Tải bản đầy đủ (.doc) (69 trang)

pháp luật về bảo vệ tài nguyên nước qua thực tiễn tại Thừa Thiên Huế giai đoạn 2008 – 2012

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (501.53 KB, 69 trang )

BẢNG CHỮ VIẾT TẮT
1. ASEAN: Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á.
2. BVMT: Bảo vệ môi trường.
3. BTN&MT: Bộ Tài Nguyên và Môi Trường.
4. CT THHH NN MTV: Công ty trách nhiệm hữu hạn nhà nước một
thành viên.
5. NDĐ: Nước dưới đất.
6. ĐCTV: Địa chất thủy văn.
7. HST : Hệ sinh thái.
8. KCN: Khu công nghiệp.
9. LVS: Lưu vực sông.
10. MTĐT: Môi trường đô thị.
11. MTBE: Metyl terl- butyl ete.
12. Na: Natri.
13. NĐ_CP: Nghị định Chính phủ.
14. PPT: Polluter pay principle
15. PTNT: Phát triển nông thôn.
16. QCVN: quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về nước thải công nghiệp.
17. SS: Thông số chất lơ lửng.
18. TCCP: Tiêu chuẩn cho phép.
19. TNN: Tài nguyên nước.
20. TNHH: Trách nhiệm hữu hạn.
21. TTLT- BTC- BTNMT: thông tư liên tịch Bộ Tài Chính- Bộ Tài
nguyên Môi trường.
22. UBND: Ủy ban nhân dân.
23. UNESCO: Tổ chức giáo dục, khoa học và văn hóa của Liên hợp quốc.
24. WRI: Viện tài nguyên thế giới
MỤC LỤC
A. PHẦN MỞ ĐẦU 4
1. Tính cấp thiết của đề tài 4
2. Tình hình nghiên cứu đề tài 5


3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 6
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu 7
4. Cơ sở nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu 7
5. Kết cấu của đề tài 8
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ PHÁP LÝ VỀ HOẠT ĐỘNG BẢO VỆ TÀI NGUYÊN NƯỚC 9
1.1. Khái quát chung về TNN và bảo vệ tài nguyên nước 9
1.1.1. Khái niệm, phân loại TNN 9
1.1.1.1. Khái niệm 9
1.1.2. Phân loại tài nguyên nước 10
1.1.2.1. Nước mặt 10
1.1.2.2. Nước ngầm 11
1.1.2.3. Nước mưa 12
1.1.2.4. Nước biển 13
1.2. Bảo vệ tài nguyên nước 14
1.2.1. Khái niệm 14
1.2.2. Vai trò của bảo vệ tài nguyên nước 16
1.3. Những vấn đề lý luận của pháp luật về BVTNN 17
1.3.1. Khái niệm và đặc điểm của Pháp luật về bảo vệ tài nguyên nước 17
1.3.1.1. Khái niệm 17
1.3.1.2. Đặc điểm 17
1.3.2. Các quy định cảu pháp luật về bảo vệ tài nguyên nước 18
1.3.2.1. Sự phát triển của pháp luật về bảo vệ tài nguyên nước 18
1.3.2.2. Các quy định cụ thể 21
1.3.3. Nhận xét về các quy định PL về BVTNN 27
1.3.3.1. Ưu điểm của pháp luật về bảo vệ tài nguyên nước 27
1.3.3.2. Hạn chế của pháp luật bảo vệ tài nguyên nước 31
CHƯƠNG 2. THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT BẢO VỆ TÀI NGUYÊN NƯỚC
GIAI ĐOẠN 2008 - 2012 34
2.1. Khái quát điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội Thừa Thiên Huế 34
2.2. Đánh giá tổng quan về hiện trạng tài nguyên nước tại Thừa Thiên Huế giai đoạn

2008 - 2012 37
2.2.1. Tài nguyên nước tại Thừa Thiên Huế 37
2.2.2. Tình hình ô nhiễm và suy thoái tài nguyên nước tại Thừa Thiên Huế 38
2.2.2.1. Ô nhiễm ở các lưu vực sông 38
2.2.2.2. Ô nhiễm tại các khu công nghiệp 39
2.2.2.3. Ô nhiễm tại các làng nghề 42
2.2.2.4. Ô nhiễm tại các bãi rác 44
2.2.3. Công tác bảo vệ tài nguyên nước 47
2.3. Thực tiễn áp dụng pháp luật bảo vệ tài nguyên nước tại Thừa Thiên Huế 49
2.3.1. Về phía cơ quan nhà nước 49
2.3.1.1. Ưu điểm 49
2.3.1.2. Hạn chế 51
2.3.2. Về phía các tổ chức, cá nhân 53
2.3.2.1. Ưu điểm 53
2.3.2.2. Hạn chế 54
2.4. Giải pháp chung để nâng cao hiệu quả pháp luật về bảo vệ tài nguyên nước 55
2.4.1. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về bảo vệ tài nguyên nước 55
2.4.1.1. Xây dựng các văn bản hướng dẫn 55
2.4.1.2. Ban hành một số chính sách quản lý nhà nước phù hợp 57
2.4.1.3. Công tác tuyên truyền, giáo dục 59
2.4.1.4. Mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế 59
2.4.2. Các biện pháp thực tế 61
KẾT LUẬN 66
TÀI LIỆU THAM KHẢO 67
A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiện nay ô nhiễm môi trường đang là vấn đề đáng quan tâm của toàn
xã hội chúng ta. Song song với đại dịch AIDS và vấn đề đói nghèo thì ô
nhiễm môi trường là vấn đề mà loài người đang phải đối mặt. Trong thời
gian gần đây những thiên tai kinh hoàng diễn ra đã gióng lên một hồi

chuông về những tác hại khôn lường mà ô nhiễm môi trường gây ra đối với
cuộc sống của con người. Do đó để cứu lấy cuộc sống thì việc bảo vệ môi
trường là một vấn đề vô cùng cần thiết.
Ô nhiễm môi trường đang là vấn đề đáng lo ngại không những đối với
các nước phát triển mà còn là sự thách thức đối với các nước đang phát
triển trong đó có Việt Nam. Là một đất nước chịu ảnh hưởng trực tiếp của
nhiều loại thiên tai nguy hiểm, chính điều này đã đặt ra trách nhiệm cho
mỗi người dân Việt Nam về vấn đề bảo vệ môi trường nhằm hạn chế một
phần nào đó những thiệt hại hại khôn lường mà biến đổi khí hậu gây ra.
Hậu quả của sự ô nhiễm nguồn tài nguyên nước không chỉ ảnh hưởng
trực tiếp đến các loại sinh vật sống trong nước mà còn tác động tiêu cực
đến đời sống của con người, môi trường đất và cả không khí. Không chỉ
đem lại hậu quả trước mắt mà cả hậu quả lâu dài và vô cùng nguy hiểm. Do
đó,việc bảo vệ môi trường nước vừa là mục tiêu, vừa là một trong những
nội dung cơ bản của sự phát triển bền vững.
Từ những năm 80 của thế kỷ XX, thế giới đã ghi nhận nước là tài
nguyên thiên nhiên môi trường hàng đầu của nhân loại và là một trong
những tài nguyên thiên nhiên cần phải quản lý trong một môi trường bền
vững. Không chỉ coi nước là một tài nguyên có giá trị kinh tế như các tài
nguyên khoáng sản khác, mà trong sử dụng cần phải coi nước là một hàng
hóa, phải làm sao phát huy tối đa giá trị của tài nguyên nước.
Đánh giá được tầm quan trọng của tài nguyên nước, Việt Nam ta cũng
đã có những sự quan tâm nhất định về bảo vệ và kiểm soát ô nhiễm, suy
thoái tài nguyên nước thể hiện thông qua việc ban hành hệ thống các văn
bản quy phạm cụ thể quy định về vấn đề này.
Ngoài ra, sự quan tâm này còn được thể hiện ở các điều ước quốc tế
mà Việt Nam đã ký kết. Bộ Tài nguyên môi trường Việt Nam cũng đã trao
đổi thống nhất hợp tác trong lĩnh vực quản lý tài nguyên nước với Bộ sinh
thái, phát triển và quy hoạch bền vững của cộng hòa Pháp. Đây là một
trong những lĩnh vực ưu tiên trong chương trình hợp tác phát triển giữa

Chính phủ Việt Nam và cộng hòa Pháp, nhằm góp phần củng cố mối quan
hệ hợp tác về pháp lý, hoàn thiện về thể chế hành chính, tăng cường hiệu
lực và hiệu quả trong quản lý tài nguyên nước ở Việt Nam
Tuy nhiên, việc thực hiện bảo vệ tài nguyên nước ở nước ta nói chung
và trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế nói riêng còn nhiều khó khăn cần khắc
phục, vì vậy nên Đảng và Nhà nước cần có sự quan tâm và chỉ đạo sát sao
hơn nữa vấn đề này, động thời mỗi người dân cần tự nâng cao ý thức của
mình về bảo vệ nguồn tài nguyên quý hiếm này.
Do đó em lựa chọn đề tài “pháp luật về bảo vệ tài nguyên nước qua
thực tiễn tại Thừa Thiên Huế giai đoạn 2008 – 2012” với mong muốn góp
một phần hiểu biết nhỏ bé trong hoạt động bảo vệ tài nguyên nước tại tỉnh
Thừa Thiên Huế.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Ô nhiễm môi trường đặc biệt là ô nhiễm môi trường nước đã, đang và
sẽ là vấn đề đáng quan tâm tuy nhiên cũng rất phức tạp và phong phú.
Hiện nay trên cả nước nói chung và tại Thừa Thiên Huế nói riêng, đã
có nhiều đề án, chương trình, chính sách pháp luật về bảo vệ môi trường
đặc biệt là bảo vệ tài nguyên nước như sách “Đánh giá tài nguyên nước
Việt Nam 2005” của Nguyễn Thanh Sơn, sách “Thảo luận về pháp luật
5
bảo vệ tài nguyên nước ở nước ta”của Ts. Nguyễn Quang Tuyến, Đại học
Luật Hà Nội, dự án quy hoạch cấp nước trên điạ bàn tỉnh Thừa Thiên Huế
đến năm 2020 tầm nhìn đến năm 2030. Tuy bước đầu đã có những kết quả
tích cực, tuy nhiên tình trạng ô nhiễm nguồn tài nguyên nước tại Thừa
Thiên Huế vẫn diễn ra theo chiều hướng phức tạp, các giải pháp bảo vệ
nguồn tài nguyên này chưa được áp dụng đồng bộ và còn nhiều bất cập.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Hệ thống các quy định của pháp luật về hoạt
động bảo vệ tài nguyên nước.
- Các quy định về Bảo vệ tài nguyên nước theo Pháp luật Việt Nam

bao gồm Luật tài nguyên nước 1998 và luật Tài nguyên nước 2012 là cơ sở
pháp lý quan trọng trong pháp luật bảo vệ tài nguyên nước ở Việt Nam,
ngoài ra còn có các văn bản hướng dẫn như Nghị định, Nghị quyết, Chỉ
thị điều chỉnh hoạt động bảo vệ tài nguyên nước ở Việt Nam.
- Các hiệp định quôc tế về Bảo vệ tài nguyên nước mà Việt Nam là
thành viên hoặc có ảnh hưởng tới hoạt động Bảo vệ tài nguyên nước ở
Việt Nam.
- Các văn bản pháp luật do UBND Tỉnh Thừa thiên Huế, Sở tài
nguyên môi trường Tỉnh Thừa Thiên Huế ban hành điều chỉnh hoạt động
Bảo vệ tài nguyên nước.
- Thực tiễn hoạt động Bảo vệ tài nguyên nước trên địa bàn Tỉnh Thừa
Thiên Huế.
Phạm vi nghiên cứu: Đề tài khóa luận nghiên cứu trong phạm vi các
văn bản pháp luật quy định về Bảo vệ tài nguyên nước ở Việt Nam, thực
tiễn áp dụng các quy định của pháp luật và hoạt động bảo vệ tài nguyên
nước trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế giai đoạn 2008 – 2012.
6
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu: Đề tài này được thực hiện với mục đích làm
sáng tỏ mặt lý luận về pháp luật bảo vệ tài nguyên nước, hiểu được thực
tiễn áp dụng pháp luật bảo vệ tài nguyên nước tại Thừa Thiên Huế qua đó
tạo cơ sở cho việc tìm ra những phương hướng nhằm hạn chế ô nhiễm và
suy thoái nguồn tài nguyên nước nhằm tránh gây thiệt hại cho môi trường
sống của con người và sinh vật đồng thời nâng cao vai trò cuả tài nguyên
nước trong đời sống cũng như giảm thiểu phần nào vấn nạn ô nhiễm và suy
thoái nguồn tài nguyên nước dưới góc độ phap lý. Từ đó, góp phần hoàn
thiện các quy định pháp luật liên quan đến bảo vệ tài nguyên nước.
Nhiệm vụ nghiên cứu:Để đạt được mục đích nêu trên, đề tài tập trung
giải quyết những nội dung sau.
- Về mặt lý luận: Làm rõ khái niệm, đặc điểm của tài nguyên nước và

pháp luật về bảo vệ nguồn tài nguyên nước ở nước ta hiện nay.
- Về mặt thực tiễn:Phân tích đánh giá thực trạng pháp luật về bảo vệ
tài nguyên nước ở Thừa Thiên Huế.Từ đó, đề xuất các giải pháp nhằm hoàn
thiện các quy định của pháp luật Việt Nam về bảo vệ tài nguyên nước cũng
như nâng cao chất lượng công tác bảo vệ tài nguyên trên địa bàn tỉnh Thừa
Thiên Huế.
4. Cơ sở nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của khóa luận là quan điểm của chủ nghĩa Mác –
Leenin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối chính sách của Đảng về pháp
luật, về bảo vệ tài nguyên nước, những thành tựu của khoa học, luật bảo vệ
môi trường, luật tài nguyên nước…
Phương pháp nghiên cứu xuyên suốt quá trình hoàn thành khóa luận
này là duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của Triết học Mác – Lênin,
phương pháp nghiên cứu lý luận: Phân tích, đánh giá và tổng hợp các thông
tin, tư liệu làm cơ sở lý luận cho vấn đề nghiên cứu. Phương pháp thống
7
kê: và diễn biến thực tiễn thực hiện pháp luật về bảo vệ tài nguyên nước tại
Thừa Thiên Huế.
5. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của báo cáo gồm 2 chương.
Chương 1:Cơ sở pháp lý về hoạt động bảo vệ tài nguyên nước.
Chương 2:Thực tiễn áp dụng pháp luật bảo vệ tài nguyên nước tại
Thừa Thiên Huế giai đoạn 2008- 2012.

8
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ PHÁP LÝ VỀ HOẠT ĐỘNG
BẢO VỆ TÀI NGUYÊN NƯỚC
1.1. Khái quát chung về TNN và bảo vệ tài nguyên nước
1.1.1. Khái niệm, phân loại TNN

1.1.1.1. Khái niệm
Là một yếu tố chủ yếu của hệ sinh thái, là nhu cầu cơ bản của mọi sự
sống trên trái đất và cần thiết cho các hoạt động kinh tế xã hội của loài
người, cùng với các loại tài nguyên thiên nhiên khác, tài nguyên nước
(TNN) là một trong bốn nguồn lực cơ bản để phát triển kinh tế, xã hội, là
đối tượng lao động và là một yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất.
Theo Từ điển bách khoa toàn thư mở thì: Tài nguyên nước là các
nguồn nước mà con người sử dụng hoặc có thể sử dụng vào những mục
đích khác nhau. Nước được dùng trong các hoạt động nông nghiệp, công
nghiệp, dân dụng, giải trí và môi trường.
Luật tài nguyên nước 1998 không có quy định cụ thể về Tài nguyên
nước nhưng tại khoản 1 điều 2 quy định về đối tượng điều chỉnh thì Tài
nguyên nước quy định trong Luật này bao gồm các nguồn nước mặt, nước
mưa, nước dưới đất, nước biển thuộc lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa ViệtNam. Nước biển, nước dưới đất thuộc vùng đặc quyền kinh tế,
thềm lục địa được quy định tại các văn bản pháp luật khác. Nước khoáng,
nước nóng thiên nhiên do Luậtkhoáng sản quy định. Đồng thời quy định
"Nguồn nước" chỉ các dạng tích tụ nước tự nhiên hoặc nhân tạo có thể khai
thác, sử dụng được, bao gồm sông, suối, kênh, rạch; biển, hồ, đầm, ao; các
tầng chứa nước dưới đất; mưa, băng, tuyết và các dạng tích tụ nước khác.
Tuy nhiên theo quy định tại khoản 1 điều 2 Luật Tài nguyên nước
2012 lại nêu rõ khái niệm về tài nguyên nước, theo đó: “ Tài nguyên
nước bao gồm nguồn nước mặt, nước dưới đất, nước mưa và nước biển
9
thuộc lãnh thổ của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” . Các nguồn
nước hầu hết là tài nguyên tái tạo, nằm trong chu trình tuần hoàn của nước,
dưới các dạng: mây, mưa, trong các vật thể chứa nước: sông, suối, đầm, ao,
hồ…ở tầng nông hay tầng sâu cảu đất, đá và nước ở các vùng biển và đại
dương thế giới.
Từ những khái niệm trên có thể nhận thấy tài nguyên nước bao gồm

nước mặt, nước mưa, nước ngầm và nước biển trong phạm vi lãnh thổ cuả
một quốc gia mà con người sử dụng hoặc có thể sử dụng vào những mục
đích khác nhau phục vụ cho nhu cầu sống của mình.
Tài nguyên nước thuộc dạng tài nguyên tái tạo được có nghĩa là tài
nguyên dựa vào nguồn năng lượng được cung cấp hầu như liên tục và
vô tận từ vũ trụ vào trái đất, dựa vào trật tự tự nhiên, nguồn thông tin vật lý
và sinh học đã hình thành và tiếp tục tồn tại, phát triển và chỉ mất đi khi
không còn nguồn năng lượng và thông tin nói trên. Hay nói cách khác là
tài nguyên có thể tự duy trì hoặc tự bổ sung một cách liên tục nếu được
quản lý, sử dụng một cách hợp lý và khôn ngoan[ 23;1]
Nước có hai thuộc tính cơ bản là gây lợi và gây hại, nước là nguồn
động lực cho mọi hoạt động kinh tế của con người song nó cũng gây ra
những hiểm họa không lường trước được đối với con người.Những trận lũ
lớn có thể gây thiệt hại về người và của thậm chí phá hủy cả một vùng sinh
thái. Nước có những đặc trưng vật lý độc đáo mà các chất lỏng khác không
có như: tỷ trọng, nhiệt độ có sự sống và tồn tại như ngày nay.
1.1.2. Phân loại tài nguyên nước
1.1.2.1. Nước mặt
Nước mặt là nước trong sông, hồ hoặc nước ngọt trong vùng đất ngập
nước. Nước mặt được bổ sung một cách tự nhiên bởi giáng thủy và chúng
mất đi khi chảy vào đại dương, bốc hơi và thấm xuống đất.
10
Lượng giáng thủy này được thu hồi bởi các lưu vực, tổng lượng nước
trong hệ thống này tại một thời điểm cũng tùy thuộc vào một số yếu tố khác.
Các yếu tố này như khả năng chứa của các hồ, vùng đất ngập nước và các hồ
chứa nhân tạo, độ thấm của đất bên dưới các thể chứa nước này, các đặc
điểm của dòng chảy mặt trong lưu vực, thời lượng giáng thủy và tốc độ bốc
hơi địa phương. Tất cả các yếu tố này đều ảnh hưởng đến tỷ lệ mất nước.
Các hoạt động của con người có thể tác động lớn hoặc đôi khi phá vỡ
các yếu tố này. Con người thường tăng khả năng trữ nước bằng cách xây

dựng các bể chứa và giảm trữ nước bằng cách tháo khô các vùng đất ngập
nước. Con người cũng làm tăng lưu lượng và vận tốc của dòng chảy mặt ở
các khu vực lát đường và dẫn nước bằng các kênh.
Tổng lượng nước tại một thời điểm là vấn đề cần quan tâm. Một số
đối tượng sử dụng nước có nhu cầu nước theo vụ. Ví dụ, trong mùa hè cần
rất nhiều nước để phục vụ cho nông nghiệp hoặc phát điện nhưng trong
mùa mưa thì không cần nước, vì vậy để cung cấp nước tốt cho mùa hè thì
cần một hệ thống trữ nước trong suốt năm và xả nước trong một khoảng
thời gian ngắn. Các đối tượng sử dụng nước khác có nhu cầu dùng nước
thường xuyên như nhà máy điện cần nguồn nước để làm lạnh. Để cung cấp
nước cho các nhà máy điện, hệ thống nước mặt chỉ cần đủ trong các bể
chứa khi dòng chảy trung bình nhỏ hơn nhu cầu nước của nhà máy.
Nước mặt tự nhiên có thể được tăng cường thông qua việc cung cấp từ
các nguồn nước mặt khác bởi các kênh hoặc đường ống dẫn nước. Cũng có
thể bổ cấp nhân tạo từ các nguồn khác được liêt kê ở đây, tuy nhiên, số
lượng không đáng kể. Con người có thể làm cho nguồn nước cạn kiệt (với
nghĩa không thể sử dụng) bởi ô nhiễm.
1.1.2.2. Nước ngầm
Nước ngầm hay còn gọi là nước dưới đất, là nước ngọt được chứa
trong các lỗ rỗng của đất hoặc đá. Nó cũng có thể là nước chứa trong
11
các tầng ngậm nước bên dưới mực nước ngầm. Đôi khi người ta còn phân
biệt nước ngầm nông, nước ngầm sâu và nước chôn vùi.
Nước ngầm cũng có những đặc điểm giống như nước mặt như: nguồn
vào (bổ cấp), nguồn ra và chứa. Sự khác biệt chủ yếu với nước mặt là do
tốc độ luân chuyển chậm (dòng thấm rất chậm so với nước mặt), khả năng
giữ nước ngầm nhìn chung lớn hơn nước mặt khi so sánh về lượng nước
đầu vào. Sự khác biệt này làm cho con người sử dụng nó một cách vô tội
vạ trong một thời gian dài mà không cần dự trữ. Đó là quan niệm sai lầm,
khi mà nguồn nước khai thác vượt quá lượng bổ cấp sẽ là cạn kiệt tầng

chứa nước và không thể phục hồi.
Nguồn cung cấp nước cho nước ngầm là nước mặt thấm vào tầng
chứa. Các nguồn thoát tự nhiên như suối và thấm vào các đại dương.
Nguồn nước ngầm có khả năng bị nhiễm mặn cách tự nhiên hoặc do
tác động của con người khi khai thác quá mức các tầng chứa nước gần biên
mặn/ngọt. Ở các vùng ven biển, con người sử dụng nguồn nước ngầm có
thể làm co nước thấm vào đại dương từ nước dự trữ gây ra hiện tượng muối
hóa đất. Con người cũng có thể làm cạn kiệt nguồn nước bởi các hoạt động
làm ô nhiễm nó. Con người có thể bổ cấp cho nguồn nước này bằng cách
xây dựng các bể chứa hoặc bổ cấp nhân tạo.
1.1.2.3. Nước mưa
Mưa là một dạng ngưng tụ của hơi nước khi gặp điều kiện lạnh, mưa
có các dạng như: mưa phùn, mưa rào, mưa đá, các dạng khác như tuyết,
mưa tuyết, sương.
Mưa được tạo ra khi các giọt nước khác nhau rơi xuống bề mặt Trái
Đất từ các đám mây. Không phải toàn bộ các cơn mưa đều có thể rơi xuống
đến bề mặt, một số bị bốc hơi trên đường rơi xuống do đi qua không khí
khô, tạo ra một dạng khác của sự ngưng đọng.
12
Mưa đóng một vai trò quan trọng trong chu trình thủy học trong
đó nước từ các đại dương (và các khu vực khác có chứa nước) bay hơi,
ngưng tụ lại thành các đám mây trong tầng đối lưu của khí quyển do gặp
lạnh, khi các đám mây đủ nặng, nước sẽ bị rơi trở lại Trái Đất, tạo thành
mưa, sau đó nước có thể ngấm xuống đất hay theo các con sông chảy ra
biển để lại tiếp tục lặp lại chu trình vận chuyển.
Nói chung, nước mưa có độ pH nhỏ hơn 6 một chút, đơn giản là do nó
hấp thụ điôxít cacbon trong khí quyển, nó bị điện ly một phần trong nước,
tạo raaxít cacbonic. Ở một số sa mạc, các luồng không khí vận chuyển cả
cacbonat canxi lên không trung, do đó nước mưa ở đây có thể là có pH bằng
hoặc cao hơn 7. Các trận mưa có pH thấp hơn 5,6 thì được coi là mưa axít.

Lượng mưa tại một khu vực nào đó được đo bằng các máy đo lượng
mưa đặt tại một số điểm ngẫu nhiên, xa khu vực có thể ảnh hưởng đến độ
chính xác của phép đo. Nó là độ cao lượng nước thu được sau cơn mưa trên
một bề mặt phẳng, không bị nhà cửa hay cây cối bao phủ hay che lấp và có
thể được tính bằng mm (milimét) hay L/m². Độ chính xác của các máy đo
có thể đạt tới 0,25 mm hay 0,01 in.
1.1.2.4. Nước biển
Là nước từ các biển hay đại dương. Về trung bình, nước biển của các
đại dương trên thế giới có độ mặn khoảng 3,5%. Điều này có nghĩa là cứ
mỗi lít (1.000 mL) nước biển chứa khoảng 35 gam muối, phần lớn (nhưng
không phải toàn bộ) là clorua natri (NaCl) hòa tan trong đó dưới dạng các
ion Na
+
và Cl
-
. Nó có thể được biểu diễn như là 0,6 M NaCl. Nước với mức
độ thẩm thấu như thế tất nhiên không thể uống được.
Nước biển có độ mặn không đồng đều trên toàn thế giới mặc dù phần
lớn có độ mặn nằm trong khoảng từ 3,1‰ tới 3,8‰. Khi sự pha trộn với
nước ngọt đổ ra từ các con sông hay gần các sông băng đang tan chảy thì
nước biển nhạt hơn một cách đáng kể. Nước biển nhạt nhất có tại vịnh
13
Phần Lan, một phần của biển Baltic. Biển hở mặn nhất (nồng độ muối cao
nhất) là biển Đỏ (Hồng Hải), do nhiệt độ cao và sự tuần hoàn bị hạn chế đã
tạo ra tỷ lệ bốc hơi cao của nước bề mặt cũng như có rất ít nước ngọt từ các
cửa sông đổ vào và lượng giáng thủynhỏ. Độ mặn cao nhất của nước biển
trong các biển cô lập (biển kín) như biển Chết cao hơn một cách đáng kể.
Tỷ trọng của nước biển nằm trong khoảng 1.020 tới 1.030 kg/m³ tại bề
mặt còn sâu trong lòng đại dương, dưới áp suất cao, nước biển có thể đạt tỷ
trọng riêng tới 1.050 kg/m³ hay cao hơn. Như thế nước biển nặng hơn nước

ngọt (nước ngọt tinh khiết đạt tỷ trọng riêng tối đa là 1.000 g/ml ở nhiệt độ
4 °C) do trọng lượng bổ sung của các muối và hiện tượng điện giảo. Điểm
đóng băng của nước biển giảm xuống khi độ mặn tăng lên và nó là khoảng
-2 °C (28,4°F) ở nồng độ 35‰.
Do đệm hóa học, độ pH của nước biển bị giới hạn trong khoảng 7,5
tới 8,4. Vận tốc âm thanh trong nước biển là khoảng 1.500 m•s
−1
và dao
động theo nhiệt độ của nước cùng áp suất.
1.2. Bảo vệ tài nguyên nước
1.2.1. Khái niệm
Nước là tài nguyên, là tư liệu thiết yếu cho cuộc sống con người.
Không có nước không có sự sống. Chúng ta cần nước sạch cho sinh hoạt,
bảo vệ sức khỏe và vệ sinh. Nước cần cho sản xuất nông nghiệp, thủy sản,
công nghiệp và các ngành kinh tế khác. Nước còn cần cho phát triển thủy
điện và giao thông thủy. Nước cũng đóng vai trò quan trọng trong việc duy
trì sự trong lành và bền vững của môi trường, duy trì mối quan hệ láng
giềng hữu nghị với các nước có chung nguồn nước liên quốc gia. Bên cạnh
những mặt lợi, nước cũng có thể gây ra tai họa cho người và môi trường.
Trong những thập niên qua việc khai thác tài nguyên nước và cộng tác
phòng, chống tác hại do nước gây ra đã có những thành tựu quan trọng, góp
phần to lớn cho sự nghiệp phát triển kinh tế-xã hội của đất nước. Tuy
14
nhiên, trong một thời gian dài việc nhận thức chưa đầy đủ về ý nghĩa và
tầm quan trọng của nước đối với đời sống, sức khỏe và sự phát triển bền
vững của đất nước, chưa chú trọng quản lý và bảo vệ tài nguyên nước dẫn
đến tài nguyên nước ở nước ra đã có những biểu hiện suy thoái cả về số
lượng lẫn chất lượng, tình trạng ô nhiễm nguồn nước, thiếu nước, khan
hiếm nước đã xuất hiện ở nhiều nơi và đang có xu hướng gia tăng; tình
trạng sử dụng nước lãng phí, kém hiệu quả, thiếu quy hoạch, thiếu tính liên

ngành còn khá phổ biến. Trong khi đó nhu cầu dùng nước của các ngành
kinh tế không ngừng gia tăng về số lượng và đòi hỏi cao hơn về chất lượng,
các nước láng giềng có chung nguồn nước với Việt Nam đang tăng cường
khai thác nguồn nước ở thượng nguồn, cân bằng nước giữa cung và cầu
nhiều lúc, nhiều nơi không đảm bảo và trở thành áp lực lớn đối với quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong điều kiện dân số gia
tăng, khí hậu toàn cầu diễn biến ngày một phức tạp, Tình hình đó đòi hỏi
phải tăng cường công tác quản lý, bảo vệ để phát triển bền vững tài nguyên
nước và phòng, chống có hiệu quả các tác hại do nước gây ra.
"Ô nhiễm nguồn nước" là sự thay đổi tính chất vật lý, tính chất hoá
học, thành phần sinh học của nước vi phạm tiêu chuẩn cho phép.
"Suy thoái môi trường là sự làm thay đổi chất lượng và số lượng của
thành phần môi trường, gây ảnh hưởng xấu cho đời sống của con người và
thiên nhiên". Trong đó, thành phần môi trường được hiểu là các yếu tố tạo
thành môi trường: không khí, nước, đất, âm thanh, ánh sáng, lòng đất, núi,
rừng, sông, hồ biển, sinh vật, các hệ sinh thái, các khu dân cư, khu sản
xuất, khu bảo tồn thiên nhiên, cảnh quan thiên nhiên, danh lam thắng cảnh,
di tích lịch sử và các hình thái vật chất khác. Do vậy, Sự suy thoái, cạn kiệt
nguồn nước là sự suy giảm về chất lượng và số lượng của nguồn nước.
Như vậy, có thể hiểu, bảo vệ tài nguyên nước chính là biện pháp phòng,
chống suy thoái, cạn kiệt nguồn nước, đảm bảo an toàn nguồn nước và bảo
vệ khả năng phát triển tài nguyên nước.
15
1.2.2. Vai trò của bảo vệ tài nguyên nước
Thực tế vấn đề môi trường ở Việt Nam trong những năm qua cho cho
thấy, ô nhiễm, suy thoái môi trường đặc biệt là ô nhiễm và suy thoái tài
nguyên nước là một trong những vấn đề mà loài người đang phải đối mặt.
Vấn đề này đang đe dọa sự tồn tại và phát triển của trái đất, vì vậy, bảo vệ
nguồn tài nguyên nước cũng đồng nghĩa với bảo vệ môi trường sống, bảo
đảm mọi người dân được sống trong môi trường trong lành, sạch đẹp, góp

phần nâng cao sức khỏe và chất lượng cuộc sống của nhân dân, đồng thời
là nội dung quan trọng của phát triền bền vững.
Mặt khác có thể thấy, chịu tác động của biến đổi khí hậu sớm và lớn
nhất chính là tài nguyên nước. Bởi nước đóng vai trò quan trọng trong sản
xuất nông nghiệp để tạo ra lương thực cho con người. Việt Nam hiện được
xếp vào nhóm quốc gia có tài nguyên nước vào loại trung bình trên thế giới
nhưng nguồn nước của chúng ta phân bố không đồng đều. Cùng với đó, sự
gia tăng dân số, việc khai thác, sử dụng tài nguyên nước thời gian qua ở
Việt Nam cũng chưa hợp lý và thiếu bền vững; tình trạng phá rừng, ô
nhiễm môi trường khiến nguồn nước trở nên cạn kiệt xảy ra tại nhiều nơi,
đặc biệt là trong mùa khô. Không có nước, đất đai trở nên khô cằn, cây cối
héo úa, không thể sản sinh ra lương thực dẫn đến việc ảnh hưởng nặng nề
tới ngành nông nghiệp.
Do đó, bảo vệ và sử dụng hợp lý tài nguyên nước sẽ góp phần thực
hiện các mục tiêu quốc gia về phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường. Hạn
chế và khắc phục sự cố ô nhiễm và suy thoái tài nguyên nước. Đồng thời,
bảo vệ tài nguyên nước và khai thác hợp lý, tiết kiệm tài nguyên nước còn
có ý nghĩa hết sức quan trọng trong đảm bảo sự phát triển bền vững của đất
nước. Đảm bảo nguồn nước sạch dùng cho sinh hoạt và sản xuất. Phát triển
bền vững tài nguyên nước càng có ý nghĩa hơn trong bối cảnh biến đổi khí
hậu, sự gia tăng sử dụng nước của các nước thượng nguồn và việc cạnh
tranh sử dụng tài nguyên nước giữa các đối tượng sử dụng nước ngày một
16
gia tăng. Hy vọng, với sự tăng cường về công tác bảo vệ tài nguyên nước
sẽ góp phần thúc đẩy cho sự phát triển bền vững tài nguyên nước ở nước ta,
đảm bảo sự ổn định nguồn nước trong tương lai.
1.3. Những vấn đề lý luận của pháp luật về BVTNN
1.3.1. Khái niệm và đặc điểm của Pháp luật về bảo vệ tài nguyên nước
1.3.1.1. Khái niệm
Xét ở khía cạnh pháp lý thì pháp luật về bảo vệ tài nguyên nước là hệ

thống các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh
trong trong lĩnh vực bảo vệ tài nguyên nước do Nhà nước ban hành, thể
hiện ý chí của giai cấp cầm quyền và được thực hiện bằng các biện pháp
cưỡng chế của Nhà nước.
Như vậy pháp luật về bảo vệ TNN là hành lang pháp lý mở đường cho
các hoạt động hướng đến mục tiêu bảo vệ, khai thác hiệu quả TNN, đồng
thời sẽ phát huy tác dụng điều chỉnh, phù hợp với thực tiễn của cuộc sống
và tình hình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, đáp ứng yêu cầu quản
lý tổng hợp và thống nhất TNN, bảo vệ, khai thác, sử dụng TNN bền vững,
hiệu quả hơn.
1.3.1.2. Đặc điểm
Pháp luật về bảo vệ tài nguyên nước là một công cụ hữu hiệu để quản
lý và bảo vệ môi trường. Trong thời gian qua, pháp luật về bảo vệ tài
nguyên nước ở nước ta từng bước được xây dựng và hoàn thiện góp phần
quan trọng vào việc điều chỉnh các quan hệ xã hội liên quan trực tiếp tới
lĩnh vực tài nguyên nước. Thực tiễn đã cho thấy vị trí, vai trò của pháp luật
bảo vệ tài nguyên nước đối với sự nghiệp bảo vệ tài nguyên nước, là công
cụ đảm bảo thực hiện cho các biện pháp bảo vệ tài nguyên khác.
- Pháp luật bảo vệ tài nguyên nước là công cụ kiểm soát ô nhiễm, định
hướng xử sự của con người khi tác động vào môi trường:
17
Với tư cách là công cụ điều tiết hành vi con người trong xã hội, pháp
luật có thể kiểm soát ô nhiễm nước một cách có hiệu quả. Chẳng hạn như
thông qua hệ thống Quy chuẩn kiểm tra môi trường nước, pháp luật buộc
các chủ thể có nước thải chỉ được thải vào nguồn nước ở một giới hạn nhất
định. Khi các chủ thể thực hiện tốt các quy định này sẽ góp phần phòng
ngừa khắc phục ô nhiễm nước có thể xảy ra.
- Pháp luật bảo vệ tài nguyên nước quy định chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn cụ thể của các cơ quan quản lý nhà nước để đảm bảo kiểm soát ô
nhiễm nước một cách hiệu quả.

Thông qua pháp luật bảo vệ tài nguyên nước, nhà nước quy định chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan như sau: xây dựng và tổ chức
thực hiện các văn bản pháp luật, định kỳ đánh giá dự báo tình hình môi
trường nước, xây dựng và quản lý các công trình bảo vệ môi trường nước…
- Pháp luật bảo vệ tài nguyên nước ràng buộc các chủ thể có liên quan
phải thực hiện nghiêm chỉnh những đòi hỏi của pháp luật để kiểm soát ô
nhiễm nước.
Pháp luật quy định những chế tài cụ thể đối với các chủ thể tham gia
quan hệ pháp luật môi trường khi họ không tuân theo quy định của pháp
luật. Các chế tài hành chính ,dân sự, hình sự được pháp luật quy định buộc
các cá nhân, tổ chức thực hiện đầy đủ các đòi hỏi của pháp luật trong việc
khai thác và sử dụng nước.
1.3.2. Các quy định cảu pháp luật về bảo vệ tài nguyên nước
1.3.2.1. Sự phát triển của pháp luật về bảo vệ tài nguyên nước
Tài nguyên nước là một thành phần gắn với mức độ phát triển của xã
hội loài người tức là cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ mà tài
nguyên nước ngày càng được bổ sung trong ngân quỹ nước của quốc gia,
Quá trình hình thành và phát triển hệ thống pháp luật về bảo vệ TNN
gắn liền với quá trình nhận thức của con người về vị trí và vai trò của nước.
18
Trước đây con người cho rằng nước là một nguồn tài nguyên thiên nhiên
vô hạn, nên họ chỉ chú ý đến việc khai thác, sử dụng nước cho các mục
đích sinh hoạt và sản xuất mà chưa quan tâm đến vấn đề bảo vệ nước. Vì
vậy, pháp luật ở thời kỳ này dường như chỉ có các quy định đề cập đến việc
khai thác và sử dụng các nguồn nước (bao gồm nước ngầm và nước mặt).
Cùng với quá trình phát triển xã hội, con người đã dần thay đổi nhận thức
về TNN. Nước không phải là một nguồn tài nguyên vô hạn mà là có hạn.
Sự tác động vô ý thức của con người đã và đang gây ô nhiễm các nguồn
nước và nếu con người không biết cách khai thác, sử dụng hợp lý đi đôi với
việc bảo vệ các nguồn nước thì nguồn tài nguyên quý giá này sẽ bị cạn kiệt.

Nguy cơ thiếu nước sạch đáp ứng các nhu cầu của con người trên phạm vi
toàn cầu đang dần dần trở thành hiện thực. Đây chính là một trong những
điều kiện chủ yếu để ra đời các quy định về bảo vệ TNN. Pháp luật về TNN
hiện nay không chỉ quy định về khai thác, sử dụng hợp lý các nguồn nước
mà còn chú trọng đến việc bảo vệ, chống nhiễm bẩn nước.
Ở nước ta, pháp luật về bảo vệ TNN chỉ thực sự phát triển mạnh mẽ
kể từ khi Nhà nước ban hành Luật bảo vệ môi trường (BVMT) năm 1994.
Trong đó, quy định rõ việc phòng, chống, khắc phục sự ô nhiễm môi
trường nước. Đặc biệt ngày 20/05/1998, Quốc hội khoá X, kỳ họp thứ 3 đã
thông qua Luật TNN. Đây là văn bản quan trọng tạo cơ sở pháp lý cho việc
quản lý thống nhất, toàn diện, khai thác hợp lý và bảo vệ chặt chẽ TNN.
Tiếp theo, một loạt các văn bản pháp luật liên quan đến việc bảo vệ TNN ra
đời góp phần củng cố và hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ TNN. Đó
là những văn bản pháp luật chủ yếu sau đây:
- Nghị định số 179/1999/NĐ-CP của Chính phủ quy định việc thi hành
Luật TNN;
- Pháp lệnh Phòng chống lụt bão năm 1993;
19
- Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Phòng chống
lụt bão năm 2000;
- Pháp lệnh Đê điều năm 2000;
- Pháp lệnh Khai thác và Bảo vệ công trình thuỷ lợi năm 2001;
- Nghị định số 91/2002/NĐ-CP ngày 11/11/2002 của Chính phủ quy
định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu của Bộ Tài nguyên và
Môi trường;
- Quyết định số 600/2003/QĐ-BTN&MT ngày 08/05/2003 của Bộ
trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn và tổ chức bộ máy của Cục Quản lý nước thuộc Bộ Tài nguyên
và Môi trường;
- Nghị định số 67/2003/NĐ-CP ngày 13/06/2003 của Chính phủ về

phí bảo vệ môi trường đối với nước thải;
- Quyết định số 05/2003/QĐ-BTN&MT ngày 04/09/2003 của Bộ
trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường ban hành quy định về cấp phép thăm
dò, khai thác và hành nghề khoan nước dưới đất;
- Thông tư liên tịch số 125/2003/TTLT-BTC-BTNMT ngày
18/12/2003 của Bộ Tài chính - Bộ Tài nguyên và Môi trường hướng dẫn
thực hiện Nghị định số 67/2003/NĐ-CP ngày 13/06/2003 của Chính phủ về
phí bảo vệ môi trường đối với nước thải [31;1]
Tiếp đến là Luật Tài nguyên nước (sửa đổi), được kỳ họp thứ 3 Quốc hội
khóa XIII thông qua ngày 21-6-2012 và được Văn phòng Chủ tịch nước họp
báo công bố Lệnh của Chủ tịch nước Công bố Luật vào ngày 16-7 vừa qua.
Phạm vi điều chỉnh của Luật này kế thừa phạm vi điều chỉnh của Luật
Tài nguyên nước năm 1998. Theo đó, Luật điều chỉnh việc quản lý, bảo vệ,
khai thác, sử dụng tài nguyên nước, phòng, chống và khắc phục tác hại do
nước gây ra trên lãnh thổ ViệtNam. Luật không điều chỉnh nước khoáng,
nước nóng thiên nhiên và nước biển thuộc vùng thềm lục địa, vùng đặc
20
quyền kinh tế của nước ta. Bên cạnh đó, những vấn đề về lũ, lụt và các tác
hại khác của nước do thiên tai gây ra được điều chỉnh bằng pháp luật khác.
1.3.2.2. Các quy định cụ thể
1.3.2.2.1. Trách nhiệm bảo vệ tài nguyên nước
Theo nghị quyết số 02/2002/QH11 ngày 05 tháng 8 năm 2002 của
Quốc hội khóa XI kỳ họp thứ nhất, Chính phủ đã ban hành Nghị định số
91/2002/NĐ-CP ngày 11 tháng 11 năm 2002 quy định chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ TN&MT, trong đó quy định Bộ
TN&MT thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tài nguyên nước. Bộ
trưởng Bộ TN&MT đã ban hành Quyết định số 600/2003/QĐ-BTNMT
ngày 08 tháng 5 năm 2003 quy định, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ
cấu tổ chức của Cục Quản lý tài nguyên nước. Cục Quản lý tài nguyên
nước là đơn vị trực thuộc Bộ TN&MT có chức năng giúp Bộ trưởng thực

hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về tài nguyên nước. Tại các tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương cũng đã thành lập các Sở TN&MT, trong đó có
các Phòng Quản lý tài nguyên nước có chức năng giúp tỉnh thực hiện
nhiệm vụ quản lý nhà nước về tài nguyên nước trên địa bàn tỉnh.
Tuy nhiên, cho đến nay việc quản lý TNN theo luật tài nguyên nước
2012 sửa đổi vẫn phân tán về nhiều bộ ngành như Bộ NN&PTNT, Bộ
TN&MT, Bộ Công Thương, Bộ Giao thông Vận tải, v.v…
Bộ TN&MT là chủ quản tài nguyên nước nhưng thực sự chỉ quản lý
nước ngầm, khí tượng thuỷ văn, và các chính sách chung chung. Thực lực
cán bộ am hiểu về nước ở Bộ TN&MT còn mỏng, khó đủ sức để quản lý
toàn diện trong khi thiên tai và biến đổi khí hậu tác hại đến nước rất
nghiêm trọng và thường xuyên.
TNN được quản lý phân tán khiến cho nhiều xung đột về nước, gần
đây nhất là xung đột giữa thủy điện và nước ở hạ lưu, không được cơ quan
nào làm đầu mối đứng ra giải quyết.
21
1.3.2.2.2. Phòng chống, khắc phục sự cố ô nhiễm, cạn kiệt nguồn nước
Trong việc phòng, chống ô nhiễm, suy thoái, cạn kiệt nguồn nước,
khắc phục được những bất cập của Luật tài nguyên nước 1998, Luật tài
nguyên nước sửa đổi đã có nhiều quy định mới và cụ thể hơn như:
Bổ sung quy định cụ thể về các biện pháp phòng, chống ô nhiễm, suy
thoái, cạn kiệt nguồn nước và ứng phó, khắc phục sự cố ô nhiễm nguồn
nước. Nhấn mạnh đến việc giám sát tài nguyên nước, quy định cụ thể về
khai thác, sử dụng nước và xả nước thải vào nguồn nước, bảo vệ lòng, bờ,
bãi sông, bảo đảm sự lưu thông của dòng chảy
Theo đó, hoạt động khai thác, sử dụng nước phải tuân thủ quy hoạch
tài nguyên nước; không xây dựng mới các bệnh viện, cơ sở y tế điều trị
bệnh truyền nhiễm, nghĩa trang, bãi chôn lấp chất thải, cơ sở sản xuất hóa
chất độc hại, cơ sở sản xuất, chế biến có nước thải nguy hại trong hành lang
bảo vệ nguồn nước.

Các khu kinh tế, khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao,
khu đô thị, khu dân cư tập trung, khu du lịch, vui chơi, giải trí tập trung,
tuyến giao thông đường thủy, đường bộ, công trình ngầm, công trình cấp,
thoát nước, công trình khai thác khoáng sản, nhà máy điện, khu chứa nước
thải và cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ phải có phương án phòng,
chống ô nhiễm, suy thoái, cạn kiệt nguồn nước.
Cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ có nguy cơ gây ra sự cố ô nhiễm
nguồn nước phải xây dựng và thực hiện các biện pháp để kịp thời ứng phó,
khắc phục sự cố ô nhiễm nguồn nước. [22;1]
1.3.2.2.3. Quan trắc, giám sát tài nguyên nước
Điều tra, quan trắc tài nguyên nước (TNN) là sự giám sát, đo đạc các
yếu tố TNN. Kết quả quan trắc cung cấp một bức tranh hoàn thiện nhất,
đầy đủ nhất và chính xác nhất về số lượng, chất lượng nước, phục vụ các
nhu cầu phát triển kinh tế xã hội và dự báo khả năng sử dụng tài nguyên
22
nước trong tương lai. Các yếu tố quan trắc bao gồm mực nước, lưu lượng,
nhiệt độ, chất lượng, của nước.
Kết quả thực tế cho thấy rằng quan trắc tài nguyên nước là một trong
những dạng công tác điều tra cơ bản quan trọng hỗ trợ chiến lược, sách
lược bảo vệ tài nguyên nước. Kết quả quan trắc giúp hoàn thiện quy hoạch
phát triển bảo vệ và quản lý các nguồn nước, làm giảm nhẹ nguy cơ nhiễm
bẩn, cạn kiệt nước và phòng tránh những tác động tiêu cực của nước đến
môi trường sinh thái. [7;1]
Quan trắc, giám sát tài nguyên nước là một điều mới trong luật bảo vệ
tài nguyên nước 2012 nhằm mục đích quy định cụ thể các cơ quan quản lý
nhà nước có trách nhiệm giám sát, theo dõi các nguồn nước đang được
dùng cho các mục đích sử dụng khác nhau trên địa bàn và công khai cho
nhân dân biết để giám sát. Theo đó Bộ Tài nguyên và Môi trường có trách
nhiệm quan trắc, giám sát về số lượng, chất lượng nguồn nước, hoạt động
khai thác, sử dụng tài nguyên nước, xả nước thải vào nguồn nước đối với

các nguồn nước liên tỉnh, liên quốc gia. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quan
trắc, giám sát đối với các nguồn nước nội tỉnh. Tổ chức, cá nhân khai thác,
sử dụng tài nguyên nước, xả nước thải vào nguồn nước quan trắc, giám sát
việc khai thác, sử dụng nước và xả nước thải của mình theo quy định.
1.3.2.2.4. Bảo vệ chất lượng nguồn nước
Theo quy định tại khoản 1 Điều 2 Luật TNN 1998 thì: “Tài nguyên nước
bao gồm các nguồn nước mặt, nước mưa, nước dưới đất, nước biển thuộc lãnh
thổ nước CHXHCN Việt Nam. Nước biển, nước dưới đất thuộc vùng đặc
quyền kinh tế, thềm lục địa được quy định tại các văn bản pháp luật khác.
Nước khoáng, nước nóng thiên nhiên do Luật Khoáng sản quy định”. Tuy
nhiên, hiện nay pháp luật về TNN 1998 mới chỉ có các quy định về quản lý,
khai thác và sử dụng các nguồn nước mặt, nước dưói đất mà chưa đề cập đến
việc quản lý, khai thác và sử dụng các nguồn nước biển, nước khoáng, nước
23
nóng thiên nhiên. Nên công tác quản lý nhà nước về nước ở nước ta chưa
mang tính toàn diện và thiếu cơ sở pháp lý để quản lý, khai thác và bảo vệ các
nguồn nước biển, nước khoáng, nước nóng thiên nhiên.
Nhiều văn bản, chính sách vẫn còn nhiều hạn chế như văn bản luật
còn thiếu, chưa cụ thể, chưa phù hợp với thực tế, bộc lộ những bất cập,
vướng mắc trong quá trình thực hiện, hiệu lực thi hành thấp. Đồng thời, sự
gắn kết với các Công ước quốc tế liên quan còn mờ nhạt.
Khắc phục được những nhược điểm đó, luật tài nguyên nước 2012 đã
quy định về bảo vệ chất lượng nguồn nước sinh hoạt được bổ sung, chỉnh
sửa, theo đó tổ chức, cá nhân khai thác nước để cấp nước cho sinh hoạt
phải thường xuyên quan trắc, theo dõi chất lượng nguồn nước sinh hoạt,
bảo đảm chất lượng đối với nguồn nước do mình khai thác; đồng thời có
phương án khai thác nguồn nước khác để thay thế trong trường hợp xảy ra
sự cố ô nhiễm nguồn nước đang khai thác.
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh sẽ xác định và công bố vùng bảo hộ vệ sinh
khu vực lấy nước sinh hoạt trong phạm vi địa phương theo quy định của Bộ

Tài nguyên và Môi trường; công bố thông tin chất lượng nguồn nước sinh
hoạt, cảnh báo hiện tượng bất thường về chất lượng các nguồn nước trên
địa bàn. Ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp xã thực hiện các biện pháp bảo vệ
chất lượng nguồn nước sinh hoạt tại địa phương.
Ngoài ra, bỏ các quy định về bảo vệ chất lượng nước trong các hoạt
động sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thủy, hải sản, sản xuất công nghiệp,
khai khoáng; bảo vệ chất lượng nước trong các hoạt động khác và bảo vệ
nguồn nước ở đô thị, khu dân cư tập trung do đã được lồng ghép một số nội
dung quy định tại các điều khác trong.
1.3.2.2.5. Bảo vệ và phát triển nguồn sinh thủy
Nhận thức được tầm quan trọng ngày càng to lớn của rừng đối với
việc bảo vệ tài nguyên nước, Luật tài nguyên nước 2012 đã dành một điều
24
quy định về bảo vệ và phát triển nguồn sinh thủy. Theo đó, các nhà đầu tư
xây dựng hồ chứa, chủ các dự án khai thác, chế biến khoáng sản và các
hoạt động khác có sử dụng hoặc làm ảnh hưởng đến diện tích rừng phải
trồng bù diện tích rừng đã bị mất do việc xây dựng công trình hoặc đóng
góp kinh phí trồng rừng trong trường hợp địa phương không bố trí được
quỹ đất để trồng rừng mới. Đồng thời phải đóng góp kinh phí cho hoạt
động bảo vệ rừng thuộc phạm vi lưu vực của hồ chứa và tham gia bảo vệ,
phát triển rừng đầu nguồn.
Hàng loạt các nguồn nước phải lập hành lang bảo vệ nước, gồm hồ
chứa thủy điện, thủy lợi; hồ tự nhiên, nhân tạo ở các đô thị, khu dân cư; hồ,
ao lớn có chức năng điều hòa; đầm, đầm phá; sông, suối, kênh, rạch là nguồn
cấp nước, trục tiêu nước hoặc có tầm quan trọng… UBND tỉnh sẽ chịu trách
nhiệm cắm mốc chỉ giới và quản lý hành lang bảo vệ nguồn nước.
UBND cấp tỉnh sẽ xác định và công bố vùng bảo hộ vệ sinh khu vực
lấy nước sinh hoạt trong phạm vi địa phương theo quy định của Bộ
TN&MT; công bố thông tin chất lượng nguồn nước sinh hoạt, cảnh báo
hiện tượng bất thường về chất lượng các nguồn nước trên địa bàn. UBND

cấp huyện, cấp xã thực hiện các biện pháp bảo vệ chất lượng nguồn nước
sinh hoạt tại địa phương. [ 22;2]
1.3.2.2.6. Quy định về cấp giấy phép xả thải
Việc cấp phép thăm dò, khai thác, sử dụng tài nguyên nước, xả nước
thải vào nguồn nước được quy định tại Luật Tài nguyên Nước năm 1998 và
Nghị định số 149/2004/NĐ-CP ngày 27/7/2004 của Chính phủ. Tuy nhiên
công1 tác cấp phép khai thác, sử dụng tài nguyên nước, xả nước thải vào
nguồn nước còn nhiều bất cập.
Hiện nay các quy hoạch, kế hoạch, các dự án có liên quan đến khai
thác, sử dụng tài nguyên nước, xả nước thải vào nguồn nước không quy
định có sự tham gia của cơ quan quản lý tài nguyên nước. Mặt khác, theo
25

×