhưng với sự tăng trưởng
kinh tế nhanh chóng của Việt Nam và tầng lớp trung lưu đang ngày càng phát triển,
điều này làm tăng đáng kể nhu cầu nội địa của nền kinh tế Việt Nam. Mặc dù xu
hướng đầu tư và xuất khẩu của sản xuất điện tử và viễn thông của các doanh nghiệp
lớn, như Samsung Electronics được thể hiện thông qua việc một tỷ lệ lớn hàng hóa sản
xuất tại Việt Nam vẫn được dành cho xuất sang các nước khác, tuy nhiên, ngày càng
có nhiều nguồn lực nội tại thúc đẩy các nhà đầu tư, doanh nghiệp Hàn tìm kiếm thị
trường và nhắm đến mục tiêu phục vụ người tiêu dùng Việt Nam.
Lao động giá rẻ tiếp tục là nguồn động lực to lớn thu hút các công ty Hàn Quốc
đầu tư vào Việt Nam, mặc dù tỷ lệ đã hơi chững lại. Nó chiếm tới 32,7% vốn đầu tư
trực tiếp của Hàn Quốc dưới dạng số tiền tích lũy trong giai đoạn 1992-2014. Tuy
nhiên, điều quan trọng Việt Nam vẫn là nơi có lực lượng lao động giá rẻ hơn so với

7


chất lượng nhân công. Cụ thể, Việt Nam dù được hưởng ưu đãi lương tương đối thấp
trong bối cảnh lương tăng ở Trung Quốc nhưng lại mất đi lợi thế của mình khi so sánh
với các nước láng giềng khác như Lào và Myanmar- nơi lực lượng lao động có giá
thậm chí cịn rẻ hơn. Lý do mà các nhà đầu tư Hàn Quốc vẫn coi lao động Việt Nam là
một yếu tố tiết kiệm chi phí là vì người lao động Việt Nam có trình độ học vấn cao
hơn so với người lao động ở các nước cạnh tranh đã nêu bên trên.
Bảng 2: Động lực đầu tư FDI của Hàn Quốc vào Việt Nam theo số lượng
được phê duyệt (%)
Phát triển

Nâng cao xuất


Lao động

Thâm nhập thị

nguồn lực

khẩu

giá rẻ

trường

1992

1 (4.3)

11 (47.8)

8 (34.8)

0 (0.0)

23

1995

0 (0.0)

30 (40.5)


27 (36.5)

6 (8.1)

74

2000

1 (1.4)

24 (34.8)

22 (31.9)

4 (5.8)

69

2005

6 (1.6)

113 (29.7)

160 (42.0)

48 (12.6)

381


2010

11 (1.4)

164 (21.2)

207 (26.8)

365 (47.3)

772

2012

14 (1.9)

158 (21.0)

275 (36.6)

291 (38.7)

752

2014

5 (0.4)

233 (18.6)


353 (28.2)

640 (51.1)

1252

1992-2014

169 (1.9)

2251 (24.7)

2982 (32.7)

3227 (35.4)

9114

Năm

Tổng

3 Thực trạng thu hút FDI từ Hàn Quốc vào Việt Nam – thực thi VKFTA (giai
đoạn 2016-2019)
Hiệp định thương mại tự do Việt-Hàn chính thức được kí kết vào sang ngày 55-2015 tại Hà Nội. Hiệp định này có thể thấy có nhiều mặt lợi hơn là mặt hại song
chúng ta có thể nêu rõ cũng như phân tích rõ những mặt lợi hại của thương mại này
mang đến cho cả 2 nước, có thể cho họ thấy được những tiềm năng và khó khăn dể
thu hút FDI Hàn Quốc vào Việt Nam.
3.1 Nguồn vốn đầu tư FDI theo các Quốc gia top đầu

Về thu hút đầu tư, tốc độ và quy mô đầu tư của Hàn Quốc vào Việt Nam ngày
càng tăng mạnh, với Hiệp định Thương mại tự do (FTA) Việt-Hàn, thuế quan đối với

8


nhiều dịng sản phẩm giảm mạnh, nên sẽ có nhiều doanh nghiệp Hàn Quốc tiếp tục mở
rộng đầu tư và kinh doanh tại Việt Nam.
Bên cạnh đó, đầu tư FDI của Hàn Quốc vào Việt Nam tiếp tục tăng mạnh. Theo
thống kê của Bộ Công Thương, trong giai đoạn từ 2015 - 2019, Hàn Quốc liên tiếp
đứng đầu danh sách các nhà đầu tư nước ngoài lớn nhất vào Việt Nam.
Đầu tư trực tiếp luôn là điểm sáng trong quan hệ hai nước, Hàn Quốc hiện là
nhà đầu tư lớn nhất tại Việt Nam và Việt Nam là đối tác đầu tư nước ngoài lớn thứ 4
của Hàn Quốc (sau Hoa Kỳ, Trung Quốc, Hồng Kông) nhất là từ khi kí kết hiệp định
thương mại tự do VKFTA thì số dự án cũng như tổng số vốn mà Hàn Quốc đầu tư
FDI vào Việt Nam càng ngày càng lớn hơn, chúng ta có thể thấy điều này qua số liệu
tổng hợp từ 4 nước có đầu tư trực tiếp được cấp giấy phép phân theo đối tác đầu tư
chủ yếu theo lũy kế các dự án còn hiệu lực hàng đầu của Việt Nam. Theo Tổng cục
thống kê, tính đến ngày 31/12/2015 thì Hàn Q́c với tởng vớn đăng ký 44.9 tỷ USD
và 2,914 dự án từ Nhật Bản làm nước này đứng thứ hai về đầu tư tại Việt Nam với
49,8 tỷ USD tiếp theo lần lượt là Đài Loan với số dự án 2,478 và số vốn 30.9 tỷ USD,
Tuy nhiên năm 2015 mới chỉ là năm mới ký kết chưa có sự thay đổi lớn lắm, chúng ta
có thể thấy rõ sự thay đổi của nó vào năm 2016 khi tính đến hết năm 2016 thì số dự án
cũng như số vốn so với năm 2015 đã tăng thêm gần 1000 dự án nâng tổng số vốn lên
con số 50.8 tỷ USD hơn 5.9 tỷ USD vào năm 2015, chiếm 33% tổng vốn FDI vào Việt
Nam. Hải Phịng, Hà Nội, Đồng Nai, Bắc Ninh, Bình Dương, Thành phố Hồ Chí
Minh… là những địa phương thu hút nhiều vốn FDI nhất trong năm 2016 và cứ thế
mỗi năm lại tăng số dự án và số vốn thêm khá lớn như năm 2017 là 6532 dự án với số
vốn đăng ký là 57.7 tỷ USD và càng ngày càng cách biệt hơn với các nước khác như
đã gấp đôi số dự án đối với Nhật Bản, gấp 3 lần số dự án với Đài Loan và cuối cùng

gấp 6 lần đối với Singgapore, với số vốn cũng ngày càng chênh lệch hơn các nước.
Tính đến hết tháng 12 năm 2018, với số dự án là 7,080 và tổng vốn đăng ký 61,51 tỷ
USD (chiếm 18,5% tổng vốn đầu tư). Hàn Quốc vẫn là nước đứng đầu trong số 129
quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư cịn hiệu lực tại Việt Nam. Nhật Bản đứng
thứ hai với 57,3 tỷ USD (chiếm 16,8% tổng vốn đầu tư), tiếp theo lần lượt là

9


Singapore đạt 46.7 tỷ USD và Đài Loan là 31.4 tỷ USD rồi đến Britishvirgin Islands,
Hồng Kơng….
Tính lũy kế đến ngày 20/9/2019, đã có tổng số 132 quốc gia và vùng lãnh thổ
đầu tư vào Việt Nam thì Hàn Quốc tiếp tục đóng góp với 8.190 dự án đầu tư còn hiệu
lực, tổng vốn đăng ký lũy kế đạt 65,77 tỷ USD.
Ta có thể nhận ra rằng hiệp định thương mại tự do VKFTA có sức ảnh hưởng
vơ cùng lớn đến đầu tư vốn FDI cũng như xuất nhập khẩu của cả 2 nước song nó cũng
mang đến cả ích lợi cũng như hạn chế mà không chỉ Việt Nam mà cả Hàn Quốc cũng
gặp trước tiên quy mô trung bình mỗi dự án FDI của Hàn Quốc là 9 triệu USD, bằng
67% quy mơ trung bình các dự án FDI tại Việt Nam (do có nhiều dự án nhỏ trong lĩnh
vực dịch vụ).
Có khoảng 7.000 cơng ty Hàn Quốc hoạt động tại Việt Nam, cung cấp việc làm
cho hơn 700.000 cơng nhân và đóng góp khoảng 30% vào giá trị xuất khẩu của Việt
Nam (ông Vu Vũ Bà Phú, giám đốc Cơ quan xúc tiến thương mại Việt Nam cho biết).
Và điều quan trọng là những dự án này chủ yếu đầu tư vào công nghiệp chế tạo, sản
xuất phục vụ xuất khẩu, góp phần quan trong vào việc phát triển thương mại giữa 2
nước, là động lực để 2 nước hướng tới mục tiêu đưa kim nghạch thương mại song
phương đạt những con số khổng lồ hơn nữa.
Ngoài thương mại, đầu tư, Hàn Quốc còn thuộc 3 nước có lượng khách du lịch
đến Việt Nam nhiều nhất. Đây cũng là 1 trong những đối tác cung cấp ODA lớn nhất
cho Việt Nam và cũng như đang có hơn 140 nghìn người Việt đang sinh sống tại Hàn

Quốc.

10


3.2 Dòng vốn FDI vào Việt Nam qua từng năm
Bảng 4: Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào Việt Nam từ các nước
Giai đoạn 2015-2018
(Đơn vị: Triệu USD)
Quốc gia

2015

2016

2017

2018

ASEAN

2,153.5

2,306.6

2,531.2

2,851.3

9,646.5


10,293.4

11,568.8

12,648.7

Australia

104.3

231.4

62.5

266.2

Canada

3.1

35.0

17.8

37.5

Trung Quốc

381.0


969.4

852.0

1,077.3

Châu Âu

993.2

548.8

797.6

789.1

Ấn Độ

72.1

53.1

73.7

73.5

Nhật Bản

955.0


1,338.9

3,580.4

3,758.1

Hàn Quốc

3,488.0

3,637.6

3,337.7

3,152.0

New Zealand

5.7

9.6

1.4

3.3

Nga

6.2


29.3

17.1

18.6

Mỹ

118.1

207.0

341.4

240.6

3,519.8

3,233.3

2,487.3

3,232.5

11,800.0

12,600.0

14,100.0


15,500.0

Các quốc gia
còn lại trên
thế giới

Các quốc gia
khác
Tổng

Nguồn: ASEAN Statistical Yearbook 2019

11


Từ sau khi khí hiệp định, Chính phủ và doanh nghiệp Hàn Quốc đã có những
chuẩn bị và cụ thể hóa cơ hội hết sức bài bản với Việt Nam. Trong khi đó Việt Nam
cũng đã tạo điều kiện hết sức thuận lợi để các doanh nghiệp Hàn Quốc mở rộng thị
trường. Với sự phối hợp đó, VKFTA đóng vai trò rất quan trọng để thu hút FDI từ
Hàn Quốc vào Việt Nam trong nhiều lĩnh vực, góp phần giúp Việt Nam hội nhập sâu
hơn vào kinh tế khu vực. Cho đến nay nhiều doanh nghiệp, tập đoàn lớn của Hàn
Quốc như đã nói ở phần trên đã liên tục mở rộng đầu tư tại Việt Nam
Về giá trị, FDI của Hàn Quốc sau khi kí hiệp định VKFTA đã ln đứng đầu
về nước có vốn FDI lớn nhất tại Việt Nam, FDI của Hàn Quốc vào Việt Nam trong
năm 2015 đạt 3488 triệu USD, hơn 1 tỷ USD số vốn FDI của ASEAN hay bất kì nước
nào kể cả những cường quốc lớn như Nhật Bản, Mỹ, EU. Và tiếp tục năm 2016 là con
số 3637.6 triệu USD, kể từ khi kí kết hiệp định VKFTA thì Hàn Quốc đã là nhà cung
cấp vốn FDI chính. Phần lớn là do các khoản đầu tư của LG, SamSung. Vốn đầu tư từ
Hàn Quốc xấp xỉ với tổng số tiền của bốn nhà đầu tư lớn nhất tiếp theo tại quốc gia

Đơng Nam Á, đó là Singapore, Nhật Bản, Đài Loan và Hồng Kông tại năm 2016. Tuy
nhiên đến năm 2017 và 2018 thì lại giảm sút 1 chút xuống 3337.7 rồi 3152 triệu USD
do đã bình ổn đi và sự lên ngôi của các nước lớn khác như Nhật Bản là điển hình khi
số vốn FDI đầu tư vào Việt Nam vào năm 2017 đã gấp 3 lần năm 2016 từ 1338.9 lên
3580.4 triệu USD, và tiếp tục tăng lên 3758.1 triệu USD vào năm 2018 lý do là các
thương hiệu như Honda, Toyota đang dần phát triển rất mạnh ở nước ta cũng như tập
đoàn Aeon đã xây dựng 3 khu trung tâm Aeon Mall tại 3 thành phố lớn nhất của Việt
Nam là Hà Nội, Đà Nẵng và TP. Hồ Chí Minh, nâng số dự án và số vốn đăng ký ngày
càng cao hơn.
3.3 Sự phân bổ nguồn vốn FDI từ Hàn Quốc vào các tỉnh thành:

Hình 1: Phân bổ nguồn vồn FDI Hàn Quốc vào các tỉnh thành (năm 2016)

12


Nguồn: FIA Việt Nam
Các địa phương như: Thành phố Hồ ChíMinh, Hà Nội, Đồng Nai, Bình Dương,
Bắc Ninh, Hải Phòng, Vĩnh Phúc, Thái Nguyên, Tây Ninh, Hải Dương, Bà Rịa –
Vũng Tàu… là những địa phương nhận được nhiều đầu tư từ Hàn Quốc. Các hình
thức đầu tư chủ yếu là 100% vốn nước ngoài, liên doanh và hợp đồng hợp tác kinh
doanh BOT, BT, BTO.
Trong năm 2016, các dự án đầu tư nước ngồi lớn nhất trong giai đoạn chín
tháng đến từ Hàn Quốc. Trong số đó, LG Display vào tháng 5 đã bắt đầu xây dựng
một nhà máy trị giá 1,5 tỷ USD tại thành phố Hải Phòng để sản xuất màn hình OLED
cho thiết bị di động. LG Innotek, một cơng ty con khác của Tập đồn LG, đã giành
được sự chấp thuận cho một nhà máy mô-đun máy ảnh trị giá 550 triệu đô la cũng ở
Hải Phòng, giúp thành phố này giữ được vị thế của địa phương được đầu tư nhiều nhất
từ đầu năm đến nay.
Từ tháng 1 đến tháng 9 năm 2016, các công ty Hàn Quốc cam kết rót 16,43 tỷ

USD vào Việt Nam, giảm 4,2% so với cùng kỳ năm 2015. Đây là lần giảm đầu tiên
trong tổng số cam kết FDI cho đến nay.
3.4 Tỉ lệ phân bổ nguồn vốn FDI vào các ngành:
FDI của Hàn Quốc chủ yếu thuộc lĩnh vực: công nghiệp chế biến, chế tạo (84%
tổng vốn đăng ký); Chuyên môn nghiên cứu và phát triển; Xây dựng; Kinh doanh bất

13


động sản… trong đó đầu tư vào lĩnh vực cơng nghiệp chế biến, chế tạo có xu hướng
tăng mạnh từ năm 2009, từ mức 60% giai đoạn trước lên mức trên 80% tính đếm năm
2018. Ngồi ra, đầu tư vào lĩnh vực sản xuất, lắp ráp thiết bị điện tử, công nghiệp,
công nghệ cao chiếm ưu thế so với các dự án công nghiệp nhẹ, thâm dụng lao động
trước đây. Cùng với việc đẩy mạnh đầu tư vào lĩnh vực công nghiệp sản xuất, sự am
hiểu thị trường bản địa, nới lỏng điều kiện đầu tư theo cam kết khi gia nhập các tổ
chức quốc tế Việt Nam… doanh nghiệp Hàn Quốc có xu hướng đầu tư thoe hình thức
100% vốn FDI (với tỷ lệ trên 90% tính đến năm 2016 so với dưới 80% giai đoạn trước
năm 2005). Việt Nam hiện có 19 dự án đầu tư sang Hàn Quốc với tổng số vốn đầu tư
là 14.4 triệu USD. Các dự án đều có quy mơ nhỏ chủ yếu trên lĩnh vực dịch vụ,
thương mại (trung bình mỗi dự án có quy mơ 758 nghìn USD).
Hình 2: Tỉ lệ phân bổ nguồn vốn FDI vào các ngành năm 2016
(tháng 1- tháng 9) Đơn vị: Nghìn USD

Nguồn: FIA Việt Nam
Các dự án đầu tư Hàn Quốc tại Việt Nam rất đa dạng, trải rộng từ công nghiệp
chế biến, chế tạo, điện tử, năng lượng đến phát triển hạ tầng giao thông, logistics, bất

14



động sản, bán buôn, bán lẻ, du lịch… Hầu hết các tập đoàn lớn của Hàn Quốc như:
Samsung, Hyundai, LG, POSCO, SK, Lotte, Kumho-Asiana... đã có mặt tại Việt Nam.
Hàn Quốc đã đầu tư vào19/21 ngành kinh tế của Việt Nam; trong đó tập trung
chủ yếu vào lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo, đóng tàu, bán buôn, bán lẻ,
logistics, bất động sản, xây dựng… Hầu hết các công ty lớn của HànQuốc có trong
danh sách FORTUNE 500 đều đã có các dự án đầu tư hoặc hoạt động kinh doanh tại
Việt Nam:
 Lĩnh vực công nghiệp điện tử (Samsung, LG…)
 Phân phối, bán buôn, bán lẻ (Lorce Shinseghe, E Mart)
 Tàichính- bảo hiểm (Shinda, Woori, KEB, IBK, KB, Hanwha…)
 Kinh doanh bất động sản (Daewoo, GS, Posco, Hyundai…)
 Năng lượng (Kepco, Doosan Samsung, Taekwang…)
 Dịch vụ chất lượng cao, du lịch (Lotte…)
 Lương thực và chế biến thực phẩm (CJ)
 Hàng may mặc (Hyosung, Taekwang, Panko…)
 Dầu khí –hóa chất (GS, SK, Samsung…)
 Công nghệ chế tạo – công nghệ nói chung, nông nghiệp – trồng trọt (CJ)…
Năm 2016, đầu tư của Hàn Quốc chiếm một phần ba tổng số vốn FDI. Lĩnh
vực sản xuất chiếm 74% khoản đầu tư, dẫn đầu là các khoản đầu tư quy mô lớn từ
Samsung và LG Electronics. Sản xuất điện và điện tử chiếm phần lớn nhất trong lĩnh
vực sản xuất.
Ngoài sản xuất, chiếm 74% các khoản đầu tư trong năm 2016, đã có sự quan
tâm ngày càng tăng của các cơng ty Hàn Quốc trong lĩnh vực dịch vụ và phân phối
cùng với bán bn và bán lẻ, văn hóa và khoa học và cơng nghệ. \
Ngồi ra, năm 2017 đã chứng kiến sự quan tâm đáng kể trong lĩnh vực thực
phẩm và tài chính & ngân hàng.

15



Với lộ trình giảm thuế theo cam kết của VKFTA và những chính sách ưu đãi
mà Việt Nam đã và đang áp dụng, 1 số nghành như năng lượng, nông nghiệp chất
lượng cao, môi trường, công nghiệp chế tạo tại Việt Nam sẽ thu hút thêm nhiều nhà
đầu tư Hàn Quốc. Trong khi đó Hàn Quốc cũng đang tiếp tục đẩy mạnh đầu tư sang
Việt Nam để tìm nguồn hàng nhập khẩu, gia công tại Việt Nam. Hai bên cũng đã thảo
luận về các dự án xây dựng nhà máy điện theo hình thức BOT, dầu khí, năng lượng tái
tạo, quản lý an tồn năng lượng, phát triển cơng nghiệp hỗ trợ… Hai bên cũng đã triển
khai đối thoại về công nghiệp ô tô, thảo luận về cơ chế hợp tác theo chiều sâu, nhằm
thúc đẩy xuất khẩu nông sản, và thực phẩm chế biến của Việt Nam vào Hàn Quốc.
Bởi vậy, Hàn Quốc sẽ có thể sẽ tiếp tục duy trì vị trí đứng đầu FDI tại Việt Nam trong
nhiều năm tới.
Các cơng ty Hàn Quốc cũng đang tìm cách tăng đầu tư vào các lĩnh vực nông
nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản, tận dụng các mức thuế ưu đãi của VKFTA.
Samsung dẫn đầu trong số các nhà đầu tư Hàn Quốc tại Việt Nam. Nó sản xuất
gần một nửa số điện thoại thơng minh của mình tại hai nhà máy của mình tại Việt
Nam. Samsung cũng đang thiết lập một tổ hợp thứ ba tập trung vào các thiết bị gia
dụng và màn hình với khoản đầu tư 2,5 tỷ USD. Một số dây chuyền sản xuất hiện có ở
Hàn Quốc và Malaysia cũng sẽ được chuyển sang Việt Nam trong tương lai gần. LG,
một gã khổng lồ điện tử khác cũng đã thiết lập một trung tâm sản xuất tại Việt Nam để
sản xuất điện thoại thông minh và TV. Công ty sẽ chi khoảng 1,5 tỷ đô la Mỹ trong
trung tâm mới vào năm 2028.
Hay công ty bán dẫn Seoul gần đây đã giành được giấy phép xây dựng một
chất bán dẫn mới trị giá 300 triệu đô la, trong khi nhà sản xuất LED Lumens sẽ bắt
đầu hoạt động sản xuất vào cuối năm 2016.
Tương tự tập đoàn CJ, một tập đoàn của Hàn Quốc cũng đang trong giai
đoạn mở rộng quy mơ lớn tại Việt Nam. Đó là phạm vi kinh doanh từ chế biến thực
phẩm, sản xuất phân bón và thức ăn chăn nuôi, mua sắm TV, sản xuất phim và
phân phối. Năm 2016, công ty đã đầu tư 500 triệu đô la Mỹ vào các dự án mới và M

16



& A. Một tập đồn khác, Tập đồn Lotte có kế hoạch mở rộng hoạt động bán lẻ gấp
năm lần lên 60 trung tâm mua sắm tại Việt Nam vào năm 2020.
4. Cơ hội và thách thức của các doanh nghiệp Việt Nam khi tham gia
VKFTA.
4.1 Cơ hội
Cơ hội từ Xuất khẩu: So với AKFTA, trong VKFTA Hàn Quốc mở cửa nhiều
hơn cho các sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam do đó các doanh nghiệp sẽ có thêm cơ
hội tiếp cận thị trường này:
- Hàn Quốc lần đầu tiên mở cửa thị trường đối với một số sản phẩm được coi là
nhạy cảm cao của nước này như tỏi, gừng, mật ong, khoai lang… (thuế nhập khẩu của
Hàn Quốc đối với những mặt hàng này hiện rất cao từ 241- 420%). Đây là cơ hội rất
lớn cho các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản của Việt Nam.
- Trong các nước ASEAN, Việt Nam là nước thứ hai có FTA song phương với
Hàn Quốc sau Singapore (Hàn Quốc hiện cũng đang đàm phán FTA với Indonesia).
Vì vậy trong ngắn hạn thì Việt Nam sẽ có lợi thế cạnh tranh lớn hơn so với các đối thủ
ASEAN còn lại.
- Thị trường Hàn Quốc tuy là một thị trường phát triển với các u cầu và địi
hỏi tương đối cao nhưng nhìn chung vẫn dễ tính hơn các thị trường như EU, Mỹ hay
Nhật Bản. Do đó, việc tăng cường quan hệ thương mại với thị trường này là bước
chuẩn bị/tập dượt tốt cho các doanh nghiệp Việt Nam trong thời gian tới khi tiến sâu
hơn vào các thị trường khó tính hơn.
- Trong các FTA trước đây của Việt Nam, AKFTA là FTA mà Việt Nam tận
dụng được tốt nhất các lợi thế về thuế quan – có tới 70-80% hàng hóa xuất khẩu sang
Hàn Quốc đáp ứng được yêu cầu về quy tắc xuất xứ để được hưởng ưu đãi thuế quan
từ Hiệp định. Vì vậy, VKFTA cũng được kỳ vọng sẽ có tỉ lệ tận dụng cao như vậy để
đem lại nhiều lợi ích xuất khẩu hơn cho các doanh nghiệp Việt Nam.
Cơ hội từ Nhập khẩu: Hiện tại Việt Nam đang nhập siêu từ Hàn Quốc, nếu thuế
nhập khẩu từ Hàn Quốc được tiếp tục giảm so với với AKFTA thì người tiêu dùng,


17


các doanh nghiệp nhập khẩu cũng như các doanh nghiệp xuất khẩu sử dụng nguyên
liệu nhập khẩu từ Hàn Quốc sẽ được hưởng thêm nhiều lợi ích từ FTA này.
Ngồi ra, dự kiến Quy tắc xuất xứ trong FTA giữa Việt Nam với EU (EVFTA)
sẽ cho phép cộng gộp xuất xứ nguyên liệu nhập khẩu từ Hàn Quốc để được hưởng ưu
đãi thuế quan khi xuất khẩu sang EU. Nếu như vậy việc giảm thuế cho các nguyên
liệu nhập khẩu từ Hàn Quốc theo VKFTA sẽ giúp các doanh nghiệp hưởng lợi ở cả
EVFTA
Cơ hội từ thu hút Đầu tư: Trong nhiều năm qua, Hàn Quốc là nhà đầu tư nước
ngoài lớn nhất tại Việt Nam. Các cam kết mở cửa thị trường rộng hơn cho dịch vụ và
đầu tư của Hàn Quốc, cũng như các cam kết bảo hộ đầu tư, đảm bảo quyền lợi cho các
nhà đầu tư từ nước này theo VKFTA sẽ là động lực để tăng cường thu hút đầu tư từ
Hàn Quốc vào Việt Nam.

4.2 Thách thức
Thách thức trong việc tiếp cận thị trường Hàn Quốc
- So với thị trường các nước ASEAN (hơn 600 triệu dân) hay Trung Quốc
(gần1.400 triệu dân) thì thị trường Hàn Quốc được coi là tương đối nhỏ (chỉ khoảng
50 triệu dân) trong khi đó yêu cầu về chất lượng sản phẩm, tiêu chuẩn vệ sinh an toàn
thực phẩm hay tiêu chuẩn kỹ thuật đối với hàng hóa nhập khẩu cao hơn nhiều so với
thị trường các nước ASEAN hay Trung Quốc.
- Với hệ thống bán lẻ đã được hình thành bài bản và các siêu thị có chuỗi phân
phối tương đối ổn định rồi, việc thâm nhập vào các kênh bán hàng của Hàn Quốc là
tương đối khó khăn đối với các doanh nghiệp Việt Nam. Nếu không có chiến lược tìm
hiểu thị trường, quảng bá sản phẩm, nâng cao chất lượng sản phẩm/dịch vụ bản hàng,
đảm bảo số lượng/thời hạn giao hàng…thì các doanh nghiệp Việt Nam khó có thể
thâm nhập sâu hơn vào thị trường này.

Thách thức tại thị trường nội địa:

18


- Về hàng hóa: Thực hiện AKFTA, các doanh nghiệp nội địa của Việt Nam đã gặp
nhiều khó khăn khi phải cạnh tranh với hàng hóa nhập khẩu từ Hàn Quốc với giá cả
phải chăng và chất lượng/mẫu mã tốt hơn, nay VKFTA tiếp tục mở cửa thêm thị
trường trong nước cho hàng nhập khẩu từ Hàn Quốc sẽ lại càng tạo thêm áp lực cho
các doanh nghiệp trong nước.
- Về dịch vụ và đầu tư: Nếu như trong AKFTA Việt Nam hầu như khơng có cam kết
gì về dịch vụ và đầu tư cao hơn so với mức cam kết của Việt Nam trong WTO thì
trong VKFTA Việt Nam có nhiều cam kết mở cửa hơn cho các nhà cung cấp dịch vụ
và đầu tư từ Hàn Quốc, đồng thời cũng cam kết mạnh hơn về cơ chế giải quyết tranh
chấp Nhà nước – nhà đầu tư nước ngoài. Điều này một mặt gây ra áp lực cạnh tranh
cho các nhà cung cấp dịch vụ và đầu tư trong nước vốn có năng lực cạnh tranh tương
đối hạn chế. Mặt khác, việc tăng cường các dự án đầu tư từ Hàn Quốc sẽ tạo ra áp lực
cho các cơ quan quản lý của nhà nước trong việc quản lý đầu tư cũng như các rủi ro
khi xảy ra các tranh chấp về đầu tư.
Doanh nghiệp trong nước có nguy cơ bị thơn tính: Đây thực sự là 1 vấn đề lớn
đối với các doanh nghiệp Việt Nam hiện đang bị đánh giá yếu kém trên các mặt quản
trị ké, tầm nhìn hạn chế. Ngồi ra, uy tín thương hiệu thấp, ngay cả trên sân nhà,
người tiêu dung Việt Nam bị đánh giá là sính ngoại. Bên cạnh đó chiến lược kinh
doanh quốc tế của các doanh nghiệp mờ nhạt, khá thụ động trong cuộc chơi tồn cầu
hóa. Điều này sẽ đẩy các doanh nghiệp Việt Nam vào nguy cơ làm th cả đời, nhận
cấu phần ơ nhiễm, có giá trị gia tăng thấp, dẫn đến nguy cơ bị thôn tính…
Sự tràn lan hàng hóa Hàn Quốc vào thị trường Việt Nam: Sau Trung Quốc thì
dự đốn trong thời gian sắp tới, các sản phẩm của Hàn Quốc (điện tử, điện lạnh, mỹ
phẩm, thời trang) cũng sẽ tràn ngập thị trường Việt Nam. Lúc này khẩu hiệu “Người
Việt Nam dùng hàng Việt Nam” sẽ có nguy cơ trở thành “Người Việt Nam dùng hàng

chất lượng cao Hàn Quốc”.
Việc Hàn Quốc mỗi năm đều tăng thêm nhiều vốn FDI có thể dẫn đến việc
thiếu chú trọng huy động tối đa vốn trong nước, gây ra sự mất cân đối trong cơ cấu
đầu tư, có thể gây nên sự phụ thuộc của nền kinh tế vào vốn đầu tư nước ngoài (Hàn
Quốc). Do đó, nếu tỷ trọng FDI của Hàn Quốc chiếm quá lớn trong tổng vốn đầu tư

19


phát triển thì tính độc lập tự chủ có thể bị ảnh hưởng, nền kinh tế phát triển có tính lệ
thuộc bên ngồi, thiếu vững chắc. Hay việc các cơng ty trong nước nhỏ và yếu không
thể cạnh tranh nổi vói các cơng ty lớn với số vốn khổng lồ của Hàn Quốc dẫn đến bị
đè bẹp trên thương trường hay việc bán phá giá loại trừ đối thủ cạnh tranh khác, độc
chiếm hoặc khống chế thị trường, lấn áp các doanh nghiệp trong nước là điều nếu
không quan tâm sẽ rất khó lường, hay việc tài nguyên thiên nhiên bị cạn kiệt và ô
nhiễm nặng do Hàn Quốc như đã nói ở trên là đầu tư các cơng nghệ cao, linh kiện,
máy móc, hóa chất, dệt may…
5 Giải pháp tăng cường thu hút FDI từ Hàn Quốc vào Việt Nam đến năm 2025
Để tiếp tục phát triển mối quan hệ giữa Việt Nam và Hàn Quốc toàn diện hơn
và sâu sắc hơn, hai nước cần đánh giá lại những thành quả đã đạt được và đặt ra
những kế hoạch hành động trong tương lai với một bước phát triển mạnh mẽ mới. Cụ
thể:
5.1 Cải thiện chính sách quản lí nhà nước về Đầu tư nước ngoài
Hoàn thiện pháp luật về đầu tư.
Trước hết, sửa đổi bổ sung một số điều về luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam
để đảm bảo mơi trường đầu tư có sức hấp dẫn và tính cạnh tranh cao hơn so với các
nước trong khu vực đó là:
 Phải phù hợp với pháp luật chung của nước ngoài để tạo mặt bằng ưu đãi bình
đẳng cho các dự án đầu tư trong và ngồi nước.
 Đảm bảo sự ổn định của luật pháp và chính sách đối với đầu tư nước ngồi

nhằm tạo và giữ lịng tin cho các nhà đầu tư nước ngồi.
Sửa đổi một số điều khoản trong văn bản pháp luật có liên quan đến đầu tư
nước ngồi nhằm tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp:
Cho phép các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài được thế chấp tài sản gắn với
giá trị quyền sử dụng đất tại các ngân hàng Việt Nam, ngân hàng liên doanh và chi
nhánh ngân hàng nước ngoài để tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp được vay vốn phát
triển sản xuất – kinh doanh.

20



×