Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

Dân chủ và dân chủ hóa xã hội, góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền xhcn của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (153.06 KB, 28 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..........................................................................................................1
I. MỘT SỐ LÝ LUẬN CHUNG VỀ DÂN CHỦ VÀ DÂN CHỦ HÓA
XÃ HỘI........................................................................................................2
1.1. Một số lý luận về Dân chủ.............................................................2
1.1.1. Dân chủ.......................................................................................2
1.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ.............................................3
1.2. Một số lý luận về dân chủ hoá xã hội...........................................5
1.2.1. Cách tiếp cận...............................................................................5
1.2.2. Dân chủ và dân chủ hố ở nước ta..............................................6
II. THỰC TRẠNG Q TRÌNH PHÁT TRIỂN DÂN CHỦ VÀ DÂN
CHỦ HÓA XÃ HỘI TẠI VIỆT NAM.......................................................9
2.1. Những kết quả đạt được................................................................9
2.1.1. Dân chủ trong Đảng....................................................................9
2.1.2. Dân chủ trong Nhà nước...........................................................10
2.1.3. Dân chủ trong xã hội.................................................................10
2.2. Một số hạn chế tồn tại..................................................................11
2.2.1. Dân chủ trong Đảng..................................................................11
2.2.2. Dân chủ trong Nhà nước...........................................................12
2.2.3. Dân chủ trong xã hội.................................................................13
2.3. Nguyên nhân của mặt hạn chế về dân chủ và dân chủ hóa xã hội ở
nước ta.................................................................................................14
III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ
THỰC HIỆN DÂN CHỦ HOÁ XÃ HỘI Ở NƯỚC TA.........................15
i


3.1. Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với bộ máy Nhà nước bao
gồm.......................................................................................................15
3.1.1. Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống cơ quan quyền
lực Nhà nước (Quốc hội, HĐND các cấp)..........................................15


3.1.2. Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống cơ quan hành
chính nhà nước....................................................................................17
3.1.3. Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với các cơ quan tư pháp.....19
3.2. Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với các tổ chức chính trị - xã
hội.........................................................................................................19
3.3. Hoàn thiện hệ thống pháp luật, đẩy mạnh cải cách hành chính
...............................................................................................................21
3.4. Hồn thiện hệ thống quan điểm về dân chủ và dân chủ hoá xã
hội.........................................................................................................21
KẾT LUẬN....................................................................................................23
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................25

ii


MỞ ĐẦU

Lịch sử xã hội loài người là lịch sử của quá trình đấu tranh cho hạnh
phúc và tương lai của con người.
Từ thuở xa xưa của nền văn minh cổ đại đến đêm trường trung cổ, con
người luôn luôn khát vọng vươn tới tự do, bình đẳng và ln luôn đấu tranh
không mệt mỏi cho một xã hội tương lai có nhiều hạnh phúc hơn cho con
người. Tất cả những khát vọng và hiện thực cuộc sống tốt đẹp cho con người,
vì con người và do con người, đó chính là dân chủ. Dưới góc độ Chính trị học,
dân chủ gắn liền với lợi ích của các giai tầng xã hội và là lợi ích trực tiếp của
giai cấp thống trị xã hội. Vì vậy dân chủ, dân chủ hố xã hội chịu sự chi phối
của chính trị của bản chất nhà nước.
Nước ta là nước dân chủ - câu nói mang ý nghĩa Tun ngơn của Hồ
Chí Minh chính nói lên bản chất nhà nước ta, phương châm hành động của
Chính phủ và cán bộ ta. Nhưng số phận dân tộc và cơng cuộc đấu tranh giải

phóng dân tộc, chưa cho phép chúng ta tiếp cận đầy đủ và có hệ thống về các
giá trị chung của dân chủ với tư cách là trình độ phát triển cao của văn hố,
văn minh nhân loại. Vì vậy việc nghiên cứu dân chủ, dân chủ hoá xã hội trong
điều kiện Đảng cầm quyền và nhà nước pháp quyền XHCN là yêu cầu nghiêm
túc và rất quan trọng đối với nước ta hiện nay.
Tiểu luận " Dân chủ và dân chủ hóa xã hội, góp phần xây dựng nhà
nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân " là sự
tiếp cận dân chủ, dân chủ hoá từ góc độ Chính trị học. Vận dụng những giá trị
phổ qt của dân chủ để góp phần hình thành chế độ dân chủ XHCN phù hợp
với đặc điểm lịch sử chính trị và trình độ phát triển của đất nước, góp phần
xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta.

1


I. MỘT SỐ LÝ LUẬN CHUNG VỀ DÂN CHỦ VÀ DÂN CHỦ
HÓA XÃ HỘI
1.1. Một số lý luận về Dân chủ
1.1.1. Dân chủ
Dân chủ là một trong những phạm trù được các nhà tư tưởng chính trị,
các nhà xã hội quan tâm nghiên cứu và nêu ra những quan điểm khác nhau về
cách tiếp cận, về nội dung, về chủ thể thực thi dân chủ và vai trò của dân chủ
đối với sự phát triển xã hội và vì vậy dân chủ và dân chủ hố xã hội ln là là
khát vọng của xã hội loài người.
Đứng trên quan điểm khác nhau có thể tiếp cận dân chủ với những đặc
điểm khác nhau:
Xét về xã hội học, thì dân chủ là một phạm trù vĩnh viễn, là nhu cầu
bên trong, là sự phản ánh phương thức, nhu cầu sống của con người, là quyền
tự do, quyền tự quyết của con người, nó hình thành và phát triển cùng với sự
hình thành và phát triển của xã hội loài người.

Xét dân chủ với tư cách là một chế độ nhà nước, thì đó là sự tổng hợp
những hình thức và phương thức tổ chức quyền lực nhà nước, dân chủ luôn
gắn liền với phương thức phân phối lợi ích trong xã hội, dân chủ không chỉ là
nhu cầu khát vọng cá nhân với tư cách là cái riêng, mà dân chủ trở thành khát
vọng chung, cái chung phù hợp với hình thức tổ chức quyền lực chính trị văn
hố cầm quyền, văn hố chính trị và thực thi quyền lực Nhà nước. Do đó, dân
chủ là phạm trù lịch sử, hình thành, phát triển và mất đi cùng với Nhà nước.
Xét trong quan hệ xã hội, dân chủ nói lên sự tơn trọng ý kiến, chính
kiến, lợi ích của người đối thoại, của đối tác. Dân chủ phản ánh trạng thái tinh
thần của xã hội, đặc điểm các quan hệ xã hội và cao hơn dân chủ phản ánh
trình độ nhân văn của một xã hội nhất định.
Lịch sử xã hội lồi người đã trải qua các mơ hình dân chủ như:
2


Mơ hình tham dự: là tạo điều kiện cho nhân dân tham gia tối đa vào xây
dựng thể chế, xây dựng và thực thi quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước.
Mơ hình giới tinh hoa: Đề cao vai trị của giới ưu tú, tinh hoa của các
nhóm xã hội với quan niệm rằng chỉ có giới tinh hoa mới nhận thức được các
quy luật vận động của tự nhiên và xã hội và vì vậy trong mỗi xã hội, giới tinh
hoa đóng vai trị quyết định chứ khơng phải quần chúng nhân dân lao động.
Tuy nhiên, trong việc thực thi quyền lực chính trị, giới tinh hoa cũng phải
quan tâm đến lợi ích của các tầng lớp đơng đảo trong xã hội.
Mơ hình dân chủ đa số: là sự lựa chọn các giá trị chung dựa trên ý kiến
đa số. Tuy nhiên phương thức sử dụng sự lựa chọn này chịu sự chi phối mạnh
mẽ của các nhóm lợi ích, các giai cấp hay các đảng chính trị có lợi ích khơng
đồng nhất. Dân chủ đa số phản ánh tương quan lực lượng trong việc lựa chọn
các giá trị chung.
1.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ
Chủ nghĩa Mác - Lênin dựa trên bản chất xã hội XHCN, là chế độ được

xác lập dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, khẳng định dân chủ dưới
CNXH gấp triệu lần chế độ dân chủ tư sản vì đó là dân chủ cho tuyệt đại đa số
nhân dân trong xã hội. Tuy nhiên, do CNXH hiện thực đang trong q trình
tìm tịi sáng tạo và vận động đi lên. Do đó những dự báo khoa học của các nhà
kinh điển đang từng bước được cụ thể hoá cho phù hợp với sự vận động biện
chứng của lịch sử trên con đường phát triển tất yếu của nó.
Hồ Chí Minh, với sự mẫn cảm sâu sắc về chính trị đồng thời là đại biểu
tiêu biểu cho thân phận dân tộc bị lầm than, với sự kế thừa những giá trị văn
hố Đơng - Tây, ln đề cao nhân dân, coi nhân dân là người sáng tạo ra lịch
sử của dân tộc mình. Người khẳng định "trong bầu trời khơng gì q bằng
nhân dân"; "đẩy thuyền cũng là dân, lật thuyền cũng là dân"; "dễ trăm lần
không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong".
3


Dân là gốc là phạm trù trung tâm trong toàn bộ nhận thức, tư tưởng và
hành động của Hồ Chí Minh.
Từ tư tưởng cốt lõi đó, Hồ Chí Minh nêu lên hệ thống quan điểm cách
mạng và khoa học về dân chủ. Dân chủ với Hồ Chí Minh tức là Dân là chủ và
Dân làm chủ. "nhà nước ta là nhà nước dân chủ; bao nhiêu lợi ích đều vì
dân; bao nhiêu quyền hạn đều của dân; quyền hành và lực lượng đều ở nơi
dân".
Theo Hồ Chí Minh, trong nhà nước dân chủ, quyền lực nhà nước là do
dân uỷ thác mà có, nhân dân cử ra Chính phủ, trao quyền cho Chính phủ để
quản lý đất nước, nhưng quyền vẫn thuộc về dân, nếu Chính phủ khơng làm
trịn nhiệm vụ với dân, lộng quyền thì dân bãi miễn Chính phủ bất cứ lúc nào.
"Nếu Chính phủ có hại cho dân chúng thì dân chúng đập đổ Chính phủ ấy đi".
Dân chủ trong tư tưởng Hồ Chí Minh là dân chủ thực sự, bởi vì trải qua
bơn ba khắp thế giới Hồ Chí Minh đã thấy rõ thứ dân chủ giả hiệu, thức khẩu
hiệu "Tự do - Bình đẳng - Bác ái" mà các nhà nước tư sản làm cái bánh vẽ

dùng để mỵ dân. Ngay sau khi giành được độc lập người đã cảnh báo bệnh
quan liêu xa dân. Người nói: "Đảng khơng phải là nơi làm quan phát tài".
Hay: "cán bộ thì cậy thế mình trong ban này, ban nọ rồi ngang tàng, phóng
túng, muốn sao được vậy, coi khinh dư luận, không nghĩ đến dân. Quyên rằng
dân bầu ra mình để làm việc cho dân, chứ khơng phải để cậy thế với dân; đè
đầu cưỡi cổ dân".
Quan niệm về dân chủ ở Hồ Chí Minh là dân chủ triệt để, dân chủ thực
sự dựa trên nhận thức phải thân dân, gần dân, yêu dân, kính trọng dân, học
dân thì mới có thể tạo nên sức mạnh thực sự của cách mạng, Người viết: "có
phát huy dân chủ cao độ thì mới động viên được tất cả lực lượng của nhân
dân đưa cách mạng tiến lên".
Trong việc lãnh đạo Nhà nước và xã hội thực hiện quyền dân chủ của
nhân dân, Hồ Chí Minh chủ trương trước hết phải thực hành dân chủ trong nội
4


bộ Đảng. Hồ Chí Minh đề ra 12 tư cách của một Đảng cầm quyền để thực
hành dân chủ trong đảng và giữ mối quan hệ với nhà nước và nhân dân.
Quan điểm về dân chủ và thực hành dân chủ trong Đảng trong điều
kiện Đảng cầm quyền được Đảng vận dụng trong suốt quá trình lãnh đạo cách
mạng, lãnh đạo Nhà nước và xã hội trong quá trình lịch sử cách mạng nước ta.
Từ quan niệm về dân chủ, Hồ Chí Minh nêu lên tư tưởng nhà nước
pháp quyền. Theo Người nhà nước pháp quyền phải là nhà nước dân chủ, luật
pháp phải thể hiện bản chất dân chủ và quyền tự do dân chủ của nhân dân phải
thực hiện trong khuôn khổ pháp luật: "luật pháp của chúng ta hiện nay bảo vệ
hàng triệu người lao động... pháp luật của chúng ta phải thật sự dân chủ vì
nó bảo vệ quyền tự do dân chủ rộng rãi cho nhân dân lao động. Nhân dân ta
hiện nay có tự do, tự do trong kỷ luật. Mỗi người có tự do của mình nhưng
phải tơn trọng tự do của người khác, người nào sử dụng quyền tự do của
mình quá mức mà phạm đến tự do của người khác là phạm pháp".

1.2. Một số lý luận về dân chủ hoá xã hội
1.2.1. Cách tiếp cận
Dân chủ hố xã hội chính là quá trình làm cho dân chủ trở thành xã hội,
phổ biến trong sinh hoạt xã hội, là quá trình làm biến đổi nhận thức và hành vi
của toàn xã hội về dân chủ như là hệ giá trị cao, văn minh của con người, cho
con người và vì con người là quyền tự quyết thiêng liêng của con người.
Để thực hiện dân chủ và dân chủ hoá xã hội, nhà nước cần phải:
-

Xây dựng và tuyên truyền, giáo dục hình thành chuẩn mực văn

hố chính trị dân chủ trong bộ máy nhà nước và trong toàn xã hội.
-

Xây dựng thể chế Nhà nước pháp quyền và hình thành hệ thống

chính trị dân chủ - pháp quyền. Trong đó nhân dân là chủ thể quyền lực, là
người quyết định hình thức và phương thức hoạt động của bộ máy Nhà nước.

5


Dân thực hiện sự uỷ quyền có điều kiện và có thời hạn đối với nhà
nước và thực hiện quyền bãi miễn đại biểu đối với đại biểu dân cử, quan chức
chính quyền và Chính phủ khi có sự lạm quyền, tha hoá quyền lực.
Nhân dân là chủ thể được tham gia vào cơng việc của Nhà nước, mọi
chính sách của Nhà nước đều phải hỏi dân, dựa vào dân để thực hiện và để
kiểm tra giám sát.
Nhà nước bảo đảm quyền tự do kinh tế, phát huy năng lực sáng tạo của
nhân dân. Xây dựng thể chế chính trị, hệ thống chính trị phù hợp với tư tưởng

xây dựng Nhà nước pháp quyền và xây dựng xã hội công dân.
-

Bảo đảm nguyên tắc dân chủ trong việc quyết định mọi vấn đề

của Nhà nước trong đó, nguyên tắc tập trung dân chủ cũng phải dựa trên cơ
chế bảo đảm thực sự dân chủ, phải dựa vào dân.
-

Xây dựng quan hệ, tập quán dân chủ trong đời sống chính trị - xã

hội. Coi dân chủ như là hơi thở, là phương thức tồn tại phát triển của các quan
hệ xã hội.
1.2.2. Dân chủ và dân chủ hoá ở nước ta
Nước ta trải qua hàng ngàn năm dưới ách đô hộ của thực dân phong
kiến, đế quốc, dân chủ là khát vọng ngàn đời của cả dân tộc Việt Nam.
Chúng ta may mắn có thiên tài Hồ Chí Minh, mà tư tưởng và sự nghiệp của
người gắn liền với cách mạng giải phóng dân tộc và giải phóng nhân dân. Tư
tưởng của Người về dân chủ ngay từ đầu là kim chỉ nam cho quá trình hình
thành và xây dựng nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà.
Năm 1945, sau cách mạng tháng 8, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng
hoà ra đời, chế độ chính trị nước ta bước sang giai đoạn mới là Đảng Cộng
sản Việt Nam trở thành Đảng cầm quyền.
Hiến pháp năm 1946 khẳng định: Nước Việt Nam là một nước dân chủ
cộng hoà, tất cả quyền bính trong nước là của tồn thể nhân dân Việt Nam,
6


khơng phân biệt nịi giống, gái, trai, giàu, nghèo, giai cấp, tôn giáo" (Điều 1).
Hiến pháp năm 1946 cũng khẳng định các quyền tự do, dân chủ của công dân

về kinh tế, văn hố, chính trị, quyền dân chủ tham gia xây dựng bộ máy Nhà
nước; quy định trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong thực thi các
quyền dân chủ với nhân dân; quy định hệ thống cơ quan quyền lực nhà nước
của nhân dân là Quốc hội và HĐND các cấp, thay mặt nhân dân quyết định và
giám sát toàn bộ hoạt động của bộ máy Nhà nước.
Về các giá trị dân chủ, trong điều kiện đất nước về xâm lăng, Đảng,
Nhà nước và nhân dân ta coi giành độc lập dân tộc là giá trị dân chủ hàng đầu
thiêng liêng nhất. Độc lập dân tộc là trên hết và trước hết gắn liền với tự do,
ấm no hạnh phúc cho nhân dân. Có độc lập dân tộc mới có tất cả. Độc lập dân
tộc là mục tiêu hành động của toàn Đảng và toàn dân ta, trở thành động lực để
cổ vũ, vận động, tổ chức tồn dân, huy động sức lực, trí tuệ, của cải, máu
xương của toàn dân để chiến đấu và chiến thắng kẻ thù, giành độc lập dân tộc,
thống nhất Tổ quốc đưa cả nước bước vào giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã
hội.
Trong điều kiện đặc biệt của dân tộc, Đảng đã thực hiện nguyên tắc
"lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối và toàn diện" nhằm tập trung cao độ sự lãnh đạo
chính trị vào một đầu mối chỉ huy vào "Bộ chỉ huy thống sối - bộ chính trị"
để tận dụng tối đa mọi nguồn lực của đất nước cho mục tiêu cao nhất là đánh
bại kẻ thù xâm lược. Lịch sử cách mạng nước ta từ khi có Đảng đã đặt lên vai
đảng ta sứ mệnh lãnh đạo trực tiếp, toàn diện, tuyệt đối sự nghiệp cách mạng
bằng các quyết sách, quyết định cụ thể mang tính chỉ huy và tổ chức trực tiếp
đối với Nhà nước và xã hội, điều này vừa nói lên tính phù hợp hồn cảnh lịch
sử của đất nước vừa tạo tiền đề khách quan cho sự phát huy dân chủ trong
Đảng, nhưng khi đất nước bước vào giai đoạn xây dựng nhà nước pháp
quyền, xây dựng xã hội công dân, xã hội dân sự thì việc tiếp tục duy trì
phương thức lãnh đạo đó sẽ ảnh hưởng đến vai trò của nhà nước pháp quyền
7


và sự phát triển của thực tiễn, nhất là sau khi giải phóng miền Nam thống nhất

Tổ quốc từ 1975 đến năm 1986. Việc duy trì phương thức lãnh đạo trực tiếp,
tuyệt đối và tồn diện theo mơ hình tập trung quan liêu bao cấp trong điều
kiện một đất nước lạc hậu, vừa thoát ra chiến tranh xâm lược lại bị bao vây,
cấm vận toàn diện của các thế lực thù địch dẫn đến sự cự tuyệt nền kinh tế
nhiều thành phần, áp đặt quan hệ sản xuất XHCN ngay trong chặng đường
đầu tiên của thời kỳ quá độ lên CNXH, đã làm thủ tiêu dân chủ trong Đảng,
trong Nhà nước và xã hội, làm cho đất nước bước vào thời kỳ khủng hoảng
toàn diện tưởng như thành quả cách mạng giải phóng dân tộc khơng thể nào
đứng vững được.
Với truyền thống cách mạng và bản chất của một Đảng được tôi luyện
trong lịch sử đấu tranh, với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, nói đúng sự thật,
tơn trọng và hành động theo quy luật khách quan nhận thức sâu sắc bài học
lấy dân làm gốc. Đảng ta đã tự phê bình, kiên quyết sửa chữa khuyết điểm và
đề ra đường lối đổi mới từ Đại hội VI, đây có thể được coi là bước đột phá
cực kỳ quan trọng trong việc phát huy dân chủ trong Đảng, đặt nền móng cho
việc hình thành quan điểm xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN cùng với
cơ chế thị trường định hướng XHCN và xây dựng xã hội công dân để đưa
nước ta tiếp cận và hoà nhập vào đời sống chính trị thế giới.
Thành tựu 35 năm đổi mới đã khẳng định chúng ta đã giành được
những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử trên tất cả các lĩnh vực kinh tế,
văn hoá, xã hội, an ninh quốc phòng và đối ngoại. Thế và lực của cách mạng
nước ta được củng cố và tăng cường trên trường quốc tế.
Tuy nhiên, trong điều kiện xây dựng đất nước thực hiện cơng nghiệp
hố, hiện đại hố đất nước. Thực hiện nguyên tắc Đảng Cộng sản Việt Nam
lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Mục đích và bản chất nhà nước là Nhà nước
pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, một nhà nước
thống nhất về lãnh thổ, có nền văn hố thống nhất trong đa dạng của 54 đất
8



dân tộc anh em, Đảng đóng vai trị là đội tiên phong của giai cấp công nhân
đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc, rõ ràng dân
chủ trong Đảng và dân chủ hoá xã hội hiện nay mang những nội dung hoàn
toàn mới và tồn diện hơn, địi hỏi Đảng ta phải nghiên cứu tìm tịi, kế thừa và
phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ; về Đảng
cầm quyền; về dân chủ hoá, về Nhà nước của dân, do dân, vì dân để hình
thành văn hố chính trị về dân chủ trong Đảng và trong xã hội nhằm xây dựng
nhà nước pháp quyền XHCN mang đặc thù Việt Nam nhưng phù hợp với tiến
bộ phát triển của nhân loại.
II. THỰC TRẠNG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN DÂN CHỦ VÀ
DÂN CHỦ HÓA XÃ HỘI TẠI VIỆT NAM
2.1. Những kết quả đạt được
2.1.1. Dân chủ trong Đảng
Việc thực hiện dân chủ trong các mặt hoạt động của Đảng, như công
tác lý luận, công tác tư tưởng, công tác tổ chức và cán bộ, cơng tác kiểm tra,
v.v. đã có nhiều chuyển biến tích cực. Cụ thể là:
Thứ nhất, những thành tựu có ý nghĩa lịch sử của đổi mới trong 30 năm
qua là kết quả của việc thực hiện các chủ trương, đường lối đúng đắn của
Đảng. Sở dĩ có các chủ trương, đường lối đúng đắn là do có dân chủ thảo luận
và Đảng biết lắng nghe ý kiến đóng góp của hàng triệu cán bộ, đảng viên, của
các nhà khoa học và của nhân dân.
Thứ hai, về công tác tư tưởng, Đảng ta đã thường xuyên đổi mới, nâng
cao chất lượng các hoạt động tuyên truyền, thuyết phục và vận động quần
chúng. Trong thực tế, kết quả của công tác tư tưởng thể hiện ở chỗ: Tiếp tục
giữ vững ổn định chính trị, người dân ngày càng được biết nhiều hơn về các
chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Cùng với việc dân biết, dân
cũng được bàn bạc và tham gia ý kiến về nhiều việc quan trọng. Nhờ vậy, các
9



chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước nhận được sự đồng tình, ủng
hộ của quảng đại quần chúng nhân dân.
Thứ ba, công tác tổ chức, cán bộ đã có nhiều chuyển biến tích cực: Các
cơ quan Đảng, Nhà nước và các đoàn thể được sắp xếp lại, kiện toàn theo
hướng tinh gọn, nâng cao hiệu quả. Nhiều chủ trương, quan điểm, giải pháp
về công tác cán bộ được thể chế hóa, cụ thể hóa thành các quy chế, quy định.
Đảng đã triển khai tương đối đồng bộ các khâu đánh giá, tuyển chọn, quy
hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, bố trí, sử dụng và thực hiện chính
sách cán bộ. Công tác tổ chức, cán bộ chuyển hướng theo hướng dân chủ hóa.
2.1.2. Dân chủ trong Nhà nước
Dân chủ trong Đảng gắn liền với dân chủ trong Nhà nước. Nói về
những thành tựu và hạn chế của việc thực hành dân chủ trong Đảng cũng tức
là nói về thành tựu và hạn chế của việc thực hành dân chủ trong Nhà nước.
Tuy nhiên, dân chủ trong Nhà nước cũng có những nét đặc thù.
Nhà nước đã tạo những điều kiện thuận lợi để nhân dân nắm bắt các
chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, nắm được các thủ tục hành
chính giải quyết các cơng việc liên quan với nhân dân, biết được quy hoạch,
kế hoạch của Nhà nước về sử dụng đất đai, về dự toán, quyết toán ngân sách,
v.v.. Đồng thời, cùng với việc dân biết, dân còn được bàn bạc nhiều việc quan
trọng, như những dự án, mức đóng góp xây dựng cơ sở hạ tầng ở địa phương,
các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch dân cư, điều chỉnh địa giới
hành chính, phương án đền bù giải phóng mặt bằng, v.v.. Nhà nước đều hỏi ý
kiến nhân dân.
2.1.3. Dân chủ trong xã hội
Dân chủ trong Đảng, dân chủ trong Nhà nước và dân chủ trong xã hội
có liên quan chặt chẽ với nhau, trong đó dân chủ trong Đảng có ý nghĩa quyết

10



định. Nếu dân chủ trong Đảng chưa tốt thì dân chủ trong Nhà nước và trong
xã hội cũng chưa thể tốt được.
Nhờ có những chủ trương đúng đắn của Đảng, nhờ việc thể chế hóa của
Nhà nước về những chủ trương đó nên dân chủ trong xã hội đã có những
bước tiến đáng kể. Điều đó thể hiện:
Một là, nhân dân ta cảm nhận bầu khơng khí dân chủ hơn, cởi mở hơn
trong xã hội. Ở cơ sở, người dân đã chủ động bàn bạc, tham gia ý kiến, thực
hiện quyền làm chủ, bày tỏ chính kiến của mình; đồng thời, tích cực tham gia
cơng tác xây dựng Đảng, chính quyền, thể hiện tốt vai trò giám sát đối với cán
bộ, đảng viên, thẳng thắn góp ý kiến về hoạt động của các cơ quan nhà nước ở
địa phương.
Hai là, trong 35 năm đổi mới vừa qua, việc thực hành dân chủ trong xã
hội đã có những bước tiến căn bản trong các lĩnh vực, từ kinh tế, chính trị đến
văn hóa và xã hội. Quyền cơng dân, quyền con người được khẳng định rõ
ràng trong Hiến pháp năm 2013. Có thể nói, một trong thành tựu quan trọng
của đổi mới là nền dân chủ đang được hình thành, đang đóng vai trị là động
lực của sự phát triển xã hội.
2.2. Một số hạn chế tồn tại
2.2.1. Dân chủ trong Đảng
Cơng tác tư tưởng cịn thiếu sắc bén, thiếu sức thuyết phục, tính chiến
đấu cịn hạn chế, chưa sâu sát thực tế, chưa linh hoạt. Tình trạng suy thối của
một bộ phận khơng nhỏ cán bộ đảng viên về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối
sống một phần là do công tác tư tưởng chưa làm tốt chức năng, nhiệm vụ giáo
dục chính trị và tư tưởng. Các thơng tin chưa được cung cấp thường xuyên để
dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra. Chưa thật sự mở rộng dân chủ trong
tự do ngôn luận, lắng nghe các ý kiến khác biệt. Vẫn tồn tại tình trạng nói
nhiều, làm ít hoặc nói nhưng khơng làm.
11



Công tác tổ chức, cán bộ vẫn chậm được đổi mới, cịn một số biểu hiện
trì trệ, yếu kém, bất cập. Tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị có quá nhiều
đầu mối, trách nhiệm tập thể và cá nhân không rõ ràng, chất lượng hoạt động
và hiệu quả thấp. Bộ máy còn cồng kềnh, chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền
của nhiều cơ quan còn chồng chéo; cơ chế vận hành và nhiều quan hệ còn bất
hợp lý. Chưa thực sự lắng nghe ý kiến của nhân dân về tuyển chọn, đào tạo,
sắp xếp, sử dụng và đánh giá cán bộ. Chưa thực hành dân chủ trong công tác
tổ chức, cán bộ, chưa thực hiện cơ chế lựa chọn có số dư cho việc tuyển chọn
và bổ nhiệm cán bộ, đặc biệt là chưa mở rộng dân chủ thực sự để tạo ra môi
trường cho tài năng được phát huy. Chưa thực hiện cơng khai hóa, minh bạch
hóa các khâu trong công tác cán bộ để nhân dân được biết và có điều kiện
theo dõi, giám sát q trình triển khai thực hiện;
Công tác kiểm tra, giám sát của Đảng còn nhiều hạn chế, đặc biệt là
chưa thực hành đầy đủ dân chủ trong công tác này. Hầu hết các vụ tham
nhũng, tiêu cực không phải do cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan kiểm tra phát
hiện được mà chủ yếu do nhân dân phát hiện, tố cáo hoặc báo chí nêu. Vì vậy,
phải xây dựng đầy đủ, đồng bộ cơ chế, chính sách để nhân dân tham gia kiểm
tra, giám sát đối với tổ chức đảng và đảng viên, vì khơng có cơ chế, chính
sách cụ thể, đồng bộ thì nhân dân khơng thể giám sát, kiểm tra được;
2.2.2. Dân chủ trong Nhà nước
Dân chủ trong Nhà nước vẫn còn những hạn chế nhất định. Trong chế
độ dân chủ và pháp quyền thì quyền lực nhà nước khơng phải là quyết định tự
có của Nhà nước, mà quyền lực đó được nhân dân ủy quyền, giao quyền.
Quyền lực nhà nước là của nhân dân giao cho các cơ quan nhà nước, giao cho
những con người cụ thể, mà ở con người cụ thể khi các dục vọng, thói quen
nổi lên thì khả năng sai lầm trong việc thực thi quyền lực càng lớn. Không thể
khẳng định người được ủy quyền ln làm đúng, làm đủ những gì mà nhân
dân ủy quyền. Vì vậy, phải kiểm sốt quyền lực nhà nước để hạn chế sự lộng
12



quyền, lạm quyền. Muốn kiểm soát quyền lực nhà nước thì phải thực hành
dân chủ rộng rãi. Nhưng dân chủ chưa được thực hành rộng rãi nên vẫn còn
sự lộng quyền, lạm quyền, vẫn cịn tình trạng quan liêu, cửa quyền, phiền hà
đối với nhân dân, chưa khắc phục được bệnh tham ơ, lãng phí, v.v..
Nhà nước cịn chậm thể chế hóa các chủ trương của Đảng về dân chủ
thành pháp luật, thành quy chế, nên các chủ trương của Đảng đi vào cuộc
sống rất chậm làm ảnh hưởng đến sự phát triển của đất nước.
2.2.3. Dân chủ trong xã hội
Thực hành dân chủ trong xã hội ở nước ta còn một số hạn chế sau đây:
Thứ nhất, nhận thức về dân chủ trong một bộ phận cán bộ, đảng viên và
nhân dân còn nhiều hạn chế, nên thiếu trách nhiệm trong việc triển khai thực
hiện dân chủ ở cơ sở.
Thứ hai, nhiều chủ trương về thực hành dân chủ trong xã hội chưa được
thể chế hóa, nên chủ trương thì đúng và hay, nhưng thực tế thực hành dân chủ
trong xã hội chưa tốt, quyền làm chủ của nhân dân chưa được tôn trọng và
phát huy đầy đủ, thậm chí quyền làm chủ của nhân dân ở một số nơi, trên một
vài lĩnh vực còn bị vi phạm. Việc thực hành dân chủ cịn mang tính hình thức;
có tình trạng lợi dụng dân chủ để gây chia rẽ, làm mất đoàn kết nội bộ, gây
rối, ảnh hưởng đến trật tự, an toàn xã hội.
Thứ ba, việc giải quyết yêu cầu phát huy dân chủ, tự do ngôn luận, lắng
nghe các ý kiến khác biệt, tư duy phản biện trong xã hội với việc giữ vững kỷ
luật, kỷ cương, phép nước cịn nhiều bất cập. Tình trạng tách rời, thậm chí đối
lập giữa dân chủ và kỷ cương, dân chủ và pháp luật cịn xuất hiện ở khơng ít
người. Trong xã hội cịn khơng ít hiện tượng vừa chun quyền, độc đốn,
mất dân chủ hay dân chủ hình thức, lại vừa dân chủ quá trớn, cực đoan.
Thứ tư, chưa có cơ chế bảo đảm để nhân dân thực hiện vai trò chủ thể
của quyền lực, trên thực tế, quyền lực vẫn thuộc về các cơ quan nhà nước.
13



Việc nhân dân giám sát chính quyền cũng chưa có cơ chế rõ ràng, trên thực
tế, việc giám sát này cịn rất mờ nhạt. Tình trạng quan liêu của bộ máy hành
chính làm cho yêu cầu quản lý các quá trình kinh tế - xã hội và phát huy
quyền làm chủ của nhân dân chưa thật nhanh, nhạy và hiệu quả cao. Trong
nhiều trường hợp, “hành chính” trở thành “hành dân là chính”.
2.3. Nguyên nhân của mặt hạn chế về dân chủ và dân chủ hóa xã hội ở nước
ta
Thứ nhất, vấn đề dân chủ ở nước ta còn chưa được giải quyết tốt cả về
lý luận lẫn thực tiễn, nhiều vấn đề đặt ra chưa được giải quyết rõ ràng. Điều
đó gây khó khăn cho việc thực hành dân chủ. Cụ thể như việc chúng ta chưa
làm sáng tỏ cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ. Mặc
dù Đảng đề ra cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ
nhưng chưa phân rõ chức năng lãnh đạo với chức năng quản lý nên vẫn có sự
chồng chéo lên nhau; nhân dân làm chủ như thế nào vẫn chưa rõ và chưa có
cơ chế rõ ràng.
Bên cạnh đó, mặc dù chúng ta coi dân chủ vừa là mục tiêu vừa là động
lực, nhưng chưa có lộ trình để đạt mục tiêu đó và vẫn coi nhẹ thực hành dân
chủ với tư cách là một động lực của sự phát triển xã hội nên chưa phát huy
được động lực này. Chúng ta cũng chưa có nhận thức đầy đủ về mối quan hệ
giữa dân chủ và kỷ cương nên cả hai đều thực hiện chưa tốt, dân chủ chưa
được phát huy, kỷ cương không được xiết chặt, cả dân chủ lẫn kỷ cương đều
vừa thiếu lại vừa yếu.
Thứ hai, việc thực hành dân chủ trong Đảng và trong Nhà nước của
chúng ta chưa tốt nên ảnh hưởng đến thực hành dân chủ trong xã hội, Đảng
chưa nêu được tấm gương về thực hành dân chủ.
Thứ ba, Nhà nước pháp quyền đang trong giai đoạn hình thành cho nên
việc thể chế hóa các chủ trương của Đảng về dân chủ chưa kịp thời. Mặt khác,
14



Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội chưa thực hiện triệt để vai
trò giám sát và phản biện xã hội. Chúng ta còn né tránh và chưa cho phép xây
dựng các thiết chế xã hội để giảm sát và phản biện các vấn đề xã hội. Điều
này ảnh hưởng to lớn tới việc thực hành dân chủ trong xã hội.
Ngồi ra, cịn có nhiều nguyên nhân khác nữa, nhưng những nguyên
nhân nói trên là những nguyên nhân chủ yếu của mặt hạn chế dân chủ ở nước
ta.
III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM NÂNG CAO HIỆU
QUẢ THỰC HIỆN DÂN CHỦ HOÁ XÃ HỘI Ở NƯỚC TA
3.1. Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với bộ máy Nhà nước bao gồm
3.1.1. Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống cơ quan quyền lực Nhà
nước (Quốc hội, HĐND các cấp)
Cần xác định rõ mối quan hệ về nguyên tắc lãnh đạo của Đảng với chức
năng quyết định của cơ quan quyền lực Nhà nước đối với nhiệm vụ phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước và địa phương.
Bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng thông qua đường lối, chiến lược và nghị
quyết của Đảng và tổ chức thực hiện thông qua hệ thống tổ chức của đảng,
thông qua cán bộ, đảng viên của đảng tham gia trong các cơ quan nhà nước
như Đảng đoàn Quốc hội và HĐND, các đảng viên trong Quốc hội và HĐND,
nhưng phải bảo đảm ngun tắc hồn tồn tơn trọng tổ chức và các quyết
định, nghị quyết của Quốc hội, HĐND các cấp. Các nghị quyết của Đảng phải
mang tính định hướng nhằm phát huy dân chủ thực sự, dân chủ cao nhất trong
sinh hoạt của đại biểu Quốc hội và HĐND để quyết định, thực sự phản ánh ý
chí, nguyện vọng của nhân dân.
Để thực hiện được nguyên tắc lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước,
Đảng cần lãnh đạo việc tăng cường cán bộ chuyên trách của Quốc hội và
HĐND các cấp, bảo đảm đủ chức danh và hoạt động độc lập theo quy định
15



của pháp luật. Đảng giới thiệu những cán bộ đảng viên có đủ phẩm chất và
năng lực quán triệt, cụ thể hoá nghị quyết của đảng vào giữ một số chức vụ do
Quốc hội và HĐND bầu để hiện thực hoá quan điểm đường lối của đảng trong
các nghị quyết và quyết định của Quốc hội và HĐND. Đảng viên của Đảng
trong quá trình thực hiện nhiệm vụ đại biểu Quốc hội và HĐND của mình
phải nghiên cứu vận dụng nghị quyết của Đảng cho phù hợp. Về nguyên tắc
không "để lộ ý đồ" lãnh đạo của đảng trong hoạt động của Quốc hội và
HĐND vì đó là các diễn đàn thể hiện rộng rãi nhất đại diện của các tầng lớp
nhân dân khơng hồn tồn đồng nhất về tư tưởng.
Mặt khác, trong khi quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và
địa phương, các đảng viên có quyền thực hiện độc lập quan điểm đại biểu của
mình, có quyền biểu quyết các chỉ tiêu, giải pháp khác so với định hướng của
đảng như phù hợp với đường lối, điều kiện thực tế và nguồn lực của đất nước
và địa phương mà không bị tổ chức đảng đánh giá là khơng chấp hành nghị
quyết đảng. Đó chính là tính biện chứng trong vai trị lãnh đạo của đảng đối
với cơ quan quyền lực nhà nước vì nhận thức là một quá trình, một hệ thống
mở.
Khắc phục tình trạng khá phổ biến là coi HĐND là cơ quan "làm thêm";
cơ quan "hợp thức hố" ý chí của Đảng và từ đó Đảng khơng quan tâm đúng
mức việc kiện tồn bộ máy, không đầu tư đúng mức công tác cán bộ và không
thực sự quan tâm lãnh đạo hoạt động của cơ quan quyền lực nhất là HĐND
các cấp. Mọi việc quan trọng của địa phương từ chiến lược đến bộ phận, từ vĩ
mô đến vi mô, từ phân bổ ngân sách đến đầu tư xây dựng, từ vay đến trả, chi
tiêu mua sắm... đã có đảng chỉ đạo thực hiện. Làm cho HĐND ở nhiều nơi tồn
tại như "cái bóng" của đảng, hữu danh vơ thực dẫn đến hiệu lực và hiệu quả
hoạt động thấp không như mong muốn mà các tầng lớp nhân dân trao gửi.
Làm đại biểu của nhân dân trong hồn cảnh như vậy khó mà hồn thành sứ
mạng đại biểu cho ý chí và nguyện vọng chính đáng của nhân dân.
16



Vậy trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì
dân có thể khẳng định rằng đổi mới sự lãnh đạo của đảng đối với cơ quan
quyền lực nhà nước là một trong những khâu đột phá của hệ thống chính trị
nước ta. Đảng phải thực sự tôn trọng và lãnh đạo Quốc hội, HĐND các cấp
thực hiện tốt chức năng quyết định và giám sát mọi lĩnh vực của đời sống kinh
tế xã hội, bảo đảm quyền lực của nhân dân, phát huy thực sự và cao độ dân
chủ của nhân dân trong việc tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội, giám
sát đại biểu dân cử và giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước.
3.1.2. Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống cơ quan hành chính
nhà nước
Cơ quan hành chính nhà nước là cơ quan chấp hành của Quốc hội và
HĐND các cấp. ở nước ta, Chính phủ do Quốc hội bầu ra, UBND do HĐND
bầu ra để quản lý đất nước, thực thi pháp luật. Sự lãnh đạo của đảng đối với
cơ quan hành chính nhà nước về mặt thể chế là lãnh đạo cụ thể hoá đường lối
của đảng thành pháp luật và các VBQPPL làm cơ sở cho việc tổ chức thực
hiện của cơ quan hành chính nhà nước. Nhưng trong thực tế đất nước ta còn
tồn tại một thực trạng là đều là đảng viên của đảng, đều là đại biểu Quốc hội
hoặc là HĐND nhưng được đảng phân công vào các vị trí chủ chốt trong
Chính phủ và UBND thì rất phấn khởi và ngược lại nếu được phân công làm
chủ chốt ở HĐND thì cho đó là có vấn đề, thậm chí ở một tỉnh đề bạt một phó
chủ tịch đã tại vị 2 nhiệm kỳ lên làm phó chủ tịch HĐND thì đồng chí làm
đơn xin về làm giám đốc Sở Nội vụ. Vì sao vậy, câu trả lời khơng chỉ ở chỗ
làm hành pháp là trực tiếp tác chiến trên mặt trận, có quan lương đạn dược, có
quyền bài binh bố trận và tiêu tổn binh lực vật lực nên có sức hấp dẫn, mà xét
về góc độ lãnh đạo của đảng đang đặt ra những vấn đề nghiêm túc như sau:
Vì cơ cấu nhân sự tham gia vào cơ quan lãnh đạo của Đảng đối với
UBND là cơ quan cấu cứng trong khi cơ cấu của HĐND là cơ cấu cứng trong
khi cơ cấu của HĐND là cơ cấu mềm, hệ qua là trong BTV cấp uỷ có nhiều

17


đại diện là lãnh đạo chủ chốt của UBND. Mặt khác theo tư duy lãnh đạo
truyền thống mọi việc của địa phương do đảng quyết định, do vậy cịn tình
trạng khá phổ biến là sau khi có nghị quyết của cấp uỷ hoặc BTV, thì UBND
ban hành quyết định, chỉ thị tổ chức thực hiện luôn mà không cần phải thơng
qua HĐND. Đó là một cách đi tắt bỏ qua quyền lực của nhân dân rất ngoạn
mục. Qua khảo sát ở một số tỉnh ở khu vực miền trung, cho thấy trong chức
năng quyết định quy hoạch, kế hoạch dài hạn và hàng năm của HĐND,
HĐND chỉ mới thực hiện dưới 50% các nhiệm vụ chủ yếu, có nơi chỉ mới
20,3%. Cịn lại UBND tự quyết định. Có nơi từ đầu nhiệm kỳ HĐND đến nay
chưa có một cơng trình trọng điểm nào của địa phương mà UBND đưa ra
HĐND quyết định.
Trong thực hiện chức năng giám sát, các kiến nghị của HĐND thường
không được các cơ quan giải quyết, nếu đưa ra kỳ họp thì UBND trả lời là
chúng tôi đang xin ý kiến của thường vụ và như vậy luật tổ chức HĐND và
UBND khơng có ý nghĩa thực
tiễn gì.
Vậy sự lãnh đạo của đảng đối với cơ quan hành chính nhà nước phải
mang tính gián tiếp, nghĩa là nghị quyết của đảng nhất định phải được cụ thể
hố thành thể chế, thành quy phạm pháp luật thì cơ quan hành chính nhà nước
mới được thực hiện (trừ các loại văn bản cá biệt của người đứng đầu hoặc các
văn bản không phải là VBQPPL). Sự lãnh đạo của đảng đối với cơ quan hành
chính nhà nước chủ yếu là lãnh đạo các tổ chức Đảng, đảng viên thực hiện
nhiệm vụ chính trị của đất nước, của địa phương đã được thể chế hoá thành
hiến pháp, pháp luật, nghị quyết của Quốc hội, Nghị quyết của Chính phủ,
Nghị quyết của HĐND các cấp bằng các nghị quyết, chỉ thị của đảng để quán
triệt và tổ chức thực hiện trong tổ chức đảng từ Trung ương đến cơ sở, lãnh
đạo kiểm tra, giám sát cán bộ đảng viên chấp hành chính sách pháp luật nhà

nước chứ khơng bao biện, làm thay, can thiệp vào công việc của nhà nước, vô
18



×