Tải bản đầy đủ (.docx) (46 trang)

Quy chế pháp lý về vốn trong công ty cổ phần

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (259.46 KB, 46 trang )

A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Doanh nghiệp có một vai trò và vị trí rất quan trọng không những đối
với nhà đầu tư, người lao động mà còn quan trọng đối với nền kinh tế nói
riêng và đất nước nói chung. Vì vậy, muốn phát triển kinh tế và phát triển đất
nước thì trước hết là phát triển các loại hình doanh nghiệp. Trong các loại
hình doanh nghiệp thì công ty cổ phần có vai trò to lớn đối với nền kinh tế, vì
nó có những ưu điểm vượt trội và nổi bật hơn hẳn các loại hình doanh nghiệp
còn lại như: có khả năng huy động vốn lớn thông qua việc phát hành cổ phiếu
ra công chúng, có số lượng thành viên không hạn chế về số lượng tối đa, các
cổ đông được tự do chuyển nhượng cổ phần…Chính vì những lý do trên mà
công ty cổ phần được xem là một loại hình doanh nghiệp cốt lõi đối với nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Công ty cổ phần là loại hình đặc trưng của công ty đối vốn.Cũng giống
như tất cả các loại hình doanh nghiệp khác, vốn là một yếu tố cực kỳ quan
trọng không thể thiếu khi thành lập cũng như trong quá trình hoạt động của
công ty cổ phần. Vốn không những quyết định sự sống còn của doanh nghiệp
mà còn thể hiện khả năng gánh chịu nghĩa vụ pháp lý của doanh nghiệp;
quyết định quyền, nghĩa vụ của các chủ sở hữu, chủ đầu tư của công ty; quyết
định quy mô của công ty trong quá trình hoạt động kinh doanh …, có vốn thì
doanh nghiệp mới hoạt động có hiệu quả, thực hiện được các chiến lược, mục
tiêu kinh doanh đã đề ra, vượt qua được các khó khăn và các đối thủ sẽ gặp
phải trên thương trường, đem lợi nhuận về cho công ty thông qua đó góp phần
giải quyết việc làm cho người dân, tăng ngân sách cho Nhà nước, thúc đẩy
nền kinh tế phát triển…
Vấn đề về vốn là một trong những vấn đề đặc trưng, phức tạp và quan
trọng nhất của công ty cổ phần. Để có thể hiểu rõ hơn những quy định của
1
pháp luật về vốn trong công ty cổ phần qua đó giúp cho chúng ta và những
người đang hoặc sẽ là nhà đầu tư hiểu rõ hơn về chính sách của Đảng và Nhà
nuớc ta đối với loại hình công ty cổ phần nên em đã lựa chọn đề tài “Quy chế


pháp lý về vốn trong công ty cổ phần” cho bài niên luận của mình.
2. Mục tiêu hướng đến của đề tài:
Mục tiêu nghiên cứu chính của đề tài này sẽ xoay quanh về quy chế
pháp lý về vốn trong công ty cổ phần bao gồm như: khái quát về vốn trong
công ty cổ phần, cơ cấu vốn, hình thành vốn, các hình thức huy động vốn, cơ
chế quản lý vốn trong công ty cổ phần, thực tiễn hoạt động cũng như thực
trạng huy động vốn trong công ty cổ phần…
3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu:
Để thực hiện được mục đích nghiên cứu thì phải nắm rõ được đối tượng
đang thực hiện.Đối tượng nghiên cứu của bài viết này chính là những quy
định hiện hành của pháp luật Việt Nam về vốn trong công ty cổ phần.
Để thực hiện được điều đó, bài viết sẽ tập trung phân tích những quy
định trong Luật doanh nghiệp 2005, các văn bản pháp luật có liên quan tới
Luật doanh nghiệp, công ty cổ phần và bằng việc tổng hợp về công ty cổ
phần, so sánh những nguồn tài liệu có liên quan về công ty cổ phần trong và
ngoài nước.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Để thực hiện một đề tài rõ ràng, hoàn chỉnh và có khoa học, làm cho
người tiếp nhận nó có thể dễ dàng hiểu được nội dung chính của vấn đề thì
em đã vận dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu khoa học, bên cạnh đó
còn phải vận dụng những cơ sở pháp lý khoa học và những nội dung lý luận
về luật học là nền tảng của việc nghiên cứu. Trong đó:
2
- Phương pháp duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử được sử
dụng như là cơ sở phương pháp luận để xây dựng toàn bộ các vấn đề của niên
luận.
- Phương pháp lịch sử được sử dụng để tìm nguồn gốc phát sinh, quá
trình phát triển của đối tượng nghiên cứu.
- Phương pháp phân tích được sử dụng để tìm hiểu các quy định của
pháp luật hiện hành liên quan tới đối tượng cần nghiên cứu

- Phương pháp chứng minh được sử dụng để đưa ra những vấn đề dẫn chứng
cụ thể.
- Phương pháp xã hội học được sử dụng để đánh giá thực trạng những
quy định pháp luật về chế độ pháp lý về vốn trong công ty cổ phần, từ đó phát
hiện ra bản chất của vấn đề cần nghiên cứu.
5. Bố cục của niên luận :
Tuân theo những quy định về việc trình bày một niên luận, đồng thời để
có được một niên luận khoa học, dễ hiểu và dễ tiếp cận nên cơ cấu niên luận
được trình bày như sau:
A. Mở đầu
B. Nội dung
Chương 1. Khái quát chung về công ty cổ phần và quy chế pháp lý về
vốn trong công ty cổ phần.
1.1. Khái quát chung về công ty cổ phần
1.2. Khái quát chung về vốn trong công ty cổ phần
1.3. Quy chế pháp lý về vốn trong công ty cổ phần.
1.3.1. Cơ cấu vốn trong công ty cổ phần
1.3.2. Quy định về vốn góp trong công ty cổ phần.
1.3.3. Quy định về chuyển nhượng vốn trong công ty cổ phần.
1.3.4. Quy dịnh về xử lý vốn khi công ty cổ phần giải thể, phá sản
3
1.3.5. Quy định về cơ chế quản lý, sử dụng vốn trong công ty cổ phần
Chương 2.Thực trạng và một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy chế pháp
lý về vốn trong công ty cổ phần.
2.1. Thực trạng pháp luật điều chỉnh vấn đề về vốn trong công ty cổ
phần.
2.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy chế pháp lý về vốn trong
công ty cổ phần.
C. Kết luận
Danh mục tài liệu tham khảo

4
B. NỘI DUNG
Chương 1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CÔNG TY CỔ PHẦN VÀ QUY
CHẾ PHÁP LÝ VỀ VỐN TRONG CÔNG TY CỔ PHẦN.
1.1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CÔNG TY CỔ PHẦN.
1.1.1. Khái niệm công ty cổ phần.
Công ty cổ phần là một hình thức tổ chức doanh nghiệp phổ biến trong
nền kinh tế thị trường và đóng vai trò to lớn trong quá trình phát triển kinh tế
xã hội ở mỗi một quốc gia.Trong khoa học pháp lí, hệ thống pháp luật của các
quốc gia khác nhau lại có các định nghĩa khác nhau về công ty cổ phần.Pháp
luật hiện hành của Việt Nam không đưa ra định nghĩa cụ thể về công ty cổ
phần mà chỉ đưa ra những dấu hiệu để nhận biết loại hình công ty này. Cụ thể
khoản 1 Điều 77 Luật doanh nghiệp 2005 quy định: "Công ty cổ phần là
doanh nghiệp, trong đó:
a) Vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần;
b) Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân; số lượng cổ đông tối thiểu là ba
và không hạn chế số lượng tối đa;
c) Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản
khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp;
d) Cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người
khác, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 81 và khoản 5 Điều 84 của
Luật này".
Theo đó, có thể đưa ra khái niệm về công ty cổ phần như sau: Công ty
cổ phần là doanh nghiệp; là loại hình đặc trưng của công ty đối vốn. Vốn của
công ty được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần, người sở hữu
cổ phần gọi là cổ đông. Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân; được hưởng lợi
nhuận từ cổ phần và chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản
khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn góp vào doanh nghiệp.
5
Trong khái niệm trên ta thấy Luật doanh nghiệp định nghĩa “công ty cổ phần

là doanh nghiệp”. Vậy công ty cổ phần trước hết phải là doanh nghiệp, tức là
mang những đặc điểm chung của một doanh nghiệp. Theo khoản 1 Điều 4
Luật doanh nghiệp 2005 thì: “Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng,
có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy
định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh”.
1.1.2. Đặc điểm của công ty cổ phần.
Thứ nhất, về vốn của công ty cổ phần.
Vốn điều lệ của công ty được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ
phần.Giá trị mỗi cổ phần gọi là mệnh giá cổ phần và được phản ánh trong cổ
phiếu.Một cổ phiếu có thể phản ánh mệnh giá của một hoặc nhiều cổ
phần.Việc góp vốn vào công ty được thực hiện bằng cách mua cổ phần, mỗi
cổ đông có thể mua nhiều cổ phần. Luật không hạn chế mỗi thành viên được
mua tối đa bao nhiêu phần trăm vốn điều lệ nhưng các thành viên có thể thoả
thuận trong điều lệ giới hạn tối đa số cổ phần mà một thành viên có thể mua
nhằm chống lại việc một thành viên nào đó có thể nắm quyền kiểm soát công
ty[1].
Thứ hai, về thành viên của công ty cổ phần:
Tối thiểu phải có ba thành viên tham gia công ty trong suốt quá trình hoạt
động, không giới hạn số lượng tối đa. Thành viên của công ty cổ phần có thể
là tổ chức, cá nhân (trừ trường hợp các tổ chức, cá nhân không được quyền
thành lập, quản lý doanh nghiệp được quy định tại Điều 13 Luật doanh
nghiệp) góp vốn vào công ty cổ phần bằng cách mua cổ phần. Quyền sở hữu
cổ phần là căn cứ xác lập tư cách cổ đông của các thành viên. Là loại hình đặc
trưng cho công ty đối vốn nên công ty cổ phần có sự liên kết của nhiều thành
viên.Cổ đông của công ty cổ phần thường rất lớn và không quen biết nhau.
Các thành viên công ty cổ phần trách nhiệm hữu hạn trong phạm vi vốn góp
6
vào công ty. Tức là, trong kinh doanh, nếu công ty vay tiền ở bên ngoài hoặc
cho người khác vay tiền, thì cổ đông cũng không bị ảnh hưởng. Khi công ty
làm ăn thua lỗ, cổ đông chỉ phải chịu lỗ theo phần vốn đóng góp của mình.

Còn khi công ty làm ăn có lãi thì họ được chia lợi nhuận tương ứng với phần
vốn góp đó.
Thứ ba, về tư cách pháp nhân của công ty cổ phần
Công ty cổ phần có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp Giấy chứng
nhận đăng ký doanh nghiệp. Công ty cổ phần được xem là có tư cách pháp
nhân khi hội đủ các điều kiện: Được thành lập hợp pháp; có cơ cấu tổ chức
chặt chẽ; có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm
bằng tài sản đó; nhân danh mình tham gia các quan hệ pháp luật một cách độc
lập. Công ty có tư cách pháp nhân nên có thể là nguyên đơn, bị đơn trong các
vụ kiện[2]. Như vậy, công ty cổ phần được thành lập theo pháp luật, được
Nhà nước phê duyệt điều lệ hoạt động, có con dấu riêng, có quyền ký kết các
hợp đồng kinh tế với các tổ chức và cá nhân khác trong và ngoài nước, chịu
trách nhiệm trước pháp luật về mọi hoạt động sản xuất kinh doanh.
Thứ tư, về tính tự do chuyển nhượng cổ phần.
Phần vốn góp của các thành viên được thể hiện dưới hình thức cổ phiếu. Các
cổ phiếu do công ty cổ phần phát hành là một loại hành hóa nên các cổ đông
sở hữu có thể tự do chuyển nhượng theo quy định của pháp luật. Nếu muốn
rút khỏi công ty thì họ chỉ việc chuyển nhượng cổ phần của mình cho người
khác theo quy định của pháp luật. Mà việc chuyển nhượng này được thực hiện
thông qua hình thức mua bán cổ phiếu trên thị trường chứng khoán - nơi mà
các chủ thể đầu tư vô cùng đa dạng, đông đảo nên việc mua bán diễn ra khá
nhanh chóng và dễ dàng.
Thứ năm, về chế độ trách nhiệm trong công ty cổ phần.
Công ty cổ phần chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài
7
sản khác của công ty trong phạm vi tài sản của công ty. Các cổ đông chịu
trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm visố
vốn đã góp vào công ty (tức là đến hết giá trị cổ phần mà họ sở hữu). Đặc
trưng này của công ty cổ phần xác định tính tách bạch về mặt tài sản của các
cổ đông với các tài sản của công ty: cổ đông chỉ hưởng lợi nhuận cũng như

chỉ phải gánh chịu rủi ro với phần tài sản đã được đầu tư vào công ty.
Thứ sáu, về phát hành chứng khoán:
Trong quá trình hoạt động, công ty cổ phần có quyền phát hành chứng khoán
(như cổ phiếu, trái phiếu ) ra công chúng theo quy định của pháp luật về
chứng khoán để huy động vốn. Điều này thể hiện lợi thế của công ty cổ phần
là có khả năng huy động vốn lớn[3].
Thứ bảy, về tổ chức trong công ty cổ phần.
Công ty cổ phần có cơ cấu tổ chức phức tạp so với các loại hình công ty khác
bao gồm: Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát. Như vậy,
ở công ty cổ phần có sự tách biệt giữa quyền sở hữu và quyền quản lý. Tuy
nhiên, đây là sự tách biệt trong quá trình thực thi, còn thực chất, quyền lực
cao nhất vẫn thuộc về Đại hội đồng cổ đông, vẫn thuộc về chính những người
chủ sở hữu công ty thông qua việc biểu quyết thông qua các vấn đề quan
trọng.
1.2. KHÁI QUÁT VỀ VỐN TRONG CÔNG TY CỔ PHẦN.
1.2.1. Khái niệm vốn
Vốn: khái niệm vốn nói chung được nhiều ngành khoa học tiếp cận theo
nhiều phương diện và phạm vi khác nhau. Trong khoa học tài chính, vốn của
doanh nghiệp (cũng như của công ty cổ phần) được quan niệm là vốn kinh
doanh, là giá trị của toàn bộ tài sản(đại lượng bằng tiền) được đầu tư vào hoạt
động sản xuất, kinh doanh nhằm mục đích tìm kiếm lợi nhuận cho công ty.
8
Vốn là cơ sở vật chất không thể thiếu cho sự tồn tại và hoạt động của doanh
nghiệp.
Quy chế pháp lý về vốn trong công ty cổ phần
Xét về mặt khách quan, tất cả những quy phạm pháp luật liên quan đến
vốn của công ty cổ phần đã hình thành một “quy chế pháp lý về vốn
trongcông ty cổ phần”. Do đó có thể định nghĩa: “quy chế pháp lý về vốn
trong công ty cổ phần” là tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh các
quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình góp vốn, quản lý sử dụng vốn,

chuyển nhượng vốn và những vấn đề khác liên quan đến sự thay đổi vốn của
công ty cổ phần.
Xét theo nghĩa chủ quan, trên cơ sở những quy định của pháp luật, trong
quá trình tổ chức, quản lý, điều hành công ty các chủ sở hữu công ty có thể
cùng nhau xây dựng một hệ thống quy tắc điều chỉnh quan hệ mang tính chất
nội bộ trong quá trình quản lý, sử dụng vốn của công ty. Như vậy, dưới góc độ
này, “quy chế pháp lý về vốn trongcông ty cổ phần” là tổng hợp những quy tắc
thể hiện ý chí, quyền tự định đoạt của nhà đầu tư vốn đối với những vấn đề
liên quan đến vốn và tài sản của công ty cổ phần.
1.2.2. Đặc điểm của vốn
Thứ nhất, đặc trưng về vốn của công ty cổ phần thường được thể hiện ở
vốn điều lệ.Vốn điều lệ của công ty cổ phần được chia thành nhiều phần bằng
nhau, các phần này gọi là cổ phần.Hình thức thể hiện của cổ phần là cổ phiếu.
Giá trị của mỗi cổ phần do công ty quyết định. Vốn điều lệ của công ty cổ
phần không phải lúc nào cũng phản ánh đầy đủ năng lực tài chính thực có của
công ty cổ phần vào một thời điểm nhất định, nó có thể cao hơn khi công ty
hoạt động không tốt hoặc thấp hơn khi công ty hoạt động có lãi nguồn vốn
thực có của công ty. Chính điều này, đòi hỏi các nhà đầu tư phải có sự tìm
9
hiểu rõ ràng về thực trạng tài chính cũng như năng lực hoạt động của công ty
để hạn chế rủi ro cho mình.
Thứ hai, vốn của công ty cổ phần chủ yếu là được huy động từ bên
ngoài.Đặc điểm này chúng ta dễ dàng nhận ra vì so với các loại hình doanh
nghiệp khác, công ty cổ phần có cơ chế huy động vốn phong phú và đa dạng
nhất. Theo luật doanh nghiệp, doanh nghiệp tư nhân, công ty hợp danh
“không được quyền phát hành bất cứ loại chứng khoán nào”[4]. Khả năng
huy động vốn của công ty trách nhiệm hữu hạn có nhiều thuận lợi nhưng
“không được quyền phát hành cổ phần”[5] . Nói tóm lại, các loại hình doanh
nghiệp này, nguồn vốn hình thành chủ yếu là từ sự đóng góp của các thành
viên sáng lập. Trong khi đó, công ty cổ phần khẳng định sự lý tưởng hơn

trong cơ chế huy động vốn khá lớn trong dân chúng.Từ đó, tạo điều kiện cho
công ty cổ phần có được nguồn vốn huy động lớn hơn vốn thực có ban đầu.
Thứ ba, vốn của công ty cổ phần có ảnh hưởng tới tổ chức nội bộ của
công ty cổ phần.Có thể nói, trong quan hệ nội bộ, vốn của công ty cổ phần
được xem là cội nguồn của quyền lực. Với đặc trưng của loại hình công ty đối
vốn và tính chất đa sở hữu, cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý, cơ chế quản lý
trong công ty cổ phần thường được dựa trên sức mạnh kinh tế của các nhóm
sở hữu trong công ty. Hơn nữa, trong quá trình hoạt động công ty cổ phần
được phát hành các loại chứng khoán ra thị trường và trong công ty cổ phần
việc chuyển nhượng vốn được thực hiện một cách tự do, linh hoạt nên số
lượng cổ đông trong công ty cổ phần thường rất lớn. Với quy mô hoạt động
lớn như vậy nên bộ máy tổ chức quản lý của công ty được xây dựng phải thể
hiện tính chuyên nghiệp hơn so với các loại hình doanh nghiệp khác. Do đó,
việc tổ chức quản lý trong công ty cổ phần có sự phân định rõ ràng giữa
quyền sở hữu và quyền quản lý.
10
Thứ tư, vốn của công ty cổ phần có liên quan mật thiết tới thị trường
chứng khoán.Trong quá trình hoạt động kinh doanh, công ty cổ phần được
phát hành các loại chứng khoán ra công chúng để huy động vốn.Trong quá
trình huy động vốn, với tư cách là hàng hóa, chứng khoán các loại được chào
bán cho các nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán sẽ mang lại nguồn vốn
cần thiết cho công ty cổ phần để phát triển sản xuất, kinh doanh.Để tạo điều
kiện thuận lợi cho thị trường chứng khoán hoạt động, trở thành kênh huy
động vốn có hiệu quả nhất, công ty cổ phần phải cung cấp hành hóa có chất
lượng và có nguồn vốn thực sự lành mạnh.
Tóm lại, những đặc điểm về vốn đã góp phần đưa công ty cổ phần trở
thành một hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh tiến bộ, có khả nãng huy
ðộng số lýợng vốn nhàn rỗi khổng lồ trong dân chúng, khả nãng tích tụ và tập
trung vốn với quy mô lớn, có thể nói là lớn nhất trong các loại hình doanh
nghiệp hiện nay.

1.3. QUY CHẾ PHÁP LÝ VỀ VỐN TRONG CÔNG TY CỔ PHẦN.
1.3.1 Cơ cấu vốn trong công ty cổ phần
1.3.1.1 Vốn chủ sở hữu
Vốn chủ sở hữu là nguồn vốn thuộc sở hữu công ty, được hình thành từ
nguồn vốn đóng góp của các cổ đông và vốn do công ty cổ phần tự bổ sung
(lợi nhuận sau thuế chưa được phân phối, quỹ dự trữ, giá trị tăng lên của tài
sản cố định, nợ khó đòi nay đòi được …). Đây là nguồn vốn độc lập, tự chủ
của doanh nghiệp, là chỉ số phản ánh khả năng tài chính thực sự của công ty
cổ phần.
Trong nguồn vốn chủ sở hữu thì vốn điều lệ là phần vốn quan trọng
nhất. Đây là vốn do các thành viên, cổ đông đóng góp hoặc cam kết góp trong
một khoảng thời gian nhất định và được ghi vào Điều lệ công ty[6]. Tỷ lệ vốn
do các thành viên góp vào vốn điều lệ là cơ sở phân chia quyền lực giữa các
11
thành viên đối với việc quản lý công ty và cũng là cơ sở để phân chia lãi của
công ty. Vốn này thể hiện trách nhiệm pháp lý về mặt tài sản của chủ sở hữu
đối với mọi rủi ro của công ty, trách nhiệm đó được giới hạn trong số vốn mà
chủ sở hữu góp vào.Vốn điều lệ của công ty cổ phần được chia thành các
phần bằng nhau gọi là cổ phần. Mệnh giá cổ phần do công ty quyết định và
được phản ánh trong cổ phiếu. Vốn điều lệ của công ty có thể bao gồm nhiều
loại cổ phần với những tính chất pháp lý khác nhau. Cụ thể đó là:
- Cổ phần phổ thông: là cổ phần cơ bản, bắt buộc, không thể thiếu và là
nền tảng trong cơ cấu vốn của công ty cổ phần: “công ty cổ phầnphải có cổ
phần phổ thông. Người sở hữu cổ phần phổ thông là cổ đông phổ thông”[7].
Cổ phần phổ thông tạo cho người nắm giữ nó các quyền lợi về kinh tế và
“quyền lực” trên cơ sở nguyên tắc đối vốn.Người sở hữu cổ phần phổ thông
gọi là cổ đông phổ thông.Tỷ suất cổ tức mà cổ đông phổ thông được hưởng
phụ thuộc vào kết quả kinh doanh của công ty. Do đó, cổ đông phổ thông chỉ
được trả cổ tức khi công ty kinh doanh có lãi, đã hoàn thành các nghĩa vụ thuế
và các nghĩa vụ tài chính khác theo quy định của pháp luật, trích lập các quỹ

công ty và bù đắp đủ lỗ trước đó theo quy định của pháp luật và Điều lệ công
ty. Việc trả cổ tức cho cổ đông phổ thông cũng phải đảm bảo là ngay sau khi
trả hết số cổ tức đã định, công ty vẫn phải đảm bảo thanh toán đủ các khoản
nợ và các nghĩa vụ tài sản khác đến hạn. Ngoài ra, cổ đông phổ thông còn có
các quyền khác như: quyền biểu quyết, quyền được ưu tiên mua cổ phần mới
chào bán tương ứng với tỷ lệ cổ phần phổ thông, được tự do chuyển nhượng
cổ phần (trừ trường hợp cổ phần phổ thông của cổ đông sáng lập) Các cổ
đông sáng lập phải cùng nhau nắm giữ ít nhất 20% số cổ phần phổ thông
được quyền chào bán của công ty. Với loại cổ phần này, cổ đông có thể tham
gia điều hành, quản lý, chia lợi nhuận cũng như chịu rủi ro theo kết quả kinh
doanh của công ty.
12
- Cổ phần ưu đãi: là loại cổ phần có tính chất pháp lý khác biệt so với cổ
phần phổ thông. Người sở hữu cổ phần ưu đãi gọi là cổ đông ưu đãi, được
hưởng một số quyền lợi cao hơn quyền lợi của người sở hữu cổ phần phổ
thông và phải chịu một số hạn chế khác. Cổ phần ưu đãi có thể được chuyển
đổi thành cổ phần phổ thông theo quyết định của Đại hội đồng cổ đông nhưng
cổ phần phổ thông không thể được chuyển đổi thành cổ phần ưu đãi. Công ty
cổ phần có thể có các loại cổ phần ưu đãi sau:
Một là cổ phần ưu đãi biểu quyết.Cổ phần ưu đãi biểu quyết là cổ phần
có số phiếu biểu quyết nhiều hơn so với cổ phần phổ thông. Chỉ có hai chủ
thể được quyền sở hữu cổ phần này là tổ chức được Chính phủ ủy quyền và
cổ đông sang lập. Tuy nhiên, cổ phần ưu đãi biểu quyết của cổ đông sáng lập
chỉ tồn tại trong thời hạn ba năm, kể từ ngày công ty được cấp giấy chứng
nhận đăng ký kinh doanh, sau đó số cổ phần ưu đãi biểu quyết này sẽ chuyển
đổi thành cổ phần phổ thông[8]. Cổ đông ưu đãi biểu quyết không được
chuyển nhượng cổ phần đó cho người khác.
Hai là cổ phần ưu đãi cổ tức: cổ phần được trả mức cổ tức với mức cao
so với mức cổ tức của cổ phần phổ thông hoặc mức ổn định hàng năm. Ngoài
ra, trong trường hợp công ty giải thể hoặc phá sản cổ đông ưu đãi cổ tức còn

được ưu tiên thanh toán trước cổ đông phổ thông sau khi công ty đã thanh
toán hết các khoản nợ, cổ phần ưu đãi hoàn lại. Tuy nhiên, những cổ đông này
phải chịu hạn chế như không có quyền tham gia quản lý công ty tức là không
có quyền biểu quyết, dự họp Đại hội đồng cổ đông, đề cử người vào Hội đồng
quản trị và Ban kiểm soát[9].
Ba là cổ phần ưu đãi hoàn lại: Cổ phần ưu đãi hoàn lại là cổ phần được
công ty hoàn lại vốn góp bất cứ khi nào theo yêu cầu của chủ sở hữu hoặc
theo các điều kiện ghi tại cổ phiếu của cổ phần ưu đãi hoàn lại [10]. Cổ đông
sở hữu cổ phần ưu đãi hoàn lại không được tham gia vào quản lý công ty.
13
Bốn là cổ phần ưu đãi khác do Điều lệ công ty quy định.
Cổ phần là căn cứ pháp lý chứng minh tư cách thành viên công ty bất kể
họ có tham gia thành lập công ty hay không. Từ cổ phần phát sinh quyền và
nghĩ vụ của các thành viên. Mỗi cổ phần cùng loại đều tạo cho người sở hữu
nó các quyền, nghĩa vụ và lợi ích ngang nhau[11].
Có thể thấy rằng, với cơ cấu vốn điều lệ có thể bao gồm nhiều loại cổ
phần với những tính chất pháp lý đa dạng, công ty cổ phần có thể thiết lập cơ
chế góp vốn linh hoạt, đáp ứng được những nguyện vọng, yêu cầu khác nhau
của các nhà đầu tư. Nhà đầu tư có thể lựa chọn cách thức góp vốn phù hợp
với điều kiện cụ thể và nhu cầu lợi ích của mình. Mặt khác, tính tự do chuyển
nhượng của các cổ phần đã quy định cấu trúc “vốn mở” của công ty cổ phần.
Với cấu trúc này, vốn của công ty có thể dễ dàng xã hội hoá, cơ cấu cổ đông
có thể thay đổi uyển chuyển, linh hoạt mà không ảnh hưởng đến sự tồn tại của
công ty.Đây chính là cơ sở quan trọng cho việc hình thành thị trường vốn mà
đỉnh cao là thị trường chứng khoán.
1.3.1.2. Vốn tín dụng
Vốn tín dụng hay còn gọi là vốn vay có ý nghĩa quan trọng đối với các
công ty đang trong tình trạng khó khăn về tài chính hay công ty muốn thay
đổi quy trình công nghệ cũng như mở rộng quy mô sản xuất. Vốn tín dụng
được hiểu là nguồn vốn được hình thành từ việc đi vay dưới các hình thức

khác nhau: vay ngân hàng, vay của các tổ chức, cá nhân khác nhau hoặc vay
bằng việc phát hành trái phiếu… Trong đó, nguồn vốn vay bằng hình thức trái
phiếu có vị trí quan trọng và thể hiện rõ ưu thế của công ty cổ phần so với
nhiều hình thức doanh nghiệp khác. Trái phiếu doanh nghiệp là một loại
chứng khoán nợ do doanh nghiệp phát hành, xác nhận nghĩa vụ trả cả gốc và
lãi của doanh nghiệp phát hành đối với người sở hữu trái phiếu[12]. Như vậy,
khác với cổ phiếu, trái phiếu chỉ xác nhận quyền của chủ sở hữu được trả nợ
14
gốc và lãi suất ấn định trong trái phiếu. Điều đó có nghĩa, người chủ sở hữu
trái phiếu sẽ thành chủ nợ của công ty, có quyền đòi các khoản thanh toán các
khoản nợ song không đương nhiên trở thành cổ đông của công ty, không có
quyền tham gia hoạt động của công ty.
Tóm lại, cấu trúc vốn là một yếu tố vô cùng quan trọng đối với các
doanh nghiệp nói chung và công ty cổ phần nói riêng. Nguồn vốn của công ty
phải đáp ứng được một cách đích thực cho quá trình đầu tư, phát huy được vai
trò và ý nghĩa trong hoạt động kinh doanh của công ty. Các nhà đầu tư cần
chú trọng đến tỷ lệ, mối tương quan về mặt giá trị giữa các loại vốn sao cho
thật phù hợp, tạo khả năng mạnh mẽ nhất để công ty đạt lợi nhuận tối đa và có
nền tài chính lành mạnh phù hợp với quy định của pháp luật.
1.3.2. Quy định về vốn góp trong công ty cổ phần.
Góp vốn là việc đưa tài sản của mình vào tài sản công ty để trở thành
chủ sở hữu hoặc chủ sở hữu chung của công ty[13]. Đối với công ty cổ phần,
nhà đầu tư thực hiện việc góp vốn dưới hình thức là mua lại cổ phần và trở
thành cổ đông của công ty. Về bản chất, việc mua cổ phần cũng là việc nhà
đầu tư chuyển giao tài sản của mình cho công ty và trở thành một trong các
chủ sở hữu nên ngoài việc tuân thủ những quy định riêng về góp vốn vào
công ty cổ phần thì họ cũng phải tuân theo những quy định chung khi góp vốn
vào doanh nghiệp.
1.3.2.1. Chủ thể góp vốn
Công dân có quyền tự do kinh doanh, đây là quyền cơ bản đã được Hiến

pháp Việt Nam ghi nhận. Cụ thể hóa quyền này, khoản 3 Điều 13 luật doanh
nghiệp quy định: “Tổ chức, cá nhân có quyền mua cổ phần của công ty cổ
phần, góp vốn vào công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh”. Trong
đó, tổ chức, cá nhân được hiểu là tất cả tổ chức là pháp nhân, bao gồm cả
15
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, không phân biệt nơi đăng ký trụ sở
chính và mọi cá nhân, không phân biệt quốc tịch và nơi cư trú.
Khoản 4 Điều 13 Luật doanh nghiệp năm 2005 giới hạn một số đối
tượng không được góp vốn thành lập công ty cổ phần bao gồm:
“a) Cơ quan nhà nước, đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam
sử dụng tài sản nhà nước góp vốn vào doanh nghiệp để thu lợi riêng cho cơ
quan, đơn vị mình;
b) Các đối tượng không được góp vốn vào doanh nghiệp theo quy
định của pháp luật về cán bộ, công chức”.
Tài sản của Nhà nước và công quỹ bao gồm [14]:
- Tài sản được mua sắm bằng vốn ngân sách nhà nước và vốn có nguồn
gốc ngân sách nhà nước;
- Kinh phí được cấp từ ngân sách nhà nước;
- Đất được giao sử dụng để thực hiện chức năng và nhiệm vụ theo quy
định của pháp luật;
- Tài sản và thu nhập khác được tạo ra từ việc sử dụng các tài sản và
kinh phí nói trên.
- Kinh phí được tài trợ bởi Chính phủ, tổ chức và cá nhân nước ngoài.
Thu lợi riêng cho cơ quan, đơn vị mình là việc sử dụng thu nhập dưới
mọi hình thức có được từ hoạt động kinh doanh, từ góp vốn, mua cổ phần vào
ít nhất một trong các mục đích sau đây[15]:
- Chia dưới mọi hình thức cho một số hoặc tất cả cán bộ, nhân viên của
cơ quan, đơn vị;
- Bổ sung vào ngân sách hoạt động của cơ quan, đơn vị trái với quy định
của pháp luật về ngân sách nhà nước;

- Lập quỹ hoặc bổ sung vào quỹ phục vụ lợi ích riêng của cơ quan, đơn
vị.
16
1.3.2.2 Tài sản góp vốn
Tài sản góp vốn có thể là tiền Việt nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi, vàng,
giá trị quyền sử dụng đất, giá trị quyền sở hữu trí tuệ, công nghệ, bí quyết kỹ
thuật, các tài sản khác ghi trong Điều lệ công ty do thành viên góp để tạo
thành vốn của công ty[16].
Ngoài ra, Điều 5 Nghị định 102/2010/NĐ-CP còn quy định thêm góp
vốn bằng quyền sở hữu trí tuệ: “Quyền sở hữu trí tuệ được sử dụng để góp
vốn bao gồm quyền tác giả, quyền liên quan đến quyền tác giả, quyền sở hữu
công nghiệp, quyền đối với giống cây trồng và các quyền sở hữu trí tuệ khác
theo quy định của pháp luật sở hữu trí tuệ. Chỉ cá nhân, tổ chức là chủ sở
hữu đối với các quyền nói trên mới có quyền sử dụng các tài sản đó để góp
vốn”
Việc định giá tài sản góp vốn vào công ty cổ phần được thực hiện như
sau:[17]
- Tài sản góp vốn không phải là tiền Việt Nam, ngoại tệ tự do chuyển
đổi, vàng phải được cổ đông sáng lập hoặc tổ chức định giá chuyên nghiệp
định giá.
- Tài sản góp vốn khi thành lập doanh nghiệp phải được các cổ đông
sáng lập định giá theo nguyên tắc nhất trí; nếu tài sản góp vốn được định giá
cao hơn so với giá trị thực tế tại thời điểm góp vốn thì các cổ đông sáng lập
liên đới chịu trách nhiệm đối với các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của
công ty bằng số tiền chênh lệch giữa giá trị được định và giá trị thực tế của tài
sản góp vốn tại thời điểm kết thúc định giá.
- Tài sản góp vốn trong quá trình hoạt động do doanh nghiệp và người
góp vốn thoả thuận định giá hoặc do một tổ chức định giá chuyên nghiệp định
giá. Trong trường hợp tổ chức định giá chuyên nghiệp định giá thì giá trị tài
sản góp vốn phải được người góp vốn và doanh nghiệp chấp thuận; nếu tài

17
sản góp vốn được định giá cao hơn giá trị thực tế tại thời điểm góp vốn thì
người góp vốn hoặc tổ chức định giá và người đại diện theo pháp luật của
doanh nghiệp cùng liên đới chịu trách nhiệm đối với các khoản nợ và nghĩa
vụ tài sản khác của công ty bằng số tiền chênh lệch giữa giá trị được định và
giá trị thực tế của tài sản góp vốn tại thời điểm kết thúc định giá.
Việc định giá tài sản có ý nghĩa rất lớn không chỉ đối với các cổ đông
mà cả đối với chủ nợ của công ty. Đối với các cổ đông sáng lập, việc định giá
tài sản là căn cứ để quyết định vị trí, vai trò và lợi ích tài chính trong công ty.
Đối với các cổ đông được hình thành bằng việc mua cổ phiếu thì sẽ được
nhận mệnh giá cổ phiếu tương đương với só tiền mà mình bỏ ra (đó chính là
giá trị tài sản góp vốn). Số cổ phiếu mà cổ đông nắm giữ là điều kiện kiên
quyết để cho cổ đông được hưởng các quyền của mình đối với công ty như:
Quyền được nhận lợi nhuận, quyền được biểu quyết, quyền được nhận giá trị
tài sản còn lại của công ty khi công ty giải thể, bị phá sản…Đối với các chủ
nợ của công ty, việc định giá tài sản góp vốn giúp cho các chủ nợ nắm bắt
được giá trị thực tế của công ty và yên tâm hơn khi làm ăn đối với công ty. Vì
lúc này, tài sản được định giá là tài sản thuộc sở hữu của công ty và các tài
sản này được công ty dùng để bảo đảm cho các khoản nợ của công ty đối với
các chủ nợ. Nếu tài sản được định giá không đúng với giá trị thực của nó, đến
khi có tranh chấp về các khoản nợ hoặc là khi công ty bị giải thể hay bị phá
sản thì các chủ nợ sẽ bị thiệt hại do giá trị tài sản còn lại của công ty không
đúng với giá trị thực của nó ghi trên sổ sách lên các chủ nợ sẽ bị thiệt thòi. Do
vậy, việc định giá tài sản phải tuân thủ đúng những quy định của pháp luật.
Có như vậy việc định giá tài sản mới chính xác và khách quan và mới nói lên
được giá trị tài sản đích thức của công ty qua đó mới đảm bảo được quyền của
các bên có liên quan.
1.3.2.3 Hình thành vốn góp ban đầu
18
Khi thành lập công ty, các cổ đông sáng lập phải cùng nhau đăng ký

mua ít nhất 20% tổng số cổ phần phổ thông được quyền chào bán và thanh
toán đủ số cổ phần đã đăng ký mua trong thời hạn 90 ngày, kể từ ngày công ty
được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh[18]. Như vậy, luật hiện hành
không quy định một cách trực tiếp số vốn tối thiểu để công ty cổ phần bắt đầu
hoạt động, mà thông qua việc quy định các cổ đông sáng lập phải cùng nhau
nắm giữ 20% số cổ phần phổ thông chào bán để quy định một cách gián tiếp
số vốn tối thiểu của công ty cổ phần. Vậy thì tại thời điểm được cấp Giấy
chứng nhận đăng ký kinh doanh công ty phải có 20% vốn điều lệ, vậy khi
đăng ký 10 tỷ thì công ty phải có 2 tỷ để bắt đầu hoạt động. Nếu trong quá
trình hoạt động mà cần thêm vốn thì công ty sẽ huy động thêm cho đến khi đủ
10 tỷ. Nếu đã hoạt động được hai năm và kinh doanh có lãi, công ty có thể
phát hành trái phiếu hay cổ phiếu để huy động thêm vốn ngoài số vốn đã đăng
ký ban đầu theo những thủ tục quy định trong luật lệ về chứng khoán[19].
Điều này tạo điều kiện cho công ty huy động vốn linh hoạt trong giới hạn cho
phép mà không cần phải thay đổi điều lệ công ty cũng như không ảnh hưởng
đến quyền và lợi ích cũng như phương hướng phát triển của công ty.
Khi góp vốn vào công ty cổ phần, cổ đông phải làm thủ tục chuyển
quyền sở hữu tài sản. Đây là thủ tục không thể thiếu bởi công ty cổ phần được
coi là pháp nhân từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh nên
công ty phải có tài sản riêng tách biệt với tài sản của các cổ đông để có thể tự
mình nhân danh chính mình đứng ra kinh doanh và tự chịu trách nhiệm với tư
cách là một chủ thể độc lập.
Thủ tục chuyển quyền sở hữu tài sản được thực hiện như sau:[20]
- Đối với tài sản có đăng ký hoặc giá trị quyền sử dụng đất thì người góp
vốn phải làm thủ tục chuyển quyền sở hữu tài sản đó hoặc quyền sử dụng đất
cho công ty tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
19
- Đối với tài sản không đăng ký quyền sở hữu, việc góp vốn phải được thực
hiện bằng việc giao nhận tài sản góp vốn có xác nhận bằng biên bản.
- Cổ phần hoặc phần vốn góp bằng tài sản không phải là tiền Việt Nam, ngoại

tệ tự do chuyển đổi, vàng chỉ được coi là thanh toán xong khi quyền sở hữu
hợp pháp đối với tài sản góp vốn đã chuyển sang công ty.
1.3.2.4 Huy động thêm vốn góp.
Khi tiến hành hoạt động kinh doanh và nhất là để kinh doanh có hiệu
quả thì điều quan trọng nhất vẫn là cần thêm vốn. Do đó để có vốn, công ty cổ
phần phải huy động thêm vốn và việc huy động thêm vốn được thực hiện
bằng nhiều hình thức: vốn góp của cổ đông, phát hành cổ phiếu, phát hành
trái phiếu, vay, thuê tài chính…
1.3.2.4.1 Vốn góp của cổ đông
Trong nền kinh tế thị trường, tuỳ theo loại hình doanh nghiệp và hình
thức sở hữu mà doanh nghiệp có thể huy động vốn kinh doanh từ nhiều nguồn
khác nhau. Đối với công ty cổ phần, nguồn vốn chủ yếu do các cổ đông đóng
góp dưới hình thức mua cổ phần. Đây không phải là các khoản nợ nên các
công ty cổ phần được toàn quyền sử dụng vào hoạt động sản xuất kinh doanh
mà không phải lo trả nợ cho chủ sở hữu của nó. Đặc điểm này cho thấy, mức
độ tự chủ trong sản xuất kinh doanh của các công ty cổ phần phụ thuộc rất
nhiều vào nguồn vốn này. Một công ty cổ phần có vốn góp cổ phần càng lớn
thì mức độ tự chủ về vốn trong sản xuất kinh doanh càng cao. Ngược lại,
không thể nói một công ty có mức độ tự chủ trong sản xuất kinh doanh cao
khi phần lớn tài sản của nó lại được tài trợ từ các nguồn vốn vay nợ hoặc
chiếm dụng từ bên ngoài[21].
1.3.2.4.2. Phát hành cổ phiếu
Theo Luật doanh nghiệp[22] thì cổ phiếu là chứng chỉ do công ty cổ
phần phát hành hoặc bút toán ghi sổ xác nhận quyền sở hữu một hoặc một số
20
cổ phần của công ty đó. Cổ phiếu có thể ghi tên hoặc không ghi tên.
Còn theo quy định tại Luật chứng khoán 2006 [23]thì: “Cổ phiếu là loại
chứng khoán xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với
một phần vốn cổ phần của tổ chức phát hành”.
Theo quy định tại khoản 3 Điều 77 Luật doanh nghiệp năm 2005, công

ty cổ phần có quyền phát hành chứng khoán[24] các loại để huy động vốn.
Với quy định như vậy, thì các công ty cổ phần có thể phát hành cổ phiếu
thông qua thị trường chứng khoán hay phát hành trực tiếp cho các cổ đông
của công ty trong trường hợp không đủ điều kiện để phát hành chứng khoán
trên thị trường theo quy định của pháp luật.
Việc huy động vốn bằng hình thức phát hành cổ phiếu là quyền năng rất
cơ bản của công ty cổ phần. Thực chất của việc phát hành cổ phiếu chính là
việc công ty chào bán cổ phần để huy động thêm vốn. Kết quả của việc bán cổ
phần sẽ làm tăng vốn điều lệ của công ty.
Điều kiện phát hành cổ phiếu[25]:
- Doanh nghiệp có mức vốn điều lệ đã góp tại thời điểm đăng ký chào
bán từ 10 tỷ đồng Việt Nam trở lên tính theo giá trị ghi trên sổ kế toán;
-Hoạt động kinh doanh của năm liền trước năm đăng ký chào bán phải
có lãi, đồng thời không có lỗ luỹ kế tính đến năm đăng ký chào bán;
- Có phướng án phát hành và phương án sử dụng vốn thu được từ đợt
chào bán được Đại hội đồng cổ đông thông qua.
Với quy định như trên cho ta thấy được điều kiện phát hành cổ phiếu
này đuợc áp dụng cho các công ty cổ phần thuộc mọi thành phần kinh tế. Hoạt
động kinh doanh của công ty chỉ cần năm liền trước năm đăng ký chào bán
phải có lãi chứ không cần phải có lãi trong hai năm liên tục gần nhất như theo
quy định trước đây. Có thể nói quy định hiện hành là hết sức thông thoáng,
qua đó đã tạo điều kiện một cách hết sức thuận lợi cho mọi công ty cổ phần
21
đều có khả năng phát hành cổ phiếu để phát huy thế mạnh của mình đồng thời
góp phần tạo thêm chứng khoán cho thị trường chứng khoán Việt Nam.
Các phương thức phát hành cổ phiếu[26]: có hai phương thức
Thứ nhất: Phát hành hẹp:
Là phương thức phát hành trong đó được phát hành cho phạm vi một số
người nhất định với khối lượng phát hành hạn chế. Phát hành hẹp thường
không chịu ràng buộc về điều kiện và thủ tục phát hành. Việc bán cổ phiến

chủ yếu do công ty quyết định trên cơ sở thoả thuận với người mua. Cổ phiếu
được phát hành theo phương thức này không phải là đối tượng giao dịch tại sở
giao dịch chứng khoán.
Thứ hai: Phát hành rộng rãi:
Là phương thức phát hành trong đó được phát hành trong đó cổ phiếu
được bán rộng rãi ra công chúng, cho một số lượng lớn nhà đầu tư, khối
lượng cổ phiếu phát hành đạt giới hạn nhất định. Công ty cổ phần phát hành
chứng khoán ra công chúng được gọi là “công ty đại chúng”. Phát hành cổ
phiếu rộng rãi được chia thành hai trường hợp là phát hành lần đầu và phát
hành thêm cổ phiếu(hay còn gọi là chào bán cơ sở).
1.3.2.4.3 Phát hành trái phiếu.
Nếu vốn góp cổ phần không đủ trang trải các nhu cầu kinh doanh, công
ty cổ phần có thể huy động thêm vốn kinh doanh bằng việc phát hành trái
phiếu.
Trái phiếu là một loại chứng khoán phát hành dưới hình thức chứng chỉ
hoặc bút toán ghi sổ xác nhận nghĩa vụ trả nợ (bao gồm cả gốc lẫn lãi) của tổ
chức phát hành trái phiếu với người sở hữu trái phiếu theo các điều kiện ghi
trên trái phiếu khi đến hạn. Kết quả của việc phát hành trái phiếu sẽ làm tăng
vốn vay của công ty. Người mua trái phiếu (được coi là người cho vay)sẽ trở
22
thành chủ nợ của công ty, có quyền đòi thanh toán các khoản vay nhưng
không có quyền tham gia vào hoạt động của công ty[27].
Luật doanh nghiệp 2005 quy định : “ Công ty cổ phần có quyền phát
hành trái phiếu, trái phiếu chuyển đổi và các loại trái phiếu khác theo quy
định của pháp luật và Điều lệ công ty”.
Công ty không được quyền phát hành trái phiếu trong các trường hợp
sau đây, trừ trường hợp pháp luật về chứng khoán có quy định khác:
- Không thanh toán đủ cả gốc và lãi của trái phiếu đã phát hành, không thanh
toán hoặc thanh toán không đủ các khoản nợ đến hạn trong ba năm liên tiếp
trước đó;

- Tỷ suất lợi nhuận sau thuế bình quân của ba năm liên tiếp trước đó không
cao hơn mức lãi suất dự kiến trả cho trái phiếu định phát hành.
Việc phát hành trái phiếu cho các chủ nợ là tổ chức tài chính được lựa chọn
không bị hạn chế bởi các quy định trên.
Điều kiện phát hành trái phiếu[28]:
Luật chứng khoán 2006đã có những quy định cởi mở, thông thoáng hơn
trong việc phát hành trái phiếu giúp cho các công ty cổ phần dễ dàng hơn
trong việc huy động vốn thông qua kênh phát hành này, cụ thể là:
- Doanh nghiệp có mức vốn điều lệ đã góp tại thời điểm đăng ký chào
bán từ 10 tỷ đồng Việt Nam trở lên tính theo giá trị ghi trên sổ kế toán;
- Hoạt động kinh doanh của năm liền trước năm đăng ký chào bán phải
có lãi, đồng thời không có lỗ luỹ kế tính đến năm đăng ký chào bán, không có
các khoản nợ phải trả quá hạn trên một năm;
- Có phương án phát hành, phương án sử dụng vốn và trả nợ vốn thu
được từ đợt chào bán được Hội đồng quản trị hoặc Hội đồng thành viên hoặc
Chủ sở hữu công ty thông qua;
23
- Có cam kết thực hiện nghĩa vụ của tổ chức phát hành đối với nhà đầu
tư về điều kiện phát hành, thanh toán, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của
nhà đầu tư và các điều kiện khác.
Các quy định của Luật chứng khoán 2006 về điều kiện phát hành chứng
khoán (cổ phiếu , trái phiếu…) không áp dụng cho các doanh nghiệp sau. Cụ
thể: Chính phủ quy định điều kiện chào bán chứng khoán ra công chúng đối
với doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chuyển
đổi thành công ty cổ phần, doanh nghiệp thành lập mới thuộc lĩnh vực cơ sở
hạ tầng hoặc công nghệ cao; chào bán chứng khoán ra nước ngoài và các
trường hợp cụ thể khác.
Các hình thức huy động vốn kinh doanh đã trình bày ở trên, tuy chưa
phải là tất cả mọi hình thức huy động vốn kinh doanh của công ty cổ phần, chỉ
là các hình thức huy động quan trọng nhất liên quan đến cách tổ chức, quản lý

vốn của công ty sao cho việc sử dụng vốn được thực hiện một cách tiết kiệm
và có hiệu quả nhất.
1.3.3. Quy định về chuyển nhượng vốn trong công ty cổ phần.
Khi đã góp vốn vào công ty cổ phần, nhà đầu tư trở thành cổ đông của
công ty. Sau đó, vì một lý do nào đó họ không muốn tiếp tục quá trình đầu tư
vào công ty nữa và muốn thu hồi lại số vốn đã góp vào công ty.
Nhằm đảm bảo quá trình vận động vốn của công ty cổ phần luôn linh
hoạt, lành mạnh, đáp ứng được yêu cầu của quá trình đầu tư cũng như lợi ích
của mỗi thành viên trong công ty, Luật doanh nghiệp đã quy định vấn đề
chuyển nhượng vốn một cách khá chặt chẽ và chi tiết. Chuyển nhượng vốn
trong công ty cổ phần là việc cổ đông chuyển lại một phần hoặc toàn bộ số cổ
phần mà mình đang nắm giữ cho người khác. Bản chất của hành vi chuyển
nhượng vốn là sự dịch chuyển quyền sở hữu của cổ đông đối với cổ phẩn của
họ trong công ty. Việc chuyển nhượng cổ phần có thể được thực hiện bằng hai
24
cách thức, đó là: chuyển nhượng cổ phần cho người khác và yêu cầu công ty
mua lại phần vốn góp của mình.
1.3.3.1 Chuyển nhượng cổ phần cho người khác
Theo quy định tại khoản 5 Điều 87 Luật doanh nghiệp 2005, cổ đông
công ty cổ phần có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người
khác, trừ hai trường hợp sau:
- Đối với cổ phần ưu đãi biểu quyết:
Khoản 3 Điều 81 Luật doanh nghiệp quy định: “Cổ đông sở hữu cổ phần ưu
đãi biểu quyết không được chuyển nhượng cổ phần đó cho người khác.
Đối với tổ chức được Chính phủ uỷ quyền nắm giữ cổ phần ưu đãi biểu quyết
không được chuyển nhượng cho người khác mà không phụ thuộc vào thời
gian.
Còn đối với các cổ đông nắm giữ cổ phần ưu đãi biểu quyết không được
chuyển nhượng cho người khác trong vòng 3 năm kể từ ngày công ty được
cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh (vì theo quy định thì sau ba năm kể

từ ngày công ty được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh thì cổ phần ưu
đãi biểu quyết của cổ đông sáng lập phải chuyển đổi thành cổ phần phổ thông
và lúc này khi đã chuyển đổi thành cổ phần phổ thông thì các cổ đông sở hữu
cổ phần này được quyền tự do chuyển nhượng cho người khác)
- Đối với cổ phần phổ thông của cổ đông sáng lập:
Việc chuyển nhượng đối với cổ phần phổ thông của cổ đông sáng lập bị hạn
chế một phần, cụ thể là: trong ba năm đầu kể từ ngày công ty được cấp Giấy
chứng nhận đăng ký kinh doanh, các cổ đông sáng lập phải cùng nhau nắm
giữ ít nhất 20% tổng số cổ phần phổ thông được quyền chào bán. Số cổ phần
này có thể được tự do chuyển nhượng cho cổ đông sáng lập khác, nhưng chỉ
được chuyển nhượng cho người không phải là cổ đông sáng lập của công ty
nếu được sự chấp thuận của Đại hội đồng cổ đông và người chuyển nhượng
25

×