Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Ôn thi môn Giáo Dục học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (159.41 KB, 17 trang )

Câu 3: Nội dung của những phẩm chất đạo đức cần giáo dục cho người được
giáo dục:
1. Định nghĩa
Giáo dục, đào tạo đều là những từ ngữ nhằm vào việc làm tăng triển, mở rộng và
nâng cao toàn bộ đời sống con người về thể chất, tri thức và tâm linh.
Giáo dục là “nhằm truyền thụ những tri thức và kinh nghiệm, rèn luyện kỹ năng
và lối sống, bồi dưỡng tư tưởng và đạo đức cần thiết cho đối tượng, giúp hình thành
và phát triển năng lực, phẩm chất, nhân cách phù hợp với mục đích, mục tiêu chuẩn
bị cho đối tượng tham gia lao động sản xuất và đời sống xã hội ”.
Đào tạo là “quá trình chuyển giao có hệ thống, có phương pháp về những kinh
nghiệm, những tri thức, những kỹ năng đồng thời bồi dưỡng những phẩm chất đạo
đức cần thiết và chuẩn bị tâm thế cho người học đi vào cuộc sống lao động tự lập,
góp phần xây dựng và bảo vệ đất nước Ngày nay, đào tạo đang dần tiến tới hợp
tác song phương với người học để giúp họ chủ động, tích cực, tự giác chiếm lĩnh lấy
tri thức, tự trang bị hành trang nghề nghiệp, chuyên môn”
Mỗi định nghĩa đều liên quan và bổ túc cho nhau trong việc giáo dục, nhưng khi
xét về tính toàn diện của đời sống làm người. Điều quan trọng là cho ta thấy được
đường hướng và vai trò của giáo dục, là nhằm giúp cho từng người phát huy hết mức
khả năng thiên phú của mình, với tính cách đạo đức, nhằm góp phần lợi ích tối đa
cho xã hội loài người.
Việc giáo dục phải giúp mỗi người nhận ra sự hiện diện cao quí của con người
trong cuộc sống này. Điều làm nên không phải là những thành tích, thành tựu, hay
những công trình bên ngoài, mà chính bản thân con người mới là sự thành tựu và
công trình sáng giá nhất, nghĩa là trở thành điều mà con người phải trở thành. Từ đó
con người mới quí trọng việc giáo dục từ mọi phía, và coi đó là điều thiết yếu để làm
nên cuộc sống chân thực của mình. Chính bản thân phải trở nên một công trình riêng
biệt, độc đáo, góp phần vào đời sống nhân loại, nhưng vẫn nằm trong mối tương tác
và hòa hợp chung, không chỉ giữa con người với nhau, mà còn đồng thời với Trời,
đất, vạn vật. Chính trong tương quan bao hàm đó mà người ta thấy được ý nghĩa sâu
xa của đời mình một cách thực tiễn và thiêng liêng. Nhờ đó, việc giáo dục giúp con
người đáp ứng cũng như hoàn thành một định hướng đúng về chính mình. Đó cũng


chính là sứ mệnh cao cả của mỗi con người được sinh ra trong cuộc sống này.
Nhờ giáo dục, con người hấp thụ những tinh hoa của nhân loại cho bản thân
mình, và rồi tiếp tục sáng tạo làm thăng tiến bản thân, nhờ khả năng suy luận, phân
tích và tổng hợp, dựa trên nền tảng của những điều mình đã tiếp thu, đã rèn luyện, để
trở thành con người tiến bộ: một sự tiến bộ đúng nghĩa, toàn diện trong đời sống làm
người: thể chất – tri thức – tinh thần - tâm linh. Các yếu tố đó liên kết hỗ trợ làm một
với nhau không thể tách rời, làm thành toàn bộ thống nhất và duy nhất của đời sống
con người.
2. Con người vừa là đối tượng vừa là chủ thể của giáo dục
Đường hướng giáo dục nào cũng phải để cho những người được giáo dục có cơ hội
và điều kiện để thể hiện chính mình. Mọi hình thức áp đặt, nhồi nhét, nắn đúc, thúc ép,
rập khuôn, đều là xúc phạm và gây tai hại, làm mất đi tính cách giáo dục. Vai trò của
người giáo dục là giúp họ trở nên chính họ, chứ không trở nên giống mình. Không ai
được quyền ép buộc người khác trở nên một loại người hay một kiểu người theo một
thứ khuôn thước đã định sẵn, cho dù là cha mẹ. Chính vì thế mà R. Tagore đã xác định:
“Mục đích của giáo dục là dạy cho con người biết quan cảm cái chân lý trong sự nhất
trí hoàn toàn của nó”.
Trách nhiệm của những người giáo dục là giáo huấn, dạy dỗ, chỉ bảo, nhưng bằng
phương cách trình bày, hướng dẫn, chỉ đường, chứ không bó buộc hay quyết định
thay cho người đuợc giao dục. Điểm hay của người thầy là biết khơi dậy những khả
năng tiềm ẩn đa dạng của mỗi người, đồng thời hỗ trợ và bổ túc những điều cần thiết,
gợi ý những sáng kiến và đưa ra những phương pháp, cách thức, để mỗi người tự do
lựa chọn và điều chỉnh cho phù hợp với khả năng và tính cách của mình. Eward
Gibbon cho thấy rằng: “Mọi người đều hấp thụ được hai thứ giáo dục: một thứ do
người khác tạo ra, còn một thứ quan trọng hơn nhiều là do chính mình tự tạo cho
mình”.
Thật vậy, kết quả giáo dục, cuối cùng cũng là tùy thuộc ở người được giáo dục, là
người giữ vai trò chính yếu trong việc ý thức chủ động và tích cực rèn luyện bản thân
mình. Coi thường nguyên tắc tự đào luyện là phá ngầm tính kiên trì mai sau của
mình. Thiếu nó, việc giáo dục trở thành mảnh đất hoang, hay giống như lò ấp trứng.

Còn lò thì trứng còn tốt, ra khỏi lò chẳng biết ra sao. Việc giáo dục của gia đình hay
học đường như lò ấp trứng là một hình thức giả tạo, trong đó đương sự sống, làm
việc, học hành một cách chiếu lệ, trôi nổi theo dòng nước chảy. Một con người như
thế khi vào đời sẽ bị chìm ngập trong những biến động. Để cho mọi cái dễ dàng lôi
cuốn mình, thì mình không còn là mình nữa. Bởi vậy, “Giáo dục một người là đào
luyện họ có thể đối đầu với mọi hoàn cảnh”.
Vì thế, mọi công cuộc đào tạo hay giáo dục, cuối cùng là tự đào tạo, tự giáo dục
từ những gì mình đã được khai mở. Mỗi người là một cá vị độc nhất, hoàn toàn có tự
do và trách nhiệm về cuộc đời mình, không thể dựa dẫm hay nại vào người khác,
phải biết khai sáng cho mình một lối đi, một tâm thế, một phương cách thích hợp để
phát huy mọi tiềm lực và khả năng của mình cho một cuộc sống đầy ý nghĩa.
Mọi sự tốt đẹp đều triển nở từ đời sống tinh thần. Khi tinh thần đã trở nên nô lệ
cho vật chất thì con người bị tha hóa. Mọi sự bắt đầu từ bên trong, khi bên trong bị
manh động thì mọi cái bên ngoài trở nên hỗn loạn. Cuộc sống con người cao đẹp từ
chính đời sống tinh thần của họ, nghĩa là trong chính tâm thế và phẩm cách của họ.
Giá trị của một con người được xác định chính yếu từ đó. Mọi cái khác như tài năng,
chức vụ, chun mơn, thế giá xã hội chỉ là phụ thuộc.
Lịch sử cho thấy thế giới đầy những con người tài trí, nhưng tài trí ấy khơng nằm
trong những tâm hồn cao đẹp thì sẽ phát sinh những Hitler của thời đại mới. Bởi vậy,
giáo dục quan trọng nhất vẫn là nhằm đào luyện tâm hồn con người, là khơi lên chân
lý của sự sống đích thật đang tiềm ẩn nơi họ. Trong ý nghĩa đó Galileo đã phát biểu
mạnh mẽ rằng: “Anh khơng thể dạy một ai cái gì cả, anh chỉ có thể giúp họ tìm thấy
điều ấy ở trong họ mà thơi”.
Sự góp phần lớn lao nhất cho đời sống nhân loại khơng phải là những cơng trình
thế kỷ được xây dựng bằng bê-tơng cốt thép, hay những phát minh khoa học lớn lao,
mà chủ yếu là từ một đời sống thiện hảo của một con người. Những cơng trình tiến
bộ đều có hai mặt của nó, có nhiều khi mặt tiêu cực và tính hủy diệt còn nhiều hơn
bội phần về mặt tích cực và xây dựng. Khơng thể căn cứ vào đó mà xác định về sự
văn minh tiến bộ đích thực. Tiến bộ rất cần thiết cho đời sống con người, nhưng phải
được làm nên từ những con người thiện hảo. Phải là những con người thiện hảo mới

thực sự đem lại lợi ích chân chính, bình an và hạnh phúc cho nhân loại./.
Câu 5: Giáo dục và sự phát triển nhân cách.
Giáo dục và sự phát triển nhân cách
Cùng với sự phát triển của xã hội, con người cũng đang tự mình hướng tới sự hồn
thiện nhân cách của mình. Các mỗi quan hệ như hoạt động, giáo dục, ở gia đình, nhà
trường, xã hội là một vấn đề rất quan trọng và cần thiết, để giáo dục cho con người ta
lĩnh hội được những tri thức khoa học, để ngày một phát triển nhân cách con người
đến sự hồn mĩ. Hiện nay giáo dục đang là một vẫn đề quan trọng cấp bách của các
qc gia trên thế giới.
Ở nước ta hiện nay giáo dục là vấn đề cấp bách và đặt lên hàng đầu và được xem là
vấn đề quốc sách.Tốc độ công nghiệp phát triển cao về kinh tế, văn hoá, xã hội đang
có sự thay đổi rõ nét. Bên cạnh đó còn tồn tại các tệ nạn xã hội, như các tệ nạn tham
nhũng gây ảnh hưởng rất lớn đến chủ nhân tương lai của đất nước đó là trẻ em.
Trong giáo dục cấp trung học phổ thông,vấn đề giáo dục và phát triển nhân cách là
một vấn đề rất quan trọng, ở lứa tuổi này các em có nhiều thay đổi về mặt tâm lý và
sinh lý nên nhu cầu hoàn thiện nhân cách để thích nghi với xã hội hoá và có thái độ
tích cực hơn trong cuộc sống là cực kỳ quan trọng.
Giáo dục sự hình thành và phát triển nhân cách để tạo điều kiện và hướng cho thế
hệ trẻ các em dần dần tự hoàn thiện nhân cách.
Giáo dục sự hình thành và phát triẻn nhân cách không phải chỉ là vấn đề quan trọng
đối vơi thế hệ trẻ và ngay cả đối với người trưởng thành, những người lớn tuổi cũng
rất cấp bách và cần thiết để hình thành và phát triển nhân cách, để hoàn thiên nhân
cách con người và để mỗi con người hoàn thiện nhân cách của mình hơn.
Có thể nói sự hình thành và phát triển nhân cách là thế giới quan bên trong của
mỗi cá nhân, mỗi xã hội tiến bộ là một xã hội mà mỗi cá nhân phát triển nhân cách
của mình theo hướng tích cực, phát huy vai trò động lực, chủ thể sáng tạo của mỗi cá
nhân. Chủ nghĩa xã hội vừa khắc phục chủ nghĩa cá nhân cực đoan, vừa tạo ra những
điều kiện mới cho cá nhân phát triển và sáng tạo, tinh thần đó được đảng cộng sản
Việt Nam khẳng định trong cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội. Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm

theo năng lực hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no hạnh phúc có điều kiện phát
triển nhân cách của cá nhân.
Trong xã hội hiện đại, sự phát triển của tuổi trẻ, của học sinh không thể tách rời với
quá trình giáo dục. Đồng thời quá trình giáo dục có hiệu quả phải tác động phù hợp
với quy luật phát triển của người học trong đó quan trọng nhất là phù hợp với những
đặc điểm của quá trình hình thành, phát triển nhân cách học sinh. Các nhà giáo dục
lỗi lạc như Konicxky, Rouscan, Pestalozi đã là những người phê phán kịch liệt nền
giáo dục, đồng thời chính các ông đã đòi hỏi mục tiêu giáo dục, nội dung, phương
pháp, hình thức giáo dục phải phù hợp với đặc điểm của đối tượng giáo dục. Cũng
chính từ đó khoa học giáo dục đã bắt đầu quan tâm nghiên cứu những quy luật,
những đặc điểm phát triển của trẻ em, của học sinh coi đó là một cơ sở quan trọng
của khoa học sư phạm.
Những thành tựu ngày nay của tâm lý học nhân cách, tâm lý học lứa tuổi và sư phạm
của khoa học giáo dục cũng như kinh nghiệm thực tiễn đòi hỏi quá trình giáo dục
phải thống nhất biện chứng với quá trình phát triển nhân cách người học. Muốn vậy
người làm công tác giáo dục cần nắm một số quan điểm cơ bản về bản chất của nhân
cách và sự phát triển nhân cách con người.
1.Khái niệm con người, nhân cách và sự PT nhân cách
Con người: là một thực thể thống nhất giữa yếu tố tự nhiên và XH.
- Mặt tự nhiên của con người thể hiện ở chỗ con người có nguồn gốc từ động vật,
con người chịu sự tác động của quy luật tự nhiên.
- Mặt XH của con người: Con người tồn tại trong mối quan hệ, liên hệ với người
khác tạo ra hình thức tồn tại đặ trưng của con người, đó là XH.
Mặt khác, con người còn có khả năng chế tạo và sử dụng công cụ lao động. Vì vậy,
con người tạo ra được những phương thức, những điều kiện thỏa mãn nhu cầu của
mình.
Vậy con người được hiểu là chủ thể sáng tạo XH, lịch sử, chính trong quá trình đó
con người đã biến đổi bản thân mình. Ta khẳng định con người là có bản chất XH,
như C.Mac đã nói: “Bản chất con người là tổng hòa của các mối quan hệ XH”.
- Sự thống nhất giữa mặt tự nhiên và XH của con người:

+ Nhờ có cái tự nhiên mới có cái XH
+ Cái XH trong con người khiến cho yếu tố tự nhiên có chất lượng mới.
* Con người có thể được xem xét ở những góc độ và bình diện khác nhau:
+ Cá thể: Để chỉ con người khi xem xét con người với loài khác
+ Cá nhân: Chỉ con người khi xem xét con người trong quan hệ với người khác,
với nhóm cộng đồng
+ Nhân cách: Để chỉ con người với tư cách là chủ thể hoạt động.
Nhân cách: là tổ hợp những đặc điểm của cá nhân, nó quy định hành vi XH và giá
trị XH của con người đó.
Sự phát triển nhân cách: là quá trình cải biến một cách sâu sắc và toàn diện
những sức mạnh thể chất và tinh thần của con người diễn ra theo quy luật tích lũy về
lượng, biến đổi về chất nhằm chuyển hóa cá thể người thành một chủ thể có ý thức
trong XH.
- Sự phát triển nhân cách được thể hiện ở cả 3 phương diện:
+ Sự phát triển về thể chất: Được thể hiện ở sự tăng trưởng của cơ thể và sự hoàn
thiện các chức năng, các cơ quan trong cơ thể.
+ Sự phát triển về tâm lý: Đó là sự hoàn thiện trong các quá trình tâm lý và sự
hoàn thiện các thuộc tính tâm lý mới của cá nhân.
+ Sự phát triển về phương diện XH: Thể hiện ở chỗ cá nhân mở rộng các mqh XH
và ở vai trò mới của cá nhân.
2. Các yếu tố ảnh hưởng tới sự hình thành và phát triển nhân cách
Vai trò của yếu tố di truyền và bẩm sinh
- Di truyền là sự tái tạo ở trẻ em những thuộc tính sinh học có ở cha mẹ, alf sự
truyền lại từ cha mẹ đến con cái những đặc điểm và những phẩm chất nhất định đã
được ghi lại trong hệ thống gen.
- Bẩm sinh là những thuộc tính sinh học có ngay từ khi trẻ mới sinh ra.
Vai trò: Di truyền tạo tiền đề quan trọng cho sự hình thành và phát triển nhân
cách con người, thể hiện như sau :
- Con người như là một bộ phận của tự nhiên, khi sinh ra đã tiếp nhận vốn sinh học
nhất định được ghi lại đươi hình thức chương trình di truyền những sức mạnh bên

trong cơ thể, tồn tại dưới dạng những tư chất và những năng lực. Chương trình mang
tính di truyền này trước hết đảm bảo cho loài người tiếp tục tồn tại, đồng thời làm
phát triển những hệ giúp cơ thể con người thích ứng với những biến đổi của các điều
kiện tồn tại của mình, tạo khả năng cho con người hoạt động có hiệu quả trong một
số lĩnh vực nhất định.
- Tuy nhiên, những nhân tố bẩm sinh di truyền mặc dù có vai trò quan trọng trong
sự PT nhân cách, nhưng những tính chất được di truyền chỉ đặc trưng cho những lĩnh
vực hoạt động hết sức rộng rãi, bao quát, chúng không định hướng vào một lĩnh vực
hoạt động hay sáng tạo cụ thể nào. Việc định hướng này là do những điều kiện lịch
sử- XH cụ thể và do trình độ phát triển của loại hình hoạt động lao động, nghệ thuật,
khoa học nhất định quyết định, đặc biệt là do tính tích cực hoạt động của cá nhân.
Vai trò của yếu tố môi trường
Môi trường là hệ thống các hoàn cảnh bên ngoài, các điều kiện tự nhiên và XH
xung quanh cần thiết cho hoạt động sống và phát triển của con người.
Có các loại môi trường:
- Môi trường tự nhiên: Bao gồm các ĐK tự nhiên- hệ sinh thái phục vụ cho hoạt
động học tập, lao động sản xuất, rèn luyện thể chất và vui chơi giải trí của con người.
- Môi trường XH: Bao gồm môi trường chính trị, môi trường sản xuất- kinh tế,
môi trường sinh hoạt XH và môi trường văn hóa.
Vai trò: Trong sự hình thành và phát triển nhân cách, môi trường XH có tầm quan
trọng đặc biệt vì nếu không có XH loài người thì những tư chất có tính người cũng
không thể phát triển được, cụ thể môi trường có vai trò như sau:
- Sự hình thành và PT nhân cách chỉ có thể được thực hiện trong một môi trường
nhất định. Môi trường góp phần tạo nên mục đích, động cơ, phương tiện và điều kiện
cho hoạt động giao lưu của cá nhân, nhờ đó cá nhân chiếm lĩnh được các kinh
nghiệm xã hội loài người để hình thành và phát triển nhân cách của mình.
- Tuy nhiên, tính chất và mức độ ảnh hưởng của môi trường đối với sự hình thành
và phát triển nhân cách còn tùy thuộc vào lập trường,quan điểm, thái độ của cá nhân
đối với các ảnh hưởng đó, cũng như tùy thuộc vào xu hướng và năng lực, vào mức
độ cá nhân tham gia cải biến môi trường.

- Trong quá trình GD con người, cần gắn chặt từng bước việc GD, học tập với thực
tiễn cải tạo XH
- Trong quá trình hình thành và phát triển nhân cách, cần đánh giá đúng mức vai trò
của môi trường, tránh quá đề cao hoặc quá xem nhẹ vai trò của nhân tố này trong sự
hình thành và PT nhân cách.
Vai trò: GD giữ vai trò chủ đạo đối với sự hình thành và phát triển nhân cách,
điều đó được thể hiện ở những mặt sau đây:
- GD là sự tác động có mục đích, có tổ chức, có kế hoạch nhằm thực hiện có hiệu
quả các mục đích đã đề ra.
- GD có thể mang lại những tiến bộ mà các nhân tố khác như bẩm sinh- di truyền
hoặc môi trường, hoàn cảnh không thể có được.
- GD có tầm quan trọng đặc biệt đối với những người bị khuyết tật, nó có thể bù
đắp những thiếu hụt do bệnh tật gây ra cho con người.
- GD còn có thể uốn nắn những phẩm chất tâm lý xấu và làm cho nó phát triển theo
chiều hướng mong muốn của XH. Đó chính là hiệu quả của công tác GD lại đối với
trẻ em hư và những người phạm pháp.
- Không giống với những nhân tố khác, GD không chỉ thích ứng mà còn có thể đi
trước hiện thực và thúc đẩy nó phát triển. Điều đó có giá trị định hướng cho việc xây
dựng mô hình nhân cách của con người Việt Nam với tư cách là mục tiêu và động
lực của sự PT KT- XH.
Thực tế GD cũng chứng minh rằng: Sự phát triển tâm lý cảu trẻ em chỉ có thể diễn
ra một cách tốt đẹp trong những ĐK của GD và DH. Điều đó càng chứng tỏ được
tầm quan trọng của GD. GD, DH sẽ tạo nên sự phát triển nhân cách khi trong quá
trình ấy, những sức mạnh của bản thân trẻ được thúc đẩy, khi nhu cầu, động cơ, hứng
thú của trẻ được chú ý, khi GD và DH phù hợp với những quy luật bên trong của sự
PT cá nhân.
Vai trò của hoạt động cá nhân
Con người với tư cách là một sinh thể ở bậc thang tiến hóa cao nhất của sự tiến hóa
vật chất, lại là một thực thể XH, là chủ thể lao động, nhận thức và giao lưu. Hoạt
động làm cho con người nhận thức được hiện thực, kích thích hứng thú, niềm say mê

sáng tạo và làm nảy sinh những nhu cầu mới, những thuộc tính tâm lý mới… Nhờ đó
nhân cách được hình thành và phát triển.
Hoạt động cá nhân đóng vai trò quyết định trực tiếp đối với sự hình thành và phát
triển nhân cách.
Hiện nay trong dân gian cũng như trong học thuật có nhiều quan điểm khác nhau,
thậm chí trái ngược nhau về bản chất nhân cách con người.
Một số quan điểm sai về bản chất con người
- Quan điểm tiền định: coi bản chất và số phận của mỗi con người đó được quy định
trước khi con người đó ra đời. Nó được thể hiện với nhiều màu sắc khác nhau. Do
Thượng Đế định sẵn: "Cha mẹ sinh con, trời sinh tính", "thông minh vốn sẵn tính
trời", "mới hay muôn sợ tại trời", "do kiếp trước", do mả ông cha để lại được hưởng
"phúc" hay chịu "hoạ".
Những quan điểm trên đây là những quan điểm khác nhau làm cho con người không
tin tưởng vào chính bản thân mình và chỉ chờ mong vào trời đất quỷ thần, số phận
hoặc "cũng lắm điều nhắm mắt đưa chân" nó nhủ con người không giúp ta tự tin,
dũng cảm tái tạo tự nhiên, đấu tranh xã hội cải tạo chính bản thân mình./.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là một tấm gương mẫu mực về đạo đức cách mạng
để toàn Đảng, toàn dân noi theo. Suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, lãnh
tụ Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm tới giáo dục, rèn luyện đạo đức cách
mạng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân. Có thể nói, đạo đức là một trong
những vấn đề quan tâm hàng đầu của Hồ Chí Minh trong sự nghiệp cách
mạng.
Hồ Chí Minh quan niệm đạo đức là nền tảng và là sức mạnh của người cách
mạng, coi đó là cái gốc của cây, ngọn nguồn của sông nước: Người cách mạng
phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng thì mới hoàn thành được nhiệm vụ cách
mạng vẻ vang vì sự nghiệp độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Người viết:
“Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây
phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không
có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân” Người quan
niệm đạo đức tạo ra sức mạnh, nhân tố quyết định sự thắng lợi của mọi công

việc: “Công việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hay kém”. Quan
niệm lấy đức làm gốc của Hồ Chí Minh không có nghĩa là tuyệt đối hoá mặt đức,
coi nhẹ mặt tài. Người cho rằng có tài mà không có đức là người vô dụng nhưng
có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó. Cho nên, đức là gốc nhưng đức
và tài phải kết hợp với nhau để hoàn thành nhiệm vụ cách mạng.
- Theo Hồ Chí Minh những chuẩn mực chung nhất của nền đạo đức cách mạng
Việt Nam gồm những điểm sau:
Một là, trung với nước hiếu với dân.
Đây là phẩm chất quan trọng nhất, bao trùm nhất và chi phối các phẩm chất
khác.
Từ khái niệm cũ "trung với vua, hiếu với cha mẹ" trong đạo đức truyền thống
của xã hội phong kiến phương Đông, Hồ Chí Minh đưa vào đó một nội dung
mới, phản ánh đạo đức ngày nay cao rộng hơn là “Trung với nước hiếu với dân”.
Đó là một cuộc cách mạng trong quan niệm đạo đức.
“Trung với nước hiếu với dân, suốt đời phấn đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ
quốc vì chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng
vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”. Câu nói đó của Người vừa là lời kêu gọi
hành động, vừa là định hướng chính trị-đạo đức cho mỗi người Việt Nam không
phải chỉ trong cuộc đấu tranh cách mạng trước mắt, mà còn lâu dài về sau.
Hai là, yêu thương con người.
Quan niệm của Hồ Chí Minh về con người rất toàn diện và độc đáo. Hồ Chí
Minh đã xác định tình yêu thương con người là một trong những phẩm chất đạo
đức cao đẹp nhất. Người dành tình yêu thương rộng lớn cho những người cùng
khổ. Những người lao động bị áp bức bóc lột, Người viết: "Tôi chỉ có một sự
ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập,
dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được
học hành".
Hồ Chí Minh yêu thương đồng bào, đồng chí của Người, không phân biệt họ ở
miền xuôi hay miền ngược, là trẻ hay già, trai hay gái không phân biệt một ai,
không trừ một ai, hễ là người Việt Nam yêu nước thì đều có chỗ trong tấm lòng

nhân ái của Người.
Tình yêu thương của Người còn thể hiện đối với những người có sai lầm khuyết
điểm. Với tấm lòng bao dung của một người cha, Người căn dặn, chúng ta: "Mỗi
con người đều có thiện và ác ở trong lòng ta, phải biết làm cho phần tốt ở trong
mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị mất dần đi, đó là thái
độ của người cách mạng. Đối với những người có thói hư tật xấu, từ hạng người
phản lại Tổ quốc và nhân dân, ta cũng phải giúp họ tiến bộ bằng cách làm cho
cái phần thiện trong con người nảy nở để đẩy lùi phần ác, chứ không phải đập
cho tơi bời".
Trong Di chúc, Người căn dặn Đảng: Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau,
nhắc nhở mỗi cán bộ, đảng viên luôn luôn chú ý đến phẩm chất yêu thương con
người.
Ba là, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. - Theo Hồ Chí Minh thì: Cần tức là
lao động cần cù, siêng năng; lao động có kế hoạch, sáng tạo, có năng suất cao;
lao động với tinh thần tự lực cánh sinh, không lười biếng, không ỷ lại, không
dựa dẫm. Phải thấy rõ "lao động là nghĩa vụ thiêng liêng, là nguồn sống, nguồn
hạnh phúc của chúng ta".
Kiệm tức là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền của của dân,
của nước, của bản thân mình; phải tiết kiệm từ cái to đến cái nhỏ, nhiều cái nhỏ
cộng lại thành cái to; "không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi", không phô
trương hình thức, không liên hoan, chè chén lu bù.
Liêm tức là "luôn luôn tôn trọng giữ gìn của công và của dân"; "không xâm
phạm một đồng xu, hạt thóc của Nhà nước, của nhân dân". Phải "trong sạch,
không tham lam". "Không tham địa vị. Không tham tiền tài. Không tham sung
sướng. Không ham người tâng bốc mình. Vì vậy mà quang minh chính đại,
không bao giờ hủ hoá".
Chính, "nghĩa là không tà, thẳng thắn, đứng đắn". Đối với mình: không tự cao,
tự đại, luôn chịu khó học tập cầu tiến bộ, luôn tự kiểm điểm để phát triển điều
hay, sửa đổi điều dở của bản thân mình.
Đối với người: không nịnh hót người trên, không xem khinh người dưới, luôn

giữ thái độ chân thành, khiêm tốn, đoàn kết thật thà, không dối trá, lừa lọc.
Đối với việc: để việc công lên trên, lên trước việc tư, việc nhà.
Chí công vô tư, Người nói: "Đem lòng chí công vô tư mà đối với người, với
việc". “Khi làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến mình trước, khi hưởng thụ thì
mình nên đi sau”; phải "lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ".
Bốn là, tinh thần quốc tế trong sáng. Đó là, tinh thần đoàn kết quốc tế vô sản,
mà Hồ Chí Minh đã nêu lên bằng mệnh đề "Bốn phương vô sản đều là anh em";
là tinh thần đoàn kết với các dân tộc bị áp bức, với nhân dân lao động các nước,
mà Hồ Chí Minh đã dày công vun đắp bằng hoạt động cách mạng thực tiễn của
bản thân mình và bằng sự nghiệp cách mạng của cả dân tộc; là tinh thần đoàn kết
của nhân dân Việt Nam với tất cả những người tiến bộ trên thế giới vì hoà bình,
công lý và tiến bộ xã hội, vì những mục tiêu lớn của thời đại là hoà bình, độc lập
dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội, là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, là hợp
tác và hữu nghị với tất cả các nước, các dân tộc.
Theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa quốc tế vô sản gắn liền với chủ nghĩa yêu nước,
hơn nữa phải là chủ nghĩa yêu nước chân chính và chủ nghĩa quốc tế vô sản
trong sáng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu ra những nguyên tắc cơ bản để định hướng sự lãnh
đạo của Đảng và việc rèn luyện của mỗi người.
+ Nói đi đôi với làm, phải nêu gương về đạo đức.
Cán bộ đảng viên phải đầu tầu gương mẫu “miệng nói tay làm”, phải nêu tấm
gương đạo đức cách mạng trước quần chúng; cán bộ, đảng viên đi trước, làng
nước theo sau. Sống theo phương châm “Mình vì mọi người, mọi người vì
mình”. Cổ vũ “người tốt, việc tốt”, các điển hình tiêu biểu.
+ Xây đi đôi với chống.
Xây dựng nền đạo đức cách mạng, giáo dục chuẩn mực đạo đức mới, khơi dậy ý
thức tự giác, đạo đức lành mạnh ở mọi người, hướng mọi người vào cuộc đấu
tranh cho sự trong sạch, lành mạnh về đạo đức. Nâng cao đạo đức cách mạng,
kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân - nguồn gốc của mọi thứ tệ nạn,
thứ giặc “nội xâm” phá từ trong ra.

+ Phải tu dưỡng đạo đức suốt đời.
Người cũng khẳng định đạo đức không phải là thứ có sẵn trong mỗi người mà
đạo đức là do con người tiếp thu được qua giáo dục và tạo thành nhờ bản thân
tích cực tu dưỡng bền bỉ rèn luyện trong môi trường sống và trong cuộc đấu
tranh cách mạng. Người đưa ra lời khuyên rất dễ hiểu: "Đạo đức cách mạng
không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà
phát triển, củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng
trong".
Nâng cao đạo đức trong tình hình mới, Đảng và nhân dân ta quán triệt tư tưởng
đạo đức Hồ Chí Minh, ra sức bồi dưỡng các phẩm chất đạo đức, vận dụng các
nguyên tắc xây dựng đạo đức mà Người đã nêu ra.
Theo Hồ Chí Minh, đạo đức luôn luôn gắn liền với kinh tế. Trung với nước, hiếu
với dân, suốt đời hy sinh cho cách mạng để giành lấy độc lập và tự do là nhằm
xoá bỏ áp bức, bóc lột, phát triển kinh tế đem lại đời sống ấm no, hạnh phúc cho
nhân dân, cho mỗi con người. Hồ Chí Minh luôn luôn chủ trương tăng trưởng
kinh tế phải đi đôi với phát triển mọi mặt của xã hội; phát triển kinh tế phải đi
đôi với phát triển văn hoá, đạo đức, con người. Tinh thần này đã được thể hiện
trong câu nói bất hủ của Hồ Chí Minh "Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội trước
hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa".
Học tập tư tưởng trong đạo đức Hồ Chí Minh, Đảng và Nhà nước tiếp tục cổ
động phong trào thi đua yêu nước trong thời kỳ đổi mới, biểu dương các tập thể,
cá nhân có thành tích xuất sắc, dấy lên phong trào “người tốt việc tốt”, nêu
gương sáng đạo đức cách mạng để mọi người tôn vinh và noi theo.
Học tập tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới
đất nước do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng, bên cạnh việc xây dựng
những phẩm chất đạo đức. Trung với nước, hiếu với dân, thương người, cần
kiệm liêm chính, chí công vô tư, tinh thần quốc tế trong sáng nêu trong di sản
của Người, chúng ta còn phải đấu tranh quyết liệt chống các tệ nạn xã hội nảy
sinh trong nền kinh tế thị trường đang làm phương hại đến nền đạo đức cách
mạng.

Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đã sớm nhận ra sự nguy hiểm của bệnh "cá
nhân", đó là nguyên nhân đẻ ra các tệ nạn tiêu cực ảnh hưởng nghiêm trọng đến
chế độ.
Ngay từ năm 1952, Người đã nêu rõ những tệ nạn cần phải chống gồm ba loại
hình là tham ô, lãng phí quan liêu. Người coi những tệ nạn đó là tội ác, là kẻ thù
khá nguy hiểm của nhân dân, là bạn đồng minh của thực dân, phong kiến, là thứ
“giặc nội xâm”, “giặc ở trong lòng” phá từ trong phá ra. Người đã chỉ rõ tội lỗi
của những kẻ tham ô, lãng phí quan liêu cũng nặng như tội lỗi "Việt gian, mật
thám". Người cho rằng: "Việc tranh đấu với kẻ địch ở tiền tuyến bằng súng,
bằng gươm còn dễ, nhưng việc tranh đấu với kẻ địch trong người, trong nội bộ,
trong tinh thần, là một khó khăn, đau xót".
Cuộc sống đang đòi hỏi phải làm trong sạch Đảng và làm lành mạnh đời sống
đạo đức của xã hội. Hai mặt đó phải tiến hành song song. Phải khắc phục các
nguyên nhân đẻ ra các tệ nạn tiêu cực; càng phải khắc phục nguyên nhân đã để
cho các tệ nạn tiêu cực phát triển. Trong cuộc đấu tranh này, phải lấy việc xây
dựng Đảng làm nhiệm vụ then chốt, như đã được nêu ra trong nhiều nghị quyết
của Đảng.
Chúng ta càng thấm thía lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Di chúc Người
để lại cho toàn Đảng, toàn dân: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền, mỗi đảng viên
và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm
chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn “Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là
người lãnh đạo, là người đày tớ thật trung thành của nhân dân” .
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh vẫn còn giữ nguyên tính thời sự, soi sáng cho
Đảng và nhân dân ta hoàn thành sự nghiệp vẻ vang, xây dựng nền đạo đức Việt
Nam ngang tầm với những yêu cầu của giai đoạn cách mạng mới.

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×