Khóa luận tốt nghiệp đại học
GVHD: TS. Bùi Đức Tính
Lời Cảm Ơn!
Khóa luận tốt nghiệp này là kết quả học
tập và nghiên cứu của tôi trong bốn năm học
tại giảng đường trường Đại học Kinh tế Huế. Để
hoàn thành khóa luận này, ngoài sự nỗ lực cố
gắng của bản thân, tôi đã nhận được nhiều
sự quan tâm giúp đỡ của các thầy cô giáo,
các tập thể, cá nhân, trong và ngoài trường
Đại học Kinh tế Huế.
Trước hết tôi xin chân thành cảm ơn quý
thầy cô giáo trong và ngoài trường Đại học Kinh
tế Huế, đã tận tình truyền đạt kiến thức cho
tôi trong suốt thời gian qua.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc
đến thầy giáo, TS.Bùi Đức Tính, người đã trực
tiếp hướng dẫn, chỉ bảo tận tình để tôi hoàn
thành khóa luận tốt nghiệp này.
Tôi xin trân trọng cám ơn các cô chú, anh
chò làm việc Phòng Tài chính – Kế hoạch huyện
Bố Trạch, cùng toàn thể các bộ quản lý cấp
huyện, cấp xã đã giúp đỡ, tạo mọi điều kiện
thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình thực tập
và thực hiện khóa luận này.
Cuối cùng, tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn
và những tình cảm yêu mến nhất đến gia đình,
SCTH: Nguyễn Diệu Trang
11
Khóa luận tốt nghiệp đại học
GVHD: TS. Bùi Đức Tính
những người thân của tôi đã tạo điều kiện,
động viên tôi trong suốt quá trình học tập và
thực hiện khóa luận này.
Một lần nữa tôi xin chân thành cảm ơn !
Huế, tháng 5
năm 2013
Sinh viên thực
hiện
Nguyễn Diệu
Trang
SCTH: Nguyễn Diệu Trang
22
Khóa luận tốt nghiệp đại học
GVHD: TS. Bùi Đức Tính
MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ, CỤM TỪ VIẾT TẮT
DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ, BIỂU ĐỒ
DANH MỤC BẢNG BIỂU
TÓM TẮT NGHIÊN CỨU
DANH MỤC CÁC PHỤ LỤC
SCTH: Nguyễn Diệu Trang
33
Khóa luận tốt nghiệp đại học
GVHD: TS. Bùi Đức Tính
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
VIẾT TẮT NGHĨA
KT-XH Kinh tế - xã hội
NSNN Ngân sách nhà nước
VĐT Vốn đầu tư
TSCĐ Tài sản cố định
ODA Nguồn vốn hổ trợ chính thức
NGO Nguồn vốn của các tổ chức phi Chính phủ
XHCH Xã hội chủ nghĩa
SXKD Sản xuất kinh doanh
KH-ĐT Kế hoạch- đầu tư
TMĐT Tổng mức đầu tư
CN Công nghiệp
NN Nông nghiệp
DV Dịch vụ
UBND Ủy Ban Nhân dân
CHDCND Cộng hòa dân chủ nhân dân
CN-TTCN Công nghiệp- Tiểu thủ công nghiệp
GTNT Giao thông nông thôn
QLNN, ANQP Quản lý nhà nước, An ninh quốc phòng
KHKT Khoa học kĩ thuật
KBNN Kho bạc Nhà Nước
GTTB Giá trị trung bình
GTKĐ Giá trị kiểm định
SCTH: Nguyễn Diệu Trang
44
Khóa luận tốt nghiệp đại học
GVHD: TS. Bùi Đức Tính
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BIỂU ĐỒ
SCTH: Nguyễn Diệu Trang
55
Khóa luận tốt nghiệp đại học
GVHD: TS. Bùi Đức Tính
DANH MỤC BẢNG BIỂU
TÓM TẮT NGHIÊN CỨU
Đầu tư xây dựng cơ bản là một hoạt động đầu tư vô cùng quan trọng tạo ra hệ
thống cơ sở hạ tầng phục vụ cho sự phát triển kinh tế - xã hội, là tiền đề cơ bản để thực
hiện CNH – HĐH đất nước. Do đó những năm gần đây ở tỉnh Quảng Bình đã và đang
mở rộng xây dựng nhiều dự án, công trình nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã
hội. Một số địa phương có nhiều hoạt động đầu tư XDCB nhiều là TP Đồng Hới, huyện
Bố Trạch, Quảng Trạch…Đề tài đã chọn huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình để nghiên
cứu đề tài .Huyện Bố Trạch là một huyện có điểm xuất phát thấp của tỉnh Quảng Bình,
chịu ảnh hưởng nặng nề của hai cuộc chiến tranh tàn phá. Cơ sở hạ tầng yếu kém, các
nguồn vốn huy động cho đầu tư phát triển quá nhỏ bé so với yêu cầu phát triển KT - XH
của huyện. Tuy nhiên, dưới sự lãnh đạo của Đảng, huyện Bố Trạch đã đạt được những
thành tựu nhất định :tốc độ xây dựng trên địa bàn ngày càng nhiều, nhiều dự án đầu tư
của tỉnh trong thời gian qua là đầu tưđúng hướng đã và đang phát huy hiệu quả, làm cơ
cấu kinh tế của huyện chuyển dịch mạnh mẽ, tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt ở mức cao.
Bên cạnh những thành quả đạt được, trong lĩnh vực đầu tư XDCB trên địa bàn
huyện Bố Trạch còn nhiều yếu kém, VĐT XDCB thuộc NSNN còn bị thất thoát và
lãng phí nhiều, hiệu quả sử dụng vốn đầu tư thấp, nhiều dự án không đúng hướng nên
khi dự án đưa vào khai thác không phát huy hiệu quả. Nhận thức được tầm quan trọng
của việc quản lý hiệu quả nguồn vốn đầu tư XDCB từ Ngân sách Nhà nước, tôi đã
chọn đề tài “Quản lý vốn Ngân sách nhà nước trong đầu tư XDCB trên địa bàn
huyện Bố Trạch – Quảng Bình” làm khóa luận tốt nghiệp của mình.
Mục tiêu chính của đề tài là đề xuất các giải pháp chính nhằm nâng cao hiệu quả
quản lý vốn đầu tư xây dựng cơ bản trên địa bàn huyện Bố Trạch.
Có được kết quả này tôi đã thu thập số liệu thông qua phỏng vấn trực tiếp 50cán
bộ quản lý cấp huyện, cấp xã nhằm thấy được thực trạng quản lý vốn đầu tư XDCB
trên địa bàn huyện Bố Trạch.Số liệu thứ cấp được lấy từ phòng Tài chính – Kế hoạch,
phòng Thống Kê huyện Bố Trạch, các giáo trình, sách báo, internet…
Trong quá trình nghiên cứu đề tài tôi đã sử dụng các phương pháp như phương
pháp điều tra chọn mẫu, phương pháp phỏng vấn trực tiếp, phương pháp phân tích số
liệu, phương pháp so sánh.
SCTH: Nguyễn Diệu Trang
66
Khóa luận tốt nghiệp đại học
GVHD: TS. Bùi Đức Tính
Kết quả thu được từ quá trình nghiên cứu này là một số đánh giá của cán bộ
quản lý về thực trạng các công tác trong quản lý vốn đầu tư XDCB từ NSNN. Đề xuất
kiến nghị và giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý vốn đầu tư XDCB từ NSNN trong
thời gian tới.
DANH MỤC CÁC PHỤ LỤC
Phụ lục 1: Phiếu điều tra
Phụ lục 2: Kiểm tra độ tin cậy thang đo Crobach’s alpha
Phụ lục 3: Kiểm định One Sample T- Test
SCTH: Nguyễn Diệu Trang
77
Khóa luận tốt nghiệp đại học
GVHD: TS. Bùi Đức Tính
PHẦN MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Việt Nam đang trên con đường tiến hành công nghiệp hóa – hiện đại hóa (CNH –
HĐH). Cùng với quá trình tăng trưởng kinh tế, xã hội của cả nước,kinh tế xã hội của
tỉnh Quảng Bình nói chung và của huyện Bố Trạch nói riêng cũng có những bước phát
triển tích cực, đời sống nhân dân ngày càng được nâng cao về vật chất, tinh thần. Để
khai thác tiềm năng phát triển kinh tế xã hội của xã ngày một hiệu quả, việc đầu tư xây
dựng cơ bản là một yêu cầu đặc biệt quan trọng và cấp thiết trong việc phát triển bền
vững kinh tế xã hội, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và môi trường.
Cũng như trong cả nước, việc quản lý vốn đầu tư từ NSNN huyện Bố Trạch cũng
được chú trọng. Các cấp chính quyền trên địa bàn đã có nhiều nỗ lực trong việc triển
khai thực hiện cơ chế chính sách chung, cải tiến quy trình, thủ tục cấp phát và quản lý
sử dụng, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra. Những nỗ lực không mệt mỏi đó đã
góp phần quan trọng vào việc sử dụng nguồn vốn đúng mục đích, đúng luật và có tính
hiệu quả cao; kịp thời phát hiện những khoản chi đầu tư XDCB sai mục đích, sai
nguyên tắc, vi phạm quy trình, sai định mức chi tiêu…, góp phân quan trọng vào việc
nâng cao hiệu quả vốn đầu tư XDCB từ NSNN theo nhiệm vụ được giao.
Bên cạnh những kết quả đạt được của việc quản lý hiệu quả vốn NSNN cho đầu
tư xây dựng cơ bản, huyện Bố Trạch còn có những tồn đọng và hạn chế như: tình trạng
thất thoát vốn, lãng phí trong đầu tư XDCB, sai phạm xảy ra trong công tác đấu thầu,
thẩm định dự án đầu tư , thủ tục hành chính còn nặng nề và tình trạng chậm giải ngân
đã làm cho việc sử dụng vốn đầu tư có hiệu quả.Nghị quyết của Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ X nêu rõ: “Phải xoá bỏ cơ chế “xin cho”, nếu còn cơ chế này thì sẽ phát
sinh tiêu cực…Đồng thời phải cải cách thủ tục hành chính, phân cấp đầu tư hợp lý.
Trong lĩnh vực XDCB phải chấn chỉnh từ khâu dự toán, thiết kế đến thi công”.
Nhận thức được tầm quan trọng của việc quản lý vốn đầu tư xây dựng cơ bản đối
với quá trình phát triển kinh tế xã hội của huyện Bố Trạch nói riêng và của tỉnh Quảng
Bình nói chung, em chọn đề tài: “Quản lý vốn Ngân sách nhà nước trong đầu tư xây
dựng cơ bản trên địa bàn huyện Bố Trạch - Quảng Bình” để nghiên cứu và làm đề
tài tốt nghiệp của mình.
SCTH: Nguyễn Diệu Trang
88
Khóa luận tốt nghiệp đại học
GVHD: TS. Bùi Đức Tính
2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
2.1. Mục tiêu chung
Đánh giá thực trạng quản lý vốn Ngân sách nhà nước trong đầu tư XDCB huyện
Bố Trạch và đề xuất các giải pháp chính nhằm nâng cao hiệu quả quản lý vốn đầu tư
xây dựng cơ bản trên địa bàn huyện Bố Trạch.
2.2. Mục tiêu cụ thể
- Khái quát hóa những vấn đề lý luận cơ bản về quản lý vốn đầu tư XDCB
- Nghiên cứu thực trạng quản lý vốn đầu tư XDCB huyện Bố Trạch, những tồn
tại vướng mắc cần khắc phục, đề xuất một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả quả lý
vốn đầu tư XDCB huyện Bố Trạch
3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Cách nghiên cứu dựa trên nền tảng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Phương pháp thu thập số liệu :
- Số liệu thứ cấp : Đề tài sử dụng nguồn số liệu từ phòng Thống kê huyện Bố
Trạch, phòng Tài chính – Kế hoạch huyện Bố Trạch sau đó tiến hành thống kê, phân
tích, so sánh và rút ra kết luận.
- Số liệu sơ cấp : Đề tài sử dụng công cụ phân tích thống kê SPSS 16.0 để tổng
hợp ý kiến, kiểm định thang đo chất lượng các công tác quản lý vốn đầu tư XDCB và
rút ra kết luận.
- Áp dụng phương pháp tham khảo ý kiến chuyên gia và đồng thời kế thừa các
công trình nghiên cứu có liên quan đã được công bố của một số tác giả viết về cơ sở lý
luận và thực tiễn hiện nay về quản lý vốn đầu tư xây dựng cơ bản của một số địa
phương trong nước .
4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề lý luận và thực tiễn liên
quan đến quản lý vốn đầu tư xây dựng cơ bản, nghiên cứu thực trạng và các giải
pháp nâng cao hiệu quả quản lý vốn đầu tư XDCB từ NSNN
SCTH: Nguyễn Diệu Trang
99
Khóa luận tốt nghiệp đại học
GVHD: TS. Bùi Đức Tính
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu được giới hạn trên địa bàn huyện Bố trạch, thời gian khảo
sát thực trạng chủ yếu từ năm 2008 đến năm 2012, các giải pháp được đề xuất thuộc
hạm vi quản lý nhà nước cấp huyện đến năm 2015 và 2020.
5. KẾT CẤU CỦA ĐỀ TÀI
Tên đề tài : “Quản lý vốn Ngân sách Nhà nước trong đầu tư xây dựng cơ bản
trên địa bàn huyện Bố Trạch - Quảng Bình”
Ngoài mục đích nghiên cứu, kết luận và kiến nghị thì kết cấu đề tài gồm 3 chương:
Chương I: Cơ sở lý luận về quản lý vốn đầu tư xây dựng cơ bản từ ngân sách
Nhà nước
Chương II: Thực trạng quản lý vốn đầu tư xây dựng cơ bản từ ngân sách Nhà
nước trên địa bàn huyện Bố Trạch
Chương III: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý vốn đầu tư xây
dựng cơ bản từ ngân sách Nhà nước trên địa bàn huyện Bố Trạch
SCTH: Nguyễn Diệu Trang
1010
Khóa luận tốt nghiệp đại học
GVHD: TS. Bùi Đức Tính
PHẦN THỨ 2 : NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ VỐN ĐẦU TƯ
XÂY DỰNG CƠ BẢN TỪ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
1.1. Đầu tư xây dựng cơ bản
1.1.1. Đầu tư
Theo cách hiểu chung nhất, đầu tư là hoạt động bỏ vốn vào các lĩnh vực kinh tế
xã hội (KT-XH) để mong thu được lợi ích dưới các hình thức khác nhau trong tương
lai. Đầu tư hay hoạt động đầu tư là việc huy động các nguồn lực hiện tại để tiến hành
các hoạt động nào đó nhằm thu về các kết quả nhất định trong tương lai.Nguồn lực bỏ
ra đó có thể là tiền, tài nguyên thiên nhiên, sức lao động, tài sản vật chất khác [5].Biểu
hiện của tất cả nguồn lực bỏ ra nói trên gọi chung là VĐT. Những kết quả đó có thể là
sự tăng thêm các tài sản tài chính (tiền vốn), tài sản vật chất (nhà máy, đường giao
thông…), tài sản trí tuệ (trình độ văn hoá, chuyên môn, khoa học kỹ thuật…) và nguồn
nhân lực. Có nhiều cách phân loại đầu tư, nhưng xuất phát từ bản chất và phạm vi lợi
ích do đầu tư đem lại, người ta phân chia ra thành [7]:
- Đầu tư tài chính: là loại đầu tư trong đó người ta bỏ tiền ra cho vay hoặc mua
chứng chỉ có giá để hưởng lãi suất định trước (gửi tiết kiệm, mua trái phiếu Chính
phủ) hoặc lãi suất tuỳ thuộc vào kết quả hoạt động kinh doanh của công ty phát hành
(mua cổ phiếu, trái phiếu công ty).
- Đầu tư thương mại: là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra để mua hàng
hoá và sau đó bán với giá cao hơn nhằm thu lại lợi nhuận do chênh lệch giá khi mua
và khi bán.
- Đầu tư tài sản vật chất và nguồn nhân lực: là loại đầu tư trong đó người có tiền
bỏ tiền ra để tiến hành các hoạt động nhằm trực tiếp tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế,
làm tăng tiềm lực sản xuất kinh doanh hoặc hoạt động xã hội khác.
- Đầu tư cơ bản: là hoạt động đầu tư để tạo ra các tài sản cố định (TSCĐ) đưa
vào hoạt động trong các lĩnh vực KT - XH khác nhau. Trong hoạt động đầu tư, các nhà
đầu tư phải quan tâm đến các yếu tố: sức lao động, tư liệu lao động, đối tượng lao
SCTH: Nguyễn Diệu Trang
1111
Khóa luận tốt nghiệp đại học
GVHD: TS. Bùi Đức Tính
động. Khác với đối tượng lao động (nguyên vật liệu, sản phẩm dở dang, bán thành
phẩm…) các tư liệu lao động (như máy móc thiết bị, nhà xưởng, phương tiện vận
tải…) là những phương tiện vật chất mà con người sử dụng để tác động vào đối tượng
lao động, biến đổi nó thành mục đích của mình. Xét về mặt tổng thể thì không một
hoạt động đầu tư nào mà không cần phải có các TSCĐ, nó bao gồm toàn bộ cơ sở kỹ
thuật đủ tiêu chuẩn theo quy định của Nhà nước và có thể được điều chỉnh cho phù
hợp với giá cả từng thời kỳ.
Hoạt động đầu tư cơ bản thực hiện bằng cách tiến hành xây dựng mới các TSCĐ
được gọi là đầu tư XDCB.
XDCB chỉ là một khâu trong hoạt động đầu tư XDCB. XDCB là các hoạt động
cụ thể để tạo ra TSCĐ (như khảo sát, thiết kế, xây dựng, lắp đặt….). Kết quả của hoạt
động XDCB là các TSCĐ, có một năng lực sản xuất và phục vụ nhất định. Như vậy,
XDCB là một quá trình đổi mới và tái sản xuất mở rộng có kế hoạch về các TSCĐ của
nền kinh tế quốc dân trong các ngành sản xuất vật chất cũng như không sản xuất vật
chất. Nó là quá trình xây dựng cơ sở vật chất cho một quốc gia.[7]
Đầu tư XDCB là hoạt đồng đầu tư nhằm tạo ra các công trình xây dựng theo mục
đích của người đầu tư, là lĩnh vực sản xuất vật chất tạo ra các TSCĐ và tạo ra cơ sở
vật chất kỹ thuật cho xã hội. Đầu tư XDCB là một hoạt động kinh tế.
1.1.2. Vốn đầu tư
Các nguồn lực được sử dụng cho hoạt động đầu tư được gọi là vốn đầu tư . Nếu
quy đổi thành tiền thì vốn đầu tư là toàn bộ chi phí hoạt động đầu tư.
Vốn đầu tư có thể biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, căn cứ vào tính chất
vốn đầu tư có thể chia thành các loại sau đây:
Vốn đầu tư tiền tệ: bao gồm các loại tiền tệ trong nước và ngoại tệ mà chỉ biến
thành vốn khi sử dụng vào mục đích đầu tư.
Vốn đầu tư vật quý: như vàng, bạc, đá quý… để đại diện cho một loại giá trị
hoạt động dịch vụ mà trong trường hợp lạm phát thì giá trị này không xác định, vốn
đầu tư có thể giảm hoặc thậm chí không đầu tư.
Vốn đầu tư hữu hình: là loại vốn không thể hiện bằng tiền mà còn thể hiện dưới
dạng tiềm năng và lợi thế, mà cụ thể hơn người là hình dung có các loại vốn này như
sau: vốn tài chính, vốn nhân lực, vốn tài nguyên thiên nhiên…
SCTH: Nguyễn Diệu Trang
1212
Khóa luận tốt nghiệp đại học
GVHD: TS. Bùi Đức Tính
Vốn đầu tư vô hình: loại vốn này nó thể hiện qua công nghệ như các phát minh
khoa học công nghệ, uy tín nhãn hiệu, bí quyết công nghệ…
Cơ cấu vốn đầu tư xây dựng cơ bản hiện nay có thể hình thành từ các nguồn sau
Vốn tín dụng trong nước và nước ngoài:
Vốn tín dụng trong nước bao gồm: trái phiếu, kỳ phiếu, tín phiếu, tiết kiệm kỳ,
tiết kiệm không kỳ hạn… nói chung vốn tín dụng trong nước và nguồn vốn của tất cả
các thành phần kinh tế được huy động dưới nhiều hình thức khác nhau.
Vốn tín dụng đầu tư xây dựng nước ngoài: là nguồn vốn do tổ chức cá nhân ở
nước ngoài cho Nhà nước và các doanh nghiệp trong nước vay như ngân hàng thế giới
(WB), ADB,… đầu tư cho phát triển kinh tế hoặc đầu tư cho các chương trình khác
như phục vụ về mục tiêu y tế, giáo dục, vệ sinh môi trường, phòng chống thiên tai, xoá
đói giảm nghèo… Vốn tín dụng nước ngoài có nhiều hình thức cho vay như cho vay
dài hạn, ngắn hạn, trung hạn hoặc cho vay khoảng một thời gian mới trả lãi.
Vốn đầu tư từ NSNN và vốn viện trợ:
Vốn đầu tư từ NSNN và vốn viện trợ thường được tách riêng cho từng công
trình, từng dự án đầu tư. Nhưng trong thực tế một dự án cũng có thể có cả phần NSNN
và phần vốn viện trợ mà phần vốn viện trợ cũng được Nhà nước quản lý theo luật định
giống như vốn NSNN.
Vốn viện trợ thường rất ít, loại vốn này chỉ dành cho những đầu tư nhân đạo như
rừng phòng hộ, trường đại học, trạm xá hoặc giao thông miền núi.
Vốn đầu tư XDCB của NSNN là thuộc quyền sở hữu Nhà nước. Nhà nước là chủ
thể có quyền chi phối và định đoạt nguồn vốn NSNN dành cho đầu tư XDCB và là
người đề ra chủ trương đầu tư, có thẩm quyền quyết định đầu tư, phê duyệt thiết kế dự
toán (tổng dự toán). Song quyền sử dụng vốn đầu tư XDCB Nhà nước lại giao cho một
tổ chức bằng việc thành lập các chủ đầu tư, các Ban quản lý dự án. Chủ đầu tư và các
Ban quản lý dự án là người được Nhà nước giao trách nhiệm trực tiếp quản lý và sử
dụng vốn để thực hiện đầu tư theo quy định của pháp luật .[19]
Xuất phát từ đặc điểm này mà trong quản lý vốn đầu tư XDCB của NSNN dễ bị
thất thoát. Nếu các chủ đầu tư, các Ban quản lý dự án không ngừng nâng cao tinh thần
trách nhiệm, trình độ chuyên môn nghiệp vụ không đáp ứng yêu cầu quản lý; Nhà
nước không tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra bằng những cơ chế chính sách
SCTH: Nguyễn Diệu Trang
1313
Khóa luận tốt nghiệp đại học
GVHD: TS. Bùi Đức Tính
ràng buộc trách nhiệm thì thất thoát lãng phí trong đầu tư XDCB thuộc vốn NSNN là
không thể tránh khỏi.
Vốn đầu tư tích luỹ của doanh nghiệp:
Đầu tư do vốn tích luỹ của doanh nghiệp ở các nước có nền kinh tế thị trường
phát triển thì do chủ dự án đầu tư định đoạt mà Nhà nước chỉ quản lý bằng giải pháp
thuế. Nhưng ở tỉnh huyện Bố Trạch thì loại vốn này thì hầu như chưa có hoặc có rất ít.
Vốn đầu tư từ nguồn tiết kiệm của tầng lớp dân cư:
Vốn loại này được hình thành từ nhiều hoạt động khai thác khác nhau như là tiết
kiệm ngắn hạn, dài hạn, trung hạn, trái phiếu Nhà nước, trái phiếu doanh nghiệp…
Các nguồn vốn huy động ngoài nước cho đầu tư xây dựng cơ bản:
Các nguồn vốn này bao gồm có nguồn vốn hỗ trợ phát triển ODA và nguồn vốn
của các tổ chức phi Chính phủ NGO. Các loại vốn này về mặt khối lượng thì không
lớn, song với mục đích chủ yếu là đầu tư cho các dự án phúc lợi xã hội, các dự án tạo
việc làm, các dự án tăng cường sức khoẻ cộng đồng, loại nguồn vốn này có ý nghĩa tác
dụng thúc đẩy sự phát triển bền vững và góp phần giải quyết các vấn đề xã hội.
Trong các nguồn vốn để phục vụ cho đầu tư xây dựng cơ bản thì nguồn vốn từ
NSNN là quan trọng nhất. Vì là nguồn vốn được Nhà nước quản lý theo luật pháp một
cách chặt chẽ và cũng là nguồn vốn có tỷ trọng lớn nhất hiện nay ở nước CHXHCN
Việt Nam nói chung và huyện Bố Trạch nói riêng. Tính quan trọng thể hiện ở chỗ hiện
nay Đảng và Nhà nước có chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần theo cơ chế
kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN….
1.2. Quản lý vốn đầu tư XDCB từ NSNN
1.2.1. Vai trò của vốn đầu tư XDCB từ NSNN
Nghị định số 385-HĐBT ngày 07/11/1990 của hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính
Phủ) về việc sửa đổi, bổ sung thay thế điều lệ quản lý đầu tư xây dựng cơ bản đã ban hành
theo Nghị định số 232-CP ngày 06/06/1981 khái niệm “Vốn đầu tư XDCB là toàn bộ chi
phí cho việc khảo sát, quy hoạch xây dựng, chuẩn bị đầu tư, chi phí thiết kế xây dựng, chi
phí mua sắm và lắp đặt thiết bị và các chi phí khác ghi trong tổng dự toán” [20].
Vốn đầu tư xây dựng cơ bản từ NSNN phục vụ công cuộc công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước thể hiện trên những mặt sau đây:
Thứ nhất: Cân đối nền kinh tế
Trong cân đối nền kinh tế đất nước nói chung và huyện Bố Trạch nói riêng thì vai
trò của vốn đầu tư xây dựng cơ bản từ NSNN có tầm quan trọng hết sức đặc biệt. Mặt
SCTH: Nguyễn Diệu Trang
1414
Khóa luận tốt nghiệp đại học
GVHD: TS. Bùi Đức Tính
khác, do cạnh tranh, nên một số ngành kinh tế sẽ phát triển mất cân đối nhất là ngành
sản xuất kinh doanh (SXKD) phục vụ nhu cầu của quần chúng nhân dân, những lĩnh
vực này NSNN phải đầu tư cho thoả đáng, ví dụ như đầu tư qua các doanh nghiệp công
ích.
Thứ hai: Thực hiện các chính sách xã hội
Xã hội nào cũng đều có sự phân hoá về mức sống và điều kiện sinh hoạt, vậy để
giám sát sự chênh lệch đó NSNN phải có đầu tư nhất định. Vì trong việc thực hiện các
chính sách xã hội thì vai trò vốn đầu tư xây dựng cơ bản từ NSNN giữ vai trò quan
trọng bậc nhất và chủ động nhất để xây dựng công trình phúc lợi xã hội.
Để thực hiện tốt các chính sách xã hội thì NSNN phải đầu tư vào các lĩnh vực sau
Đầu tư cho chương trình xoá đói giảm nghèo, giải quyết việc làm cho các đối
tượng nghèo đói hoặc là đối tượng chính sách xã hội.
Đầu tư cho các chương trình khác như cho các đối tượng chính sách xã hội
Thứ ba: Định hướng phát triển nền kinh tế
Trong việc định hướng phát triển nền kinh tế, ngân sách Nhà nước có vai trò hết
sức quan trọng, NSNN là quỹ tiền tệ tập trung lớn nhất trong nền kinh tế, có mối quan
hệ chặt chẽ với tổng sản phẩm xã hội thu nhập quốc dân và có mối quan hệ với tất cả
các khâu trong hệ thống tài chính. NSNN không thể tách rời với sự quản lý của Nhà
nước, sử dụng ngân sách để thực hiện chức năng và nhiệm vụ của mình.
1.2.2. Nội dung quản lý vốn đầu tư XDCB từ NSNN.
* Chủ thể quản lý: là tổng thể các cơ quan quản lý sử dụng vốn đầu tư XDCB
của Nhà nước với cơ cấu tổ chức nhất định.
* Đối tượng quản lý: chính là vốn đầu tư xây dựng cơ bản của nhà nước (xét về
mặt hiện vật); là các cơ quan quản lý và sử dụng vốn đầu tư xây dựng cơ bản cấp dưới
(xét về cấp quản lý).
Theo nguyên tắc, nguồn vốn ngân sách nhà nước phải được nhà nước quản lý
chặt chẽ từ khâu giao kế hoạch cho đến khi đầu tư. Do vậy nguồn vốn đầu tư xây dựng
cơ bản cũng được quản lý chặt chẽ.
* Công tác lập kế hoạch đầu tư: Bộ KH-ĐT tổng hợp kế hoạch vốn đầu tư từ
ngân sách của tất cả các thành phần kinh tế trong nền kinh tế để dự báo, hướng dẫn các
ngành, lĩnh vực cần tập trung đầu tư; những cơ chế áp dụng trong kỳ kế hoạch. Sở kế
hoạch đầu tư phải xác định cụ thể danh mục đầu tư và kế hoạch vốn đầu tư của các dự
án sử dụng nguồn vốn ngân sách nhà nước. Nhà nước quản lý chặt chẽ việc thực hiện
SCTH: Nguyễn Diệu Trang
1515
Khóa luận tốt nghiệp đại học
GVHD: TS. Bùi Đức Tính
kế hoạch đầu tư phù hợp với quy hoạch, kế hoạch, cơ cấu ngành vùng. Với các công
trình, dự án quan trọng quốc gia trong kế hoạch hàng năm và từng thời kỳ phát triển
thi do Quốc hội quyết định: Thủ tướng Chính phủ duyệt mục tiêu,tổng mức vốn đầu tư
để bố trí kế hoạch cho các bộ, địa phương thực hiện.
* Giai đoạn chuẩn bị đầu tư: Nhà nước quản lý chặt chẽ thông qua báo cáo đầu
tư, dự án đầu tư và thẩm duyệt dự án đầu tư, thẩm định các báo cáo nghiên cứu khả
thi, báo cáo thiết kế kỹ thuật và quyết định đầu tư.
* Giai đoạn thực hiện đầu tư: Được nhà nước quản lý chặt chẽ thông qua việc
phê duyệt quyết định đấu thầu, kết quả đấu thầu, giám sát quá trình thực hiện đầu tư,
phê duyệt quyết toán đầu tư.
* Giai đoạn kết thúc đầu tư: Nhà nước quản lý thông qua việc nghiệm thu bàn
giao công trình (công trình hoàn chỉnh theo thiết kế được duyệt, vận hành đúng yêu
cầu kỹ thuật và nghiệm thu đạt yêu cầu chất lượng).
Nhà nước quản lý chặt chẽ vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước trên cơ sở tính
toán tổng mức thu, mức chi ngân sách xác định chi vào mục đích đầu tư xây dựng cơ
bản. Khối lượng vốn đầu tư thuộc ngân sách nhà nước gồm: vốn trong nước, vốn nước
ngoài, được phân bổ cho các bộ, ngành và các địa phương theo mục tiêu cụ thể. Nguồn
vốn này thuộc nguồn vốn nhà nước được nhà nước trực tiếp chi phối theo kế hoạch vì
vậy có khả năng theo dõi, nắm bắt được từ khâu giao kế hoạch cho đến khi thực hiện
qua các bộ, ngành, địa phương, qua hệ thống ngành dọc thống kê, qua hệ thống cấp
phát tài chính.
1.2.3. Yêu cầu đối với quản lý vốn đầu tư XDCB từ NSNN
• Tính hợp lý
Điều này có nghĩa là vốn phải được đầu tư vào đúng các dự án, đúng các chương
trình được ghi vào kế hoạch kinh tế quốc dân hàng năm. Tức là cần phải xem xét trên
ở khía cạnh phải đúng quy mô của công trình, nghĩa là công trình cần bao nhiêu vốn
để đảm bảo chất lượng thì mới được đầu tư vào cho đầy đủ
• Tính hiệu quả
SCTH: Nguyễn Diệu Trang
1616
Khóa luận tốt nghiệp đại học
GVHD: TS. Bùi Đức Tính
Vốn từ NSNN được quản lý một cách có hiệu quả, nghĩa là phải đảm bảo phát
huy được hết hiệu quả đồng vốn NSNN. Ở đây cơ quan quản lý vốn phải xem xét,
phân tích, đánh giá tính hiệu quả các công trình, các dự án trước khi bỏ vốn vào đầu
tư công việc nào đó. Để đảm bảo yêu cầu tính hiệu quả đồng vốn đầu tư từ NSNN,
các cơ quan quản lý vốn đầu tư cần phải phân tích tính khả thi cho thật kỹ và tập trung
đầu tư vào các công trình, các dự án có tính khả thi. Ngược lại, cần phải loại bỏ các
công trình, dự án mà tính khả thi của thị trường còn thấp và chưa chắc chắn
• Tình tiết kiệm
Tiết kiệm là quốc sách, đồng thời với tiết kiệm là chống tiêu cực, chống tham
nhũng. Trong thực tế thì người ta rất lãng phí mà lãng phí nhất là trong xây dựng cơ
bản. Vì vậy, đòi hỏi phải tiết kiệm mà tiết kiệm đó phải thực hiện ngay ở mỗi khâu
của quá trình xây dựng cơ bản:
Tiết kiệm khi lập dự án ở khâu này rất quan trọng vì nếu định hướng đầu tư
đúng thì công trình sẽ phát huy được hiệu quả và ngược lại.
Tiết kiệm trong khâu cấp phát và quản lý: Ở khâu này cần phải được quan tâm
nhiều hơn vì ở đây phát sinh việc cho vốn NSNN nhưng thực thiện nay các khâu cả
lập dự án và quản lý dự án cũng không thể tiết kiệm được mà luật pháp chưa đầy đủ
và còn có nhiều kẽ hở nên chưa thể tiết kiệm được một cách có hiệu quả
1.2.4. Tiêu chí đánh giá hiệu quả quản lý vốn đầu tư XDCB từ NSNN
• Giải ngân hết vốn đầu tư
Chỉ tiêu tiến độ và quy mô giải ngân vốn XDCB từ NSNN. Tiến độ giải ngân
được tính bằng tỷ số vốn đã giải ngân trong tổng số vốn kế hoạch được giao hàng năm,
thường được tính theo tỷ lệ % và được xác định bằng công thức
Đây là một chỉ tiêu tổng hợp phản ánh kết quả giải ngân nguồn vốn của cả nước,
một ngành hoặc địa phương tại một một thời điểm. Chỉ số này cũng phản ánh tổng hợp
nhiều yếu tố,công đoạn, nhiều chủ thể liên quan mà kết quả cuối cùng thể hiện ở khối
lượng XDCB và sản phẩm XDCB hoàn thành được giải ngân.
Chỉ số này có ưu điểm là cách lấy số liệu thống kê tính toán đơn giản, dễ thực
hiện, dễ kiểm tra, bảo đảm tính trung thực cao, có thể so sánh với nhau trong toàn
quốc hoặc trong một địa phương, một ngành. Cũng có thể dùng để phân tích, so sánh
SCTH: Nguyễn Diệu Trang
1717
Khóa luận tốt nghiệp đại học
GVHD: TS. Bùi Đức Tính
hoạt động kinh tế trong một thời kỳ hoặc nhiều thời kỳ với nhau. Tuy nhiên, chỉ tiêu
này có hạn chế, nó phù hợp việc việc đánh giá tổng hợp ở các địa phương, ngành
nhưng không phù hợp với từng cơ quan đơn vị tham gia một mảng công việc trong dự
án XDCB sử dụng vốn từ NSNN.
• Quản lý vốn đầu tư XDCB từ NSNN theo đúng kế hoạch
Quản lý vốn đầu tư phải phù hợp từng bước của quá trình đầu tư, hạn chế bội chi
hoặc chi không hết. Tránh việc chi chồng chéo không theo bản kế hoạch chi tiêu về
ngân sách của nguồn vốn
• Tạo sự minh bạch trong quản lý vốn đầu tư XDCB từ NSNN
Có những văn bản pháp lý liên quan đến việc sử dụng các khoản chi tiêu vào
những công việc cụ thể, điều đó thể hiện không có sự tham ô thất thoát vốn,
chứng tỏ nguồn vốn được sử dụng hết cho đầu tư phát triển kinh tế của huyện.
Vì tình trạng tham ô hiện nay là một vấn đề bức xúc, những người có thẩm quyền dựa
vào chức vụ của mình đã dùng của công để sử dụng vào mục đích riêng. Tình trạng
thất thoát do cán bộ quản lý thiếu năng lực, hoặc có những người đủ năng
lực quản lý nhưng trách nhiệm công việc không cao nên đã không kiểm soát chặt
chẽ quá trình sử dụng vốn cũng gây nên những thất thoát nghiêm trọng, các sai pham
thường xuyên diễn ra do không nắm rõ nội quy, yêu cầu trong quá trình sử dụng vốn
XDCB từ NSNN.
1.2.5. Các nhân tố ảnh hưởng đến kết quả quả lý vốn đầu tư XDCB từ NSNN
Có nhiều nhân tố tác động đến quản lý vốn đầu tư XDCB từ NSNN, bao gồm từ
chủ trương, chiến lược đầu tư; các chủ thể quản lý đầu tư; cơ chế, chính sách quản lý
vốn đầu tư; hệ thống kiểm tra, kiểm soát vốn đầu tư. Cụ thể như sau:
- Một là, chủ trương và chiến lược, quy hoạch đầu tư xây dựng cơ bản.
Chủ trương, chiến lược và quy hoạch đầu tư có vai trò định hướng đầu tư rất
quan trọng, tác động đến đầu tư của quốc gia, từng vùng, ngành, lĩnh vực và thậm chí
từng dự án đầu tư và vốn đầu tư. Các chủ trương đầu tư XDCB tác động đến cơ cấu
đầu tư và việc lựa chọn hình thức đầu tư. Đây là vấn đề tương đối lớn về học thuật và
liên quan đến thông tin và nhận thức của các cấp lãnh đạo nhất là khi vận dụng vào cụ
thể. Nói cơ cấu đầu tư là nói phạm trù phản ánh mối quan hệ về chất lượng và số
SCTH: Nguyễn Diệu Trang
1818
Khóa luận tốt nghiệp đại học
GVHD: TS. Bùi Đức Tính
lượng giữa các yếu tố của các hoạt động đầu tư cũng như các yếu tố đó với tổng thể
các mối quan hệ hoạt động trong quá trình sản xuất xã hội.
- Hai là, cơ chế, chính sách liên quan đến quản lý vốn đầu tư
XDCB từ NSNN
Đây là một trong những nhân tố tác động trực tiếp đến huy động và sử dụng
vốn đầu tư XDCB, tác động trực tiếp đến hiệu quả của vốn đầu tư XDCB. Các thể chế,
chính sách này được bao hàm trong các văn bản pháp luật như: như Luật NSNN, Luật
Đầu tư, Luật Xây dựng, Luật Đấu thầu, Luật Doanh nghiệp, Luật Đất đai, các Luật
thuế Ngoài ra, cơ chế, chính sách còn được thể hiện trong các văn bản dưới luật về
quản lý vốn XDCB, các chính sách đầu tư và các quy chế, quy trình, thông tư về quản
lý đầu tư và quản lý vốn đầu tư.
Cơ chế quản lý vốn đầu tư XDCB NSNN là một bộ phận hợp thành của cơ chế
quản lý kinh tế, tài chính nói chung. Đây là hệ thống các quy định về nguyên tắc, quy
phạm, quy chuẩn, giải pháp, phương tiện để làm chế tài quản lý nhằm thực hiện có
hiệu quả các mục tiêu đề ra, cơ chế đúng đắn, sát thực tế, ổn định và điều hành tốt là
điều kiện tiên quyết quyết định thắng lợi mục tiêu đề ra. Ngược lại, nó sẽ cản trở và
kìm hãm, gây tổn thất nguồn lực và khó khăn trong thực hiện các mục tiêu, các kế
hoạch phát triển của Nhà nước
SCTH: Nguyễn Diệu Trang
1919
Khóa luận tốt nghiệp đại học
GVHD: TS. Bùi Đức Tính
Cơ chế đúng đắn phải được xây dựng trên những nguyên tắc cơ bản như:
+ Phải có tư tưởng quan điểm xuất phát từ mục tiêu chiến lược được cụ thể hóa
thành lộ trình, bước đi vững chắc;
+ Phải tổng kết rút kinh nghiệm cập nhật thực tiễn và phải tham khảo thông lệ
quốc tế;
+ Minh bạch, rõ ràng, nhất quán, dễ thực hiện, công khai hóa và tương đối ổn định;
+ Bám sát trình tự đầu tư và xây dựng từ huy động, quy hoạch, chuẩn bị đầu tư,
thực hiện và kết thúc bàn giao sử dụng bảo đảm đồng bộ, liên hoàn.
- Ba là, hệ thống định mức, đơn giá trong XDCB.
Đây là yếu tố quan trọng và là căn cứ tính toán về mặt kinh tế tài chính của dự
án. Nếu xác định sai định mức đơn giá thì cái sai đó sẽ được nhân lên nhiều lần trong
các dự án, mặt khác cũng như các sai lầm của thiết kế, khi đã được phê duyệt, đó là
những sai lầm lãng phí hợp pháp và rất khó sữa chữa.
Nguyên tắc chủ yếu và yêu cầu quản lý chi phí đầu tư xây dựng công trình là
tổng mức đầu tư, dự toán xây dựng công trình phải được tính đúng, tính đủ và phù hợp
với độ dài thời gian xây dựng công trình. Tổng mức đầu tư là chi phí tối đa mà chủ
đầu tư được phép sử dụng để đầu tư xây dựng công trình thể hiện bằng biểu thức sau:
TMĐT≥G
TDT
≥G
QT
+
C
sd
Trong đó:
TMĐT : Tổng mức đầu tư xây dựng công trình;
G
TDT
: Dự toán công trình (hoặc tổng dự toán các công trình);
G
QT
: Giá quyết toán công trình;
C
sd
: Các chi phí đưa công trình vào khai thác sử dụng.
Trong thực tế, có nhiều dự án không đảm bảo yêu cầu về quy tắc chung nêu trên
do nhiều nguyên nhân. Có những dự án, chi phí xây dựng vượt tổng mức từ vài chục
phần trăm đến vài lần. Đến nay việc quản lý chi phí xây dựng ở Việt Nam hầu như
chưa bảo đảm được nguyên tắc khống chế bằng tổng mức chủ yếu do các nguyên
nhân: trượt giá nguyên vật liệu xây dựng; chủ chủ đầu tư thiếu thông tin xác đáng về
suất đầu tư, định mức kinh tế - kỹ thuật (lạc hậu, thiếu); các xảo thuật của các nhà thầu
tìm cách thắng thầu với giá thấp và tìm cách duyệt bổ sung; do phương pháp định giá
SCTH: Nguyễn Diệu Trang
2020
Khóa luận tốt nghiệp đại học
GVHD: TS. Bùi Đức Tính
chưa dựa trên cơ sở giá trị trường làm ngưỡng giá; nhiều định mức, đơn giá hiện đã lạc
hậu, thiếu căn cứ khoa học, không đồng bộ, không sát thực tế.
- Bốn là, các chủ thể và phân cấp quản lý vốn đầu tư XDCB từ NSNN
Sản phẩm XDCB được hình thành thông qua nhiều khâu tác nghiệp tương ứng
với nhiều chủ thể chiếm hữu và sử dụng vốn nên hiệu quả của đồng vốn vị nhiều chủ
thể chi phối. Đặc điểm nhiều chủ thể chiếm hữu và sử dụng vốn đầu tư XDCB của
NSNN nói lên tính phức tạp của quản lý và sử dụng vốn. Chủ thể quản lý ở đây bao
gồm cả chủ thể quản lý vĩ mô và chủ thể quản lý vi mô (từng dự án). Chủ thể quản lý
vĩ mô bao gồm các cơ quan chức năng của Nhà nước theo từng phương diện hoạt động
của dự án. Chủ thể quản lý vi mô bao gồm chủ đầu tư, chủ dự án, các nhà thầu. Đối
với các dự án nhà nước, “người có thẩm quyền quyết định đầu tư” xuất hiện với tư
cách: tư cách quản lý vĩ mô dự án và tư cách chủ đầu tư – quản lý vi mô dự án. Với
các tư cách này “người có thẩm quyền quyết định đầu tư” quyết định nhiều vấn đề mà
chủ đầu tư trong các dự án khác (không sử dụng NSNN) quyết định. Với tư cách chủ
đầu tư, họ phải ra nhiều quyết định để hiệu quả tài chính dự án là lớn nhất. Với tư cách
nhà nước, họ phải ra quyết định để hiệu quả kinh tế quốc dân là cao nhất. Nhiệm vụ
khó khăn của “người có thẩm quyền quyết định đầu tư” là kết hợp hiệu quả này. Tuy
nhiên, chủ đầu tư (thay mặt nhà nước) sẽ là người mua hàng của các chủ thầu, doanh
nghiệp xây dựng, tư vấn (chủ thể thứ 3). Các doanh nghiệp này lại phải hoạt động trên
quy luật thị trường, vừa bị khống chế bởi lợi nhuận… để tồn tại, vừa bị khống chế chất
lượng sản phẩm xây dựng, hàng hóa, dịch vụ theo yêu cầu của chủ đầu tư trên cơ sở
của các bản thiết kế, dự án và các điều khoản hợp đồng
Trong quản lý nhà nước đối với các dự án đầu tư XDCB của NSNN cần xác định
rõ trách nhiệm của “chủ đầu tư” và “người có thẩm quyền quyết định đầu tư”, sự thành
công hay thất bại của một dự án nhà nước là thành tích và trách nhiệm của hai cơ quan
này. Trong việc phân định quyền hạn và trách nhiệm giữa chủ đầu tư và “người có
thẩm quyền quyết định đầu tư” người ta thường đi theo hướng: những quyết định quan
trọng thuộc về “người có thẩm quyền quyết định đầu tư” đồng thời mở rộng quyền hạn
và trách nhiệm của chủ đầu tư. Theo hướng này việc phân cấp các dự án đầu tư cũng
căn cứ vào đặc điểm, tính chất, quy mô của từng dự án để phân cấp quyết định đầu tư
SCTH: Nguyễn Diệu Trang
2121
Khóa luận tốt nghiệp đại học
GVHD: TS. Bùi Đức Tính
cho hệ thông các ngành các cấp bảo đảm nguyên tắc chủ động, sáng tạo cho cơ sở, vừa
bảo đảm cho hệ thống bộ máy hoạt động đồng đều, đúng chức năng và mang lại hiệu
quả cao.
- Năm là, hệ thống kiểm tra, giám sát quản lý sử dụng vốn đầu tư
XDCB từ NSNN
Hệ thống kiểm tra giám sát có vai trò và tác dụng tích cực trong quản lý sử dụng
vốn đầu tư XDCB từ NSNN. Đây là một chức năng quan trọng của quản lý nhà nước,
là một nội dung của công tác quản lý. Đồng thời là phương pháp bảo đảm việc tuân
thủ theo pháp luật của các chủ thể và các bên liên quan. Tác động cơ bản là phòng
ngừa, ngăn chặn và xử lý các vi phạm pháp luật. Qua các cuộc thanh tra khả năng cũng
sẽ phát hiện những sai sót, kẻ hở của cơ chế chính sách góp phần hoàn thiện hệ thống
cơ chế chính sách.
Hệ thống này chủ yếu các nội dung kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, giám sát.
Kiểm tra là xem xét đánh giá, chủ thể rộng, mục đích là uốn nắn, chấn chỉnh đối tượng
có thứ bậc. Thanh tra là xem xét việc làm tại chỗ của cơ quan, địa phương nhân danh
quyền lực nhà nước. Nhằm phòng ngừa, phát hiện ngăn chặn và xử lý các vi phạm
pháp luật. Kiểm toán là đánh giá nhận xét tính đúng đắn trung thực của báo cáo tài
chính, quyết toán, đánh giá tuân thủ pháp luật, hiệu quả hiệu lực trong quản lý sử dụng
tài chính. Giám sát là theo dõi một hoạt động và buộc đối tượng phải làm theo một tiêu
chuẩn, nguyên tắc nhất định.
Xây dựng cơ bản là một lĩnh vực phức tạp về mặt kỹ thuật. Về mặt quản lý vốn
đầu tư XDCB nguồn NSNN có nhiều lợi ích đan xen, ràng buộc, được coi là mảnh đất
nhiều tiêu cực, nhiều tổ chức nhiều người (kể cả những người đã nghỉ hưu) đều hay
can thiệp vào công việc này với nhiều hình thức phi hành chính như thư tay, điện
thoại làm cho nguồn lực dễ bị chi phối, bẻ ghi, lãng phí, thất thoát, xem thường các
quy định pháp luật, cơ chế chính sách, phát sinh nhiều cách lách luật và vận dụng cục
bộ gây phương hại đến lợi ích nhà nước. Đây là một lĩnh vực rất cần có vai trò của
kiểm tra giám sát mới có thể quản lý, sử dụng vốn tốt. Trong các kênh của thông tin để
nắm bắt đối tượng quản lý: kiểm tra, báo cáo, thanh tra, khiếu nại tố cáo, giám sát xã
hội thì kênh thanh tra kiểm tra có độ tin cậy cao nhất (báo cáo tin cậy thấp, khiếu nại
SCTH: Nguyễn Diệu Trang
2222
Khóa luận tốt nghiệp đại học
GVHD: TS. Bùi Đức Tính
tố cáo và giám sát xã hội: độ phân tán cao…), dễ phát hiện tiêu cực (nhất là kiểm tra
đột xuất). Tuy nhiên, muốn nâng cao kết quả công tác này phải hết sức coi trọng
nguyên tắc: khách quan chính xác, trung thực; công khai minh bạch và phải tuân theo
pháp luật.
1.3. Kinh nghiệm của một số tỉnh, thành phố ở nước ta về quản lý vốn đầu
tư XDCB từ NSNN
1.3.1. Một số kinh nghiệm quản lý vốn đầu tư của tỉnh Vĩnh Phúc
Vĩnh Phúc là tỉnh thuộc vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ và có vị trí quan trọng
đối với vùng này và đặc biệt đối với thủ đô Hà Nội. Quá trình phát triển của đất nước
đó tạo cho Vĩnh Phúc có thêm những lợi thế mới: là một bộ phận cấu thành vành đai
phát triển công nghiệp các tỉnh phía Bắc; chịu sự ảnh hưởng mạnh mẽ của các khu
công nghiệp Hà Nội như Bắc Thăng Long, Sóc Sơn… Hành lang kinh tế Côn Minh -
Hà Nội - Hải Phòng, Việt Trì - Hà Giang - Trung Quốc, hành lang Đường 18 với
những cơ hội chủ yếu trên, những năm qua Vĩnh Phúc đó phát huy được nội lực, thu
hút được đầu tư, sau 8 năm phát triển từ một tỉnh nông nghiệp đó nhanh chúng trở
thành tỉnh cụng nghiệp (cơ cấu kinh tế CN-DV-NN năm2005 là 52,4% -27,1%
-20,5%). NSNN từ chỗ khó khăn tiến tới có nguồn thu lớn và chủ động. Qua tiếp cận
thực tế và các tài liệu báo cáo, Vĩnh Phúc có một số điểm đáng chú ý như sau:
Thứ nhất, thực hiện tốt cả việc quản lý sử dụng vốn đầu tư XDCB từ NSNN
đồng thời với chính sách thu hút vốn đầu tư từ bên ngoài. Tỉnh Vĩnh Phúc coi quản lý
sử dụng vốn đầu tư từ ngân sách là một nguồn vốn mồi, xúc tác tạo tiền đề để phỏt
triển kinh tế xã hội. Việc quản lý nguồn vốn này theo một quy trình rất chặt chẽ vừa
phân cấp để tạo điều kiện cho cơ sở nhưng gắn với trách nhiệm cơ sở và sự hướng dẫn
của cấp trên. Mặt khác, vừa tập trung để làm một số công trình hạ tầng. Đặc biệt là ưu
tiên hạ tầng GTVT coi đây là khâu đột phá. Tất cả các vốn có nguồn gốc NSNN đều
phải được HĐND tỉnh xem xét chuẩn y trước khi phân bổ, quyết định.
Nhờ kế thừa những kinh nghiệm của quản lý thu hút đầu tư và kinh nghiệm quản
lý vốn đầu tư NSNN nên hai việc này bổ sung cho nhau những kinh nghiệm quý và tạo
nờn những hiệu quả tương đồng trong công việc. Chẳng hạn, trong thu hút vốn đầu tư:
tỉnh luôn xác định quy hoạch đi trước, đền bù làm trước, làm tốt để luôn có một quỹ
SCTH: Nguyễn Diệu Trang
2323
Khóa luận tốt nghiệp đại học
GVHD: TS. Bùi Đức Tính
đất để dành; tỉnh luôn tạo thuận lợi để thu hút và giữ chân các nhà đầu tư bằng cách
quan tâm đến lợi ích các doanh nghiệp và môi trường đầu tư. Nhiều nhà đầu tư mở
rộng kinh doanh được cho thuê thêm đất liền kề với diện tích lớn hơn ban đầu; tiếp tục
đấu giá quyền sử dụng đất, kêu gọi đầu tư theo hình thức BT, BOT, BO ; ngoài ra
tỉnh Vĩnh Phúc rất coi trọng xây dựng cơ sở hạ tầng và cải cách hành chính, là một
trong những địa phương dẫn đầu về cải cách hành chính tạo thuận lợi cho doanh
nghiệp. Với một tầm nhìn xa, hiện nay Vĩnh Phúc đẩy mạnh phát triển ngành nghề
dịch vụ cao cấp như dịch vụ tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, bưu chính viễn thông…
Thứ hai, mặc dù đạt được tốc độ phát triển rất cao, GDP tăng 17-18% năm nhưng
tỉnh luôn coi trọng phát triển bền vững, gắn phát triển kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh
tế với phát triển xã hội, phỏt triển nguồn nhân lực (coi lao động kỷ thuật cũng là một
khâu đột phá quan trọng), phát triển vùng sâu vùng xa và bảo vệ môi trường. Theo
phương hướng này vốn NSNN tập trung vào giải quyết những vấn đề phát triển hạ
tầng giao thông nông thôn, mạng lưới điện, cấp thoát nước, đầu tư phát triển hạ tầng
xã nghèo, xã đặc biệt khó khăn gắn với công tác xóa đói giảm nghèo. Những chủ
trương này rất được lòng dân và chính quyền cơ sở. Do vậy triển khai quản lý, sử dụng
và giám sát rất hiệu quả; tiến độ thực hiện nhanh, tỷ lệ giải ngân hàng năm 90-95%; tỷ
lệ đói nghèo hiện nay 10%, phấn đầu mỗi năm giảm 2,5%; số lao động qua đào tạo
40% mỗi năm tăng được 3,6%.
Thứ ba, hàng năm số lượng vốn huy động cho đầu tư phát triển toàn xã hội lớn
(năm 2008 khoảng 13.000-13.500 tỷ đồng bằng khoản 59-61% GDP). Tổng thu ngân
sách hiện nay khoảng 6.250 tỷ đồng gấp đôi chi NSNN trên địa bàn. Tuy vậy, tỉnh
Vĩnh Phúc có một chủ trương thúc đẩy tăng trưởng không chỉ yếu tố vốn bên ngoài
nhất là vốn FDI (2 nhà máy lớn Toyota và Honda), yếu tố nội lực (vốn và nguồn lực
tại chổ) tăng cường năng lực nội sinh để không quá phụ thuộc mà cũng coi trọng yếu
tố ngoài vốn. Đó là cơ chế chính sách quản lý; áp dụng khoa học công nghệ mới và
phát huy hạ tầng đồng bộ. Ý chí của các nhà lãnh đạo tỉnh đó được cụ thể hóa bằng
nhiều biện pháp triển khai. Theo tính toán xác định văn bản quy hoạch, hàng năm các
yếu tố ngoài vốn nói trên phải thúc đẩy GDP tăng cho được 3,7% giai đoạn 2006-2010
(trong đó cơ chế chính sách đóng góp 1,8%; khoa học công nghệ 0,9% và hạ tầng phát
SCTH: Nguyễn Diệu Trang
2424
Khóa luận tốt nghiệp đại học
GVHD: TS. Bùi Đức Tính
huy 1%). Đây là một ý chí, ý tưởng rất đáng để những tỉnh khác học tập trong điều
kiện huy động vốn bao giờ cũng có nhiều giới hạn.[24]
1.3.2. Một số kinh nghiệm quản lý đầu tư xây dựng của thành phố Đà Nẵng
Đà Nẵng là địa phương có thành tích về cải cách hành chính, nâng cao năng lực
quản lý nhà nước nhiều mặt, nhiều lĩnh vực trong đó có quản lý vốn đầu tư XDCB,
qua các tài liệu và tiếp cận thực tế có các vấn đề nổi bật như sau:
Thứ nhất, trên cơ sở các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến quản lý đầu
tư và xây dựng của Trung ương ban hành, UBND thành phố Đà Nẵng đó cụ thể hóa
dưới các quy trình quản lý theo thẩm quyền được phân công, phân cấp. Hướng dẫn chi
tiết về trỡnh tự triển khai đầu tư xây dựng từ xin chủ trương và lựa chọn địa điểm đầu
tư; lập và phê duyệt quy hoạch tổng thể mặt bằng; lập, thẩm định và phê duyệt dự án
đầu tư; bố trí và đăng ký vốn đầu tư; bồi thường, giải phóng mặt bằng; tổ chức đấu
thầu, chỉ định thầu; tổ chức thi công; quản lý chất lượng trong thi công; thanh toán vốn
đầu tư; nghiệm thu bàn giao sử dụng; thanh toán, quyết tóan và bảo hành công trình…
Gắn các bước trên là thủ tục và hồ sơ cần có và trách nhiệm, quyền hạn quản lý, giải
quyết của các chủ thể trong hệ thống quản lý và vận hành vốn đầu tư. Việc cụ thể hóa
quy trình quản lý và giải quyết công việc của Nhà nước là một điểm nhấn quan trọng
trong cải cách hành chính, nâng cao trách nhiệm và năng lực cán bộ.
Thứ hai, bồi thường giải phóng mặt bằng là khâu quan trọng và phức tạp nhất
của quá trình thực hiện dự ỏn đầu tư xây dựng. Trên thực tế, nhiều dự án gặp rất nhiều
khó khăn, thậm chí ách tắc ở khâu này. Đà Nẵng là điểm sáng trong cả nước đối với
công tác bồi thường giải phóng mặt bằng trong thời gian qua, thành công của địa
phương này dựa vào các yếu tố:
- UBND thành phố đó ban hành được quy định về đền bù thiệt hại khi Nhà nước
thu hồi đất. Quy định rõ ràng và chi tiết rất phù hợp với thực tế. Điểm đặc biệt và thuyết
phục là bồi thường theo nguyên tắc “hài hòa lợi ich”. Cơ chế này được Hội đồng Nhân
dân Thành phố ban hành thành Nghị quyết riêng. Nội dung của quy định này là khi nhà
nước thu hồi đất theo quy hoạch để xây dựng hạ tầng chỉnh trang đô thị đó làm tăng giá
đất ở khu vực lân cận. Do vậy, người được hưởng từ nguồn lợi trực tiếp này do đầu tư
trực tiếp của Nhà nước phải đóng góp một phần lợi ích đó cho Nhà nước.
SCTH: Nguyễn Diệu Trang
2525