Tải bản đầy đủ (.pdf) (195 trang)

Đánh giá tác động của các cam kết và nghĩa vụ của việt nam theo hiệp định GATs

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.52 MB, 195 trang )


1







HOẠT ĐỘNG: SERV-1
“ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG CỦA CÁC CAM KẾT VÀ NGHĨA VỤ CỦA VIỆT NAM
THEO HIỆP ĐỊNH GATS”
BÁO CÁO CHÍNH THỨC
Hà Nội, ngày 16/7/2007

Thực hiện:
Chuyên gia EU:
Dietrich Barth - Trưởng nhóm
Andras Lakatos
Claudio Dordi


Chuyên gia trong nước:
Tống Thị Hồng Minh (Bộ Tài nguyên và Môi trường)
Bạch Quốc An, Phạm Hồ Hương (Bộ Tư pháp)
Lương Hoàng Thái, Nguyễn Sinh Nhật Tân, Lê Quang
Lân (Bộ Thương mại)
Hà Huy Tuấn (Bộ Tài chính)
Bùi Thiên Sơn (Học viện Tài chính)
Phan Tâm (Bộ Bưu chính Viễn thông)
Nguyễn Gia Hào, Đoàn Ngọc Thanh (Chuyên gia tư vấn


độc lập)



Báo cáo được thực hiện với sự hỗ trợ tài chính của Uỷ ban châu Âu. Quan điểm thể hiện trong báo cáo này là
của các tác giả, không phải là quan điểm chính thức Uỷ ban châu Âu hay Bộ Thương mại.
DỰ ÁN HỖ TRỢ THƯƠNG MẠI ĐA BIÊN VIỆT NAM II
(MUTRAP II)
Bộ Thương mại phối hợp với Phái đoàn Ủy ban Châu Âu
ASIE/2003/005711


2
MỤC LỤC
1. TÓM TẮT 4
2. GIỚI THIỆU 10
2.1. Các mục tiêu của hoạt động 10
2.2. Lợi ích và quyền lợi của Việt Nam khi gia nhập WTO 10
2.3. Sự cần thiết thực thiện nghĩa vụ và cam kết GATS của Việt Nam 14
2.4. Những khó khăn của việc thực hiện GATS 15
2.5. Khung pháp lý đối với việc thực hiện các cam kết và nghĩa vụ
GATS của Việt Nam 19
2.6. Phương pháp luận của Nghiên cứu này 24
3. CÁC NGHĨA VỤ CHUNG TRONG GATS 24
3.1. Phạm vi áp dụng của GATS 24
3.2. Quan điểm “thương mại dịch vụ” trong hệ thống pháp lý của Việt Nam 25
3.3. Triển khai tiếp theo về pháp lý 26
3.4. Đối xử Tối huệ quốc (MFN) 27
3.5. Minh bạch hoá 31
3.6. Các quy định trong nước 35

3.7. Độc quyền và các nhà cung cấp dịch vụ độc quyền 37
3.8. Thanh toán và chuyển tiền 38
3.9. Trợ cấp 39
4. CÁC CAM KẾT CHUNG CỦA VIỆT NAM 39
4.1. Các quy tắc GATS về cam kết chung 39
4.2 Cam kết chung của Việt Nam 40
5. CÁC DỊCH VỤ KINH DOANH 53
5.1. Dịch vụ pháp lý 53
5.2 Các dịch vụ kế toán, kiểm toán và ghi sổ kế toán 56
5.3. Dịch vụ thuế 64
5.4 Dịch vụ kiến trúc, dịch vụ tư vấn kỹ thuật và dịch vụ tư vấn kỹ thuật đồng bộ 68
5.5 Dịch vụ máy tính và các dịch vụ liên quan 71
5.6 Dịch vụ thú y 72
5.7 Dịch vụ nghiên cứu và phát triển 72
5.8. Các dịch vụ kinh doanh khác 73
5.9. Dịch vụ liên quan đến khai thác mỏ (CPC 883) 75
6. DỊCH VỤ THÔNG TIN 77
6.1 Các cam kết của Việt Nam về dịch vụ thông tin 77
6.2 Khuôn khổ pháp lý của Việt Nam cho kinh doanh dịch vụ thông tin 79
6.3 Triển khai tiếp theo về pháp lý 83
7 DỊCH VỤ XÂY DỰNG 84
7.1 Các cam kết của Việt Nam trong lĩnh vực dịch vụ xây dựng 84
7.2 Cơ chế pháp lý của Việt Nam đối với thương mại dịch vụ xây dựng 85
7.3 Triển khai tiếp theo về pháp lý 87
8. DỊCH VỤ PHÂN PHỐI 87
8.1 Cam kết của Việt Nam về dịch vụ phân phối 87
8.2 Cơ chế pháp lý của Việt Nam đối với dịch vụ phân phối 89
8.3 Triển khai tiếp theo về pháp lý 93
9. DỊCH VỤ GIÁO DỤC 98
9.1. Cam kết của Việt Nam về dịch vụ giáo dục 98

9.2. Hệ thống văn bản pháp luật của Việt Nam đối với kinh doanh dịch vụ giáo dục 100

3
9.3. Triển khai tiếp theo về pháp lý 102
10. DỊCH VỤ MÔI TRƯỜNG 102
10.1. Cam kết của Việt Nam trong lĩnh vực dịch vụ môi trường 102
10.2. Hệ thống văn bản pháp luật của Việt Nam đối với kinh doanh dịch vụ môi trường
102
10.3. Triển khai tiếp theo về pháp lý 103
11. DỊCH VỤ TÀI CHÍNH 103
11.1. Bảo hiểm và các dịch vụ liên quan đến bảo hiểm 103
11.2. Ngân hàng 109
11.3. Chứng khoán 129
12. DỊCH VỤ Y TẾ VÀ XÃ HỘI 132
12.1 Cam kết của Việt Nam về Dịch vụ Y tế và Xã hội 132
12.2 Khuôn khổ pháp lý của Việt Nam cho kinh doanh các dịch vụ y tế và xã hội 133
12.3 Triển khai tiếp theo về pháp lý 135
13 DỊCH VỤ DU LỊCH VÀ DỊCH VỤ LIÊN QUAN 135
13.1 Các cam kết của Việt Nam về du lịch và dịch vụ liên quan 135
13.2 Khuôn khổ pháp lý của Việt Nam cho kinh doanh dịch vụ du lịch và dịch vụ liên
quan 136
13.3 Triển khai tiếp theo về pháp lý 137
14. DỊCH VỤ GIẢI TRÍ, VĂN HÓA VÀ THỂ THAO 138
14.1 Cam kết của Việt Nam về dịch vụ giải trí, văn hóa và thể thao 138
14.2 Khuôn khổ pháp lý của Việt Nam cho kinh doanh dịch vụ giải trí, văn hóa và thể
thao 138
15 DỊCH VỤ VẬN TẢI 139
15.1 Dịch vụ vận tải biển 139
15.2 Dịch vụ vận tải hàng không 143
15.3 Dịch vụ vận tải đường sắt 143

KHUYẾN NGHỊ VỀ PHÁP LÝ VÀ QUẢN LÝ 149
MA TRẬN CÁC CAM KẾT VÀ NGHĨA VỤ GATS CỦA VIỆT NAM, CÁC VĂN BẢN
PHÁP LÝ TRONG NƯỚC LIÊN QUAN VÀ CÁC HÀNH ĐỘNG ĐỀ XUẤT
156

4
1. TÓM TẮT
Đây là một hoạt động của Dự án hỗ trợ chính sách thương mại đa biên II (MUTRAP
II), do Bộ Thương mại phối hợp với Phái đoàn của Uỷ ban châu Âu tại Việt Nam thực hiện.
Mục tiêu tổng thể của Dự án MUTRAP là hỗ trợ tăng cường năng lực cho Chính phủ và các
Bộ, ngành hữu quan của Việt Nam trong việc gia nhập WTO, triển khai thực hiện các nghĩa
vụ pháp lý và cam kết của mình
1
. Mục tiêu của hoạt động này là cung cấp thông tin cho các
Bộ, ngành hữu quan về phạm vi và nội dung các nghĩa vụ, cam kết của Việt Nam trong Hiệp
định chung về Thương mại dịch vụ (GATS) khi gia nhập WTO và xác định những luật và quy
định trong nước trong nước và những biện pháp của Chính phủ bị ảnh hưởng bởi các cam kết
và nghĩa vụ này. Hoạt động cũng đưa ra những khuyến nghị đối với việc sửa đổi tiếp theo
những văn bản pháp quy chuyên ngành nhằm thực hiện các nghĩa vụ, cam kết GATS và tự do
hoá lĩnh vực dịch vụ của Việt Nam.
SERV-1 là một trong những hoạt động đầu tiên của MUTRAP được thực hiện sau khi
Việt Nam trở thành thành viên đầy đủ của WTO ngày 11/1/2007. Hoạt động tập trung phân
tích các nghĩa vụ và cam kết về thương mại dịch vụ của Việt Nam và việc thực hiện những
nghĩa vụ, cam kết này. Đối tượng hưởng lợi của hoạt động gồm các Bộ, ngành hữu quan,
cộng đồng doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế - xã hội bị tác động bởi quá trình tự do hóa
thương mại dịch vụ.
Thương mại dịch vụ (TMDV) đã trở thành một nhân tố chính của thương mại quốc tế
và của hệ thống thương mại đa biên. Dịch vụ chiếm tỷ trọng lớn - vào khoảng 30 - 80% trong
GDP của những nước khác nhau. Tỷ trọng của dịch vụ trong thương mại quốc tế khoảng 20%
và đang có tốc độ tăng trưởng nhanh. Đối với Việt Nam, dịch vụ chiếm khoảng 38% GDP

năm 2005. Tuy nhiên, Chiến lược phát triển các ngành dịch vụ đến năm 2010 đặt mục tiêu
nâng cao tỷ trọng cũng như tầm quan trọng của khu vực dịch vụ, bao gồm thương mại quốc
tế. Do đó, việc thực hiện các nghĩa vụ và cam kết của Việt Nam trong Hiệp định GATS đóng
vai trò quan trọng. Việc tự do hoá thương mại dịch vụ cũng phức tạp hơn so với thương mại
hàng hoá vì nó có thể ảnh hưởng tới khung pháp lý trong nước, và có thể cần có những điều
chỉnh pháp lý trong phần l
ớn các lĩnh vực dịch vụ.
Trong quá trình đàm phán gia nhập WTO, Việt Nam đã đạt được những kết quả đáng
kể trong việc xây dựng và cải cách pháp luật nhằm đáp ứng những yêu cầu của WTO. Trong
năm 2005 và 2006, một loạt Luật và văn bản pháp luật đã được ban hành như Luật Đầu tư
chung, Luật Cạnh tranh, Luật Doanh nghiệp và Luật về ký kết và thực hiện các điều ước quốc
tế và các văn bản hướng dẫn thi hành (Nghị định, Thông tư, Quyết định…). Tuy nhiên, Việt
Nam vẫn cần phải nỗ lực hơn nữa trong việc xây dựng pháp luật nhằm thực hiện các nghĩa vụ
và cam kết về thương mại dịch vụ trong WTO. Đây là quá trình lâu dài và liên tục như được
phân tích trong báo cáo.


1
Trong Hiệp định chung về Thương mại và Dịch vụ (GATS), các thuật ngữ “nghĩa vụ” và “cam kết” có ý nghĩa
khác nhau và cần được phân biệt. Thuật ngữ “nghĩa vụ” đề cập đến những nghĩa vụ chung và vô điều kiện của
GATS được áp dụng đối với tất cả các nước thành viên, không phụ thuộc vào các cuộc đàm phán tiếp theo.
Chúng bao gồm, ví dụ, các nghĩa vụ liên quan đến nguyên tắc đố
i xử tối huệ quốc (MFN) và minh bạch hóa.
Thuật ngữ “cam kết” đề cập đến những cam kết có điều kiện về tiếp cận thị trường và đối xử quốc gia mà mỗi
thành viên WTO đàm phán cho riêng mình. Vì vậy, các cam kết của mỗi nước đều khác nhau.

5
Tham gia hoạt động gồm 3 chuyên gia EU và 9 chuyên gia trong nước. Các chuyên
gia EU trân trọng cảm ơn Ông Lương Hoàng Thái, trưởng nhóm chuyên gia trong nước và các
chuyên gia trong nước về những đóng góp quý báu trong quá trình thực hiện hoạt động.

Ngoài những thông tin do các chuyên gia trong nước cung cấp, các chuyên gia EU còn
khai thác thông tin từ nhiều nguồn khác nhau, bao gồm Văn kiện gia nhập, các nghiên cứu
khác của Dự án MUTRAP, các ấn phẩm về thương mại và thông tin do các doanh nghiệp
quốc tế cung cấp. Tuy nhiên, một số thông tin sẵn có của Việt Nam về pháp luật và quy định
liên quan đến GATS chưa đầy đủ và cập nhật. Ngoài ra, rất ít, hoặc không có thông tin liên
quan được cung cấp trong một số lĩnh vực như máy tính và các dịch vụ liên quan, nghiên cứu
và phát triển, thuê/cho thuê, quảng cáo, dịch vụ liên quan đến nông nghiệp, khai mỏ và sản
xuất, một số dịch vụ thông tin cơ bản, xây dựng, môi trường, dịch vụ cụ thể về bảo hiểm,
ngân hàng và tài chính, chứng khoán, dịch vụ vận tải cụ thể .v.v.
Đôi khi, thông tin được cung cấp vào cuối thời gian triển khai hoạt động, đặc biệt là về
các cam kết chung liên quan đến hiện diện thương mại của nhà cung cấp dịch vụ (Phương
thức 3), sự di chuyển của thể nhân (Phương thức 4). Do đó, một số phân tích và khuyến nghị
về chính sách trong nghiên cứu này không đầy đủ và chỉ mang tính tham khảo. Những phân
tích sâu hơn và các hoạt động tiếp theo có thể được thực hiện trong khuôn khổ các hoạt động
khác của Dự án MUTRAP II
2
. Cần có cơ hội để tiếp tục hoàn thiện và cập nhật thông tin,
những phân tích đã được thực hiện trong hoạt động này.
Nghiên cứu được bắt đầu bằng việc rà soát và đánh giá những vấn đề chung liên quan
đến việc thực hiện các nghĩa vụ và cam kết WTO của Việt Nam, bao gồm việc tóm tắt những
quyền và lợi ích của Việt Nam khi gia nhập WTO, để đảm bảo rằng việc gia nhập WTO
mang lại sự cân bằng giữa các nghĩa vụ và quyền lợi của các thành viên. Sau đó, nhóm
chuyên gia sẽ đánh giá yêu cầu đối với Việt Nam trong việc thực hiện những nghĩa vụ của
mình, cả về khía cạnh chính trị và pháp luật. Sau đó, nhóm chuyên gia đánh giá những khó
khăn cụ thể trong việc thực hiện GATS và khung pháp lý của WTO và Việt Nam. Các vấn
đề được xem xét còn bao gồm việc xác định biện pháp và phương pháp tiếp cận tốt nhất trong
việc xây dựng pháp luật theo Nghị quyết 71 của Quốc Hội phê chuẩn Nghi định thư gia nhập
WTO của Việt Nam. Những phương án lựa chọn bao gồm áp dụng trực tiếp những nghĩa vụ
WTO, nội luật hoá, hoặc phương án đẩy nhanh tốc độ thực hiện thông qua việc xây dựng
“một luật để điều chỉnh tất cả các luật” (Omni-bus approach). Báo cáo cũng nghiên cứu

những nghĩa vụ chung khác, như quy chế đối xử tối huệ quốc và minh bạch hoá, các quy
định của GATS về quy định trong nước, độc quyền, thanh toán, chuyển khoản và trợ cấp.
Sau đó, báo cáo nghiên cứu về các cam kết chung về tiếp cận thị trường và đối xử
quốc gia mà Việt Nam đã đàm phán trong GATS. Trong mỗ
i lĩnh vực cụ thể, báo cáo trình
bày tóm tắt kết quả rà soát các nghĩa vụ và cam kết GATS, khung pháp lý hiện hành của Việt
Nam, và nêu lên đề xuất hoặc khuyến nghị pháp lý, nếu cần thiết, để Việt Nam đảm bảo sự
phù hợp với những nghĩa vụ và cam kết GATS. Tuy nhiên, Chính phủ Việt Nam toàn quyền
quyết định trong việc áp dụng hoặc thực hiện những khuyến nghị được nêu lên trong báo cáo.
Kết quả
những phân tích ngành cụ thể được tóm tắt như sau:
DỊCH VỤ KINH DOANH
Dịch vụ Pháp lý

2
Hoạt động SERV-2 “Hỗ trợ Bộ Tư pháp và các Bộ, ngành hữu quan rà soát và đối chiếu các nghĩa vụ, cam kết
GATS với khung pháp lý trong nước”

6
Nhìn chung, nguyên tắc và khung pháp lý điều chỉnh các dịch vụ pháp lý phù hợp với
các nghĩa vụ GATS. Những quan ngại chủ yếu liên quan đến các quy định về quốc tịch khi
gia nhập 1 đoàn luật sư trong nước, yêu cầu “hiện diện thường xuyên” như một điều kiện để
hành nghề đối với luật sư nước ngoài, chưa có quy định về công nhận bằng cấp nước ngoài về
luật và chuyên ngành liên quan.
Kế toán, kiểm toán và ghi sổ
Nhìn chung, những nguyên tắc và khung pháp lý điều chỉnh các dịch vụ này phù hợp
với các cam kết quốc tế, tuy nhiên vẫn có một số quan ngại liên quan đến sự phù hợp của một
số quy định trong nước với các cam kết quốc tế, đặc biệt đối với Phương thức 1 và 2 về tiếp
cận thị trường. Tuy nhiên điều khoản trong Luật Hiệp ước và các quy định khác về việc ưu
tiên áp dụng các cam kết/nghĩa vụ quốc tế khi có khác biệt/xung đột với luật/quy định trong

nước có thể giúp giải quyết những vấn đề này.
Dịch vụ thuế
Các dịch vụ thuế chủ yếu được cung cấp bởi các Công ty Kiểm toán, Công ty tư vấn
pháp luật. Do đó, các dịch vụ thuế chịu sự điều chỉnh của một loạt quy định. Theo các tác giả,
những quy định trong lĩnh vực này hiện nay chưa hoàn thiện, khác phức tạp và không cụ thể.
Việc xây dựng và thực thi một Mã số thống nhất điều chỉnh các dịch vụ thuế (kiểm toán, kế
toán, tư vấn thuế, ghi sổ) được khuyến nghị. Ngoài ra, các tiêu chí về trình độ chuyên môn,
quy trình hành nghề kế toán cần được quy định rõ ràng.
Dịch vụ kiến trúc, kỹ thuật và kỹ thuật đồng bộ
Việc phân tích những thông tin sẵn có cho thấy, dường như, Nghị định 88/1999/CP
vẫn yêu cầu thành lập liên doanh để hiện diện thương mại. Nếu đúng như vậy, Quy định này
có thể không phù hợp với các cam kết trong Phương thức 3: các chủ thể kiến trúc nước ngoài
nên được phép cung cấp dịch vụ tại Việt Nam thông qua Hợp đồng Hợp tác - kinh doanh.
Dịch vụ thú y
Nhìn chung, các nguyên tắc và quy định trong nước phù hợp với nghĩa vụ GATS. Tuy
nhiên, thời hạn cụ thể trong việc cấp chứng chỉ hành nghề thú y cho các cá nhân nên được quy
định rõ ràng.
Dịch vụ quảng cáo
Ngoài một số luật và quy định, dịch vụ quảng cáo còn bị điều chỉnh bởi một số “Công
văn” (“Letter”) do đó không đảm bảo minh bạch và tính có thể dự đoán của khung pháp lý.
Khuyến nghị được nêu lên là: “Công văn”, hoặc các biện pháp tương tự có giá trị pháp lý
không rõ ràng cần được thay thế bởi những công cụ khác minh bạch và dễ dự đoán hơn. Điều
18.2 Pháp lệnh Quảng cáo: bắt buộc các tổ chức hoặc cá nhân nước ngoài phải thuê thể nhân
Việt Nam để tiến hành hoạt động quảng cáo tại Việt Nam: nên được hủy bỏ vì có thể được coi
như không phù hợp với các cam kết trong Phương thức 1.
Dị
ch vụ liên quan đến khai thác mỏ
Nhìn chung, các nguyên tắc và quy định phù hợp với nghĩa vụ GATS. Tuy nhiên, có
quan ngại liên quan đến tính minh bạch của Kế hoạch tổng thể về phát triển ngành khai thác
mỏ. Đồng thời, cũng có quan ngại về thủ tục cấp phép các Dự án - yêu cầu phải có ý kiến của

cơ quan cấp phép khai thác mỏ - có thể ảnh hưởng đến việc thực hiện những nghĩa vụ chính
của GATS.
Dịch vụ thông tin

7
Trong lĩnh vực dịch vụ thông tin mà Việt Nam đã có các cam kết cụ thể (viễn thông,
bưu chính và các dịch vụ nghe nhìn), việc rà soát pháp lý của nhóm chuyên gia cho thấy đang
có một chuỗi những thiếu sót về pháp lý liên quan đến các cam kết của Việt Nam. Trong lĩnh
vực dịch vụ viễn thông, pháp lệnh Bưu chính viễn thông và Nghị định về viễn thông và
Internet cần phải sửa đổi thêm để có thể phù hợp hơn với GATS. Ngoài ra cơ quản quản lý
nhà nước về lĩnh vực này cũng đang thiếu một cơ sở luật định nhằm can thiệp để đảm bảo tính
tuân thủ. Những sự không phù hợp khác liên quan tới việc cấp phép cho các dịch vụ dựa trên
hạ tầng mạng lẫn dịch vụ không dựa trên hạ tầng mạng, hạn chế các hoạt động của doanh
nghiệp viễn thông, áp dụng giá sàn đối với các cuộc gọi quốc tế và phân bổ các cuộc gọi trong
6 nhà cung cấp dịch vụ Việt Nam. Trong tiểu ngành bưu chính, Việt Nam chưa phê chuẩn chế
độ cấp phép đáp ứng quy định của WTO cho dịch vụ phát chuyển nhanh cho dù đã có cam kết
thực hiện không muộn hơn 3 tháng kể từ khi chính thức gia nhập WTO. Trong lĩnh vực dịch
vụ nghe nhìn cũng thấy đang tồn tại một Nghị định cũ
không phù hợp với GATS - có mâu
thuẫn với Luật điện ảnh mới ra đời.
Dịch vụ xây dựng
Các quy định điều chỉnh việc cung cấp các dịch vụ xây dựng của các nhà cung cấp
nước ngoài dường như phù hợp với các cam kết của Việt Nam trong khoảng thời gian 2 năm
kể từ khi chính thức gia nhập WTO. Tuy nhiên, Chính phủ phải lưu ý tuân thủ đầy đủ quy chế
tối hu
ệ quốc khi sử dụng quyền của mình cho phép đối xử tốt hơn so với quy định của luật
pháp.
Dịch vụ phân phối
Trong lĩnh vưc này, Chính phủ đã xây dựng và thực thi một loạt biện pháp nhằm thực
hiện nghĩa vụ và cam kết GATS, bao gồm quy trình cấp phép mới đối với các nhà phân phối,

bán lẻ, đại lý. Tuy nhiên, có một số quan ngại nảy sinh, bao gồm từ phía cộng đồng doanh
nghiệp, về tốc độ xây dựng luật hoặc về một số quy định cụ thể mới được ban hành. Ví dụ, tại
thời điểm thực hiện báo cáo, yêu cầu về “đánh giá nhu cầu kinh tế (Economic need test)”
3

được sử dụng làm cơ sở để cho phép mở thêm các cơ sở thứ 2 trở lên trong chuỗi bán lẻ, vẫn
chưa được xây dựng. Ngoài ra, số lượng đơn yêu cầu cấp phép sẽ tăng lên trong quá trình
thực hiện, quy trình cấp phép cần được minh bạch hoá để phản ánh tốt các cam kết của Việt
Nam trong lĩnh vực này.
DỊCH VỤ GIÁO DỤC
Các quy tắc trong nước về lĩnh vực này nhìn chung có thể đượ
c coi như phù hợp với
các nghĩa vụ trong GATS. Tuy nhiên tiêu chí quy định trong Thông tư liên tịch
14/2005/TTLT-BGD&ĐT-BKH&ĐT chặt chẽ hơn đối với các pháp nhân giáo dục nước
ngoài so với trong nước. Điều này gây quan ngại liên quan đến sự phù hợp của những tiêu chí
đó với các nghĩa vụ về đối xử quốc gia quy định trong GATS.
DỊCH VỤ TÀI CHÍNH
Bảo hiểm
Nhìn chung, các quy tắc trong nước về lĩnh vực này có vẻ phù hợp v
ới các nghĩa vụ
cam kết trong GATS, tuy nhiên có một số quy định có thể được coi là chưa phù hợp với
GATS như:

3
Quyết định số 10/2007/QĐ-BTM của Bộ Thương mại quy định về “kiểm tra nhu cầu kinh tế”, tuy nhiên do mới
được ban hành nên nhóm chuyên gia không có điều kiện nghiên cứu trong báo cáo này.

8
- Có nhiều hạn chế liên quan đến việc gia nhập thị trường của các doanh nghiệp bảo
hiểm nước ngoài và các hạn chế đó chưa được liệt kê trong lộ trình cam kết GATS;

- Các tiêu chí để Thủ tướng Chính phủ phê duyệt thành lập công ty bảo hiểm nước
ngoài nên được liệt kê rõ ràng và các thủ tục cấp phép/phê duyệt phải được công
khai tuân thủ đầy đủ các quy định nghĩa vụ của GATS;
- Việc không cấp phép cho dịch vụ môi giới bảo hiểm do một doanh nghiệp môi giới
BH nước ngoài hoạt động tại Việt Nam có thể được coi như “một rào cản hành
chính trong lĩnh vực bảo hiểm”, có thể vi phạm quy định tiếp cận thị trường
Phương thức 1 của GATS;
- Một số nghị định vẫn còn có các quy định không phù hợp với nghĩa vụ cam kết
trong GATS: cần có thêm các quy định thực thi (minh bạch hơn và có khả năng
đoán định cao hơn)
Ngân hàng
Nhìn chung các cam kết GATS đã được thực hiện nhất quán, chỉ có một số quan ngại
liên quan đến các vấn đề sau:
- Tiêu chí cấp phép cần minh bạch và có khả năng đoán định cao hơn;
- Đánh giá nhu cầu kinh tế không thuộc phạm vi lộ trình cam kết mặc dù việc áp
dụng có thể được viện dẫn như một hành động đảm bảo an toàn;
- Các quy định đặc biệt về “các tổ chức tín dụng chiến lược nước ngoài” có thể sẽ
làm tăng quan ngại về việc tuân thủ Quy chế tối huệ quốc và quy định về đối xử
quốc gia; tiêu chí định lượng định nhằm xác định “tổ chức tín dụng chiến lược
nước ngoài” được khuyến nghị xây dựng;
- Các điều kiện khác áp dụng với đối tác nước ngoài trong liên doanh tài chính hoặc
Công ty tài chính 100% vốn nước ngoài cần được giải thích và chi tiết hơn.
- Quy định về Máy rút tiền tự động (ATM) chưa được ban hành.
Chứng khoán
Khung pháp lý được tăng cường trong thời gian gần đây. Có thể phù hợp với GATS.
DỊCH VỤ Y TẾ
Sau phân tích ban đầu cho thấy các quy định pháp luật đều phù hợp với GATS. Tuy
nhiên pháp lệnh về hành nghề y tế tư nhân không quy định chi tiế
t về tiêu chí thừa nhận bằng
cấp chứng chỉ nước ngoài: điều này có thể gây ra gánh nặng về thủ tục cho các bác sỹ nước

ngoài.
DỊCH VỤ MÔI TRƯỜNG
Việc phân tích nguồn thông tin sẵn có cho thấy hiện Việt Nam không có quy định cụ
thể nào đối với các dịch vụ môi trường. Những nhà cung cấp dịch vụ môi trường nước ngoài,
cũng giống như nhà đầu tư trong các lĩnh vực khác, b
ị điều chỉnh bởi Luật Đầu tư, Luật
Doanh nghiệp và một số Luật, quy định phù hợp khác. Hiện một số hướng dẫn chi tiết trong
lĩnh vực này đang được xây dựng.
DU LỊCH VÀ CÁC DỊCH VỤ LIÊN QUAN ĐẾN LỮ HÀNH
Luật Du lịch có hai quy định nhằm đảm bảo sụ phù hợp của Luật với các cam kết của
Việt Nam trong WTO. Những điều khoản này có thể được nhìn nhận như quá trình nội luật

9
hoá các cam kết và nghĩa vụ GATS của Việt Nam vào luật trong nước. Tuy nhiên cho dù các
điều luật “phù hợp” đó có đầy đủ thế nào đi nữa để đảm bảo sự tuân thủ thì việc thực hiện
chúng trong đời sống vẫn là điều mấu chốt.
DỊCH VỤ GIẢI TRÍ, VĂN HOÁ VÀ THỂ THAO
Pháp luật trong nước đặt trọng tâm vào “các quy định trong nước” mô tả trong điều VI
của GATS. Cho đến nay, pháp luật trong nước chưa thấy có bất cập nào so với các nghĩa vụ
của GATS.
DỊCH VỤ VẬN TẢI
Dịch vụ vận tải bao gồm vận tải biển, hàng không, đường sắt, đường bộ cũng như các
dịch vụ phụ trợ khác cho các dịch vụ vừa nêu. Phân tích ban đầu chưa thấy nổi lên điểm quan
ngại cụ thể nào. Tuy nhiên cần có nghiên cứu tiếp theo để có các phân tích chi tiết.


10
2. GIỚI THIỆU
Vào ngày 11.1.2007, sau gần 12 năm đàm phán, Việt Nam đã chính thức trở thành
thành viên WTO. Kể từ đó, Việt Nam đã bắt đầu tiến trình thực thi các nghĩa vụ và cam kết

WTO mà nước này đã tiến hành từ trước đó ít lâu.
Việt Nam mong đợi nhận được những lợi ích đáng kể với tư cách thành viên WTO.
Nó sẽ giúp Việt Nam đạt được tăng trưởng kinh tế nhanh hơn, tạo thêm nhiều công ăn việc
làm, cải thiện đời sống vật chất và góp phần xoá đói giảm nghèo. Mục 2.2 dưới đây sẽ mô tả
chi tiết hơn về các khía cạnh này. Mặt khác, Việt Nam cũng phải đối mặt với những thách
thức và khó khăn, nhất là trong những khu vực mà doanh nghiệp trong nước vẫn mới chỉ ở
bước đầu phát triển. Điều này đặc biệt đúng đối với lĩnh vực dịch vụ. Trong bối cảnh đó, việc
phân tích về cam kết và nghĩa vụ WTO của Việt Nam, quá trình thực thi và tác động pháp lý
đối với tất cả các bên, bao gồm các nhà hành pháp, các doanh nghiệp, cơ quan và bộ ngành
chính phủ đóng vai trò quan trọng.
2.1. Các mục tiêu của hoạt động
Hoạt động này nhằm đạt được ba mục tiêu. Trước tiên, nhằm đánh giá các nghĩa vụ
chung trong Hiệp định chung về Thương mại Dịch vụ (GATS), nhất là các nghĩa vụ liên quan
đến minh bạch hoá và Quy chế đối xử tối huệ quốc (MFN), và các cam kết cụ thể về tiếp cận
thị trường và đối xử quốc gia mà Việt Nam đã cam kết khi gia nhập WTO. Thứ hai, hoạt động
nhằm đánh giá hệ thống quy định và pháp lý hiện hành của Việt Nam liên quan đến các cam
kết và nghĩa vụ GATS. Bước thứ ba bắt đầu với việc so sánh giữa các cam kết và nghĩa vụ
GATS của Việt Nam với khung pháp lý liên quan hiện nay. Về tổng thể, hoạt động nhằm xác
định những hoạt động pháp lý cần được tiến hành nhằm đảm bảo sự phù hợp với các nghĩa vụ
và cam kết WTO. Cả ba bước đánh giá này sẽ được tóm tắt dưới dạng Ma trận và có thể
được sử dụng như một nguồn tài liệu tham khảo.
Các kết luận và đề xuất do nhóm chuyên chuyên gia EU đưa ra nhằm giúp Chính phủ
Việt Nam hiểu sâu hơn về các cam kết và nghĩa vụ GATS của mình và để chuẩn bị chờ đón
những phản ứng mà các nước khác có thể đưa ra đối với tiến trình thực thi WTO của Việt
Nam. Tuy nhiên, cần lưu ý là hoạt động này chỉ hạn chế ở những vấn đề thực thi GATS và sẽ
không phân tích/đề cập đến những v
ấn đề rộng hơn của quá trình cải cách pháp lý nói chung ở
Việt Nam.
Cũng cần lưu ý rằng những đề xuất về pháp lý và quy chế của báo cáo gần đây được
đưa với trách nhiệm của các chuyên gia Châu Âu. Tuy nhiên, nhóm chuyên gia trong nước đã

có những đóng góp to lớn trong quá trình thực hiện. Trong bất cứ sự kiện nào, cần hiểu rõ
ràng rằng Chính phủ Việt Nam có toàn quyền đưa ra quyết định về việc thực hiện những điều
chỉnh pháp lý liên quan đến quá trình thực thi các nghĩa vụ và cam kết GATS.
2.2. Lợi ích và quyền lợi của Việt Nam khi gia nhập WTO
Sẽ rất hữu ích nếu chúng ta có cái nhìn tổng quát về những quyền và lợi ích của Việt
Nam khi gia nhập WTO trước khi phân tích cụ thể về các nghĩa vụ và cam kết WTO của Việt
Nam. Điều này là cần thiết khi mà nhiều nhà quan sát đôi khi nêu lên nhiều câu hỏi rằng liệu
có tố
t không khi tham gia vào quá trình tự do hoá thương mại quốc tế và phản đối những
nghĩa vụ và gánh nặng kinh tế liên quan đến nó, trong khi đó bỏ qua thực tế rằng việc gia
nhập WTO đồng thời mang lại cho đất nước rất nhiều lợi ích kinh tế và quyền được tham gia
vào hệ thống thương mại đa phương. Trên thực tế, những lợi ích do hệ thống thương mại đa
phương và tự do hoá thương mại toàn cầu, được bắt đầu từ khi thành lập GATT vào năm

11
1948, mang lại cho các thành viên tham gia đã được chứng minh và công nhận rộng rãi trên
khắp thế giới.
Từ thực tế đó, Việt Nam đã nỗ lực đàm phán trong suốt 12 năm để trở thành thành
viên của WTO. Vào tháng 11.2006, Quốc hội Việt Nam đã thông qua Văn kiên gia nhập
WTO. Trong suốt quá trình đàm phán, Việt Nam đã tham khảo kinh nghiệm của nhiều quốc
gia đang phát triển và những quốc gia có nền kinh tế chuyển đôi đã gia nhập WTO trong thập
kỷ gần đây. Vậy đâu là lợi ích và quyền từ việc gia nhập WTO khiến tất cả các quốc gia đó lại
muôn gia nhập hệ thống thương mại đa phương?
4

Những lợi ích nổi bật nhất khi là thành viên WTO có thể được tóm tắt như sau:
- Hệ thống WTO giúp ngăn ngừa và giải quyết các xung đột thương mại. Vì vậy nó
thúc đẩy hoà bình.
- Các tranh chấp thương mại có thể được giải quyết một cách hiệu quả và mang tính
xây dựng. Đặc biệt, Hệ thống giải quyết tranh chấp của WTO giúp các nước nhỏ

hơn được đảm bảo quyền của mình trước các đối thủ mạnh hơn về kinh tế.
- Lợi ích của các thành viên WTO từ hệ thống thương mại dựa trên quy tắc sẽ là tốt
hơn nếu so sánh với cách ứng xử thay thế là “luật rừng”.
- Thương mại tự do hơn sẽ giảm chi phí cuộc sống cho người tiêu dùng và tăng chất
lượng cuộc sống.
- Hệ thống thương mại WTO cung cấp thêm nhiều sự lựa chọn đối với các sản phẩm
cạnh tranh, rẻ hơn và chất lượng tốt hơn đối với cả người tiêu dùng tư nhân và
công nghiệp.
- Thương mại góp phần làm tăng thu nhập.
- Thương mại thúc đẩy sự phát triển và việc làm, giúp giảm nghèo.
- Hệ thống này khuyến khích các Chính phủ nâng cao hiệu quả hoạt động và tiến
hành những cải cách kinh tế cần thiết.
Trên thực tế, việc Việt Nam gia nhập WTO đã tạo nên những lợi ích rõ ràng cho đất
nước. Các nhà đầu tư nước ngoài đang xếp hàng để được đầu tư vào các công ty Việt Nam,
nơi mà sự tăng trưởng đang được đảm bảo hơn. Đồng thời, giờ đây việc tiếp cận các thị
trường xuất khẩu được điều ch
ỉnh bởi khung pháp lý minh bạch và công bằng của WTO. Các
nhà đầu tư nước ngoài và trong nước đang tăng công suất, và việc những người cung cấp dịch
vụ đang bán được nhiều dịch vụ hơn để hỗ trợ các doanh nghiệp. Điều này có nghĩa trong
tương lai sẽ có nhiều việc làm hơn được tạo ra cho người dân, mang lại nhiều thuế cho quốc
gia và trên hết là góp phần mang lại mức sống tốt hơn cho hơn 80 triệu người dân của Việt
Nam.


4
Cần ghi nhớ rằng những câu hỏi đó không phải là nội dung chính của nghiên cứu này. Đây là nghiên cứu nhằm
nhìn nhận các vấn đề của việc thực thi WTO và các thay đổi pháp lý cần thiết để VN hoàn thiện đầy đủ các nghĩa
vụ và cam kết WTO của mình. Có rất nhiều đánh giá về kinh tế cũng như chính sách đã được công bố rộng rãi
trên thế giới về những lợi ích của tự do hoá thươ
ng mại đa phương và các mối quan tâm đặc biệt của những quốc

gia đang phát triển. Thông tin và đánh giá về những vấn đề đó có thể được tìm thấy trên trang web của WTO
cũng như các tổ chức quốc tế và quốc gia khác.

12
Những kinh nghiệm trong việc thực hiện nghĩa vụ và cam kết trong thương mại hàng
hoá cũng sẵn có (và nhiều) như trong thương mại dịch vụ. Về lĩnh vực xuất khẩu, cơ hội cho
các nhà cung cấp dịch vụ của Việt Nam được cải thiện hơn thông qua việc tiếp cận thị trường
của 149 quốc gia WTO khác dựa trên nguyên tắc đối xử tối huệ quốc, ví dụ về xuất khẩu dịch
vụ du lịch, giao thông và viễn thông. Nhìn chung, các nước đang phát triển có lợi thế cạnh
tranh trong các ngành dịch vụ thuê nhiều lao động hoặc cần có các nhân viên kỹ thuật tay
nghề cao.
Về nhập khẩu, lợi ích chính từ tự do hoá dịch vụ ở các nước đang phát triển dự kiến sẽ
đạt được nhờ tăng hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp/nhà cung cấp dịch vụ thông qua
việc gia tăng cạnh tranh ở thị trường trong nước. Sự tham gia của các nhà cung cấp dịch vụ
nước ngoài ở những lĩnh vực như viễn thông, ngân hàng, bảo hiểm, môi trường và giao thông
sẽ buộc các nhà cung cấp dịch vụ trong nước, vốn quen với môi trường được bảo hộ cao, sẽ
phải cải thiện khả năng cạnh tranh bằng cách cung cấp các dịch vụ giá cả cạ
nh tranh hơn, chất
lượng tốt hơn. Chính sự cải thiện trong ngành dịch vụ sẽ mang lại lợi ích không chỉ cho công
chúng nói chung, mà còn cho các doanh nghiệp nông sản và chế tạo xuất khẩu.
Hiệp định chung về Thương mại dịch vụ (GATS) được xây dựng dựa trên nhiều quy
tắc và nguyên tắc có xem xét và đáp ứng các nhu cầu và mang lại những ưu đãi cho các quốc
gia đang phát triển :
- Trước hết, GATS chỉ áp d
ụng đối với các dịch vụ có thể được kinh doanh thương
mại (commercially tradable services). Nó không áp dụng đối với những dịch vụ
được cung cấp bởi các cơ quan Chính phủ (dịch vụ công), các quyền về giao thông
hàng không (trừ dịch vụ bổ trợ), những biện pháp có thể ảnh hưởng tới tiếp cận thị
trường của thể nhân, các biện pháp liên quan đến quyền (tư cách) công dân, người
cư trú hay người lao động dài hạn.

- Yếu tố quan trọng nhất của GATS là sự linh hoạt nội tại có thể áp dụng cho tất cả
các thành viên WTO, trong đó có các quốc gia đang phát triển, để có thể đưa ra các
cam kết đàm phán đối với tiếp cận thị trường và đối xử quốc gia dựa trên nhu cầu
và năng lực của mình. Các thành viên WTO có thể lựa chọn lĩnh vực dịch vụ để
đưa ra các cam kế
t. Hơn thế nữa, họ có thể đưa kèm những hạn chế, giới hạn và
điều kiện cụ thể cho mỗi cam kết. Trong lĩnh vực đó, GATS quy định các thành
viên cần cân nhắc, bao gồm:
o mục tiêu chính sách quốc gia, và
o mức độ phát triển của mỗi quốc gia đơn lẻ, bao gồm lĩnh vực dịch vụ nói
chung hay các phân ngành dịch vụ cụ thể.
GATS quy định các quốc gia đang phát triển tham gia các cuộc đàm phán thương mại
có thể nhận được “sự mềm dẻo hợp lý” để cho phép họ đưa ra các cam kết về:
- mở cửa ít phân ngành dịch vụ hơn
- tự do hoá ít giao dịch hơn
- gắn các điều kiện tiếp cận thị trường đối với việc đạt được các mục tiêu phát triển
của mình. Điều đ
ó có thể bao gồm sự áp đặt một số điều kiện đối với các nhà cung
cấp dịch vụ nước ngoài đang mong muốn được đầu tư vào các ngành dịch vụ như
việc thành lập công ty con hoặc các hình thức khác của hiện diện thương mại,
thành lập liên doanh hoặc tạo điều kiện tiếp cận công nghệ, thông tin và các kênh
phân phối cho các công ty trong nước.

13
Ngoài những ưu đãi dành cho các nước đang phát triển nêu trên, các nguyên tắc và
quy định chính áp dụng cho thương mại hàng hoá cũng có thể được áp dụng, với một số sửa
đổi, nhằm trao đổi những nhượng bộ trong lĩnh vực thương mại dịch vụ. Những điều này bao
gồm:
- quy tắc đối xử tối huệ quốc, một quy tắc mang tính nền tảng trong hệ thống thương
mại quốc tế vốn nhận được sự quan tâm đặc biệt của các quốc gia đang phát triển;

- đối xử quốc gia, và
- các quy định điều chỉnh cam kết và nhượng bộ có thể đàm phán.
Hơn thế, hệ thống GATS ưu đãi cho các quốc gia đang phát triển - cũng như bất cứ
thành viên nào khác - quyền được có các ngoại lệ đối với các nguyên tắc và quy định của
GATS:
- sự miễn trừ khỏi các quy tắc MFN (Việt Nam đã đưa ra một số đề nghị);
- quyền được đưa ra một số biện pháp nhằm đảm bảo an toàn cho lĩnh vực tài chính
(“prudential carve-out”);
- quyền được áp đặt các nghĩa vụ dịch vụ chung và phân phối các nguồn lực khan
hiếm trong lĩnh vực viễn thông;
- những ngoại lệ chung và ngoại lệ về an ninh đối với toàn bộ hiệp định.
Các mục tiêu và quy tắc phát triển cũng là chủ đề chính trong các vòng đàm phán dịch
vụ trong khuôn khổ Vòng đàm phán Doha. Các quốc gia đang phát triển - vốn chiếm tới 2/3
số lượng các thành viên WTO - sẽ có những ảnh hưởng quan trọng tới kết quả của đàm phán
dịch vụ. Việt Nam, sau khi trở thành thành viên mới của WTO, có thể tham gia tích cực vào
các vòng đàm phán này.
Toàn bộ các quy tắc của GATS đã được áp dụng trong quá trình đàm phán việc gia
nhập WTO của Việt Nam, ngoại trừ sự linh hoạt mà Việt Nam nhận được trao để quyết định
về phạm vi và chiều sâu của các cam kết của mình.
Trong quá trình tham gia các vòng đàm phán, Việt Nam đã cân nhắc những lo ngại về
tiến trình thực thi GATS dựa trên những đánh giá về tiềm lực chính trị và kinh tế của mình.
Tuy nhiên, ở bất cứ thời điểm nào trong tương lai trong quá trình thực hiện nghĩa vụ và cam
kết GATS, nếu Việt Nam phát hiện ra rằng các cam kết GATS của họ vượt quá năng lực thực
hiện, GATS quy định một số biện pháp và cách thức để đối phó với những tình huống khẩn
cấp khác nhau:
- GATS cho phép áp dụng những hạn chế nhập khẩu dịch vụ trong tình huống
nghiêm trọng ảnh hưởng tới cán cân thanh toán hoặc gặp phải các khó khăn tài
chính bên ngoài, hoặc các mối đe doạ liên quan. Tuy nhiên, các điều kiện chặt chẽ
trong việc áp dụng những hạn chế thương mại ngoại lệ này cần phải được tuân thủ
chặt chẽ.

- Các cuộc đàm phán đa phương nhằm xây dựng các biện pháp tự vệ khẩn cấp đang
tiếp diễn trong vòng đàm phán Doha. Tuy nhiên, chúng đang gây tranh cãi và hiện
vẫn chưa đạt được bất kỳ một thoả thuận nào.
- Theo GATS, các thành viên có thể lựa chọn (các) biện pháp tự vệ để đối phó với
những tác động tiêu cực của tự do hoá dịch vụ có thể xảy ra, đó là quyền yêu cầu
miễn trừ (waver) đối với 1 số cam kết cụ thể. Theo Chương XXI của GATS, một

14
thành viên có thể sửa đổi hoặc rút lại bất cứ cam kết nào trong Biểu cam kết dịch
vụ của mình. Tuy nhiên, việc thực hiện quyền miễn trừ phụ thuộc vào một loạt
những điều kiện chặt chẽ về thủ tục và nội dung cam kết. Cụ thể như, thành viên
sửa đổi cam kết của mình sẽ bị buộc phải chấp nhận đền bù bằng nhượng Bộ
Thương mại đối với những thành viên bị ảnh hưởng bởi việc nước này rút lại một
cam kết.
Do đó về nguyên tắc, Việt Nam nên cố gắng thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ và cam kết
WTO của mình, phù hợp với các Hiệp định liên quan trong WTO.
2.3. Sự cần thiết thực thiện nghĩa vụ và cam kết GATS của Việt Nam
Các cam kết và nghĩa vụ GATS của Việt Nam cần được thực hiện trong khuôn khổ
pháp l ý, quy định và thông lệ quốc gia dưới cả góc độ pháp luật và chính trị.
5
Việt Nam cần
tôn trọng các nghĩa vụ pháp lý quốc tế, cũng giống như Việt Nam mong muốn các quốc gia
thành viên WTO khác tuân thủ nghĩa vụ của họ. Sự tôn trọng của các thành viên đối với hệ
thống quy tắc của WTO được đảm bảo bởi hệ thống Giải quyết tranh chấp WTO vốn được áp
dụng đối với GATS cũng như với GATT (Chương XXIII GATS). Sẽ khá bất lợi cho Việt
Nam nếu tham gia vào một quy trình như vậy, vì nó có thể mang lại những tác động tiêu cực
thông qua những chế tài được áp dụng.
Sau khi trở thành thành viên chính thức của WTO (từ ngày 11/1/2007
6
), Việt Nam sẽ

phải thực thi trong khuôn khổ pháp lý quốc gia tất cả những nghĩa vụ và cam kết WTO, bao
gồm các cam kết trong Hiệp định chung về Thương mại dịch vụ.
Về nội dung này, cần lưu ý rằng GATS được áp dụng đối với tất cả các “biện pháp” có
thể có ảnh hưởng đối với thương mại dịch vụ bởi một thành viên WTO. Thuật ngữ “biện
pháp” có nghĩa bất cứ biện pháp nào bởi một thành viên, trong ý nghĩa rộng nhất có thể, dù
dưới dạng luật, quy định, nguyên tắc, thủ tục, quyết định, biện pháp hành chính hoặc bất cứ
dạng nào khác.
7
Ngoài ra, quy định này áp dụng đối với các biện pháp được thực hiện bởi bất
kỳ cấp cơ quan Chính phủ nào, bao gồm: “các biện pháp được áp dụng bởi Chính quyền trung
ương, khu vực hoặc địa phương, các cơ quan phi Chính phủ thực hiện những quyền do Chính
quyền trung ương, khu vực hoặc địa phương trao cho”
8
. Điều này mang ý nghĩa quan trọng
đối với Việt Nam, vì việc đàm phán, ký kết và thực thi các hiệp định WTO thuộc thẩm quyền
của Chính phủ trung ương, tuy nhiên, ứng dụng thực tế luật pháp quốc gia được phân cấp cho
các chính quyền địa phương. Để đáp lại những nghi ngại của các thành viên WTO khác, Việt
Nam đã cam kết đối với Nhóm Công tác (Working Party) trong việc áp dụng các điều khoản
của các Hiệp định WTO, bao gồm Văn kiện gia nhập, một cách đồng bộ trên khắp lãnh thổ.
Về nội dung này, Việt Nam khẳng định với các thành viên WTO rằng, để đảm bảo việc áp
dụng đồng bộ, Việt Nam đã thiết lập các cơ chế phù hợp nhằm xác định và làm mất hiệu lực
các văn bản pháp quy không phù hợp với các nghĩa vụ, cam kết của mình do các Cơ quan cấp


5
Về vấn đề khung pháp lý tham khảo mục 2.5 dưới đây
6
Chương XIV (2) của Hiệp định thành lập WTO; về vấn đề khung pháp lý của Việt Nam về thực thi tham khảo
mục 2.5 dưới đây
7

GATS Chương I (3)
8
GATS Chương I (3)

15
địa phương ban hành
9
. Tuy nhiên, việc áp dụng những biện pháp khá mới mẻ này nhằm giải
quyết những vấn đề có thể nảy sinh cần được theo dõi thêm.
Trong quá trình thực hiện nghĩa vụ và cam kết WTO của Việt Nam, tất cả những “biện
pháp” thích hợp của Việt Nam, bao gồm luật, nghị định, chỉ thị, quyết định, thông tư, công
văn .v.v sẽ cần phải được rà soát một cách kỹ lưỡng và, nếu cần thiết, tiến hành những điều
chỉnh cần thiết nhằm đảm bảo phù hợp với nghĩa vụ và cam kết quốc tế. Đây là một nhiệm vụ
phức tạp và đòi hỏi nhiều công sức, thời gian thực hiện và cần có sự tham gia tích cực của các
cơ quan lập pháp và hành pháp liên quan. Trên thực thế, nhiệm vụ này sẽ cấu thành một
chương trình tổng thể về cải cách kinh tế. Trong bối cảnh đó, Việt Nam may mắn đã có được
những kinh nghiệm từ thi hành các nghĩa vụ và cam kết của Hiệp định Thương mại song
phương Việt Nam - Hoa Kỳ (BTA) từ năm 2001. Hiệp định này được xem như một trong
những nền tảng cho việc việc gia nhập WTO của Việt Nam sau này. Nhiều điều chỉnh về quy
định và pháp lý mà BTA đòi hỏi có cùng hướng với nhữ
ng yêu cầu đối với Việt Nam trong
quá trình đàm phán gia nhập WTO. Điều này đặc biệt đúng trong lĩnh vực dịch vụ, nơi các
cam kết BTA cơ bản dựa trên các quy tắc và các khái niệm GATS.
2.4. Những khó khăn của việc thực hiện GATS
Trong khuôn khổ của hoạt động này, nhóm chuyên gia trong nước đã xác nhận rằng
khung pháp l ý của Việt Nam về thương mại dịch vụ cơ bản phù hợp với các quy tắ
c và nghĩa
vụ WTO.
10
Tuy nhiên, căn cứ trên truyền thống, thực trạng của khung pháp lý và quy định

của Việt Nam, cần đảm bảo và mong đợi rằng những quy định nhằm thực hiện nghĩa vụ cam
kết WTO của Việt Nam cần phải tuân thủ và phù hợp với phần lớn các nghĩa vụ và cam kết
quốc tế. Đây cũng là kinh nghiệm của phần lớn các quốc gia khác. Kinh nghiệm đó đã được
thừa nhận trong Nghị quyết số 71 của Quốc hội. Nghị quyết quy định rõ rằng, trong trường
hợp quy định của WTO không “chi tiết và rõ ràng một cách thích đáng” để có thể áp dụng
trực tiếp, Chính phủ sẽ dự thảo và trình các văn bản pháp luật lên Quốc hội nhằm “sửa đổi, bổ
sung hoặc ban hành các văn bản pháp luật phù hợp với các cam kết WTO của Việt Nam theo
thẩm quyền”.
Th
ực thi WTO có hiệu quả yêu cầu đánh giá pháp lý chi tiết, hành động pháp lý cụ thể
và triển khai các cam kết và nghĩa vụ WTO. Các thành viên WTO sẽ giám sát điều này một
cách kỹ lưỡng. Trong một số trường hợp, thông qua cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO,
họ có thể thực thi những quyền lợi thương mại của mình đối với Việt Nam.
Nhìn chung, tiến trình thực hiện là rất rộng và phức tạp vì nhiều lý do:
- Các nghĩa vụ chung trong GATS, như quy chế đối xử tối huệ quốc, minh bạch
hoá… và các cam kết đàm phán chung về tiếp cận thị trường và đối xử quốc gia có
ảnh hưởng rộng đến các quy tắc và thực tiễn chung của hệ thống chính quyền và
pháp lý của Việt Nam, ví dụ những nghĩa vụ liên quan đến luật doanh nghiệp, đầu
tư trực tiếp nước ngoài, cạnh tranh và cư trú t
ạm thời của thể nhân (natural
persons) cung cấp dịch vụ tại Việt Nam.
- Các cam kết lĩnh vực cụ thể (sector-specific commitments) áp dụng với 11 lĩnh
vực dịch vụ và khoảng 110 phân ngành (trên tổng số 155 phân ngành theo phân

9
Báo cáo của Nhóm Công tác về gia nhập của Việt Nam, tài liệu WTO WT/ACC/VNM/48/Add. 1, Đoạn 131,
132
10
Tham khảo báo cáo của các chuyên gia trong nước trang 2; phần I:3, III:1; III:2:a…


16
loại của GATS)11. Các cam kết ngành có thể bao gồm nhiều hạn chế, giới hạn và
điều kiện về tiếp cận thị trường và đối xử quốc gia, một số cam kết bao gồm lộ
trình thực hiện cụ thể. Trong khung pháp lý quốc gia tương ứng, mỗi và tất cả các
ngành, phân ngành dịch vụ đều được điều chỉnh bởi luật, quy định, nghị định .v.v,
phần lớn trong số đó có thể có ảnh hưởng thương mại quốc tế về dịch vụ thông qua
những hạn chế, giới hạn, phân biệt đối xử với nhà cung cấp nước ngoài, các quy
định trong phân ngành cụ thể .v.v.v 12
- Ngoài các cam kết tiếp cận thị trường trong Biểu cam kết dịch vụ (GATS
Schedule), Việt Nam cũng đã cam kết một số thay đổi pháp lý đáng kể không được
liệt kê trong Biểu cam kết. Chúng có liên quan tới các vấn đề thương mại cụ thể về
quy định liên quan đến dịch vụ của Việt Nam13. Trong tất cả các vấn để nêu trên,
Việt Nam đã cam kết thực hiện những thay đổi pháp lý, một số cam kết có thời hạn
thực hiện cụ thể.
- Hệ thống quy định và pháp lý của Việt Nam có thể mang lại những phức tạp trên
thực tế. Những khó khăn này được công nhận bởi nhiều các ấn phẩm chính thống
ở Việt Nam, nhất là những ấn phẩm do các Bộ/ngành hữu quan giới thiệu như của

11
Các cam kết GATS được liệt kê trong Biểu cam kết dịch vụ của Việt Nam, tài liệu WTO
WT/ACC/VNM/48/Add.2 ngày 27/10/2006. Ngoài những cam kết chung được đề cập ở trên, còn bao gồm các
cam kết trong 11 lĩnh vực dịch vụ chính, bao gồm: dịch vụ kinh doanh (bao gồm các dịch vụ chuyên nghiệp),
dịch vụ thông tin (bao gồm chuyển phát, dịch vụ nghe nhìn và viễn thông), xây dựng và các dịch vụ kỹ thuật liên
quan, dịch vụ phân phối, dịch vụ giáo dục, dịch v
ụ môi trường, dịch vụ tài chính (bao gồm bảo hiểm, ngân hàng
và chứng khoán), dịch vụ sức khoẻ và xã hội liên quan, du lịch và các dịch vụ lữ hành liên quan, dịch vụ văn
hoá, thể thao và giải trí, và dịch vụ giao thông (bao gồm hàng hải, đường thuỷ nội địa, hàng không và đường sắt).
12
Ví dụ, các dịch vụ tài chính của Việt Nam được điều chỉnh bởi hàng loạt luật và các công cụ pháp lý khác. Chỉ
có thông tin giới hạn được cung cấp cho nhóm chuyên gia liên quan đến khung pháp lý điều chỉnh dịch vụ tài

chính và tác động của các cam kết GATS của Việt Nam. Một ví dụ khác là Nghị định số 59/2006/NĐ-CPngày
12/6/2006 hướng dẫn chi tiết Luật Thương mại liên quan đến hàng hoá và dịch vụ cấm buôn bán, đối tượng bị
h
ạn chế buôn bán hoặc buôn bán có điều kiện.
13
Những vấn đề đó bao gồm: các thủ tục cấp phép trong ngành viễn thông và chuyển phát nhanh (Báo cáo WP
Đoạn 479); giá sàn đối với các cuộc gọi quốc tế đến Việt Nam và phân phối cuộc gọi bởi quota trong số 6 nhà
cung cấp Việt Nam (Đoạn 480), các điều kiện về thành lập ngân hàng liên doanh hoặc 100% vốn nước ngoài
(Đoạn 483), các yêu cầu vốn tối thiểu đối với chi nhánh ngân hàng nước ngoài (Đoạn 484, 485), tiêu chí cấp
phép đối với dịch vụ bảo hiểm (Đoạn 488), thông tin về thay đổi quy định đối với các công ty bảo hiểm nước
ngoài (Đoạn 489), minh bạch hoá trong quy định về dịch vụ bảo hiểm (Đoạn 491), quy định tương lai về chi
nhánh trực tiếp của các công ty bảo hiểm phi nhân thọ nước ngoài (Đoạn 494), giới hạn vốn và đánh giá nhu cầu
kinh tế đối dịch vụ giao thông (Đ
oạn 496), tái phân bổ vốn bên trong một liên doanh (Đoạn 498), tiếp cận thị
trường đối với dịch vụ bán lẻ (Đoạn 499), các yêu về cầu biểu quyết đối với những loại hình doanh nghiệp khác
nhau (Đoạn 502), sửa đổi Điều lệ của các liên doanh (Đoạn 503), công bố các luật, quy định (Đoạn 506), các
quy tắc rất chi tiết về thủ tục cấp phép (Đ
oạn 507) và sự độc lập của các cơ quan lập pháp (Đoạn 508).


17
Bộ Kế hoạch và Đầu tư, và bởi các chuyên gia trong nước từ nhiều Bộ/ ngành khác
nhau tham gia các hoạt động khác nhau của Dự án MUTRAP
14
. Thương mại dịch
vụ được điều chỉnh bởi một số lượng lớn các tài liệu pháp quy phức tạp và được
ban hành bởi nhiều cấp Chính quyền khác nhau, bao gồm Luật, Pháp lệnh do Quốc
hội và Ủy ban thường vụ của Quốc hội ban hành Nghị định, Quyết định của Chính
phủ và Thủ tướng Chính phủ, Thông tư và Quyết định của các Bộ. Những văn bản
pháp quy này điều chỉnh các lĩnh vực khác nhau của luật pháp và có ảnh hưởng

không chỉ tới thương mại dịch vụ, mà còn ở các lĩnh vực rộng hơn của chính sách
và pháp luật. Chẳng hạn như Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, Luật Cạnh tranh và
Quy định về Nhập cảnh, xuất cảnh và cư trú của người nước ngoài ở Việt Nam.
Ngoài ra, có nhiều những văn bản pháp quy cùng điều một lĩnh vực dịch vụ, ví dụ
Luật Bảo hiểm, Pháp lệnh Bưu chính - Viễn thông và các Văn bản pháp quy hướng
dẫn thi hành. Bên cạnh đó, còn có những sự khác biệt giữa luật và các văn bản
hướng dẫn thi hành luật, giữa nghị định của Chính phủ và thông tư của các Bộ,
giữa văn bản pháp quy cấp trung ương và cấp địa phương… Tuy nhiên, Việt Nam
không có Toà án hiến pháp để quyết định liệu các đạo luật mâu thuẫn và các văn
bản pháp lý khác có trái hiến pháp hay xung đột với các văn bản pháp quy hay
không
15
Đây là những thực tế gây ra những lo ngại đáng kể với các doanh nghiệp.
Trong lúc họ hoan nghênh các tiến bộ đạt được trong cải tố pháp luật tại Việt Nam,
cộng đồng doanh nghiệp quốc tế
16
phàn nàn rằng “có nhiều đạo luật và công cụ
pháp lý khác được công bố vẫn chưa rõ ràng, chưa cụ thể, mâu thuẫn với các đạo
luật khác, và/hoặc không được thực thi. Ngoài ra, có một số luật được ban hành và
có hiệu lực nhưng lại không có Nghị định, Thông tư, văn bản hướng dẫn thi hành
khiến các nhà đầu tư trong và ngoài nước cũng như các cấp chính quyền bối rối và
không thể áp dụng các điều khoản của các luật mới”. Những nhìn nhận này về tình
hình ở Việt Nam có thể gây ảnh hưởng tiêu cực đối với các cơ hội của Việt Nam
để thu hút đầu tư nước ngoài và thương mại quốc tế, vì các doanh nghiệp và nhà
đầu tư tìm kiếm cơ hội kinh doanh trong môi trường pháp lý rõ ràng, minh bạch,
có thể dự đoán và tin cậy. Nếu họ không đánh giá môi trường đó là tích cực, họ sẽ
chuyển hướ
ng chú ý sang các thị trường khác đang cạnh tranh với Việt Nam.
- Một vấn đề đáng chú ý khác đối với thương mại dịch vụ là thủ tục cấp chứng
chỉ/giấy phép kinh doanh vốn được đòi hỏi như một điều kiện tiên quyết để thực

hiện các hình thức kinh doanh khác nhau, trong đó có lĩnh vực dịch vụ. Về nguyên
tắc, GATS không ngăn cấm các yêu cầu về cấp phép, tuy nhiên thủ tục phải tuân
thủ khuôn khổ Chương VI của GATS về “quy định trong nước” và khi chúng
không vi phạm các cam kết tiếp cận thị trường đang tồn tại.
- Tuy nhiên, có những nghi ngờ liệu một số các yêu cầu pháp quy đó có phù hợp với
yêu cầu trong Chương VI GATS là “hợp lý, khách quan và công bằng” (mặc dù rất
khó để dự đoán làm cách nào những quy định chung này của GATS được
hiểu/diễn giải trong những trươ
ng hợp giải quyết tranh chấp WTO trong tương lai).

14
Tham khảo Báo cáo của nhóm chuyên gia trong nước của Hoạt động này (phần III.1) và Báo cáo Hoạt động
HOR-1 “Nâng cao hiệu quả lập pháp liên quan đến thương mại”
15
Tham khảo Bản tin doanh nghiệp VCCI số 14, tháng 6/2006, tác giả: Phạm Duy Nghĩa, ĐHQG Việt Nam
16
Diễn đàn kinh doanh Việt Nam, Hà Nội, 30/5/2007

18
Một số yêu cầu về cấp phép còn có thể xung đột với cam kết tiếp cận thị trường và
các cam kết đối xử quốc gia cụ thể mà Việt Nam đã cam kết. Và một lần nữa, hậu
quả không thể bác bỏ của việc này là cộng đồng doanh nghiệp có thể phàn nàn về
tính không rõ ràng của hệ thống pháp luật.
17

- Trước những nghi ngại này, Việt Nam đã có các cam kết ràng buộc và rõ ràng về
thủ tục cấp phép trong lĩnh vực dịch vụ
18
. Đại diện của Việt Nam đã khẳng định
với Nhóm công tác về việc gia nhập WTO của Việt Nam rằng: “Việt Nam sẽ đảm

bảo các điều kiện và thủ tục cấp phép của Việt Nam sẽ không được áp dụng như
các rào cản độc lập đối với tiếp cận thị trường và rằng đối với những ngành dịch
vụ đã được bao gồm trong Biểu cam kết, Việt Nam sẽ đảm bảo: (a) các thủ tục và
điều kiện cấp phép của Việt Nam được công bố trước khi có hiệu lực; (b) trong
công bố đó, Việt Nam sẽ xác định rõ khung thời gian đối với quyết định có liên
quan của (các) cơ quan có thẩm quyền về giấy phép; (c) các cơ quan có thẩm
quyền sẽ xem xét và đưa ra quyết định về giấy phép trong thời hạn đã được ghi rõ
trong các thủ tục chính thức; (d) bất cứ mức phí nào phải đóng có liên quan đến
việc thực hiện và xem xét hồ sơ/ đơn sẽ không tạo thành một rào cản độc lập với
tiếp cận thị trường; (e) khi có đề nghị của người nộp hồ sơ/ đơn,(các) cơ quan có
thẩm quyền của Việt Nam sẽ thông báo với người nộp về tình trạng đơn của họ và
liệu nó có đầy đủ hay không. Một hồ sơ/ đơn sẽ không được xem là đầy đủ cho tới
khi toàn bộ thông tin cụ thể trong các quy định phù hợp đã được nhận đủ. Nếu cơ
quan có thẩm quyền yêu cầu thêm thông tin từ người nộp đơn, cần phải thông báo
cho người nộp đơn mà không được trì hoãn quá thời hạn và chỉ rõ thông tin cần
thêm để có mẫu đơn hoàn chỉnh. Những người nộp đơn có cơ hội bổ sung những
thông tin còn thiếu trong hồ sơ/đơn nộp; (f) khi có đề nghị của những người nộp
đơn bị từ chối, cơ quan có thẩm thẩm quyền đã từ chối đơn cần có văn bản thông
báo cho người nộp lý do từ chối đơn của họ; (g) Nếu hồ sơ/đơn bị từ chối, người
nộp có thể trình một bộ hồ sơ/ đơn mới với mong muốn khắc phục bất kỳ vấn đề
nào trước đó; (h) Khi hồ sơ/đơn được phê chuẩn, người nộp đơn cần phải được
thông báo bằng văn bản một cách nhanh chóng. Nhóm Công tác ghi nhận các cam
kết này của Việt Nam.
Có thể, một vài trong số những vấn đề trên đã được giải quyết trong quy định và
pháp luật của Việt Nam. Tuy nhiên, điều quan trọng trong bất cứ tình huống nào,
là thi hành các cam kết này.
Một nghiên cứu gần đây do Bộ Kế hoạch và Đầu tư Việt Nam phối hợp cùng với
UNCTAD thực hiện về Chiến lược quốc gia đối với ngành dịch vụ tại Việt Nam cho tới
năm 2020 đã khái quát tất cả những vấn đề trong các kết luận dưới đây19:


17
Tham khảo Diễn đàn kinh doanh Việt Nam, Hội nghị giữa kỳ nhóm tư vấn các nhà tài trợ, Hà Nội, 30/5/2007,
18
Tham khảo Báo cáo của Nhóm công tác (Chú thích 8), Đoạn 507
19
Tham khảo Bộ Kế hoạch Đầu tư và UNCTAD, Khung khổ chung đối với chiến lược quốc gia trong lĩnh vực
Dịch vụ tại Việt Nam tới năm 2020 (tác giả: Tiến sĩ Dorothy Riddle, Giáo sư, Tiến sĩ Nguyen Hong Son, Tiến sĩ
Cristina Hernandez), Hà Nội, tháng 6/2006

19
- FDI trong ngành dịch vụ đang gia tăng trên toàn cầu, tuy nhiên tại Việt Nam FDI
trong ngành dịch vụ vẫn còn thấp và các quy định đối với FDI vẫn tiếp tục gây ra
những hạn chế việc tiếp cận thị trường.
- Sự phát triển các dịch vụ yêu cầu cơ chế về phối hợp trong việc lên kế hoạch và
thực hiện hiệu quả; tuy nhiên việc phối hợp và giám sát vẫn còn yếu.
- Vào thời điểm thực hiện nghiên cứu, khung pháp lý của Việt Nam vẫn còn chưa
hoàn chỉnh và chưa được thực thi một cách nhất quán. Các bước cụ thể để khắc
phục vấn đề sẽ được xác định dựa trên nghiên cứu sâu hơn, rộng hơn để xác định
khoảng trống, các mâu thuẫn và những yếu kém trong việc thi hành đối với mỗi
phân ngành trong lĩnh vực dịch vụ.
Tất cả những điều này có nghĩa rằng tiến trình thực hiện các cam kết và nghĩa vụ
GATS của Việt Nam sẽ cần nhiều nỗ lực, thời gian và nguồn lực hơn
20
Số lượng và khối
lượng công việc đó vẫn là một câu hỏi.
2.5. Khung pháp lý đối với việc thực hiện các cam kết và nghĩa vụ GATS của Việt
Nam
21

Hiệp định Marrakesh năm 2005 về thành lập Tổ chức Thương mại Thế giới (Chương

XVI đoạn 4) yêu cầu Việt Nam (cũng như bất cứ thành viên nào khác) phải “đảm bảo sự phù
hợp của các luật, quy định và thủ tục hành chính đối với các nghĩa vụ quy định trong các Hiệp
định liên quan”. Quy định pháp lý này song hành cùng với các nguyên tắc pháp lý quan trọng
của luật quốc tế: "pacta sunt servanda" (các hiệp ước cần được tôn trọng và thực hiện đầy đủ),
và không bên nào được “viện dẫn các điều khoản của luật trong nước để bào chữa cho việc
không thể thực hiện hiệp ước"
22
.
Điều này cũng đã được khẳng định bởi Cơ quan Giải quyết tranh chấp của WTO.
Theo đó, Việt Nam không được phép có bất cứ luật, quy định hoặc thủ tục hành chính nào vi
phạm các nghĩa vụ WTO. Một điều quan trọng cần ghi nhớ là việc thực hiện đầy đủ các nghĩa
vụ và quy định của WTO không chỉ có thể dẫn đến việc cần phải có những điều chỉnh cần
thiết của công cụ pháp lý, ví dụ như nội dung các văn bản pháp lý của quốc gia thành viên
mới của WTO, mà còn yêu cầu sự thực thi những quy định và nghĩa vụ này thông qua tất cả
các “biện pháp” của các cơ quan hữu quan.
Tương tự, Luật Ký kết, Gia nhập và Thực hiện các hiệp ước của Việt Nam (thường
được gọi là Luật Hiệp ước) (Chương 3.6) ghi nhận n
ước này đồng ý tuân thủ các hiệp ước
quốc tế mà Việt Nam tham gia.


20
Để tiếp cận được các khía cạnh tiềm năng của nhiệm vụ này, cần ghi nhớ Dự án USAID Viet Nam-STAR
được thiết kế để trợ giúp Việt Nam trong việc thực hiện BTA Việt-Mỹ đã được khởi động từ năm 2002, với 15
thành viên thường trực, trong đó có khoảng 5 luật sư làm việc trọn ngày và có thêm các luật sư khác khi cần
thiết.
21
Để có thêm chi tiết, tham khảo báo cáo chính sửa về Nghiên cứu và Tham khảo xét Luật và Quy chế liên quan
của Việt Nam khi gia nhập WTO của Học viện Khoa học Pháp lý Ngân hàng thế giới cùng với Bộ Tư pháp Việt
Nam (Ban Luật Quốc tế), Washington/Hà Nội, tháng 3.2006.

22
Tham khảo Chương 26 và 27của Công ước Vienna về Luật các hiệp ước.

20
Mối quan hệ giữa các hiệp ước quốc tế và luật trong nước của Việt Nam và việc thực
hiện các hiệp ước quốc tế trong luật trong nước được nhắc đến trong nhiều đoạn của Báo cáo
của Nhóm Công tác:
- Đoạn 112 nói về quyền của Chủ tịch Nước trong việc phê chuẩn hoặc chấp nhận
tham gia các hiệp ước quốc tế, ngoại trừ những hiệp ước phải chờ quyết định của
Quốc hội.
- Đoạn 113 về thẩm quyền của Chính phủ đối với các chính sách đối ngoại, đàm
phán, ký kết và thực hiện các hiệp ước quốc tế.
- Đoạn 118 mô tả Luật Hiệp ước 2005 của Việt Nam như một bộ luật đặc biệt về các
vấn đề hiệp ước và thảo luận các vấn đề pháp l ý liên quan đến hiệp ước quốc tế.
Điều này dẫn tới kết luận rằng Văn kiện gia nhập WTO có thể được thông qua bởi
Quốc hội hoặc Chủ tịch nước. Luật yêu cầu tất cả các hiệp ước quốc tế cần được
công bố.
- Đoạn 119 là cam kết rõ ràng của Việt Nam về việc làm cách nào để các hiệp ước
quốc tế và nghĩa vụ WTO được thực thi tại Việt Nam. Trong nội dung về thực thi
WTO, có 4 cam kết cơ bản: Trước tiên, Quốc hội sẽ thông qua Văn kiện gia nhập,
dù Luật Hiệp ước quy định rằng các hiệp ước quốc tế có thể được phê chuẩn bởi
Quốc hội hoặc Chủ tịch Nước. Thứ hai, tại cùng thời điểm phê chuẩn, Quốc hội
phải quyết định cách thức thực thi cam kết WTO: Qua việc áp dụng trực tiếp
hoặc/và chuyển các cam kết WTO sang luật trong nước (bằng cách sửa đổi những
luật hiện hành hoặc xây dựng các luật mới). Thứ 3, trong trường hợp có xung đột
giữa luật trong nước và cam kết WTO về cùng nội dung, cam kết WTO sẽ được áp
dụng. Cuối cùng, việc phát triển luật trong nước không được gây ra những trở ngại
đối với thi hành các cam kết WTO.
- Cuối cùng, đoạn 479 trong Báo cáo của Nhóm Công tác mô tả việc thông qua Văn
kiện gia nhập WTO của Việt Nam là nền tảng pháp lý cho việc ban hành các quy

định trong nước để thực hiện cam kết WTO.
Trên cơ sở đó, Việt Nam đã chính thức thông qua Hiệp ước WTO bằng Nghị quyết số
71/2006 của Quốc hội ngày 29/11/2006, phê chuẩn Văn kiện gia nhập WTO của Nước cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Các thoả thuận và điều kiện gia nhập của Việt Nam được liệt kê trong Văn kiện gia
nhập WTO, bao gồm ba phần: (i) những nghĩa vụ và cam kết trong các Hiệp định WTO; (ii)
những điều khoản được đề cập trong Văn kiện, bao gồm “các cam kết được đề cập trong đoạn
527 của Báo cáo của Nhóm Công tác” - đó là phần không thể tách rời của Hiệp định WTO; và
(iii) những điều được đề cập trong Biểu Cam kết và Phụ lục của Văn kiện gia nhập.
Nghị quyết số 71/2006 của Quốc hội uỷ quyền cho Quốc hội, Chính phủ, Toà án
Nhân dân Tối cao và Viện Kiểm soát Nhân dân tối cao được tiến hành tất cả các bước cần
thiết để thực thi các cam kết và nghĩa vụ WTO của Việt Nam. Nghị quyết ghi rõ:
“3. Trong khuôn khổ quyền lự
c và nhiệm vụ của các cơ quan này, Chính phủ, Toà án
Nhân dân tối cao và Viện Kiểm soát Nhân dân tối cao có những trách nhiệm sau:
a) Rà soát các cam kết của Việt Nam với Tổ chức thương mại thế giới được quy định
đủ rõ, chi tiết trong Nghị định thư, các Phụ lục đính kèm và Báo cáo của Ban công tác về việc
Việt Nam gia nhập Hiệp định thành lập Tổ chức thương mại thế giới, nhưng chưa được ghi

21
trong Phụ lục đính kèm Nghị quyết này để áp dụng trực tiếp và báo cáo Uỷ ban thường vụ
Quốc hội;
b) Rà soát văn bản thi hành luật pháp luật để trình Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc
hội sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới; sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới văn bản thi hành
luật pháp luật thuộc thẩm quyền phù hợp với cam kết của Việt Nam với Tổ chức thương mại
thế giới;
c) Trên cơ sở đánh giá những cơ hội và thách thức, thuận lợi và khó khăn, những tác
động của việc Việt Nam gia nhập Tổ chức thương mại thế giới xây dựng chương trình, kế
hoạch hành động cụ thể và tổ chức triển khai thực hiện các cam kết của Việt Nam với Tổ
chức thương mại thế giới, phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, đẩy

mạnh hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới.
Chính phủ tiến hành các thủ tục đối ngoại về việc phê chuẩn Nghị định thư gia nhập
Hiệp định thành lập Tổ chức thương mại thế giới của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩ
a Việt
Nam.
Chính phủ phối hợp với Uỷ ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và chỉ đạo các
cơ quan, tổ chức hữu quan ở trung ương và địa phương thực hiện tốt công tác thông tin tuyên
truyền để tạo sự thống nhất trong nhận thức và hành động của nhân dân cả nước cũng như
đồng bào ta ở nước ngoài về việc Việt Nam gia nhập Tổ chức th
ương mại thế giới.
Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội, các đoàn đại
biểu Quốc hội và các đại biểu Quốc hội trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình giám
sát việc thực hiện Nghị quyết này.”
Thi hành các nghĩa vụ và cam kết WTO của Việt Nam sẽ là một yếu tố quan trọng của
Chương trình Pháp luật Quốc hội (NA).
23
Tháng 11 năm 2006, Quốc hội đã thông qua
Chương trình xây dựng Luật và Pháp lệnh năm 2007.
24
Chương trình bao gồm 21 luật, 14
pháp lệnh và nghị quyết trong Danh mục các Dự án chính thức, và 16 luật trong Danh sách
các Dự án dự phòng. Trong phiên họp đầu tiên của nhiệm kỳ XII, Quốc hội cũng thông qua
Chương trình làm Luật và Pháp lệnh trong 5 năm tới và năm 2008.
Trong lĩnh vực pháp Luật Thương mại quốc tế, Việt Nam đã đạt được tiến bộ đáng kể
trước khi gia nhập WTO. Việt Nam cũng đã thông qua nhiều cả
i cách pháp lý trong thời gian
chuẩn bị gia nhập năm 2005 và 2006. Là lần đầu tiên trong lịch sử chỉ trong vòng 1 năm pháp
lý, Quốc hội Việt Nam đã thực thi 29 luật và góp ý cho 10 dự thảo luật. Trong số các luật mới
được thực thi, 2/3 liên quan trực tiếp tới hội nhập kinh tế quốc tế và gia nhập WTO. Công cụ



23
Những phần sau đây đề cập đến tuyên bố của Việt Nam trong Báo cáo của Ban Công tác WTO (tài liệu WTO
mã WT/ACC/VNM/48, Đoạn 119) và những đóng góp cho Dự án Mutrap theo Hoạt động HOR-1 “nâng cao
chất lượng của Luật liên quan đến thươntg mại” của Chuyên gia trong nước Ngô Đức Mạnh, Giám đốc Trung
tâm Thông tin, Thư viện và các dịch vụ nghiên cứu, Văn phòng Quốc hội, và ông Nguyễn Khánh Ngọc, Phó Vụ
trưởng Vụ Luật pháp quốc tế, Bộ Tư pháp và T
ư vấn pháp lý cao cấp của Dự án Mutrap trong Hoạt động HOR-
7, “các khía cạnh pháp lý của việc gia nhập WTO”

24
Nghị quyết của Quốc hội số 72/2006/QH11 ngày 29/11/2006 về Chương trình xây dựng luật và pháp lệnh năm
2007.

22
pháp lý chính là Kế hoạch Xây dựng pháp luật gia nhập WTO mà Bộ Tư pháp hợp tác cùng
các Bộ, ngành hữu quan khác đã rà soát một số lượng lớn các luật và văn bản pháp luật cần
sửa đổi và thực thi mới. Bộ luật quan trọng đặc biệt là Luật Ký kết, Gia nhập và Thực thi
các Điều ước quốc tế ngày 14/6/2005 (“Luật Điều ước”). Luật này điều chỉnh quá trình rà
soát gói gia nhập WTO (và các điều ước quốc tế) và thực thi luật pháp.
Đặc biệt, Luật này nhằm xác định vị trí phân cấp các điều ước quốc tế trong hệ thống
pháp luật Việt Nam. Về khía cạnh này, Điều 6(1) và (2) của Luật Điều ước quy định:
“(i) Trong trường hợp, với cùng một vấn đề, tài liệu pháp lý chuẩn gồm các điều
khoản khác với các điều khoản phù hợp của 1 điều ước mà nước CHXHCN Việt Nam là một
bên, các điều khoản trong điều ước sẽ được áp dụng;
(ii) Việc ban hành các văn bản pháp lý sẽ không tạo nên bất cứ rào cản nào đối với
việc thực hiện các điều ước mà nước CHXHCN Việt Nam là một bên và các điều ước có
những điều khoản về các vấn đề đó”
Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư và Luật Thương mại năm 2005 có quy định cùng một
nguyên tắc. Điều này được tái khẳng định trong Nghị quyết của Quốc hội về việc Việt Nam

gia nhập WTO.
Nguyên tắc ưu tiên luật điều ước quốc tế hơn luật và quy định trong nước thường được
viện dẫn để cho rằng thi hành luật WTO ở Việt Nam đang được triển khai tốt. Tuy nhiên, trên
thực tế, không rõ nguyên tắc này đảm bảo thi hành hoàn toàn luật WTO đến mức độ nào.
Trong báo cáo nêu trên (chú thích 13), Ngân hàng Thế giới cho rằng mặc dù Luật Điều ước
quy định ưu tiên điều ước quốc tế hơn luật trong nước, tuy nhiên Luật này “không thực sự xác
định được vị trí của điều ước quốc tế trong hệ thống luật Việt Nam, Hiến pháp Việt Nam cũng
không xác định được điều này”. Hệ thống pháp lý của Việt Nam phụ thuộc rất nhiều vào thi
hành luật pháp và các quy định, thậm chí là đối với luật và quy định trong nước. Trong quá
trình thực thi luật và quy định đó, sẽ không dễ gì áp dụng nguyên tắc ưu tiên điều ước quốc tế
hơn luật trong nước. Tóm lại, nguyên tắc đó không giải thích được chi tiết việc áp dụng thực
tế đang được quy định trong các văn bản thực thi. Thêm vào đó, việc ưu tiên các điều ước
quốc tế được quy định trong Luật Điều ước bị nghi ngờ bởi thực tế là nhiều luật và các văn
bản pháp lý trong nước xung đột với các nghĩa vụ WTO vẫn được thực thi và tiếp tục tồn tại.
Ngoài ra, cũng không rõ là nguyên tắc ưu tiên này trên thực tế được thực thi như thế nào, liệu
các nhà ban hành luậ
t của các ngành và các cơ quan quản lý ở khắp nước có biết điều này
không và cơ quan nào đưa ra quyết định cuối cùng trong trường hợp có xung đột đó. Các
chuyên gia Việt Nam đã khẳng định những nghi ngờ này và chỉ ra thực tế rằng không có toà
nào quyết định điều đó.
Những đề xuất khác nhau về chương trình xây dựng pháp luật trong Nghị quyết Quốc
hội số 71/2006 cần được chú ý hơ
n:
- Theo Luật Điều ước, có thể áp dụng trực tiếp điều ước quốc tế ở Việt Nam nếu
điều ước “đủ chi tiết và rõ ràng”. Nghị quyết Quốc hội quy định rõ việc áp dụng
một số nghĩa vụ WTO của Việt Nam. Do vậy, một số (hạn chế) những thay đổi
pháp lý liệt kê trong Phụ lục Nghị quyết thực sự có thể được áp dụng trực tiếp. Cụ
thể, một số thay đổi trong Luật Doanh nghiệp, Luật Luật sư, Luật Doanh nghiệp
bảo hiểm, Luật về các Luật, Luật Sở hữu trí tuệ và Luật Điện ảnh có thể được áp
dụng trực tiếp. Ngoài các trường hợp áp dụng trực tiếp, Nghị quyết Quốc hội kêu

gọi các cơ quan lập pháp tìm hiểu thêm các khả năng áp dụng trực tiếp các nghĩa
vụ của WTO.

23
- Tuy nhiên, để áp trực tiếp các nghĩa vụ và cam kết WTO, các quy định quốc tế
phải “đủ chi tiết và rõ ràng”. Trong nhiều trường hợp, những luật này rất chung
chung, thường không rõ ràng, đôi khi xung đột và có thể được giải thích theo các
cách khác nhau
25
.Chúng được xây dựng trên những quan điểm pháp lý khác nhau,
đặc biệt bởi hệ thống luật Common Law và các hệ thống luật truyền thống khác,
các mục tiêu chính sách khác nhau, bao gồm của cả những nước đang phát triển.
Thông thường, việc áp dụng trực tiếp các nghĩa vụ WTO đối với thương mại hàng
hóa thường dễ hơn so với thương mại dịch vụ. Luật WTO về thương mại hàng hóa thường chi
tiết hơn và rõ ràng hơn. Ngược lại, các nghĩa vụ và cam kết trong GATS thường phức tạp
hơn, khó hiểu và khó giải thích. Điều này là bởi vì hầu hết các quy định của GATS và các
cam kết về dịch vụ ảnh hưởng đến quy định và luật trong nước. Trong tình huống này, việc áp
dụng trực tiếp các quy định WTO có thể tạo nên sự không nhất quán, giải thích xung đột nhau
và xung đột với luật trong nước. Do đó, Việ
t Nam có thể cần phải tiếp tục thực hiện các nghĩa
vụ và cam kết về dịch vụ thông qua việc đưa các cam kết cụ thể vào luật trong nước. Trên
thực tế, trước đây Việt Nam đã làm như thế. Ví dụ như Luật Doanh nghiệp bảo hiểm, Luật Du
lịch, Luật Kế toán, Luật Kiểm toán và Pháp lệnh Bưu chính Viễn thông được thông qua năm
2005/2006. Môt ngoại lệ thú vị là Lu
ật Luật sư, trong đó nguyên tắc áp dụng trực tiếp đã được
sử dụng trong Nghị quyết Quốc hội nói trên.
Một câu hỏi mở khác là đâu là hình thức pháp lý tốt nhất để thực hiện các nghĩa vụ
WTO: thông qua các luật cụ thể cho từng ngành, hay là thông qua kỹ thuật xây dựng một luật
bao trùm (omnibus). Cách thức xây dựng luật này rất mới ở Việt Nam. Cách thức xây dựng
luật omnibus có nghĩa là xây dựng một luật chung trong đó bao trùm tất cả các thay đổi pháp

lý phải làm theo Hiệp định WTO và nghị định thư gia nhập WTO của Việt Nam. Bộ Tư pháp
đã nhấn mạnh những ưu điểm của cách thức xây dựng luật này. Ưu điểm là tốc độ quá trình
thực thi nhanh và cách triển khai các nghĩa vụ WTO thống nhất theo một quan điểm chính
sách của Chính phủ. Mặt khác, sự phức tạp của hầu hết các luật và nghĩa vụ WTO, đặt biệt là
của GATS, sẽ làm cho việc triển khai các cam kết theo một luật chung (omnibus) sẽ rất khó
tiến hành nhanh
26
.
Sự cần thiết để áp dụng thống nhất luật thực thi WTO đã được giải quyết trong luật
Việt Nam thậm chí trước khi Việt Nam gia nhập WTO. Trong quá trình đàm phán gia nhập,
các Thành viên WTO yêu cầu Việt Nam phải cam kết cụ thể về vấn đề này. Các cuộc đàm
phán đã đề cập đến các thay đổi pháp lý và thi hành của các cơ quan và quan chức chính phủ.
Kết quả là, Luật Ban hành văn bản thi hành luật pháp luậ
t đã được sửa đổi năm 2002 và nhiều
quy định thực thi đã được ban hành sau đó. Bênh cạnh đó, Luật Ban hành văn bản thi hành


25
Một ví dụ điển hình là Điều 6.1 Hiệp định GATS quy định là “Trong những ngành có đưa ra cam kết cụ thể,
mỗi Thành viên phải đảm bảo rằng các biện pháp áp dụng chung ảnh hưởng đến thương mại dịch vụ phải được
quản lý một cách hợp lý, khách quan và công bằng”. Không có Hiệp định WTO nào giải thích như thế nào là hợp
lý, khách quan và công bằng.

26
Viện Khoa học Luật Ngân hàng Thế giới, Nghiên cứu: Có thể sử dụng Kỹ thuật xây dựng luật chung
(Omnibus ) để thực thi các cam kết và nghĩa vụ WTO của Việt Nam, Washington, Hà Nội, tháng 3/2006; Lê Đức
Mạnh, “Áp dụng Kỹ thuật xây dựng luật chung (Omnibus )”, Hà Nội, 2007, đóng góp vào hoạt động dự án
Mutrap “Nâng cao chất lượng luật liên quan đến thương mại”, có tại dự án Mutratrang

24

luật pháp luật mới của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban Nhân dân đã được ban hành năm 2004.
Để đảm bảo áp dụng thống nhất, các cuộc đàm phán đã tạo nên một cuộc cải cách sâu rộng
trong cơ chế pháp lý của Việt Nam về quyền khiếu kiện. Sự thống nhất luật trên toàn lãnh thổ
Việt Nam cũng được đảm bảo thông qua một luật chung theo đó các cơ quan địa phương phải
tuân theo các luật chung và các văn bản pháp lý của các cơ quan địa phương cũng phải nhất
quán với các luật và quy định của các cơ quan trung ương. Để giải quyết bất kỳ xung đột nào
giữa các văn bản pháp lý trung ương và địa phương, Việt Nam duy trì một cơ chế xác định và
vô hiệu hoá các xung đột này. Một trong các cam kết mạnh liên quan đến áp dụng thống nhất
các nghĩa vụ và cam kết WTO được quy định tại đoạn 134 Báo cáo của Ban công tác về việc
Việt Nam gia nhập WTO: “sẽ áp dụng các điều khoản của hiệp định WTO một cách thống
nhất trên toàn bộ lãnh thổ hải quan và Chính phủ Việt Nam bảo đảm rằng các luật, các quy
định và các biện pháp khác, bao gồm cả các quy định của chính quyền địa phương, phải tuân
thủ các nghĩa vụ của Việt Nam theo Hiệp định WTO các cơ quan chức năng nhà nước sẽ
hành động để tuân thủ các quy định của WTO mà không nhất thiết yêu cầu các bên bị ảnh
hưởng phải khiếu kiện ra toà. Ban Công tác ghi nhận cam kết này”
27
.
2.6. Phương pháp luận của Nghiên cứu này
Phương pháp chính sử dụng trong hoạt động này là nghiên cứu và so sánh. Cả hai sẽ
tuân thủ chặt chẽ Hiệp định GATS và Biểu cam kết dịch vụ của Việt Nam
28
. Như đã nêu ở
trên, báo cáo nhằm cung cấp phân tích về các nghĩa vụ chung của Việt Nam trong GATS (ví
dụ, MFN, minh bạch hoá, các quy định trong nước vv ) và các cam kết chung và cam kết
theo ngành liên quan tới tiếp cận thị trường và đối xử quốc gia.
Sau khi phân tích các cam kết của Việt Nam và các quy định trong nước liên quan,
báo cáo rút ra kết luật về tính nhất quán giữa cam kết của Việt Nam và các luật và quy định
trong nước. Báo cáo cố gắng đề cập đến nhiều ngành/phân ngành dịch vụ nhất có thể. Tuy
nhiên, cũng lưu ý là mức độ sâu của các phân tích đó bị hạn chế bởi những thông tin hạn chế
về các văn bản luật mới được ban hành gần đây.

Hoạt động này được chuẩn bị bởi một báo cáo của các chuyên gia trong nước. Báo cáo
này có tại văn phòng Dự án MUTRAP. Các chuyên gia EU thảo luận báo cáo này với các
chuyên gia trong nước, xác định những câu hỏi mở và các công việc cần phải tiến hành nh
ằm
cải thiện những thông tin sẵn có. Các chuyên gia EU cũng đã rất nỗ lực thu thập thêm thông
tin từ các nguồn đã được công bố. Họ cũng tham vấn những người hưởng lợi quốc tế khác
tích cực trong lĩnh vực ban hành chính sách thương mại, đặc biệt là Phái đoàn EC và Phái
đoàn các thành viên EC ở Việt Nam, Uỷ ban Thương mại EU, Dự án cải cách luật Canada và
Dự án USAID STAR-Việt Nam
3. CÁC NGHĨA VỤ CHUNG TRONG GATS
3.1. Phạm vi áp dụ
ng của GATS
Theo Điều 1 GATS, Hiệp định áp dụng cho tất cả các dịch vụ được tiến hành thương
mại. Ngoại lệ là những dịch vụ được cung cấp thực hiện thẩm quyền của Chính phủ mặc dù
các Thành viên WTO có quyền đàm phán các cam kết tiếp cận thị trường đối với những
ngành này. Các ngoại lệ lệ khác liên quan đến quyền vận tải hàng không (được quy định trong
các hiệp định vận tải hàng không song phương) và các biện pháp liên quan đến tiếp cận các

27
Tham khảo Đoạn 132, 134, WPR
28
Tài liệu WT/ACC/VNM/48/Add.2 ngày 27/10/2006

25
thị trường lao động, công việc vĩnh viễn, di dân và cư trú ở nước ngoài. GATS áp dụng cho
tất cả các “biện pháp” của một Thành viên WTO ảnh hưởng đến thương mại dịch vụ, bao gồm
các biện pháp ở bất kỳ hình thức nào - luật, quy định, thủ tục, quyết định, hành động hành
chính, hoặc bất kỳ dạng nào khác. Định nghĩa “các biện pháp” bao gồm các biện pháp ở tất
các các cấp chính phủ- trung ương, tỉnh và địa phương. Điều này đặc biệt quan trọng với Việt
Nam - một nước có mức độ phân cấp thẩm quyền hành chính cao. Như đã nêu ở trên (chú

thích 27), Việt Nam đã cam kết chính thức trong WTO đảm bảo áp dụng hoàn toàn các quy
định và nghĩa vụ trong WTO trên toàn lãnh thổ Việt Nam.
Một đặc điểm rất đặc biệt của thương mại dịch vụ - đối lập với thương mại hàng hoá -
là sự khác nhau giữa 4 Phương thức cung cấp dịch vụ. Trên thực tế, Điều 1 của GATS đưa ra
định nghĩa pháp lý về “thương mại dịch vụ” thông qua 4 Phương thức cung cấp dịch vụ sau:
(a) từ lãnh thổ của một Thành viên sang lãnh thổ của một Thành viên khác (Phương
thức 1 - thương mại qua biên giới)
(b) trong lãnh thổ của một Thành viên cho người tiêu dùng dịch vụ của một Thành
viên khác (Phương thức 2 - tiêu dùng nước ngoài)
(c) bởi một nhà cung cấp dịch vụ của một Thành viên, thông qua hiện diện thương
mại, trong lãnh thổ của một Thành viên khác (Phương thức 3 - hiện diện thương mại), và
(d) bởi một nhà cung cấp dịch vụ của một Thành viên, thông qua hiện diện của thể
nhân của một Thành viên tại lãnh thổ của một Thành viên khác (Phương thức 4 - hiện diện thể
nhân).
Trong khuôn khổ định nghĩa này, các thành viên WTO, bao gồm Việt Nam đã đưa ra
cam kết cụ thể về tiếp cận thị trường và đối xử quốc gia trong những ngành dịch vụ mà các
thành viên lựa chọn để cam kết. Các cam kết, hạn chế, và điều kiện được liệt kê tại Biểu cam
kết dịch vụ.
29

3.2. Quan điểm “thương mại dịch vụ” trong hệ thống pháp lý của Việt Nam
Hệ thống pháp lý của Việt Nam bao gồm rất nhiều các văn bản pháp lý phức tạp liên
quan đến thương mại dịch vụ - từ luật, pháp lệnh của Quốc hội và Uỷ ban Thường vụ Quốc
hội đến nghị định, quyết định của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ, thông tư và th
ậm chí là
các quyết định của các bộ. Các văn bản pháp luật liên quan đến nhiều lĩnh vực áp dụng khác
nhau, bao gồm không chỉ thương mại dịch vụ và đầu tư nước ngoài, cạnh tranh, xuất cảnh,
nhập cảnh và cư trú của người nước ngoài ở Việt Nam. Các văn bản pháp lý đặc biệt chỉ điều
chỉnh một vài ngành dịch vụ cụ thể, ví dụ Luật Bảo hiểm, Pháp lệnh Bưu chính Viễn thông.
Luật Thương mại (Điều 3.9) đưa ra định nghĩa về “cung cấp dịch vụ” trong hệ thống

luật của Việt Nam. Cung cấp dịch vụ bao gồm các hoạt động thương mại trong đó một bên
(dưới đây gọi là nhà cung cấp dịch vụ) cung cấp một dịch vụ cho một bên khác và nhận được
tiền thanh toán. Bên sử dụng dịch v
ụ (dưới đây gọi là khách hàng) có nghĩa vụ phải trả cho
nhà cung cấp dịch vụ và có quyền sử dụng dịch vụ mà hai bên thống nhất. Điều 75 của Luật
Thương mại đề cập các Phương thức cung cấp dịch vụ như sau:

29
Tham khảo sách xuất bản bởi MUTRAP và Bộ Thương mại, Hưóng dẫn các cam kết của Việt Nam về thương
mại dịch vụ trong WTO, Hà Nội, 2006

×