Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

tìm hiểu về sự sáp nhập của các ngân hàng thương mại ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (217.13 KB, 23 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Trong tiến trình phát triển kinh tế, việc liên kết, sáp nhập, hợp nhất các
doanh nghiệp để hình thành những doanh nghiệp lớn mạnh hơn là xu hướng phổ
biến tất yếu, nhất là trong quá trình hội nhập kinh tế toàn cầu như hiện nay. Xu
thế này sớm muộn cũng sẽ trở thành làn sóng mạnh mẽ lướt qua tất cả các nền
kinh tế trên thế giới và nó được dự báo sẽ bùng phát trong tương lai gần.
Trên thế giới, các hoạt động mua bán, sáp nhập đã được hình thành rất sớm
và phổ biến ở các nước có nền kinh tế thị trường với sự cạnh tranh quyết liệt giữa
các công ty với nhau, đồng thời cũng tạo ra xu thế tập trung lại để thống nhất, tập
hợp nguồn lực tài chính, công nghệ, nhân lực, thương hiệu .
Tại Việt Nam, vấn đề này đã được đề cập cách đây hơn 10 năm, nhu cầu
bán và mua doanh nghiệp ngày càng tăng cùng với xu hướng hình thành các tập
đoàn kinh doanh, đầu tư chéo giữa các doanh nghiệp đã báo hiệu một tín hiệu tốt
cho nền kinh tế, làm tăng sức cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam. Hơn
nữa, đây cũng là một lĩnh vực khá mới mẻ ở Việt Nam nên thu hút được sự quan
tâm đầu tư của các nhà đầu tư nước ngoài.
Và dù còn khá mới mẻ nhưng ở nước ta đã có những thương vụ đình đám
bởi sự kết hợp của những thương hiệu đã có tên tuổi, vị trí trên thị trường, chủ
yếu thuộc lĩnh vực chứng khoán, bảo hiểm, tài chính, ngân hàng, dịch vụ. Theo
dự báo của các chuyên gia, làn sóng sáp nhập, hợp nhất và mua lại trên thị trường
tài chính sẽ diễn ra nhanh hơn so với dự đoán trước đây và sẽ sôi động hơn trong
ngành ngân hàng và chứng khoán.
Cũng chính vì sự mới mẻ, sơ khai, sôi động và nóng bỏng của vấn đề này
nên chúng em đã chọn đề tài “tìm hiểu về sự sáp nhập của các ngân hàng thương
mại ở Việt Nam hiện nay” để có thể hiểu rõ hơn về hiện tượng này.
I. Bối cảnh ngân hàng hiện nay tại Việt Nam
 Ngành ngân hàng ở Việt Nam có tốc độ tăng trưởng nhanh, với đặc trưng của
một nền kinh tế mới nổi, tốc độ tăng trưởng tín dụng và huy động của VN luôn ở
mức cao. Tuy nhiên, tăng trưởng tín dụng nóng cũng là nguyên nhân dẫn đến
bong bóng tài sản mà nhiều nước mới nổi như VN mắc phải khi nguồn vốn chảy
vào các linh vực rủi ro cao như bất động sản.


 Quy mô ngành ngân hàng VN đã mở rộng đáng kể trong những năm gần đây.
Tuy nhiện Việt Nam hiện có nhiều NH quy mô nhỏ, chủ yếu xuất phát từ NH địa
phương, vươn ra hoạt động ở các thành phố khác, do đó quy mô mạng lưới hoạt
động của các NHTM cũng tăng lên nhanh chóng và danh mục cho vay phát triển
quá nóng. Số lượng chi nhánh, phòng giao dịch và ATM tăng đáng kể.
 Mặc dù tài sản tăng trưởng nhanh nhưng quy mô của các NHTM Việt Nam vẫn
nhỏ so với các quốc gia khác trong khu vực, đồng nghĩa với việc các NHTM này
đều phải chịu áp lực về vốn nhằm đảm bảo các chỉ số an toàn hoạt động. Vốn
điều lệ theo quy định hiện nay của các NHTM là 3.000 tỷ đồng. và theo như lộ
trình tăng vốn của NHNN , các ngân hàng VN phải đạt mức vốn pháp định bắt
buộc 5.000 tỷ đồng và 10.000 tỷ đồng, áp dụng đối với các NHTM đến cuối năm
2012 và 2015.
 Tăng trưởng tín dụng luôn cao hơn tăng trưởng huy động và GDP làm tăng rủi ro
thanh khỏan. Sự mất cân đối kỳ hạn giữa nguồn vốn huy động và cho vay, dẫn
đến tình hình tài chính, thanh khoản của ngân hàng bị giảm, do đó, mất khả năng
thanh toán tạm thời. Bên cạnh đó, năng lực quản trị ngân hằng, đặc biệt là quản
trị rủi ro còn yếu kém khiến tình hình càng trở nên căng thẳng hơn.
 Cuộc chạy đua lãi suất bất chấp các quy định của NHNN nhưng tổng huy động
tiền gửi vẫn sụt giảm, sự siết chăc kỷ cương của NHNN, tình hình thanh khoản
của các NHTM nhỏ ở trang thái căng thẳng, chính sách trần lãi suất huy động dã
phát huy tác dụng phát hiện các NHTM hoạt động không hiệu quả, và mặt bằng
lãi suất giảm không như mong đợi của nền kinh tế đã khiến cho tình hình các
NHTM càng thêm căng thẳng và khó khăn.
 Vấn đề nợ xấu gia tăng do tăng trưởng tín dụng nóng và quản lý tín dụng không
hiệu quả. Tổng nợ xấu của 8 NHTM niêm yết tính tới thời điểm 30/9/2011 lên tới
gần 15.018 tỷ đồng. Trong đó nợ có khả năng mất vốn là 8.293 tỷ đồng.
=>Vì vậy, giải pháp phù hợp nhất để tái cấu trúc hệ thống ngân hàng là sáp
nhập, hợp nhất, mua lại giữa các ngân hàng.
II. Hợp nhất, sáp nhập ngân hàng - quan điểm và cách thức tiến hành
1. Về quan điểm

Có không ít ý kiến cho rằng, cần phải coi việc phá sản ngân hàng là chuyện
bình thường như phá sản doanh nghiệp, nhưng đối với một lĩnh vực hoạt động
nhạy cảm và có tính lan truyền rộng như lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng thì việc phá
sản ngân hàng sẽ để lại rất nhiều hệ lụy cho cả nền kinh tế, nhất là đối với một
nền kinh tế phụ thuộc nhiều vào hệ thống ngân hàng với dư nợ tín dụng chiếm
khoảng 120% GDP và vốn tự có của các ngân hàng hiện vẫn còn quá mỏng so
với các nước trên thế giới và khu vực. Đối với bất kỳ quốc gia nào, kể cả các
nước phát triển, đây chỉ là giải pháp cuối cùng khi chính phủ của các quốc gia
này không thể nâng đỡ nổi các ngân hàng và hoạt động kinh doanh của các ngân
hàng không còn hiệu quả nữa. Ngay cả với cường quốc như Mỹ thì việc phá sản
của các ngân hàng thời gian qua đã để lại rất nhiều hệ lụy về kinh tế - xã hội cho
quốc gia này. Vì vậy, phá sản, giải thể ngân hàng sẽ chưa được các nhà quản lý
Việt Nam tính đến trong bối cảnh hiện nay.
Vì vậy, giải pháp phù hợp nhất để tái cấu trúc hệ thống ngân hàng là sáp
nhập, hợp nhất, mua lại giữa các ngân hàng. Quá trình này không chỉ diễn ra giữa
các ngân hàng yếu với ngân hàng mạnh hay giữa các ngân hàng yếu với nhau mà
bản thân giữa các ngân hàng mạnh cũng cần có sự liên kết, sáp nhập, hợp nhất để
tạo ra những ngân hàng lớn mạnh hơn, đủ sức cạnh tranh với các ngân hàng
trong khu vực và trên thế giới. Nhất là khi sự hiện diện của các ngân hàng 100%
vốn nước ngoài tại Việt Nam gia tăng.
Quan điểm của Ngân hàng Nhà nước là không phân biệt ngân hàng nhỏ hay
ngân hàng lớn mà chỉ phân biệt ngân hàng mạnh hay ngân hàng yếu.
 Mục tiêu của quá trình sáp nhập ngân hàng là nhằm:
• Tạo ra một hệ thống ngân hàng lành mạnh, hiệu quả, hoạt động ngày càng phù
hợp hơn với các chuẩn mực và thông lệ quốc tế, có sức sống và khả năng cạnh
tranh tốt trong môi trường kinh tế trong nước và quốc tế đầy biến động;người dân
được tiếp cận sâu, rộng với mọi loại hình dịch vụ ngân hàng với chất lượng ngày
càng cao;
• Tạo ra một hệ thống ngân hàng đa dạng về loại hình, quan hệ sở hữu; đa dạng về
qui mô: có các ngân hàng đủ mạnh để có thể cạnh tranh trong khu vực và quốc

tế, có các ngân hàng làm trụ cột cho cả hệ thống ngân hàng trong nước, có các
ngân hàng có qui mô vừa và nhỏ hoạt động trong những phân khúc thị trường
khác nhau.
2. Về cách thức tiến hành
Sẽ hiệu quả hơn nếu quá trình này diễn ra tự nguyện thay vì chịu sự ép buộc
của các cơ quan quản lý. Chính vì vậy, sẽ là khôn ngoan hơn, nếu các ngân hàng
chủ động tìm ra hướng đi cho mình.
2.1. Đối với các ngân hàng hoạt động yếu kém
Đối với các ngân hàng hoạt động yếu kém, việc sáp nhập vào các ngân
hàng lớn có vẻ là giải pháp tối ưu hơn cả. Trong bối cảnh thị trường chứng khoán
ảm đạm, giá cổ phiếu của nhiều ngân hàng đang dưới mệnh giá thì việc tăng vốn
để tăng năng lực tài chính và khả năng cạnh tranh của các ngân hàng sẽ gặp
nhiều khó khăn, nhất là các ngân hàng hoạt động yếu kém. Thêm vào đó, với các
biện pháp mạnh mẽ và quyết liệt của Ngân hàng Nhà nước thời gian gần đây, các
yếu tố cạnh tranh thiếu lành mạnh đã bị triệt tiêu thì các ngân hàng chưa có uy
tín, thương hiệu sẽ mất đi lợi thế cạnh tranh là điều khó tránh khỏi. Khi không
thể tự tồn tại, thì việc sáp nhập, bán lại để phát triển là lựa chọn tối ưu hơn cả.
Theo đề án tái cấu trúc các tổ chức tín dụng đã được Thủ tướng thông qua,
các tổ chức không thể thực hiện tự nguyện sẽ bị áp dụng các biện pháp sáp nhập,
hợp nhất, mua lại trên cơ sở bắt buộc.
Ngày 1/3, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt đề án “Cơ cấu lại hệ thống
các tổ chức tín dụng (TCTD) giai đoạn 2011-2015”.
Theo đó, quan điểm của đề án có ghi rõ, “khuyến khích việc sáp nhập, hợp
nhất, mua lại các TCTD theo nguyên tắc tự nguyện, đảm bảo quyền lợi của người
gửi tiền và các quyền, nghĩa vụ kinh tế của các bên có liên quan theo quy định
của pháp luật”.
Đồng thời, để đảm bảo an toàn, ổn định của hệ thống, một số TCTD có mức
độ rủi ro, nguy cơ mất an toàn cao sẽ được áp dụng các biện pháp xử lý đặc biệt
theo quy định của pháp luật.
NH nước ngoài được xem xét tham gia mua lại, sáp nhập NH trong nước.

Đề án chia thành ba nhóm đối tượng để tái cơ cấu: nhóm TCTD lành mạnh,
nhóm thiếu hụt thanh khoản tạm thời và nhóm yếu kém. Tập trung nêu chi tiết về
việc giải quyết, xử lý nhóm thiếu hụt thanh khoản tạm thời và nhóm yếu kém.
Cụ thể, với những TCTD thiếu thanh khoản tạm thời, NHNN sẽ tái cấp vốn.
Nằm trong diện này, các TCTD sẽ bị hạn chế tăng trưởng tín dụng nhưng vẫn
phải tích cực huy động vốn để trả nợ NHNN và tăng khả năng chi trả. Đồng thời,
sẽ được sự giám sát chặt chẽ của NHNN về tình hình tài chính và hoạt động.
Theo đề án, NHNN “khuyến khích và tạo điều kiện cho các TCTD thuộc
nhóm này sáp nhập, hợp nhất với nhau và sáp nhập, hợp nhất với các TCTD
lành mạnh”.
Tùy theo tính chất, mức độ rủi ro, NHNN sẽ áp dụng các biện pháp xử lý như
buộc hạn chế mở rộng phạm vi, quy mô và địa bàn hoạt động hoặc bắt buộc TCTD
phải thực hiện một hoặc một số tỷ lệ an toàn cao hơn mức quy định chung.
Về việc sáp nhập, hợp nhất, mua lại các TCTD yếu kém, đề án nêu rõ, sau
khi áp dụng các biện pháp đảm bảo khả năng chi trả, các TCTD yếu kém sẽ được
sáp nhập, hợp nhất, mua lại trên cơ sở tự nguyện.“Nếu không thể thực hiện một
cách tự nguyện, NHNN sẽ áp dụng các biện pháp sáp nhập, hợp nhất, mua lại
trên cơ sở bắt buộc đối với TCTD yếu kém” – trích đề án.
Các TCTD yếu kém sẽ phải chuyển nhượng vốn điều lệ hoặc vốn cổ phần.
Cùng với đó, cổ đông lớn, cổ đông nắm quyền kiểm soát, chi phối của các TCTD
này cũng phải chuyển nhượng cổ phần.
Lúc này, NHNN sẽ đóng vai trò trực tiếp mua lại vốn điều lệ hoặc cổ phần
của các TCTD yếu kém để chấn chỉnh, củng cố, lành mạnh hóa một bước TCTD.
Sau đó, sẽ cho sáp nhập, hợp nhất với TCTD khác hoặc bán lại cho các nhà đầu
tư đủ điều kiện.
Trong chuỗi thực hiện này, các TCTD nước ngoài cũng sẽ được xem xét để
được phép mua lại, sáp nhập các TCTD yếu kém của Việt Nam và tăng giới hạn sở
hữu cổ phần của TCTD nước ngoài tại các NHTMCP yếu kém được cơ cấu lại.
2.2. Đối với các ngân hàng mạnh
Đối với các ngân hàng mạnh, có uy tín, thương hiệu, việc liên kết, hợp nhất

để tạo ra một thương hiệu mới sẽ là yếu tố cộng hưởng cho sự phát triển chung
của các ngân hàng hợp nhất.
Có thể các ngân hàng thương mại Việt Nam còn băn khoăn, thậm chí là
hoang mang, lo lắng trước vấn đề này. Nhưng với thế giới, đây là xu hướng tất
yếu và là hiện tượng phổ biến. Mỗi năm, thế giới có hàng ngàn cuộc mua bán,
sáp nhập trong lĩnh vực này. Ở Hàn Quốc, để tái cấu trúc hệ thống ngân hàng, tạo
cơ sở vững chắc về mặt tài chính cho phát triển kinh tế bền vững, nước này đã
chủ động cho hợp nhất, sáp nhập hàng loạt các ngân hàng và đưa số ngân hàng
của nước này từ con số 33 vào năm 1997 xuống còn 19 vào năm 2009. Tương tự,
Trung Quốc và Singapore đã từng có hàng trăm NHTMCP, song đến nay, con số
này chỉ còn rất ít. Xu hướng này cũng diễn ra tại Nhật, Thái Lan và các nước
châu Âu dưới sự định hướng của Ngân hàng Trung ương các nước.
 Xét trên lợi ích chung của toàn hệ thống, quá trình hợp nhất, sáp nhập,
mua bán lại sẽ mang đến nhiều lợi ích hơn cho toàn hệ thống. Để đẩy nhanh quá
trình này, các cơ quan quản lý cần có những giải pháp khuyến khích các ngân
hàng sáp nhập, hợp nhất, mua bán lại, như chính sách ưu đãi về thuế, dự trữ bắt
buộc, tái cấp vốn… Bên cạnh đó, cần đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền
và công khai, minh bạch thông tin để bản thân các ngân hàng cũng như người
dân và toàn xã hội hiểu rõ chủ trương của Đảng, Nhà nước đối với vấn đề hợp
nhất, sáp nhập, mua bán lại ngân hàng, trong đó cần làm cho người gửi tiền,
người vay tiền hiểu được quyền lợi và nghĩa vụ của mình khi các ngân hàng hợp
nhất, sáp nhập.
Đối với mỗi ngân hàng, cần đánh giá đúng thực lực của mình, nhìn nhận
một cách toàn diện các cơ hội và thách thức, hoạch định cho mình một hướng đi
phù hợp để có khả năng cạnh tranh bình đẳng ở môi trường hội nhập kinh tế toàn
cầu trong tương lai.
Như vậy, việc sáp nhập, hợp nhất, mua bán lại ngân hàng thương mại là con
đường tất yếu trong lộ trình phát triển ngân hàng Việt Nam hiện tại và tương lai.
Vì vậy, Ngân hàng Nhà nước cũng như bản thân mỗi ngân hàng thương mại cần
có sự nhìn nhận đúng đắn về vấn đề này để có lộ trình và bước đi phù hợp nhằm

mang lại lợi ích cao nhất cho toàn hệ thống và bản thân mỗi ngân hàng.
Hiện nay, hành lang pháp lý cho quá trình sáp nhập, hợp nhất, mua lại tổ
chức tín dụng đã tương đối đồng bộ, hoàn chỉnh, trong đó quyền lợi của khách
hàng và người gửi tiền tại các tổ chức tín dụng tham gia sáp nhập, hợp nhất, mua
lại được pháp luật bảo vệ. Vì vậy, khách hàng của các tổ chức tín dụng này có thể
hoàn toàn yên tâm về quyền lợi của mình khi các tổ chức tín dụng mà khách
hàng đang giao dịch thực hiện việc sáp nhập, hợp nhất hay mua lại.
III. Nguyên nhân của việc sáp nhập:
3.1. Bùng nổ về số lượng
Ở Việt Nam, chỉ trong vòng mấy năm gần đây đã chứng kiến sự bùng nổ
của hệ thống ngân hàng với sự tăng mạnh về con số ngân hàng và chi nhánh ngân
hàng được thành lập cũng như về tốc độ tăng trưởng tín dụng bắt nguồn từ tăng
trưởng cao của cung tiền là hậu quả của chính sách tiền tệ nới lỏng. Đến lượt
mình, gia tăng tăng trưởng tín dụng lại dẫn đến tăng trưởng kinh tế nóng và tăng
áp lực lạm phát. Điều đáng nói là sự mở rộng nhanh chóng của hệ thống ngân
hàng không đồng hành với sự cải thiện đáng kể trong công tác phòng ngừa rủi ro
(như không áp dụng các chuẩn mực quốc tế về phân loại vốn vay, trích lập dự
phòng và công bố thông tin) cũng như việc giám sát, thanh tra và xử phạt của
NHNN, lại còn bịu tác động bởi tham nhũng, can thiệp bởi chính quyền và các
nhóm lợi ích. Công tác quản trị yếu kém ngoài lí do xem nhẹ tầm quan trọng của
nó trước áp lực mở rộng về lượng còn do bởi việc không có hoặc không hoạt
động hiệu quả của các cơ quan thanh tra, giá sát của NHNN cũng như của các tổ
chức tổ chức xếp hạng rủi ro tín dụng.
Tệ hại hơn, nhiều ngân hàng được thành lập bởi các tập đoàn kinh tế hay
một nhóm lợi ích - mà nòng cốt là một số cá nhân tư bản với mục đích là cung
cấp vốn cho nội bộ tập đoàn đó, nhóm lợi ích đó- mà vì thế chất lượng các khoản
cho vay, cũng như mức hạn cho vay, không bao giờ là điều đáng quan tâm.
Thêm nữa, khi thị trường chứng khoán và nhà đất có dấu hiệu tăng trưởng
mạnh, các ngân hàng thi nhau đổ vốn vào đó, tự mình đặt vào vị trí chịu cả rủi ro
tín dụng lẫn rủi ro thị trường và do đó rất dể tổn thương nặng bởi sự lên xuống

của giá cả ở hai thị trường đầy rủi ro này.
3.2. Sự yếu kém trong cơ chế quản trị, điều hành và nguồn nhân lực
Để kinh doanh có hiệu quả, đăc biệt trong giai đoạn gia nhập nền kinh tế
quốc tế hiện nay, thì việc xây dựng một đội ngũ các nhà quản trị hiện đại có tầm
vóc quốc tế là một yêu cầu cực kì quan trọng. Một vấn nạn hiện nay về nguồn
nhân lực nói chung là: nhiều người giỏi nhưng làm việc không có tâm, chỉ quan
tâm đến lương cao, nhiều người dở nhưng không chịu làm và học hỏi. Hiện nay
tồn tại không ít giám đốc độc quyền, nghi ngờ cấp dưới, không phân quyền suốt
ngày nhận “trình, bẩm” từ đó ra quyết định chậm, bỏ lỡ cơ hội kinh doanh.
Không ít ngân hàng vẫn còn tình trạng chưa phân định trách nhiệm và quyền hạn
giữa ban kiểm soát và ban điều hành. Công tác quản trị, kiểm soát, điều hành của
NHTM không theo kịp với đòi hỏi của kinh tế thị trường và việc thực hiện những
nghiệp vụ của chính bản than ngân hàng. Các thành viên của hội đồng quản trị
mà trực tiếp là giám đốc chưa thực sự quan tâm đến ngân hàng mình và gần như
giao phó hết cho chủ tịch HĐQT, ban điều hành giải quyết công việc. Kiểm soát
viên tại nhiều ngân hàng chưa thực hiện đày đủ vai trò giám sát và cảnh báo các
nguy cơ mất khả năng an toàn của ngân hàng.
Bản thân một số lãnh đạo do trình độ năng lực còn hạn chế nên không biết
cách quản lí, điều hành doanh nghiệp mình, giao việc cho cấp dưới thường giao
một chiều, không hướng dẫn, động viên nhân viên… Ngoài ra, nhiều nhà lãnh
đạo không dự kiếnđược khó khăn, trở ngại, những biến động của môi trường
kinh doanh và không có những kế hoạch dự phòng, không đánh giá được chính
xác con số nơ xấu của ngân hàng mình là bao nhiêu, có tâm lí sợ thay đổi, do vậy
dẫn đến trường hợp các ngân hàng hoạt động theo lối mòn, không phát triển được
sản phẩm, dịch vụ và quy mô ngân hàng.
Về nguồn nhân lực, một mặt hiểu biết và kỹ năng thực hiện chuyên môn
của nhiều cán bộ còn chưa theo kịp và chưa đáp ứng đòi hỏi của hoạt động ngân
hàng trong điều kiện cạnh tranh và hội nhập. Mặt khác một số cán bộ tuy được
đào tạo cơ bản nhưng lại chưa được bố trí và sử dụng hợp lí gây lãng phí là hiệu
quả sử dụng cán bộ không cao.

Như vậy, khi thị trường tài chính có những biến động thì những ngân hàng
yếu kém không thể đứng vững được sẽ buộc phải sáp nhập đồng thời nguy cơ
chảy máu chất xám mất đi những cán bộ giỏi là điều không thể tránh khỏi.
3.3. Thanh khoản yếu kém cùng với tình hình nợ xấu cao
Trong nghiệp vụ ngân hàng, khả năng thanh khoản đủ có nghĩa là khả năng
của ngân hàng có thể đáp ứng được các yêu cầu rút tiền bất cứ khi nào của người
gửi hoặc là khả năng cung ứng được tất cả các khoản vay tín dụng hay vay tiền
mặt cho người đi vay.
Năm 2011, chính sách tiền tệ chặt chẽ để kiềm chế lạm phát của NHNN đã
khiến cho vấn đề thanh khoản của các ngân hàng “nóng” hầu hết năm và trở nên
khá căng thẳng. Để giúp đỡ các NHTM, NHNN đã phải bơm ra một tiền không
nhỏ qua OMO. Ngay trong phiên giao dịch sáng 9/1/2012, NHNN đã bơm ra thị
trường 15.000 tỷ đồng, cao nhất kể từ ngày 1/6/2011, đồng thời, tăng thời gian
cho vay trên thị trường mở (OMO) từ 14 ngày lên 21 ngày.
Tính chung trong gần 10 ngày đầu tháng 1/2012, NHNN đã bơm ròng
khoảng 26.000 tỷ đồng qua OMO và xấp xỉ 60.000 tỷ đồng trong cả tháng
1/2012. Chưa hết, một số NHTMCP nhỏ đã phải cầu viện sự trợ giúp của NHNN
qua tái cấp vốn. Mặc dù vậy, căng thẳng thanh khoản vẫn chưa hết mà tiếp tục
kéo dài sang những ngày sau Tết Nguyên Đán (10/2).
Những ngày đầu năm mới Nhâm Thìn, thị trường đã chứng kiến sự cạnh
tranh gay gắt của các NHTM trong việc huy động vốn. Thậm chí đã có nghi ngờ
về việc tái xuất hiện tượng lách trần lãi suất huy động 14%. Hiện một số ngân
hàng đang nắm giữ một lượng vàng lớn đã kiến nghị cho phép họ được xuất khẩu
vàng tài khoản để tăng thanh khoản. Như thế, chỉ cần bán 1% trong số đó qua tài
khoản là thu được khoảng 5-7 tỷ USD, giải quyết tương đối nhu cầu thanh khoản
cho họ một cách cấp bách.
Nếu tình hình này kéo dài sẽ là trở ngại không nhỏ cho lộ trình hạ lãi suất
của NHNN theo chỉ đạo của chính phủ. Chẳng thế mà, mặc dù những tháng đầu
năm, tốc độ tăng CPI ở mức khá thấp, ngay cả tháng Tết, CPI cũng chỉ tăng xấp
xỉ 1%. Thế nhưng vẫn chưa thấy tín hiệu gì của việc hạ lãi suất. Thống đốc

NHNN Nguyễn Văn Bình cũng nhìn nhận, mặc dù lạm phát đã giảm tốc độ khá
mạnh, song muốn giảm lãi suất, cần phải giải quyết được vấn đề thanh khoản của
các NHTM.
Theo Nghị quyết của Quốc hội cũng như chủ trương chung của Chính phủ
và NHNN, chính sách tiền tệ năm 2012 sẽ tiếp tục được định hướng chặt chẽ
nhưng sẽ giảm dần lãi suất để tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp. Do đó, khi
lạm phát các tháng gần đây đang có xu hướng giảm, mức trần lãi suất đã giảm.
Đây sẽ là một trong những quan trọng khiến các ngân hàng tiếp tục gặp khó
khăn trong việc thu hút tiền gửi. Thêm vào đó, chính sách tiền tệ thận trọng cũng
khiến nguồn cung tiền ra thị trường hạn chế, ảnh hưởng không nhỏ đến thanh
khoản của các ngân hàng.
Nợ xấu và xử lí nợ xấu sẽ tiếp tục là vấn đề nóng trong năm 2012 khi tỷ lệ
nợ xấu thực tế được cho là lớn hơn nhiều so với mức trên 3% tổng dư nợ mà
NHNN công bố cuối tháng 8/2011. Bên cạnh đó, từ ngày 1/4/2012, NHNN sẽ
chính thức công bố đều đặn 5/12 chỉ tiêu an toàn hoạt động của hệ thống ngân
hàng gồm CAR, ROA, ROE, tỷ lệ nợ xấu và tỷ lệ dư nợ trong từng lĩnh vực.
Theo đó, việc chính thức công khai tỷ lệ nợ xấucủa toàn hệ thống có thể có ảnh
hưởng nhất định đến niềm tin của người dân vào tính an toàn của hệ thống ngân
hàng. Hiện tại, ngoài các khoản trích lập dự phòng có sẵn tại các ngân hàng, vấn
đề xử lý nợ xấu vẫn chưa có lờ giải cụ thể và sẽ là nhân tố quan trọng ảnh hưởng
đến quá trình tái cơ cấu hệ thống ngân hàng hiện nay và tương lai của các ngân
hàng trong những năm tới.
3.4. Áp lực tăng vốn
Ngày 22/11/2006 chính phủ ban hành nghị định 141/2006/NĐ-CP, và sau
này sửa đổi thành nghị định số 10/2011/NĐ-CP về việc bắt buộc các ngân hàng
tăng vốn điều lệ từ mức 1.000 tỷ đồng đến năm 2008 và nâng lên 3.000 tỷ đồng
đến năm 2011. Cho đến cuối năm 2001, mức vốn pháp định đối với ngân hàng
TMCP nông thôn chỉ là 5 tỷ đồng, ngân hàng TMCP đô thị là 50-70 tỷ đồng theo
Nghị định số 82/1998NĐ-CP ngày 03-10-1998. Đến cuối năm 2008, mức vốn
pháp định đối với các ngân hàng TMCP (TMCP không còn phân thành 2 loại

nông thôn và thành thị) là 1.000 tỷ đồng và cuối năm 2010 là 3.000 tỷ đồng. Như
vậy là chỉ trong vòng 9 năm, các ngân hàng phải tăng vốn điều lệ đột biến lên
gấp 50-600 lần. Đây là một gánh nặng quá sức tưởng tượng đối với phần lớn các
ngân hàng. Gần 10 ngân hàng đã phải gắng gượng mới vựợt qua chướng ngại vật
1.000 tỷ đồng vào cuối năm 2008. Đến nay, 20 ngân hàng, chiếm quá một nửa
tổng số ngân hàng cổ phần, chưa về đích, trong đó 9 ngân hàng mới chỉ đạt 1/3
chặng đường. Như vậy chỉ trong nửa năm nữa, các ngân hàng các ngân hàng này
buộc phải tăng vốn lên 300%.
Trong lúc nhiều ngân hàng đang khó nhọc bước tới cái mốc 3.000 tỷ đồng
thì Thống đốc ngân hàng nhà nước lại cảnh báo: sẽ tăng vốn pháp định lên 5.000
tỷ đồng vào năm 2012 và 10.000 vào năm 2015. Yêu cầu tăng vốn quá nhanh
đồng nghĩa với sức ép mở rộng quy mô, tăng nhanh dư nợ tín dụng, tăng trưởng
nóng. Điều này đã, đang và sẽ tất yếu dẫn đến rủi ro phát triển nóng, là một trong
những rủi ro nguy hiểm nhất trong hoạt động ngân hàng. Ngân hàng nhà nước
liên tiếp phát đi thông điệp không nhân nhượng với các ngân hàng không tăng đủ
vốn pháp định.
Tăng vốn là việc bán thêm cổ phần cho cổ đông hiện hữu và cổ đông mới
với giá thấp nhất là bằng mệnh giá. Việc tăng vốn chỉ hợp lí khi đạt được lợi
nhuận khi đạt được lợi nhuận kỳ vọng không thấp hơn tiền gửi ngân hàng. Tuy
nhiên, lợi nhuận của không ít ngân hàng chỉ đạt dưới 10% và cổ tức thì còn thấp
hơn nhiều, giá cổ phiếu của ngành ngân hàng đã bị tụt giảm một cách thảm hại,
thậm chí là dưới mệnh giá và tính thanh khoản rất thấp (mà nguyên nhân chính là
do tăng vốn quá nhanh). Do đó bài toán tăng vốn là vô cùng nan giải, đặc biệt là
khối lượng cổ phần mới quá lớn, đến mức bội thực. Chính vì vậy nhiều ngân
hàng đã sáp nhập với nhau để giải quyết bài toán trên.
3.5. Thách thức bởi sự tham gia của các ngân hàng nước ngoài
Khi Việt Nam tham gia vào WTO thì việc phải mở cửa cho các ngân hàng
nước ngoài vào và áp dụng quy chế đối xử quốc gia với các ngân hàng nước
ngoài là không thể tránh khỏi. Trong điều kiện hiện nay, đây sẽ là một thách thức
lớn cho các ngân hàng thương mại Việt Nam khi phải cạnh tranh với các ngân

hàng nước ngoài.
 Trước hết, năng lực quản lí kinh doanh của các ngân hàng nước ngoài là rất cao,
họ có một bề dày kinh nghiệm trong lĩnh vực kinh doanh ngân hàng. Hơn nữa, họ
lại được đào tạo bài bản về nghiệp vụ kinh doanh, quản trị điều hành trong nền
kinh tế thị trường.
 Các chi nhánh ngân hàng nước ngoài được trang bị công nghệ ngân hàng hiện đại
qua đó giúp họ tạo được những kênh phân phối hiện đại như sử dụng E-banking
…và các công nghệ khác.
 Ngoài ra, các ngân hàng nước ngoài có nhiều lợi thế hơn các NHTM trong nước
trong việc sử dụng, mở rộng các sản phẩm dịch vụ ngân hàng. Họ hiểu biết đầy
đủ hơn các sản phẩm phái sinh như: hợp đồng kì hạn, quyền ựa chọn, hợp đồng
tương lai… Do vậy, việc đưa các sản phẩm này vào hoạt động sẽ thuận lợi hơn
các ngân hàng trong nước.
 Năng lực tài chính của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài là mạnh hơn các
NHTM trong nước: Tỷ lệ vốn điều lệ/tổng tài sản có của các chi nhánh ngân
hàng nước ngoài là 20% trong khi đó NHTM trong nước là 10%.
 Mức độ rủi ro trong hoạt động của các NHTM trong nước lớn hơn rất nhiều so
với các chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Trước hết là khả năng sinh lời rất thấp
và có xu hướng giảm, sự mất cân đối về các loại tiền tệ do tình trạng đôla hoá
nền kinh tế.
IV. Các vụ sáp nhập điển hình tại Việt Nam
1. Sát nhập ba ngân hàng “thương mại Cổ phần Đệ Nhất (Ficombank), Ngân
hàng Thương mại Cổ phần Sài Gòn (SCB) và Ngân hàng Thương mại Cổ
phần Việt Nam Tín Nghĩa (TinNghiaBank).
a. Sơ lược về ba ngân hàng:
• Các chỉ tiêu tài chính cơ bản của 3 ngân hàng:
Tín Nghĩa Sài Gòn Đệ nhất
9T/
2011
201

0
9T/
2011
2010
9T/
2011
20
10
Vốn điều lệ
3.3
99
3.3
99
4.18
5
4.18
5
3.0
00
3.0
00
Tổng tài sản
58.
940
46.
414
78.0
14
60.1
83

17.
100
7.6
49
Lợi nhuận
trước thuế
579 378 530 544 219
14
1
Lợi nhuận sau
thuế
432 284 401 405
Tiền gửi khách
hàng
35.
029
25.
546
40.9
00
35.1
21
8.8
00 (*)
5.3
60(*)
NGUỒN: BÁO CÁO TÀI CHÍNH QUÝ 3/2011
(*): Vốn huy động từ các tổ chức kinh tế và dân cư
Đơn vị: tỷ đồng
b. Quá trình của sự sáp nhập của ba ngân hàng:

 Lý do sáp nhập:
3 ngân hàng này thời gian qua gặp khó khăn về thanh khoản chủ yếu do
dùng nhiều vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn. Khi nguồn vốn ngắn hạn không
còn dồi dào, 3 ngân hàng này đã mất khả năng thanh toán tạm thời.
 Diễn biến quá trình:
Ngày 6/12, Ngân hàng Nhà nước chính thức phát đi thông điệp sáp nhập 3
ngân hàng có trụ sở chính tại Tp.HCM, gồm: Ngân hàng Thương mại Cổ phần
Sài Gòn (SCB), Ngân hàng Thương mại Cổ phần Việt Nam Tín Nghĩa
(TinNghiaBank), Ngân hàng Thương mại Cổ phần Đệ Nhất (Ficombank).
Ngân hàng Nhà nước BIDV đã hỗ trợ thanh khoản cho cả 3 ngân hàng
này, nên tình hình ổn hơn. 3 ngân hàng này đã họp và đi đến quyết định tự
nguyện hợp nhất, để phát huy thế mạnh của nhau, hỗ trợ cho nhau, đồng thời tiết
giảm chi phí vận hành nhằm tạo ra một ngân hàng mới vững mạnh hơn, với khả
năng tiếp cận thị trường lớn hơn, mạng lưới rộng hơn".
“Quyền lợi của người gửi tiền hợp pháp được đảm bảo, bởi thời gian qua
Ngân hàng Nhà nước đã hỗ trợ thanh khoản cho 3 ngân hàng này và sau hợp nhất
ngân hàng này có sự tham gia của Nhà nước”.
 Tình hình sau sát nhập
• Cơ cấu sở hữu của ngân hàng sau hợp nhất chiếm áp đảo là các cá nhân trong
nước với 85,17% (gồm 3.679 cổ đông); cổ đông là tổ chức trong nước sở hữu
14,41% và 0,41% còn lại là cổ phiếu quỹ.
• Theo phương án đưa ra trong đề án, các bên thống nhất tỷ lệ hoán đổi cổ phiếu
phổ thông của ba ngân hàng trên là 1:1 (mỗi cổ phiếu phổ thông của một ngân
hàng sẽ được hoán đổi thành một cổ phiếu của SCB “mới” theo nguyên tắc
ngang bằng mệnh giá). Và trong mọi trường hợp không áp dụng chuyển đổi
thành tiền.
• Về hoạt động, sau khi hợp nhất, theo đề án, ngân hàng mới sẽ áp dụng hệ thống
kiểm tra, kiểm soát và kiểm toán nội bộ của SCB cho SCB “mới”; hợp nhất hệ
thống thông tin quản lý và hệ thống truyền dữ liệu SmartBank tiến tới sang hệ
thống Corebanking T24 hoặc Flexcube tùy tình hình thực tế. Ngay sau thời điểm

việc hợp nhất có hiệu lực, toàn bộ các lao động có ký hợp đồng lao động với ba
ngân hàng trước đó sẽ trở thành lao động của SCB “mới”.
• Về kế hoạch kinh doanh, SCB “mới” dự kiến lợi nhuận sau thuế trong năm 2012
là 667 tỷ đồng (đến 30/9/2011 là 723 tỷ đồng), năm 2013 là 1.185 tỷ đồng và
năm 2014 là 1.865 tỷ đồng.
• Đáng chú ý là mục tiêu của SCB “mới” là đến 2014 sẽ có vốn điều lệ xấp xỉ
16.000 tỷ đồng, trong đó cổ đông mới chiếm khoảng 6.000 tỷ vốn điều lệ (tương
đương tỷ lệ sở hữu khoảng 37,5%).
c. Kết quả
- Tên chung: Ngân Hàng TMCP Sài Gòn Công Thương
- Tên giao dịch quốc tế: SAIGON BANK FOR INDUSTRY AND TRADE
- Tên gọi tắt: SAIGONBANK
- Trụ sở: 927 Trần Hưng Đạo, Phường 1, Quận 5, Tp.HCM
- Điện thoại: (08) 39 230 666 - Fax: (08) 39 225 888
- TELEX: 811558 SCB VT - SWIFT: SACLVNVX
- - Email:
- Vốn điều lệ: Kể từ ngày 1/1/2012, vốn điều lệ của Ngân hàng Thương Mại Cổ
Phần Sài Gòn (hợp nhất) là 10.584.000.000.000 đồng (mười ngàn năm trăm tám
mươi bốn tỷ đồng).
- Hoạt động gần đây:
Ngày 10.05.2012, Ngân hàng TMCP Sài Gòn Công Thương đã kết nối với
tất cả hệ thống POS trên toàn quốc.
Tính đến 30/06/2012, Ngân Hàng TMCP Sài Gòn Công Thương có quan
hệ đại lý với 657 ngân hàng và chi nhánh tại 75 quốc gia và vùng lãnh thổ trên
khắp thế giới. Hiện nay SAIGONBANK là đại lý thanh toán thẻ Visa, Master
Card, JCB, CUP… và là đại lý chuyển tiền kiều hối Moneygram.
2. HSB (Ngân hàng TMCP Sài Gòn- Hà Nội) sẽ mua lại Habubank (Ngân hàng
TMCP Nhà Hà Nội).
a. Sơ lược về 2 ngân hàng:
Ngân hàng HSB( Ngân hàng TMCP Sài Gòn):

- Tên TCTD: Ngân hàng TMCP Sài Gòn – Hà Nội
- Tên viết tắt: SHB
- Giấy phép thành lập: 0041-NH/GP do NHNN cấp ngày 13/11/1993
- Trụ sở chính: 77 Trần Hưng Đạo, Hoàn Kiếm, Hà Nội
- Điện thoại: (04) 39423388
- FAX: (04) 39410944
- Website: www.shb.com.vn.
- Vốn điều lệ: 4.815.795.470.000 đồng.
- Lĩnh vực kinh doanh: Được hoạt động kinh doanh đầy đủ hoạt động kinh
doanh ngân hàng theo Luật các TCTD do NHNN cấp phép.
- Mạng lưới: 1 Hội sở chính, 1 sở giao dịch, 26 chi nhánh, 115 phòng giao
dịch dịch và 10 quỹ tiết kiệm.
- Công ty con: C/ty quản lý tài sản AMC – Ngân hàng TMCP Sài Gòn –
Hà Nội do Ngân hàng sở hữu 100% vốn điều lệ
Ngân hàng (HBB) HABUBANK( (Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội):
- Tên TCTD: Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội
- Tên viết tắt: HBB
- Giấy phép thành lập: 00020/NH-GP do NHNN cấp ngày 06/06/1992
- Trụ sở chính: 15-17 Ngọc Khánh, Ba Đình, Hà Nội
- Điện thoại: (04) 38460135
- FAX: (04) 38235693
- Website: www.habubank.com.vn
- Vốn điều lệ: 4.050.000.000.000 đồng
- Lĩnh vực kinh doanh: Được hoạt động kinh doanh đầy đủ hoạt động kinh doanh
ngân hàng theo Luật các TCTD do NHNN cấp phép.
- Mạng lưới: 1 Hội sở chính, 1 sở giao dịch, 19 chi nhánh, 50 phòng giao dịch dịch
và 10 quỹ tiết kiệm
- Công ty con: C/ty cổ phần chứng khoán Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội do Ngân
hàng sở hữu cổ phần chi phối.
b. Nguyên nhân dẫn đến sự sáp nhập của hai ngân hàng:

Theo HBB, một trong những lý do dẫn tới sự cần thiết đối với việc xây
dựng phương án sáp nhập là các khoản vay từ nhóm khách hàng Vinashin đã ảnh
hưởng lớn đến hiệu quả kinh doanh ngân hàng, nhất là với chi phí vốn ngày càng
cao, kết quả là tài chính và chất lượng tài sản có từ năm 2011 đến nay bị suy
giảm rất nhiều.
c. Dự kiến nhân sự, mạng lưới của ngân hàng sau khi sáp nhập:
Thống kê các đơn vị trong quá trình chuyển đổi
Loại hình tổ chức Số lượng trước khi sáp nhập Ngân hàng sau
sáp nhập
SHB HBB
Hội sở chính 1 1 1
Sở giao dịch 0 1 0
Chí nhánh 26 19 47
Phòng
giaodịch(bao gồm cả
ATM)
19 58 77
Quỹ tiết kiệm 0 10 10
Tổng cộng 161 139 300
Công ty con 1 1 2
Cơ cấu nhân sự dự kiến của NHSN ngay khi sáp nhập
Cấp nhân sự Số lượng trước khi sáp nhập Sau sáp nhập
SHB HBB
HĐQT 6 6 7
BKS 6 3 5
BĐH 7 6 10
CBNV 2.840 1.846 4.686
d. Kết quả:
Thông tin về Ngân hàng sau sáp nhập:
- Tên bằng tiếng Việt : Ngân hàng TMCP Sài Gòn - Hà Nội

- Tên bằng tiếng Anh : Sai Gon Ha Noi Joint Stock Commercial Bank
- Tên viết tắt : SHB
- Trụ sở chính : 77 Trần Hưng Đạo, Hoàn Kiếm, Hà Nội
- Website : www.shb.com.vn
- Vốn điều lệ : 8.865.795.470.000 đồng
- Tổng số cổ phần lưu hành : 886.579.547cổ phần
- Mệnh giá : 10.000đ / cổ phần
- Lĩnh vực kinh doanh : SHB sẽ kế thừa và thực hiện tất cả những hoạt động kinh
doanh hiện tại của HBB - những hoạt động mà một ngân hàng thương mại được
phép thực hiện theo các quy định của Luật các tổ chức tín dụng 2010.
- Các chủ sở hữu cổ phiếu của Habubank sau khi sáp nhập vào SHB sẽ được hoán
đổi cổ phiếu theo tỷ lệ 1 cổ phần Habubank bằng 0,75 cổ phần SHB. Tổng số cổ
phần mà cổ đông Habubank nhận khi hoán đổi sẽ được làm tròn theo nguyên tắc
làm tròn xuống số nguyên gần nhất.
- Mạng lưới kinh doanh khắp cả nước trở thành 1/10 ngân hàng thương mại lớn
nhất Việt Nam về quy mô vốn và thị phần.
- Ngân hàng mới sẽ có các công ty con gồm Công ty chứng khoán và Công ty
quản lý tài sản của Ngân hàng, địa bàn hoạt động trong khu vực Đông Dương với
các chi nhánh tại Lào và Campuchia…
- Sau sáp nhập, SHB trở thành 1 trong 10 ngân hàng thương mại lớn nhất Việt
Nam về quy mô vốn và tổng tài sản.
- Tại thời điểm sáp nhập SHB lọt vào danh sách 8 ngân hàng thương mại cổ phần
(không bao gồm các ngân hàng thương mại có vốn nhà nước chi phối) có tổng tài
sản lớn nhất hệ thống ngân hàng thương mại, với số vốn hơn 8.860 tỷ đồng.
Doanh số huy động của SHB đạt 112.487 tỷ đồng; SHB có 242 đơn vị kinh
doanh trên toàn hệ thống với hơn 4.500 cán bộ nhân viên. Theo số liệu của VSD,
tại thời điểm hoán đổi cổ phiếu, SHB có trên 33 nghìn cổ đông, trở thành một
trong những công ty có mức độ đại chúng cao nhất trên thị trường chứng khoán
Việt Nam
- Hoạt động gần đây:

Các chỉ tiêu an toàn và chỉ số về hoạt động dự kiến trong 3 năm tới:
Đơn vị: triệu đồng
Chỉ tiêu 2012 2013 2014
1. Quy mô vốn
- VLĐ 8.865.795 8.865.795 8.865.795
- Tổng TS có 123.724.405 149.255.04
4
180.532.877
- Tỷ lệ an toàn vốn 13,22% 10,44% 10,78%
2. Kết quả HĐKD
- Nguồn vốn huy
động
84.037.295 104.630.10
5
130.487.742
- Dư nợ cho vay 51.029.194 63.100.156 78.188.858
3. Hệ số sử dụng vốn
ROE 14,90% 18,55% 19,91%
ROA 1,16% 1,21% 1,14%
-Tỷ lệ NQH 10,00% 6,00% 6,00%
- Tỷ lệ nợ xấu 3,2% 2,4% 2,4%
4. Khả năng thanh khoản
- Khả năng thanh
toán ngay
0,6% 0,5% 0,5%
- Khả năng thanh
toán chung
11,83% 11,68% 11,53%
3. Một số ngân hàng có dựu định sáp nhập khác:
- Eximbank thâu tóm Sacombank

- Đông Á
- PVFC đàm phán sáp nhập với WesternBank
- ĐẠI Á bank và HDBank
I. Ưu nhược điểm, bài học từ việc sáp nhập các ngân hàng.
1. Ưu điểm.
● Sáp nhập sẽ giúp tăng sức mạnh cho hệ thống ngân hàng.
- Sau hợp nhất của các ngân hàng Sài Gòn, Đệ Nhất và Tín Nghĩa thành
Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn (SCB), ngân hàng HBB vào SHB. Từ
các thương vụ này, nhìn rộng ra toàn hệ thống ngân hàng của Việt Nam có thể
khẳng định, hành động sáp nhập ngân hàng để từng bước tạo ra một hệ thống
ngân hàng vững mạnh hơn, trong đó các thành viên đều có sức cạnh tranh thực
sự và phát triển bền vững.
- Vốn điều lệ của ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn là hơn 10.580 tỷ
đồng. Ngân hàng SHB là gần 9000 tỷ, trở thành 1/10 ngân hàng thương mại cổ
phần lớn nhất Việt Nam.
● Sau khi chính thức đi vào hoạt động, đến nay SCB đã và đang được dư
luận và cả những người trong cuộc đánh giá hiệu quả hoạt động tốt hơn, ổn định
hơn, tâm lý khách hàng yên tâm hơn trước những nguy cơ tiềm ẩn của không ít
tổ chức tín dụng.
● Việc HBB sáp nhập vào SHB là một lựa chọn tối ưu để bảo vệ quyền lợi
của các cổ đông nói riêng và các nhà đầu tư nói chung tại HBB, phù hợp với mục
tiêu cơ cấu lại hệ thống tổ chức tín dụng của Chính phủ và NHNN.
● Việc sáp nhập ngân hàng yếu kém vào ngân hàng khác có năng lực hơn
là hướng đi đúng trong bối cảnh khó khăn chung của nền kinh tế. Nó không chỉ
là sự thống nhất đầu mối để giảm phân tán, nhỏ lẻ gây khó cho quản lý, giám sát,
tăng sức mạnh cho dòng vốn; mà còn tăng trách nhiệm của các ngân hàng với
nền kinh tế.
● Và trong bối cảnh khó khăn chung hiện nay, ngoài việc từng ngân hàng
phải tìm cách tăng sức cạnh tranh nội bộ, cùng gánh đỡ khó khăn cho nền kinh tế
nước nhà, thì họ còn phải chịu áp lực cạnh tranh với các dòng vốn từ các ngân

hàng ngoại quốc. Như vậy, việc sáp nhập các ngân hàng sẽ tăng thêm sức mạnh.
2. Nhược điểm.
● Việc sáp nhập các ngân hàng sẽ gây ảnh hưởng đến một số doanh nghiệp.
- Doanh nghiệp lo sợ sẽ có những thay đổi trong chính sách thanh toán nợ
vay theo hướng bất lợi cho họ. Lúc này, khi thay đổi người chủ sỡ hữu thì hợp
đồng vay vốn cũ sẽ được tất toán và thay bằng một hợp đồng vay vốn mới và
những nghĩa vụ mới mà doanh nghiệp phải thực hiện.
- Lãi suất cho vay có thể tăng lên do việc tăng thêm chi phí hoạt động, điều
hành hệ thống mới, điều này làm ảnh hưởng không nhỏ đến vấn đề trả nợ của
khách hàng và đây cũng là điều họ quan tâm và lo lắng nhất.
- Hạn mức tín dụng có thể thay đổi tình trạng thiếu vốn có thể xảy ra và
hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có thể bị gián đoạn tạm thời.
● Một ngân hàng yếu kém hợp nhất với một ngân hàng yếu kém thì cũng
không thể nào giải quyết được tình trạng đói vốn và cải hiện tính thanh khoản.
Bên cạnh đó, hiện nay vấn đề vay vốn cũng không phải là điều dễ dàng đối với
doanh nghiệp, liệu sau khi sáp nhập, hợp nhất có đảm bảo rằng nguồn vốn sẽ dồi
dào để đảm bảo đáp ứng kịp thời cho hoạt động của doanh nghiệp hay họ sẽ
không vay được vốn và những hoạt động khác liên quan đến hoạt động vay vốn
cũng sẽ bị gián đoạn.
3. Bài học.
● Đối với nhà nước.
- Ban hành các chính sách khuyến khích các ngân hàng chủ động hợp nhất,
sáp nhập thông qua các công cụ như ưu đãi về thuế, hỗ trợ tái cơ cấu vốn thông
qua thị trường liên ngân hàng, giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Đồng thời bổ sung
những quy định trong Luật cạnh tranh để bảo đảm môi trường cạnh tranh công
bằng.
● Đối với các ngân hàng.
- Việc sáp nhập, hợp nhất, mua bán lại ngân hàng thương mại là con đường
tất yếu trong lộ trình phát triển ngân hàng Việt Nam hiện tại và tương lai. Vì vậy,
Ngân hàng Nhà nước cũng như bản thân mỗi ngân hàng thương mại cần có sự

nhìn nhận đúng đắn về vấn đề này để có lộ trình và bước đi phù hợp nhằm mang
lại lợi ích cao nhất cho toàn hệ thống và bản thân mỗi ngân hàng.
- Cần đánh giá đúng thực lực của mình, nhìn nhận một cách toàn diện các
cơ hội và thách thức, hoạch định cho mình một hướng đi phù hợp để có khả năng
cạnh tranh bình đẳng ở môi trường hội nhập kinh tế toàn cầu trong tương lai.
- Xây dựng định hướng phát triển bền vững, chú trọng đến tất cả mọi mặt
hoạt động cụ thể là đối với hoạt động tín dụng . Các NHTM không nên phát triển
chủ yếu theo số lượng mà cần phải quan tâm đến vấn đề chất lượng , lấy khách
hàng làm trọng tâm.
- Tập trung xây dựng mô hình tổ chức hoạt động theo các chuẩn mực quốc
tế, đa dạng hóa sản phẩm dịch vụ tiện ích dựa trên nền tảng công nghệ hiện đại,
xây dựng mô hình giao dịch thân thiện, phục vụ trọn gói các nhu cầu giao dịch
NH nhanh chóng, hiệu quả.
KẾT LUÂN
Việc sáp nhập, hợp nhất, mua bán lại ngân hàng thương mại là con đường
tất yếu trong lộ trình phát triển ngân hàng Việt Nam hiện tại và tương lai. Như
vậy, hệ thống ngân hàng Việt Nam đã “vượt qua” cuộc khủng hoảng tài chính
toàn cầu mà không có một ngân hàng nào bị phá sản, sáp nhập, hợp nhất hay giải
thể, trong khi tại Mỹ có tới hàng trăm ngân hàng bị phá sản, trong đó có sự sụp
đổ của Lehman Brothers - một đại gia trong giới ngân hàng Mỹ. Tuy nhiên,
những bất ổn của hệ thống ngân hàng Việt Nam đang bộc lộ ngày càng rõ. Biểu
hiện rõ nhất là những diễn biến bất thường trên thị trường tiền tệ, ngân hàng với
sự vi phạm nghiêm trọng, có tính hệ thống đối với việc vượt trần lãi suất huy
động, “lách” trần tín dụng, bản chất của hoạt động tiền tệ, ngân hàng bị làm sai
lệch, méo mó, khó kiểm soát, các vụ lừa đảo, chiếm đoạt tiền với sự tham gia của
các cán bộ ngân hàng ngày càng gia tăng… Nguyên nhân sâu xa của tình trạng
này xuất phát từ những yếu kém về năng lực tài chính, khả năng cạnh tranh, năng
lực quản trị, điều hành của một số ngân hàng thương mại yếu kém và sự sa sút về
đạo đức nghề nghiệp của một bộ phận cán bộ ngân hàng. Sự yếu kém này đã
khiến cho một số ngân hàng nỗ lực duy trì sự tồn tại bằng mọi giá thông qua việc

áp dụng nhiều hình thức cạnh tranh thiếu lành mạnh, tạo phản ứng lan truyền
trong toàn hệ thống và ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát triển lành mạnh, bền
vững của hệ thống ngân hàng.
Bằng những hành động mạnh mẽ, quyết liệt, như: kỷ luật nghiêm các tổ
chức, cá nhân vi phạm trần lãi suất tiền gửi; điều chỉnh một loạt các chính sách
cho phù hợp với diễn biến mới và hạn chế tối đa những hành động “lách”, “vượt”
quy định của các tổ chức tín dụng; phối hợp với các cơ quan chức năng phát
hiện, xử lý những vụ việc vi phạm trong ngành Ngân hàng… Ngân hàng Nhà
nước đang dần lập lại trật tự và trả lại đúng bản chất hoạt động của thị trường
tiền tệ, ngân hàng
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ HUẾ

TÀI CHÍNH TIỀN TỆ
Đề tài nhóm:
TÌM HIỂU VỀ SỰ SÁP NHẬP CỦA CÁC
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
Danh sách nhóm:
1. Trần Thị Thanh Hoá
2. Trần Thị Mộng Thành
3. Hồ Thị Diệu Thảo
4. Hồ Thị Uyên
5. Trần Triệu Vân
6. Phan Thị Mỹ Giang
A. Lời mở đầu
B. Nội dung
I. Bối cảnh các ngân hàng ở nước ta hiện nay
II. Sáp nhập – quan điểm và cách tiến hành
II.1 Về quan điểm
II.2Về cách thức tiến hành
II.2.1 Đối với các ngân hàng hoạt động yếu kém

II.2.2 Đối với các ngân hàng mạnh
III. Nguyên nhân
III.1 Bùng nổ về số lựợng
III.2 Sự yếu kém trong cơ chế quản trị, điều hành và nguồn nhân lực
III.3 Thanh khoản yếu kém cùng với tình hình nợ xấu cao
III.4 Áp lực tăng vốn
III.5 Thách thức bởi sự tham gia của các ngân hàng nước ngoài
IV. Các vụ sáp nhập điển hình
IV.1 Sát nhập ba ngân hàng “thương mại Cổ phần Đệ Nhất
(Ficombank), Ngân hàng Thương mại Cổ phần Sài Gòn (SCB) và Ngân hàng
Thương mại Cổ phần Việt Nam Tín Nghĩa (TinNghiaBank).
IV.2 HSB (Ngân hàng TMCP Sài Gòn- Hà Nội) sẽ mua lại Habubank
(Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội).
IV.3 Một số ngân hàng có dựu định sáp nhập khác
V. Ưu, nhược điểm và bài học rút ra
V.1 Ưu điểm
V.2 Nhược điểm
V.3 Bài học rút ra

×