Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

tác động của chính sách tỷ giá hối đoái tới lạm phát giai đoạn 2000 - 2012

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (286.49 KB, 13 trang )

29 | P a g e

TÁC ĐỘNG CỦA CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ TỚI LẠM PHÁT
Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2000-2012

Lương Thị Nga-K14NHTME
Đào Thị Thu Hiền-K14NHTME
Nguyễn Mạnh Chiến-K14NHTMA

Một trong những biến số vĩ mô được các nhà hoạch định chính sách, các doanh
nghiệp, người dân quan tâm là lạm phát. Gần đây nhất, năm 2012, lạm phát Việt Nam
ở mức khá thấp 6,81% - một con số khá nhỏ, có thể nói là trong tầm kiểm soát- nhưng
đây có phải là tín hiệu tốt cho nền kinh tế không? Bởi nguyên nhân chính của mức lạm
phát này là do sự sụt giảm mạnh của tổng cầu. Trong điều kiện kinh tế đầy khó khăn,
không lối thoát, người dân tiếp tục thắt chặt chi tiêu, doanh nghiệp giải thể, phá sản
nhiều hơn… Đó là lý do tại sao, mặc dù trong thời gian qua chính sách tỷ giá được
duy trì khá ổn định nhưng mỗi khi đưa ra bất kỳ chính sách tỷ giá nào, các nhà chức
trách luôn phải quan tâm tới tác động của nó tới lạm phát. Trong bài viết này, nhóm
tác giả phân tích các kênh tác động của chính sách tỷ giá tới lạm phát và các nhân tố
ảnh hưởng tới các kênh đó, sau đó đi sâu phân tích thực trạng tác động của chính
sách tỷ giá tới lạm phát, nhận định những rủi ro tiềm ẩn và đưa ra khuyến nghị cho
điều hành chính sách tỷ giá thời gian tới.
1. Các kênh tác động của chính sách tỷ giá tới lạm phát
1.1. Các kênh tác động của chính sách tỷ giá tới lạm phát
Về mặt lý thuyết, tác động của chính sách tỷ giá tới lạm phát thông qua 4 kênh
chính: (1) cách tiếp cận tiền tệ, nghiên cứu tác động của tỷ giá tới cung cầu tiền tệ,
qua đó đánh giá tác động tới lạm phát; (2) cách tiếp cận theo trường phái Keynes,
nghiên cứu tác động của tỷ giá qua kênh tổng cung- tổng cầu; (3) cách tiếp cận ảnh
hưởng của tỷ giá tới lạm phát theo kênh mức giá chung; (4) cách tiếp cận ảnh hưởng
của tỷ giá tới lạm phát kỳ vọng. Cơ chế truyền dẫn tác động của chính sách tỷ giá đến
lạm phát trong nền kinh tế mở có thể mô tả như sơ đồ sau: |Xem trang sau)


Qua sơ đồ, tỷ giá tác động gián tiếp đến lạm phát chủ yếu thông qua các con
đường như xuất khẩu ròng, cán cân thanh toán, giá hàng hóa nhập khẩu và đây đều là
các mối quan hệ đồng biến. Tuy nhiên, việc tác động của tỷ giá đến lạm phát thông
qua cán cân thương mại và cán cân thanh toán quốc tế thì mọi nền kinh tế mở đều tuân
theo, nhưng riêng với giá hàng nhập khẩu thì chỉ có những quốc gia có tỷ trọng nhập
khẩu cao so với GDP mới có tác dụng rõ rệt.
Kênh thứ nhất: Tác động của tỷ giá tới lạm phát qua xuất nhập khẩu ròng đó là
khi đồng nội tệ giảm giá so với đồng tiền nước ngoài, xuất khẩu ròng tăng lên, cán cân
thương mại có thể được cải thiện; do xuất khẩu ròng là một thành phần của tổng cầu
30 | P a g e

AD, nên khi xuất khẩu ròng tăng, đường AD dịch chuyển lên trên (trong mô hình AD,
AS), làm tăng mức giá và sản lượng cân bằng, tác động làm lạm phát gia tăng.
Sơ đồ 1: Kênh tác động từ tỷ giá tới lạm phát

Kênh thứ hai: Tác động của tỷ giá tới lạm phát qua cán cân thanh toán. Cơ chế
truyền dẫn này trải qua hai giai đoạn:
-
Khi tỷ giá tăng, xuất nhập khẩu ròng sẽ tăng lên, góp phần cải thiện tình trạng
cán cân thương mại. Mặt khác khi xuất nhập khẩu ròng tăng, đường IS dịch chuyển
sang phải (mô hình IS-LM), lãi suất trong nước tăng lên, trong ngắn hạn luồng vốn đổ
vào trong nước tăng (nguồn vốn đầu tư trực tiếp và gián tiếp) làm cán cân vốn tăng
lên, từ đó cán cân thanh toán tổng thể được cải thiện.
-
Khi cán cân thanh toán tổng thể thặng dư, tức là luồng vốn nước ngoài đổ vào
trong nước tăng lên, lúc này sẽ có hai khả năng xảy ra: (1) NHTW sẽ phải cung ứng
thêm tiền để mua ngoại tệ nhằm giữ tỷ giá không bị giảm xuống để khuyến khích xuất
khẩu và hạn chế nhập khẩu, mặt khác để tăng cường dự trữ ngoại hối quốc gia. Như
vậy, tác động không mong muốn là cung tiền tăng lên, đường LM dịch chuyển sang
phải (mô hình IS- LM) làm cân bằng tiền hàng trong nền kinh tế thay đổi, lạm phát sẽ

tăng lên; (2) nếu NHTW không vì mục tiêu giữ cho đồng bản tệ được định giá thấp để
khuyến khích xuất khẩu và giả định rằng dự trữ ngoại hối đã đủ mức cần thiết và
không cần tăng thêm, trong trường hợp cán cân tổng thể thặng dư thì vẫn có một lượng
ngoại tệ tăng lên trong nền kinh tế. Với những nước có nền kinh tế bị đôla hóa ở mức
độ cao, tổng phương tiện thanh toán của nền kinh tế trong trường hợp này vẫn tăng lên
vì nó bao gồm hai phần là: Tổng phương tiện thanh toán bằng nội tệ và tổng phương
tiện thanh toán bằng ngoại tệ. Khi tổng phương tiện thanh toán tăng lại gây sức ép lên
giá cả và đẩy lạm phát tăng lên.
Kênh thứ ba: Tác động của tỷ giá tới lạm phát qua giá hàng nhập khẩu. Tác
động của tỷ giá tới lạm phát qua giá hàng nhập khẩu. Khi tỉ giá tăng làm cho giá hàng
nhập khẩu tăng, từ đó dẫn đến mặt bằng giá hàng hóa trong nước hay chỉ số CPI tăng
lên. Ngoài ra, một số hàng hóa nhập khẩu cũng là nguyên liệu đầu vào của một số đơn
vị sản xuất kinh doanh các mặt hàng trong nước làm giá các loại hàng hòa này tăng lên
khi chưa có nguồn nguyên liệu thay thế và cũng tương tự đẩy giá hàng hóa trong nước
tăng lên. Kênh này có tác dụng mạnh đối với những quốc gia có tỉ trọng nhập
khẩu/GDP lớn.








Xu

t nh

p kh


u
ròng ( NX)


Cán cân t

hanh

toán



Giá

hàng nh



p

kh



u



T






giá

danh ngh
ĩa



T

ng c

u n

n
kinh t
ế

( AD)




L




m phát



M



c cung ti


n

M

2)

(



31 | P a g e

Kênh thứ tư: tỷ giá ảnh hưởng tới lạm phát kỳ vọng thông qua tâm lý. Kênh này có
tác động mạnh tới những quốc gia đang trong giai đoạn phát triển, dân trí thấp, nền
kinh tế chứa đựng nhiều bất ổn, đặc biệt là tỷ lệ lạm phát tăng cao, không ổn định
trong nhiều năm đã khiến người dân mất niềm tin vào đồng nội tệ. Thay bằng việc tiết
kiệm/giữ đồng nội tệ họ chuyển sang giữ các tài sản khác như vàng, bất động sản,
ngoại tệ mạnh. Lúc này chỉ cần một chính sách giảm giá đồng nội tệ dự kiến được đưa
ra là các ông lớn sẽ đầu cơ, thao túng thị trường ngoại tệ, gây nhiễu loạn thị trường, và

làm nhà nước bất lực trong việc quản lý thị trường đầy rủi ro này.
1.2. Các yếu tố ảnh hưởng tới các kênh tác động từ tỷ giá tới lạm phát
Thứ nhất, cơ chế điều hành lãi suất: về cơ bản, lãi suất là giá cả của quyền sử
dụng vốn vay trong một thời gian nhất định mà người sử dụng trả cho người sở hữu
nó. Vì là giá cả nên nó được quyết định bởi cung cầu. Nhưng nếu như nhà nước can
thiệp điều chỉnh lãi suất vì một mục đích nào đó sẽ làm méo mó thị trường, ảnh hưởng
trực tiếp đến các nhà đầu tư. Khi đó, dòng vốn trực tiếp từ nước ngoài đổ vào sẽ giảm
xuống làm giảm nguồn cung ngoại tệ và cán cân tổng thể không được cải thiện.
Thứ hai, mức độ di chuyển vốn quốc tế thể hiện khả năng thay thế cho nhau
giữa tài sản trong nước và tài sản nước ngoài. Mức độ di chuyển vốn hoàn hảo khi tài
sản trong nước và tài sản nước ngoài có thể hoàn toàn thay thế cho nhau với chi phí
thấp và nhanh chóng. Mức độ di chuyển vốn không hoàn hảo khi có những rào cản về
di chuyển vốn như những quy định pháp luật, chi phí di chuyển vốn cao, thời gian thực
hiện di chuyển vốn chậm.
Thứ ba, mức độ nhạy cảm của xuất nhập khẩu với tỷ giá.
Độ nhạy cảm này thể hiện ở hệ số co giãn xuất khẩu (X), nhập khẩu (M) với tỷ giá:
µ
x
=dX/X + dE/E và µ
m
=dM/M + dE/E
Trong đó: X/M là tổng kim ngạch xuất/ nhập khẩu, E là tỉ giá hối đoái. Hệ số
co giãn µ
x/m
cho biết tổng kim ngạch xuất/ nhập khẩu thay đổi bao nhiêu khi tỉ giá hối
đoái E thay đổi 1 đơn vị.
Trên cơ sở đó, Marshall và lerner đã đưa ra điều kiện để phá giá tiền tệ có thể
cải thiện cán cân thương mại: “tổng hệ số co giãn xuất khẩu và nhập khẩu phải lớn
hơn 1” tức µ
x +

µ
M
>1. Khi tổng hai hệ số này nhỏ hơn 1, phá giá sẽ làm trầm trọng cán
cân thương mai, còn khi bằng 1 thì không có ảnh hưởng.
Thứ tư, cơ chế điều hành tỷ giá: Trong cơ chế tỷ giá thả nổi hoàn toàn, mối
quan hệ giữa tỷ giá-lãi suất, lãi suất-tỷ giá vận hành khá linh hoạt theo tín hiệu của thị
trường. Trong cơ chế tỷ giá cố định hoàn toàn, hay thả nổi có điều tiết, tỷ giá bị ấn
định hoặc chậm được điều chỉnh không phản ánh các yếu tố thị trường, tác động của tỷ
giá đến xuất khẩu ròng là rất hạn chế hoặc không kịp thời làm thị trường bị méo mó và
xuất hiện nhiều khuyết tật.
Thứ năm, mức độ đô la hóa của nền kinh tế: Một nền kinh tế có mức độ đô la
hóa cao hoặc khả năng thay thế giữa tài sản trong nước và tài sản nước ngoài hoàn hảo
thì lãi suất nội tệ sẽ không thể độc lập thay đổi dưới tác động của NHTW mà bị chi
phối mạnh bởi lãi suất quốc tế. Việc điều hành chính sách tiền tệ sẽ trở nên thụ động
32 | P a g e

và không có nhiều hiệu quả khiến vai trò của ngân hàng nhà nước bị giảm thiểu. Nếu
đi kèm với cơ chế tỷ giá kém linh hoạt, tác động của tỷ giá đến thu hút dòng vốn từ
nước ngoài đổ vào trong nước bị hạn chế.
2. Thực trạng tác động của chính sách tỷ giá tới lạm phát ở Việt Nam
2.1. Diễn biến tỷ giá và chính sách tỷ giá thời gian qua
Về chính sách tỷ giá, trong thời gian qua, hàng loạt chính sách tỷ giá đã được
Nhà nước đưa ra để ổn định tỷ giá, kìm chế lạm phát và phát triển kinh tế :
- Quyết định 65/1999/Q Đ–NHNN7 của NHNN về việc thay đổi cách xác định tỷ
giá hối đoái chính thức. Theo quyết định này kể từ ngày 26/2/1999, NHNN sẽ không
công bố tỷ giá chính thức nữa mà thay vào đó là công bố tỷ giá bình quân liên ngân
hàng. Đây chính là một bước tiến quan trọng dẫn đến tự do hóa tiền tệ, và tới năm
2000 nó đã phát huy đầy đủ tác động tới tỷ giá. Như vậy, 2000 là năm bắt đầu cho giai
đoạn mới của tỷ giá.
- Quyết định số 718/2001/QĐ-NHNN, NHNN chính thức chuyển sang cơ chế tự

do hóa ngoại tệ. Các NHTM được tự chủ động quy định các mức lãi suất USD trên cơ
sở giao dịch trên thị trường liên ngân hàng Singapore – Sibor… Với chính sách này, tỷ
giá đã khá ổn định (năm 2003: 1,7%); thị trường liên ngân hàng có bước phát triển
mạnh, năm 2005 doanh số giao dịch đã tăng 29% so với 2004.
- Năm 2012, NHNN chính thức tham gia thị trường vàng bằng việc quốc hữu hóa
thương hiệu SJC nhằm mục đích giảm sự liên thông giữa thị trường vàng và thị trường
ngoại tệ. Ngoài ra việc nhập siêu trong năm 2012 giảm cùng với lượng kiều hối tăng
mạnh cũng góp phần ổn định tỷ giá.
Và rất nhiều các thông tư khác hướng dẫn thực hiện, ổn định tỷ giá.
Về diễn biến tỷ giá
Tỷ giá danh nghĩa song phương: ở Việt Nam, tỷ giá danh nghĩa song phương
đóng vai trò quan trọng nhất, được các cơ quan chức năng, doanh nghiệp xuất nhập
khẩu và người dân coi trọng nhất là tỷ giá danh nghĩa song phương USD/VND bởi
USD là đồng tiền được sử dụng chủ yếu, thường xuyên trong hoạt động xuất nhập
khẩu của Việt Nam đồng thời đây cũng là đồng tiền dự trữ ngoại tệ của Việt Nam. Và
một nguyên nhân khác, nền kinh tế Việt Nam bị đô la hóa cao do VND thường xuyên
mất giá và người dân có thói quen dự trữ ngoại hối.
Từ biểu đồ, có thể nhận thấy, xu hướng tăng nhanh từ 14.168 VND/USD trong
năm 2000 lên mức 20.828 VND/USD trong năm 2012. Như vậy qua 12 năm tỷ giá đã
tăng 6680 VND, trung bình mỗi năm tăng 555 VND tương đương VND bị mất giá
3.26% so với USD hàng năm.
Trong giai đoạn gần đây, từ 2008- 2012, tỷ giá có xu hướng leo thang nhanh, từ
16.645 VND/USD lên mức 20.828 VND/USD. Tốc độ tăng trung bình khá cao
6.08%/năm. Điều này được lý giải do tác động từ cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, tác
động của gói kích cầu năm 2009 và việc hỗ trợ lãi suất ưu đãi mức 4% và sự nới lỏng tín
dụng vào năm 2010 làm bùng lên lạm phát và VND bị mất giá một cách đáng kể.

33 | P a g e

Hình 2.1: Diễn biến của tỷ giá danh nghĩa song phương

trong giai đoạn 2000- 2012

Nguồn: Tổng cục thống kê
Tỷ giá đa phương: Trong giai đoạn hội nhập ngày càng sâu rộng như hiện nay
tỷ giá đa phương ngày càng trở nên quan trọng hơn, nó thể hiện sự tăng lên hay giảm
giá của đồng VND đối với phần còn lại của thế giới (tỷ giá danh nghĩa đa phương-
Norminal Effective Exchange Rate –NEER); thể hiện sức cạnh tranh thương mại của
Việt Nam với các nước còn lại (tỷ giá thực đa phương- Real Effective Exchange Rate
–REER).
Hình 2.2: Diễn biến tỷ giá đa phương (danh nghĩa và thực)
trong giai đoạn 2000-2011
0
20
40
60
80
100
120
140
160
180
200
2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011
%
Tỷ giá danh nghĩa đa phương Tỷ giá thực đa phương

Nguồn: Tổng cục thống kê
Tỷ lệ NEER tăng đáng kể giai đoạn 2001- 2009 với mức tăng trung bình
4.1%/năm và tăng mạnh giai đoạn 2009-2011 từ mức 134.7% năm 2009 lên 180%
năm 2011. Khi phân tích vị thế cạnh tranh trên thị trường quốc tế thì không thể không

tính tới tương quan sức mua giữa các đồng tiền được thể hiện qua REER. Quan sát đồ
thị ta thấy so với năm 2000, vị thế cạnh tranh của Việt Nam duy trì ở mức cao trong
34 | P a g e

giai đoạn 2000-2007, đạt đỉnh điểm tại năm 2003 với mức 107.7. Tuy nhiên từ 2007
đến nay, vị thế cạnh tranh Việt Nam đã có xu hướng giảm rõ rệt từ 102,5 vào năm
2007, tới năm 2011 chỉ còn 95 - nghĩa là VND đang được định giá thực cao 5%. Ở đây
ta có thể nhận thấy một sự mâu thuẫn rằng VND bị mất giá so với USD nhưng lại tăng
giá so với các đồng tiền khác. Điều này được lý giải rằng VND mất giá với USD,
nhưng mức mất giá còn thấp hơn các quốc gia khác và giai đoạn này USD bị mất giá
so với hầu hết các đồng tiền lớn trên thế giới. Như vậy, có thể nói so với một số nước
bạn hàng, VND đang khá sát giá trị thực.
2.2. Diễn biến lạm phát giai đoạn 2000-2012
Hình 2.3: Diễn biến lạm phát Việt Nam giai đoạn 2000-2012
4,1
3,3
7,9
8,4
7,5
8,4
23,1
6,7
5
10
15
20
25

Nguồn: Thống kê tài chính quốc tế
Nhìn vào biểu đồ ta thấy, trong giai đoạn 2000-2002, lạm phát có một sự tăng

nhẹ, từ mức giảm phát - 0,8% tăng lên mức lên mức 3,3% năm 2003. Nhưng sau đó
lạm phát có sự tăng mạnh lên 7,9% năm 2004, nguyên nhân của đợt lạm phát này là
do: (1) Tác động của tăng cung tiền và tốc độ tăng trưởng tín dụng khá cao giai đoạn
trước đó; (2) sự tăng lên của tổng cầu sau cuộc khủng hoảng cùng với sự tăng lên của
tiền lương danh nghĩa ở các khu vực kinh tế khiến cho giá cả tăng lên; (3) do biến
động của thế giới làm cho giá cả một số mặt hàng nhập khẩu của Việt Nam tăng cao…
kết hợp với dịch bệnh năm 2003 đã tạo nên sự tăng mạnh cung, đẩy lạm phát tăng cao.
Trước diễn biến lạm phát tăng cao, NHNN đã áp dụng chính sách tiền tệ thắt
chặt cho lãi suất tăng lên chút ít, duy trì ổn định tỷ giá nhưng lạm phát vẫn ở mức cao
trong giai đoạn 2005 - 2008 và đạt mức đỉnh điểm 23,12% vào năm 2008. Sự tăng
mạnh của lạm phát trong giai đoạn này do nhiều nguyên nhân, nhất là từ phía cung.
Trong đó gồm có: sự tăng mạnh của tiền lương, sự gia tăng giá cả hàng hóa nhập khẩu,
chính sách quản lý lõng lẽo, chính sách tỷ giá cứng nhắc. Ngoài ra, tác động của chính
sách gia nhập WTO năm 2006, đầu tư gián tiếp nước ngoài đổ vào Việt Nam tăng
mạnh, làm cho cung USD tăng mạnh. Để giữ tỷ giá không bị xuống mức quá thấp,
NHNN đã phải mua lượng ngoại tệ lớn tức bán ra lượng nội tệ nhiều, mặc dù NHNN
35 | P a g e

đã thực hiện chính sách hấp thụ nội tệ về, nhưng không nhiều do đó một lượng nội tệ
lớn đã được bơm vào nền kinh tế, lạm phát tăng cao. Đây chính là mặt trái của chính
sách tỷ giá cứng nhắc, tỷ giá bị kìm hãm ở mức thấp trong thời gian dài và khi NHNN
không còn khả năng duy trì tỷ giá nữa thì lạm phát đã bùng nổ lên cao đặc biệt trong
giai đoạn khủng hoảng.
Đến năm 2009, tưởng chừng với tín dụng và cung tiền tăng mạnh mẽ sau gói
kích cầu của chính phủ cùng với sự tăng mạnh của tỷ giá sẽ làm cho lạm phát tiếp tục
tăng cao nhưng cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới đã góp phần làm giảm lạm phát ở
Việt Nam. Tỷ lệ lạm phát Việt Nam chỉ ở mức 6,72%.
Năm 2010, việc phá giá VND so với USD trong tháng 8 năm 2010 và biến động
của thị trường vàng quốc tế là một trong số những nguyên nhân chủ yếu làm cho lạm
phát tăng.

Năm 2011, lạm phát lên mức khá cao 18,68%. Theo nghiên cứu của các nhà
kinh tế học thế giới, năm 2011 Việt Nam đã vượt ngưỡng lạm phát và sẽ có tác động
tiêu cực đến tăng trưởng. Trong báo cáo Quốc hội khóa XIII (kỳ họp thứ 2), Chính phủ
đã khẳng định: “Nguyên nhân chủ yếu gây lạm phát cao ở nước ta là do hệ quả của
việc nới lỏng chính sách tiền tệ, tài khóa kéo dài trong nhiều năm để đáp ứng yêu cầu
đầu tư phát triển, bảo đảm an sinh xã hội, và phúc lợi xã hội trong khi cơ cấu kinh tế,
cơ cấu đầu tư còn kém hiệu quả, cùng những hạn chế trong quản lý điều hành và tác
động cộng hưởng của các yếu tố tâm lý”. Và đã đưa ra mục tiêu: "Kiềm chế lạm phát
là ưu tiên số một, khi có điều kiện thuận lợi sẽ phấn đấu để đạt mức tăng trưởng cao
hơn" trong mục tiêu của năm 2012 và kế hoạch 5 năm 2011 - 2015.
Năm 2012, theo tinh thần Nghị quyết 11 của chính phủ, NHNN đã tiến hành
kiểm soát tốt cung tiền và tín dụng đi kèm với ổn định tỷ giá đã góp phần làm cho lạm
phát giảm dần và đạt mức 6,81% năm 2012. Tuy nhiên nguyên nhân chính làm cho
lạm phát giảm là do tổng cầu tiếp tục giảm. Trong giai tình hình kinh tế đầy biến động,
suy giảm mạnh, người dân lại thắt chặt chi tiêu, nhiều doanh nghiệp phá sản, giải thể
thì việc giảm lạm phát chưa hẳn là tín hiệu tốt.
2.3. Tác động của tỷ giá tới lạm phát
Về mặt lý thuyết, như đã phân tích trên, tỷ giá ảnh hưởng tới lạm phát qua bốn
kênh. Tuy nhiên trên thực tế, liệu có phải ổn định tỷ giá luôn đạt được mục tiêu kiểm
soát lạm phát ?
Hình 2.4 cho ta thấy sự biến động của tỷ giá và lạm phát giai đoạn 2000-2012.
Năm 2000, 2001 mặc dù tỷ giá tăng nhưng Việt Nam đã rơi vào tình trạng giảm phát,
như vậy nguyên nhân chính của tình trạng này là do tác động cuộc khủng hoảng tài
chính châu Á (1997), còn tác động tỷ giá tới lạm phát là hạn chế. Giai đoạn 2001-
2003, tỷ giá và lạm phát được được duy trì tương đối ổn định, điều này góp phần
không nhỏ tới ổn định và phát triển kinh tế. Giai đoạn tiếp theo 2003-2007, Chính phủ
đã áp dụng chính sách tỷ giá ổn định và đã kiểm soát tốt lạm phát. Nhưng giai đoạn
36 | P a g e

khủng hoảng 2008-2011, chính sách tỷ giá ổn định đã bắt đầu gây tác động ngược, lạm

phát tăng cao đột ngột tới mức 23,1% vào năm 2008 và 18,7% năm 2011.
Hình 2.4: Diễn biến của tỷ giá USD/VND và lạm phát trong giai đoạn 2000-2012








Nguồn : Ủy ban giám sát tài chính Quốc gia
Điều này được giải thích rằng: năm 2006, lạm phát giảm nhẹ, nhưng khi Chính
phủ thực hiện chính sách tiền tệ nới lỏng cùng với kỳ vọng lạm phát đã dẫn tới lạm
phát thực tế tăng cao ở giai đoạn tiếp theo chu kỳ kinh tế. Chính sách tỷ giá có tác
động cộng hưởng tới lạm phát chứ không tác động trực tiếp mà nhân tố tác động trực
tiếp tới lạm phát là cung tiền và tốc độ tăng trưởng tín dụng. Đồ thị 2 cho thấy sự tăng
lên mạnh mẽ của cung tiền và tăng trưởng tín dụng năm 2007 đã tác động lạm phát
2008 tăng lên cao ở mức gần 24%.
Hình 2.5: Diễn biến lạm phát, tốc độ tăng cung tiền và tín dụng của Việt Nam

Nguồn: Tổng hợp IMF Country Report No 02/5; 03/382; 07/386; 10/281 và NHNN
Sự tăng cao của lạm phát năm 2008, ngoài do các nguyên nhân thuộc chính
sách tiền tệ kể trên, còn phải kể đến nguyên nhân: chính sách điều hành tỷ giá
USD/VND ‘neo’ trong giai đoạn khá dài, trong khi từ năm 2006 tới nay, đồng USD
giảm giá mạnh (khoảng 15%) so với đồng tiền khác, trong khi đó đồng VND lại mất
giá so với USD, điều này càng làm cho mức độ mất giá của VND với các đồng tiền

-5
0
5

10
15
20
25
0
5000
10000
15000
20000
25000
2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012
Axis Title
USD/VND Lạm phá t
37 | P a g e

mạnh khác. Điều này làm cho hàng hóa nhập khẩu trở nên đăt đỏ hơn. Mặt khác, Việt
Nam là một quốc gia có tỷ trọng xuất khẩu cao, đặc biệt là trong những năm gần đây,
tỷ trọng nhập khẩu/GDP trung bình giai đoạn 2000-2010 là 75,98% GDP do đó, chi
phí sản xuất của doanh nghiệp tăng, kéo theo giá thành sản xuất tăng, lạm phát tăng
(Hình 2.5). Như vậy, khi tỷ giá tăng liên tục làm chỉ số giá hàng nhập khẩu tăng, kéo
theo tăng lạm phát.

Hình 2.6: Tác động của chỉ số giá hàng nhập khẩu tới lạm phát (1997-2011)

Nguồn: Tổng hợp từ IMF Country Report No 02/5; 03/382; 07/386; 10/281;
Tổng cục thống kê
Ở Việt Nam, NHNN cam kết một tỷ giá danh nghĩa và phải chấp nhận lạm phát
cao hơn. Năm 2009, 2010, nhờ tác động của cuộc khủng hoảng tài chính 2008-2009 làm
giá cả hàng hóa giảm, tổng cầu giảm, giúp Việt Nam giảm lạm phát. Tuy nhiên với gói
kích cầu giữa năm 2009 của Chính phủ cùng với mở rộng cung tiền và tín dụng khiến

lạm phát gia tăng trở lại năm 2010 và 2011. Bên cạnh đó, việc Chính phủ phá giá VND
trong năm 2009 cũng đóng góp đáng kể trong sự gia tăng lạm phát năm 2010.
Như vậy, không phải khi nào ổn định tỷ giá cũng đem lại mục tiêu kiểm soát
lạm phát. Nguyên nhân của sự biến đổi của lạm phát là do các nguyên nhân liên quan
tới nguồn gốc lạm phát. Theo bài nghiên cứu định lượng của Nguyễn Đức Thành
(2009), Camen (2006) cho thấy nguyên nhân gây lạm phát của Việt Nam giai đoạn qua
là do sự gia tăng quá mức của cung tiền và tín dụng. Do chính sách tiền tệ lỏng kết hợp
với gia tăng tín dụng dẫn đến lạm phát cao trong giai đoạn kinh tế tiếp theo. Do đó,
trong giai đoạn này, tác động của chính sách tỷ giá sẽ không mạnh mẽ trực tiếp mà chỉ
có tác động cộng hưởng làm tăng thêm lạm phát, điều này lý giải tại sao giai đoạn
2007-2008, tỷ giá được duy trì ổn định nhưng lạm phát vẫn tăng cao. Tuy nhiên, trong
các giai đoạn mà nền kinh tế được kiểm soát tốt, ổn định tỷ giá lại góp phần kiểm soát
lạm phát (giai đoạn cuối năm 2011).
38 | P a g e

Ngoài ra, sự thay đổi lạm phát còn do một số nhân tố khác ảnh hưởng, chẳng
hạn, năm 2009, mặc dù cung tiền và tín dụng tăng đáng kể, VND bị phá giá mạnh
(khoảng 36%) nhưng lạm phát vẫn được kiểm soát ở mức thấp do tác động của khủng
hoảng kinh tế và sự sụt giảm của tổng cầu.
Tóm lại, chính sách tỷ giá không tác động độc lập tới lạm phát mà nó luôn chịu
ảnh hưởng bởi cung tiền và tốc độ tăng trưởng tín dụng, tổng cầu. Như vậy, muốn
kiểm soát lạm phát thì cần tiến hành kết hợp ổn định tỷ giá và kiểm soát cung tiền và
tốc độ tăng trưởng tín dụng cũng như điều tiết vĩ mô nhằm kiểm soát tổng cầu. Và khi
tổng cầu và các chính sách tiền tệ được kiểm soát hợp lý thì việc điều chính tỷ giá
không nhất định gây nên lạm phát. Chính sự lưỡng lự, không nhanh chóng trong việc
điều chỉnh tỷ giá mới làm trầm trọng hơn lạm phát kỳ vọng và có thể gây ra lạm phát
khi các chính sách vĩ mô không đi theo hướng kiểm soát lạm phát.
3. Những rủi ro tiềm ẩn và một số kiến nghị trong việc điều hành chính sách tỷ
giá giai đoạn 2013-2015.
3.1. Những rủi ro tiềm ẩn của việc điều hành chính sách tỷ giá trong giai đoạn

2013-2015
Có thể nói diễn biến tỷ giá USD/VND trong 10 tháng đầu năm 2013 là khá ổn
định, chỉ có vài biến động nhỏ mang tính thời vụ và tâm lý nhất thời, tuy nhiên thị
trường vẫn tiềm ẩn rất nhiều rủi ro biến động gây áp lực đối với việc điều hành chính
sách tỷ giá trong thời gian tới. Cụ thể:
(i), Triển vọng kinh tế vĩ mô Việt Nam năm 2013 tiếp tục khó khăn với điểm
thắt lớn nhất là nợ xấu trong hệ thống ngân hàng tăng cao, vấn đề hàng tồn kho của
các doanh nghiệp đặc biệt trong lĩnh vực bất động sản. Tốc độ tăng trưởng GDP ở mức
thấp với 5,03% năm 2012 và theo kết quả dự báo (kịch bản trung bình) của Viện Hàn
lâm Khoa học xã hội Việt Nam (cập nhật 24/12/2012) về triển vọng tăng trưởng kinh
tế Việt Nam năm 2013 là 5,31%, năm 2014 là 5,63% và năm 2015 (5,92%). Trong
trường hợp kiên định mục tiêu hàng đầu “ổn định kinh tế vĩ mô” trong toàn bộ giai
đoạn 2013-2015 thì nhiều khả năng kịch bản tăng trưởng thấp sẽ xảy ra ( tăng trưởng
năm 2013 là 4,92%, năm 2014 là 5,17% và năm 2015 là 5,33%).

(ii), Vấn đề thâm hụt thương mại là một trong những nguyên nhân gây áp lực
đối với tỷ giá. Trong năm 2012, Việt Nam xuất siêu 780 triệu USD, tuy nhiên, trạng
thái này lại không bền vững, mà một trong những nguyên nhân chủ yếu là do cầu trong
nước suy giảm mạnh dẫn tới nhu cầu nhập khẩu giảm. Đầu năm 2013, nhập siêu đã
quay trở lại, kết hợp với việc nhu cầu nước ngoài giảm mạnh (đặc biệt là khu vực
Euro, Mỹ) và sự tăng lên của các hàng rào thương mại, khiến việc xuất khẩu của Việt
Nam gặp khó khăn hơn. Đây cũng là thách thức trong việc điều hành chính sách trong
thời gian tiếp theo.
(iii), Những bất ổn về chính trị của khu vực Trung Đông có thể gây ra những cú
sốc về giá dầu nguyên liệu, khiến giá cả thế giới tăng mạnh, và với điều kiện là nước
hội nhập sâu với thế giới và chấp nhận giá cả như Việt Nam hiện nay, có thể khiến giá
cả trong nước bị ảnh hưởng, từ đó gây ra áp lực về lạm phát.
39 | P a g e

(iv), Lạm phát trong năm 2012 và 10 tháng đầu năm 2013 tuy được kiềm chế ở

mức thấp nhưng nó vẫn luôn thường trực nguy cơ tăng trở lại. Vấn đề lạm phát luôn
được xem là con ngựa bất kham đối với các nhà hoạch định chính sách Việt Nam.
Trước tình hình đó, đặt ra nhu cầu cấp thiết đối với các nhà lãnh đạo trong việc điều
hành các chính sách tỷ giá hợp lý để thực hiện tốt mục tiêu kiềm chế lạm phát, ổn định
kinh tế vĩ mô của Chính phủ. Trong phần tiếp theo, nhóm tác giả xin đưa ra một số
kiến nghị trong việc điều hành chính sách tỷ giá trong thời gian tới.
3.2. Một số kiến nghị đối với NHNN trong việc điều hành chính sách tỷ giá trong
giai đoạn 2013-2015
Thứ nhất, về cơ chế điều hành chính sách tỷ giá, NHNN nên điều hành chính
sách tỷ giá linh hoạt tùy theo diễn biến của thi trường trong nước và thế giới, giảm dần
việc sử dụng các công cụ mang tính hành chính.

Kinh nghiệm từ năm 2012 cho thấy,
việc sử dụng thành công công cụ lãi suất đã góp phần kiềm chế và kiểm soát được tình
trạng lạm phát tại Việt Nam. Tuy nhiên, theo các nghiên cứu về cơ chế tỷ giá và chính
sách mục tiêu lạm phát đã chỉ ra rằng, một quốc gia sử dụng công cụ lãi suất nhằm
điều tiết thị trường thì phải chấp nhận một cơ chế tỷ giá linh hoạt hơn trong điều kiện
tài khoản vốn không bị kiểm soát hoàn toàn và sử dụng chế độ tỷ giá linh hoạt sẽ hạn
chế tốt hơn các tác động tiêu cực từ các cú sốc trên thị trường.
Ngoài ra, trong trường hợp bắt buộc phải phá giá VND, thì NHNN cũng phải
điều chỉnh tỷ giá mức đủ mạnh để tránh “tâm lý trông chờ phá giá tiếp” và “tâm lý đầu
cơ” của người dân. Trong năm 2010, NHNN đã điều chỉnh tỷ giá 2 lần nhưng với mức
độ nhỏ giọt từ đó tạo tâm lý các nhà nhập khẩu nước ngoài trần trừ trong việc thanh
toán tiền do lo ngại rủi ro tỷ giá, người dân găm giữ USD để chờ tới lúc tăng giá để
bán. Tuy nhiên, việc phá giá cũng cần phải được cân nhắc kĩ bởi nước ta đang trong
thời kì chống lạm phát, cộng với việc kinh tế thế giới đang phục hồi, lạm phát thế giới
tăng lên, thì việc phá giá có thể dẫn tới nhân đôi hiệu ứng nhập khẩu hàng hóa từ bên
ngoài vào, khiến việc kiềm chế lạm phát trở nên khó khăn hơn. Hơn nữa, khi phá giá
cũng cần phải cân nhắc thật kĩ bởi trong cơ cấu hàng hóa xuất nhập khẩu của Việt
Nam thì hàm lượng nhập khẩu chiếm tới 70% hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam, làm

cho chi phí sản xuất tăng, từ đó hàng Việt Nam lại kém cạnh tranh hơn. Mặt khác, nếu
lợi ích thu được từ tăng xuất khẩu và giảm nhập khẩu lại nhỏ hơn chi phí tăng thêm
cho hàng nhập khẩu sẽ làm cho cán cân thương mại bị thâm hụt lớn, làm gia tăng áp
lực lạm phát trong nền kinh tế.
Thứ hai, NHNN cần công khai, minh bạch hóa thông tin trong việc niêm yết tỷ
giá bình quân liên ngân hàng để tạo niềm tin cho người dân. Vì trên thực tế, việc
NHNN tính tỷ giá trung tâm từ những ngân hàng nào, với tỷ trọng bao nhiêu không hề
được công bố thông tin, điều này gây ra sự nghi ngờ trong việc liệu NHNN có thực sự
đã niêm yết tỷ giá sát với tỷ giá thị trường không. Việc NHNN minh bạch hóa thông
tin sẽ làm tăng niềm tin của người dân vào Nhà nước trong việc điều hành chính sách,
và tỷ giá trung tâm càng sát với cung cầu bao nhiêu thì tính hiệu quả của chính sách tỷ
giá càng được nâng lên.
40 | P a g e

Thứ ba, để kiểm soát lạm phát thành công, NHNN cần có sự độc lập tương đối
trong cả hai khía cạnh: độc lập mục tiêu và độc lập hoạt động để có thể đảm bảo thực
hiện một “chính sách tiền tệ đơn mục tiêu” và “tính công khai minh bạch” trong hoạt
động. NHNN có thể đề ra mục tiêu ví dụ lạm phát dưới 6% và nhất quán thực hiện các
biện pháp để đạt được mục tiêu đó mà không bị chi phối bởi các Nghị quyết của Quốc
hội hay Chính Phủ đề ra. Việc NHNN vừa phải đạt mục tiêu kiểm soát lạm phát ở mức
thấp đồng thời cũng phải đạt được chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế do nhà nước đề ra là rất
khó thực hiện. Giữa hai mục tiêu tăng trưởng kinh tế và ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm
chế lạm phát thì chỉ nên chọn một trong hai, để đạt được mục tiêu lạm phát thấp thì
đồng nghĩa với việc phải chấp nhận một mức tăng trưởng thấp, và ngược lại. Tuy
nhiên, hiện nay chúng ta theo đuổi chính sách tiền tệ đa mục tiêu, do vậy hiệu quả của
nó vẫn chưa cao. Trước bối cảnh nền kinh tế vẫn còn nhiều bất ổn, NHNN nên kiên
định mục tiêu của chính sách tiền tệ, thiên về ổn định kinh tế vĩ mô nhằm đạt được lạm
phát mục tiêu hơn là kích cầu để tăng trưởng kinh tế. Bởi theo một nghiên cứu của
World Bank đã chỉ ra rằng sự đánh đổi giữa tăng trưởng và lạm phát của Việt Nam
trong ngắn hạn cao hơn đáng kể so với mức trung bình của thế giới. Hay nói cách

khác, với cùng một tỷ lệ tăng trưởng thì Việt Nam sẽ phải gánh chịu một mức lạm phát
cao hơn. Vì thế nhóm tác giả đề xuất, trong giai đoạn này NHNN vẫn nên thực hiện
các chính sách ưu tiên mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô.
Thứ tư, NHNN cần cân đối việc thực hiện chính sách tiền tệ và chính sách tỷ
giá. Bởi trong bộ ba bất khả thi thì với điều kiện dòng vốn FDI đang chảy vào Việt
Nam khá nhiều, chiếm tỷ trọng lớn trong cán cân thanh toán thì việc kiểm soát nguồn
vốn là điều không thể. Do vậy, NHNN chỉ có thể thực hiện tốt hai mục tiêu còn lại.
Đối với chính sách tỷ giá, NHNN cần duy trì chế độ tỷ giá linh hoạt nhưng đồng thời
cũng phải kiểm soát chặt chẽ và có các biện pháp xử lý kịp thời. Đối với chính sách
tiền tệ, khi NHNN sử dụng các công cụ của mình để can thiệp vào thị trường cần phải
tính toán tới các tác động tới tỷ giá để có mức điều chỉnh hợp lý tránh các tác động
tiêu cực tới thị trường. Như đã phân tích ở trên thì chính sách tiền tệ có ảnh hưởng trực
tiếp tới lạm phát (tăng cung tiền và tăng trưởng tín dụng), còn chính sách tỷ giá chỉ có
tác động cộng hưởng tới lạm phát. Do vậy, trong thời gian tới, NHNN nên thực hiện
chính sách tiền tệ một cách linh hoạt, thận trọng và hiệu quả hơn để đạt được mục tiêu
vĩ mô đã đề ra.
Hơn nữa, NHNN cũng cần phải có lượng dữ trữ ngoại tệ đủ lớn để ổn định thị
trường ngoại hối, đồng thời sử dụng linh hoạt các công cụ của chính sách tiền tệ đặc
biệt là nghiệp vụ thị trường mở để tránh nguy cơ gây lạm phát cho nền kinh tế.
Thứ năm, NHNN cần quản lý thị trường tự do chặt chẽ hơn, nhằm hạn chế các
giao dịch trái phép, các hoạt động đầu cơ, gây ảnh hưởng tới việc điều hành chính sách
tỷ giá. Cần phối hợp chặt chẽ với các bộ, ban ngành khác nhằm xử lý nghiêm các hoạt
động kinh doanh ngoại hối trái phép, ngăn chặn các tác động tiêu cực tới thị trường.
Hơn nữa, NHNN cũng cần quản lý thị trường vàng một cách linh hoạt hơn. Việc quản
lý thị trường vàng mang tính hành chính như hiện nay sẽ chỉ là biện pháp mang tính
41 | P a g e

ngắn hạn, chưa giải quyết được sự chênh lệch cao giữa giá vàng trong nước và giá
vàng thế giới, điều này có thể tạo điều kiên cho các hoạt động ngầm thực hiện, gây xáo
trộn tới thị trường ngoại hối. Thực tế, việc cung ứng vàng của NHNN sẽ khó có thể

thực hiện trong dài hạn, bởi nhu cầu vàng trên thị trường vẫn rất lớn mặc dù đã qua
thời điểm tất toán trạng thái vàng ngày 30/6/2013 khá lâu. Hơn nữa, việc NHNN nhập
khẩu vàng nguyên liệu cũng ảnh hưởng tới dự trữ ngoại hối quốc gia, từ đó có thể gây
ảnh hưởng tới việc thực hiện chính sách tỷ giá.

Kết luận:
Hiệu quả điều hành chính sách tỷ giá đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì
ổn định kinh tế vĩ mô của Việt Nam bên cạnh các chính sách vĩ mô khác như chính
sách tài khóa, chính sách tiền tệ…Và để điều hành chính sách tỷ giá một cách thành
công thì việc nhận định chính xác những diễn biến của thị trường là vô cùng quan
trọng. Bên cạnh đó, cần phối hợp đồng bộ cùng các chính sách vĩ mô, đặc biệt chính
sách cung tiền, tín dụng và điều hành tổng cầu vĩ mô. Trong điều kiện kinh tế Việt
Nam vẫn còn nhiều bất ổn thì việc duy trì ổn định kinh tế, thực hiện lạm phát mục tiêu
là vô cùng quan trọng. Do đó, trong thời gian tới, NHNN phải rất nhanh nhạy, linh
hoạt trong việc sử dụng các công cụ của mình trong việc đưa ra các chính sách phù
hợp với biến động của thị trường để đạt được mục tiêu mà Chính phủ đã đề ra.

Tài liệu tham khảo:
1. Ths.Nguyễn Thị Thái Hưng, Tác động của chính sách tỷ giá đến lạm phát ở
Việt Nam, Tạp chí Khoa học và đào tạo Ngân hàng, số 118, tháng 2 năm 2012.
2. PGS.TS Nguyễn Văn Tiến, 2001, Giáo trình Tài Chính quốc tế, NXB thống kê.
3. Nguyễn Hải An, Điều hành chính sách tỷ giá nhằm mục đích ổn định kinh tế vĩ
mô ở Việt Nam, Công trình tham gia nghiên cứu đại học ngoại thương.
4. />20112013/184157.vgp
5. Tổng cục Thống kê.

×