Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

Vận dụng tư tưởng hồ chí minh về cách mạng giải phóng dân tộc trong giai đoạn hiện nay của đảng ta

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (104.06 KB, 11 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC ….
logo
BÀI TẬP LỚN MÔN TRIẾT HỌC MÁC- LÊNIN
ĐỀ TÀI:
VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÁCH MẠNG GIẢI
PHĨNG DÂN TỘC TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY CỦA ĐẢNG TA

HỌ VÀ TÊN:
MSSV:
LỚP TC:
GV HƯỚNG DẪN:

HÀ NỘI , THÁNG 8 NĂM 2021


PHẦN I: LỜI MỞ ĐẦU
Lâu nay, tên tuổi Hồ Chí Minh đã trở nên gần gũi thân thiết đối với
hàng trăm triệu người trên thế giới. Hồ Chí Minh là con người Việt Nam ưu
tú điển hình của mọi thời đại. Suốt cuộc đời hoạt động, Người đã dành phần
lớn tâm tư và sức lực cho sự nghiệp vĩ đại là tìm ra con đường cách mạng giải
phóng dân tộc. Tư tưởng Hồ chí Minh là một hệ thống tồn diện, có nội dung
rất phong phú, đa lĩnh vực và là hệ thống mở. Các ngành, các giới, các đối
tượng có thể lựa chọn, bổ sung những chuyên đề có nội dung phù hợp với
nhiệm vụ chính trị của mình. Trong các nợi dung của tư tưởng Hồ Chí Minh,
giải phóng dân tộc là nội dung quan trọng nhất và có ý nghĩa hàng đầu, trước
hết của CM Việt Nam. Giải phóng dân tộc, xét về thực chất là đánh đổ ách
thống trị, áp bức, xâm lược của đế quốc thực dân, giành độc lập dân tộc, hình
thành Nhà nước dân tộc độc lập và tự do lựa chọn con đường phát triển của
dân tộc phù hợp xu hướng phát triển của thời đại, tiến bộ xã hội.
Do đó việc nhận thức đúng đắn quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin,


tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề cách mạng dân tộc và sức mạnh dân tộc là
vấn đề thiết yếu đối với mỗi cá nhân, đặc biệt là sinh viên- những người nắm
giữ tương lai của đất nước ta. Vì vậy chúng em đã lựa chọn đề tài: “Vận
dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc trong giai
đoạn hiện nay của Đảng ta” nhằm hiểu rõ hơn về quan điểm của Bác, rút ra
kinh nghiệm bản thân đồng đưa ra kiến nghị giúp cho học sinh, sinh viên có
được một tinh thần độc lập dân tộc tốt nhất.

1


PHẦN II: NỘI DUNG
CHƯƠNG I: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÁCH MẠNG GIẢI
PHÓNG DÂN TỘC
1.1. Mục tiêu của cách mạng giải phóng dân tộc
CM giải phóng dân tộc nhằm đánh đổ ách thống trị của chủ nghĩa thực
dân, giành độc lập dân tộc và thiết lập chính quyền của nhân dân. Nguyễn Ái
Quốc ra đi tìm đường cứu nước, tin theo Lênin và Quốc tế thứ ba, vì Quốc tế
thứ ba có chủ trương giải phóng dân tộc bị áp bức. Mục tiêu cấp thiết của CM
ở thuộc địa chưa phải là giành quyền lợi riêng biệt của mỗi giai cấp, mà là
quyền lợi chung của toàn dân tộc. Đó là những mục tiêu của đấu tranh dân
tộc, phù hợp với xu thế của thời đại CM chống đế quốc, thời đại giải phóng
dân tộc, đáp ứng nguyện vọng độc lập, tự do của quần chúng nhân dân.
Tuy nhiên, do những hạn chế trong nhận thức về thực tiễn của CM
thuộc địa, lại chịu ảnh hưởng của tư tưởng giáo điều, “tả khuynh”, Hội nghị
lần thứ nhất Ban chấp hành Trung ương Đảng (10-1930) đã phê phán những
quan điểm của Nguyễn Ái Quốc, tháng 5-1941, Nguyễn Ái Quốc chủ trì Hội
nghị lần thứ tám Ban chấp hành Trung ương Đảng, chủ trương “thay đổi
chiến lược”, từ nhấn mạnh đấu tranh giai cấp sang nhấn mạnh cuộc đấu tranh
giải phóng dân tộc.

Thắng lợi của CM Tháng Tám 1945 cũng như những thắng lợi trong 30
năm chiến tranh CM Việt Nam 1945-1975 trước hết là thắng lợi của đường
lối CM giải phóng dân tộc đúng đắn và tư tưởng độc lập, tự do của Hồ Chí
Minh.
1.2. Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phả đi theo con đường
của cách mạng vô sản.
- Đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin vào
thực tiễnViệt Nam qua các chặng đường gian nan thử thách, Hồ Chí Minh
2


luôn luôn khẳng định một chân lý là: Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc
khơng có con đường nào khác là cách mạng vô sản.
- Từ đầu những năm 20 của thế kỷ XX, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: chủ nghĩa đế
quốc là một con đỉa hai vòi, một vịi bám vào chính quốc, một vịi bám vào
thuộc địa. Muốn đánh bại chủ nghĩa đế quốc phải đồng thời cắt cả hai cái vịi
của nó đi, tức là phải kết hợp cách mạng vơ sản ở chính quốc với cách mạng
giải phóng dân tộc ở thuộc địa; phải xem cách mạng ở thuộc địa như là “một
trong những cái cánh của cách mạng vô sản”, phát triển nhịp nhàng với cách
mạng vơ sản.
1.3. Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải do Đảng của giai
cấp công nhân lãnh đạo.
- Hồ Chí Minh đã sớm khẳng định: muốn sự nghiệp giải phóng dân tộc
thành cơng “Trước hết phải có đảng cách mệnh... Đảng có vững cách mệnh
mới thành cơng”
- “Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt... Bây giờ học thuyết
nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất,
cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”.
- Hồ Chí Minh đã khẳng định nguyên tắc xây dựng Đảng: Đảng của
giai cấp công nhân phải được xây dựng theo các nguyên tắc Đảng kiểu mới

của Lênin.
1.4. Cách mạng giải phóng dân tộc là sự nghiệp đoàn kết của toàn dân,
trên cơ sở liên minh cơng – nơng.
Hồ Chí Minh viết: cách mạng “là việc chung cả dân chúng chứ không
phải việc việc của một hai người”, vì vậy phải đồn kết tồn dân, “sĩ, nơng,
cơng, thương đều nhất trí chống lại cường quyền”. Trong sự tập hợp rộng rãi
đó, Người khẳng định cái cốt của nó là cơng – nơng, “cơng nơng là người chủ
cách mệnh... công nông là gốc cách mệnh”.
3


- Trong cách mạng giải phóng dân tộc, Hồ Chí Minh chủ trương cần
vận động, tập hợp rộng rãi các tầng lớp nhân dân Việt Nam đang mất nước,
đang bị làm nô lệ trong một Mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi nhằm huy
động sức mạnh của toàn dân tộc, đấu tranh giành độc lập, tự do.
- Đảng cần có các chủ trương, chính sách tranh thủ vận động các tầng
lớp nhân dân vì mục tiêu chung. Trong sách lược vắn tắt, Người viết: “Đảng
phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nơng, Thanh niên, Tân
Việt... để kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp. Cịn đối với phú nơng, trung,
tiểuđịa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi
dụng, ít lâu mới làm cho họ đứng tập trung...
- Trong khi chủ trương đoàn kết, tập hợp rộng rãi các lực lượng dân tộc
chống đế quốc, Hồ Chí Minh vẫn nhắc nhở phải quán triệt quan điểm giai
cấp: “cơng nơng là gốc cách mệnh; cịn học trị, nhà buôn nhỏ, điền chủ nhỏ
cũng bị tư bản áp bức, song không cực khổ bằng công nông; 3 hạng ấy chỉ là
bầu bạn cách mệnh của công nông thôi”. Và trong khi liên lạc với các giai
cấp, phải rất cẩn thận, khơng khi nào nhượng một chút lợi ích gì của cơng
nơng mà đi vào đường thỏa hiệp”.
1.5. Cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo
và có khả năng giành thắng lợi trước cách mạng vơ sản ở chính quốc.

- Đầu thế kỷ XX, trong phong trào Cộng sản quốc tế đã từng tồn tại
quan điểm xem thắng lợi của cách mạng thuộc địa phụ thuộc trực tiếp vào
thắng lợi của cách mạng vơ sản ở chính quốc. Quan điểm này vơ hình trung
đã làm giảm tính chủ động, sáng tạo của các phong trào cách mạng ở thuộc
địa. Phát biểu tại Đại hội V Quốc tế cộng sản (tháng 6-1924), Hồ Chí Minh đã
phân tích: “Vận mệnh của giai cấp vơ sản thế giới và đặc biệt là vận mệnh của
giai cấp vô sản ở các nước đi xâm lược thuộc địa gắn chặt với vận mệnh của
giai cấp bị áp bức ở các thuộc địa”; “nọc độc và sức sống của con rắn độc tư
4


bản chủ nghĩa đang tập trung ở các thuộc địa”, nếu khinh thường cách mạng ở
thuộc địa tức là “muốn đánh chết rắn đằn đuôi”.
- Vận dụng công thức của Mác: “Sự giải phóng của giai cấp cơng nhân
phải là sự nghiệp của bản thân giai cấp công nhân”, Hồ Chí Minh đã đi tới
luận điểm: “Cơng cuộc giải phóng anh em (tức nhân dân thuộc địa) chỉ có thể
thực hiện được bằng sự nỗ lực của bản thân anh em”.
- Do nhận thức được thuộc địa là một khâu yếu trong hệ thống của chủ
nghĩa đế quốc và do đánh giá đúng đắn sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và
tinh thần dân tộc, năm 1924, Hồ Chí Minh cho rằng: Cách mạng thuộc địa
không những không phụ thuộc vào cách mạng vơ sản ở chính quốc mà có thể
giành thắng lợi trước.
- Khẳng định vị trí và vai trị của cách mạng giải phóng thuộc địa trong
mối quan hệ với cách mạng chính quốc, Hồ Chí Minh cho rằng: “trong khi
thủ tiêu một trong những điều kiện tồn tại của chủ nghĩa tư bản là chủ nghĩa
đế quốc, họ có thể giúp đỡ những người anh em mình ở phương Tây trong
nhiệm vụ giải phóng hồn tồn”.
Những luận điểm trên đây là sự phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác –
Lênin trong thời đại đế quốc chủ nghĩa của Hồ Chí Minh. Nó có giá trị lý
luận và thực tiễn rất to lớn và đã được thắng lợi của cách mạng giải phóng

dân tộc Việt Nam cũng như trên thế giới chứng minh là hoàn toàn đúng đắn.
1.6. Cách mạng giải phóng dân tộc phải được thực hiện bằng con đường
bạo lực, kết hợp lực lượng chính trị của quần chúng với lực lượng vũ
trang trong nhân dân.
Ngay từ đầu năm 1924, trong Báo cáo về Bắc kỳ, Trung kỳ, Nam kỳ,
Hồ Chí Minh đã đề cập khả năng một cuộc khởi nghĩa vũ trang ở Đông
Dương. Theo Người, cuộc khởi nghĩa vũ trang đó: phải có tính chất một cuộc
khởi nghĩa quần chúng chứ không phải một cuộc nổi loạn... Luận điểm trên
5


đây của Hồ Chí Minh bắt nguồn từ sự phân tích vai trị của quần chúng nhân
dân, bản chất phản động của chính quyền thực dân Pháp và bài học kinh
nghiệm của dân tộc Việt Nam, của cách mạng Nga, từ sự thất bại của các
phong trào yêu nước đầu thế kỷ XX.
- Tháng 5 – 1941, Hội nghị Trung ương 8 do Người chủ trì đã đưa ra
nhận định: Cuộc cách mạng Đông Dương kết liễu bằng một cuộc khởi nghĩa
vũ trang, mở đầu có thể là bằng một cuộc khởi nghĩa từng phần trong từng
địa phương.. mà mở đường cho một cuộc tổng khởi nghĩa to lớn.
- Để chuẩn bị tiến tới khởi nghĩa vũ trang, Hồ Chí Minh cùng với
Trung ương Đảng chỉ đạo xây dựng căn cứ địa, đào tạo, huấn luyện cán bộ,
xây dựng các tổ chức chính trị của quần chúng, lập ra các đội du kích vũ
trang, chủ động đón thời cơ, chớp thời cơ, phát động Tổng khởi nghĩa Tháng
Tám và chỉ trong vịng 10 ngày đã giành được chính quyền trong cả nước.
Tóm lại, Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo và phát triển học thuyết
của Lênin về cách mạng thuộc địa thành một hệ thống luận điểm mới mẻ, ság
tạo, bao gồm cả đường lối chiến lược, sách lược và phương pháp tiến hành
cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa.
Thắng lợi của cách mạng Tháng Tám và hai cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, những thành tựu to lớn và rất quan trọng của

sự nghiệp đổi mới ở nước ta đã chứng minh tính khoa học đúng đắn, tính cách
mạng sáng tạo của tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường cách mạng giải
phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người.

6


CHƯƠNG II: CÁC GIẢI PHÁP ĐỂ XÂY DỰNG TINH THẦN ĐỘC
LẬP DÂN TỘC CHO SINH VIÊN TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
2.1. Đẩy mạnh công tác giáo dục, tuyên truyền cho thanh niên hưởng ứng
cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”
Với mục đích của việc vận động là phát huy sức mạnh toàn dân tộc,
đẩy mạnh tồn diện cơng cuộc đổi mới; phát huy chủ nghĩa yêu nước, tinh
thần tập thể, đẩy mạnh tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống, chống chủ
nghĩa cá nhân, thực dụng, cục bộ, địa phương; đẩy mạnh công tác xây dựng
Đảng, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, cơng chức có phẩm chất đạo đức
cách mạng, hoàn thành nhiệm vụ vẻ vang trong giai đoạn cách mạng mới; đưa
cuộc vận động “Học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh” đi vào chiều sâu, đẩy mạnh việc “Làm theo Bác” trong cán bộ, đảng
viên và nhân dân.
Thứ nhất, thường xuyên giáo dục nâng cao nhận thức cho thanh niên,
sinh viên về vai trò, trách nhiệm đối với nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển,
đảo.
Thứ hai, củng cố niềm tin, thái độ, động cơ và ý chí bảo vệ chủ quyền
biển, đảo của Tổ quốc ngày càng bền vững trong thanh niên.
Thứ ba, chú trọng xây dựng quyết tâm cao, định hướng hành động thiết
thực trong thanh niên đối với nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ
quốc
2.3. Sử dụng có hiệu quả các kênh truyền hình thơng đại chúng dành cho
giới trẻ

Hình thức tun truyền, giáo dục quốc phịng an ninh tớiđông đảo dân
cư, đặc biệt là thế hệ trẻ nên được thực hiện qua các phương tiện thông tin đại
chúng, thông qua các buổi sinh hoạt cộng đồng dân cư ở thôn, xã phường,
hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức đoàn thể, hoạt động
7


văn hóa nghệ thuật, thể dục thể thao và thơng qua các hình thức sinh hoạt văn
hóa truyền thống.
Lồng ghép kiến thức giáo dục an ninh quốc phòng vào chương trình
học phổ thơng phải được thực hiện khoa học và góp phần nâng cao kiến thức
của học sinh về chủ quyền quốc gia cũng như ý thức bảo vệ Tổ quốc.
2.6. Đẩy mạnh hiệu quả công tác giáo dục lý tưởng cách mạng của Đoàn
thanh niên đối với thanh niên, sinh viên
Thứ nhất, tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, tấm
gương đạo đức và phong cách Hồ Chí Minh.
Thứ hai, tăng cường quán triệt chủ trương, đường lối của Đảng, chính
sách của Nhà nước, phổ biến kiến thức về pháp luật, lý luận chính trị, kiến
thức và các kỹ năng xã hội cho đoàn viên, thanh thiếu niên.
Ba là, tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy đảng các cấp; sự phối hợp
chặt chẽ, thống nhất giữa các tổ chức trong hệ thống chính trị; phát huy tốt vai
trò chỉ đạo, điều hành của Hội đồng giáo dục quốc phòng an ninh các cấp
nhằm tạo sức mạnh tổng hợp trong lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành và tổ chức
thực hiện công tác giáo dục quốc phòng cho thanh thiếu niên.
Bốn là, phát huy tốt vai trị tự giác, xung kích, sáng tạo của thanh thiếu
niên trong tham gia thực hiện công tác giáo dục quốc phịng. Mỗi cán bộ,
đồn viên, thanh niên phải tự giác, chủ động, tích cực tham gia các hoạt động
giáo dục quốc phịng.
Năm là, phát huy tốt vai trị của Đồn Thanh niên cộng sản Hồ Chí
Minh trong tập hợp, đồn kết thanh niên tham gia xây dựng địa bàn, cơ sở

chính trị vững mạnh, góp phần xây dựng khu vực phòng thủ ở địa phương;
chú trọng nâng cao chất lượng của các tổ chức Đoàn thanh niên ở các khu vực
trọng yếu, biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa...
8


PHẦN III: KẾT LUẬN
Tư tưởng HCM về vấn đề dân tộc và giải phóng dân tộc có những luận
diểm sáng tạo, đặc sắc có giá trị lý luận và giá trị thực tế lớn. Làm phong phú
học thuyết Mac-Lênin về CM thuộc địa. Lý luận CM giải phóng dân tộc của
Hờ Chí Minh là một đóng góp to lớn vào kho tàng lý luận CM của thời đại,
soi đường thắng lợi cho CM giải phóng dân tộc ở Việt Nam. Đem lại những
kết quả trước mắt là sự độc lập: cả đời Hồ Chí Minh đã dành trọn cho nhân
dân, cho đất nước, cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng con người, giải phóng
nhân loại cần lao, thốt khỏi áp bức, bóc lột, vươn tới cuộc sống ấm no, tự do,
hạnh phúc. Cũng chính vì vậy mà vấn đề dân tộc và giải quyết vấn đề dân tộc
đã được Người quan tâm, nung nấu suốt cả cuộc đời. Giải quyết vấn đề dân
tộc ở Việt Nam một nước nửa thuộc địa, nửa phong kiến trước hết là phải tiến
hành đấu tranh giải phóng dân tộc, đánh đổ bọn tay sai giành độc lập dân tộc,
tự do cho nhân dân, hòa bình và thống nhất cho đất nước. Hồ Chí Minh coi
mục tiêu đấu tranh vì độc lập của dân tộc, tự do của đồng bào là lẽ sống của
mình. Quyền độc lập không tách rời quyền con người và độc lập là điều kiện
tiên quyết để mang hạnh phúc cho mọi người dân của đất nước mình. Đồng
thời độc lập dân tộc còn là điều kiện để dân tộc Việt Nam được sống bình
đẳng, hịa thuận và cùng nhau đi tới cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc. Theo
Hồ Chí Minh: Độc lập, tự do, hịa bình và thống nhất đất nước là khát vọng
cháy bỏng của người dân mất nước. Trong cuộc đụng độ lịch sử giữa dân tôc
Việt Nam với đế quốc Mỹ xâm lược, quân và dân ta đã nêu cao tinh thần dám
đánh Mỹ và quyết thắng Mỹ, với tinh thần “Khơng có gì q hơn đọc lập tự
do”. Đó cũng chính là tư tưởng của Hồ Chí Minh là nguồn cổ vũ các dân tộc

bị áp bức trên toàn thế giới đang đấu tranh chống CNTD. Do đó, Hồ Chí
Minh khơng những là anh hùng giải phóng dân tộc của Việt Nam mà cịn là “
Người khởi xướng cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc thuộc địa trong thế kỷ
XX”.
9


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bài giảng Tư tưởng Hồ Chí Minh - ĐH bách khoa Hà Nội
2. “Đổi mới tư duy trong nghiên cứu lí luận và thực tiễn vấn đề dân tộc nước
ta để thực hiện tốt chính sách dân tộc của Đảng ta trong giai đoạn mới” của
Hoàng Tường Minh.
3. “Chính sách Lênin về dân tộc trong thực tiễn cách mạng” của Đỗ Tư.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban
Chấp hành Trung ương khố VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần
thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

10



×