Tải bản đầy đủ (.doc) (163 trang)

BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN THPT HUYỆN EAKAR, TỈNH ĐẮK LẮK

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (794.21 KB, 163 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn “Biện pháp phát triển đội ngũ giáo viên trường
THPT huyện Ea Kar tỉnh Đăk Lăk” là công trình khoa học nghiên cứu của riêng
tôi. Các số liệu và kết quả nghiên cứu nêu trong luận văn là trung thực, khách quan
đã được các tác giả cho phép sử dụng và chưa từng được công bố trong bất kỳ luận
văn, công trình khoa học nào trong thời gian trước đây.
Tác giả
Lê Văn Thái

LỜI CẢM ƠN
Luận văn đã hoàn thành theo chương trình đào tạo cao học chuyên ngành Quản
lý giáo dục với mã số 60.14.01.14 do Trường Đại học sư phạm Hà Nội đào tạo.
Nhân dịp này, với tình cảm chân thành và lòng biết ơn sâu sắc, tôi xin cảm
ơn Hội đồng khoa học, Ban giám hiệu, quý Thầy cô giáo là giảng viên của khoa
Quản lý giáo dục đã tận tình, chỉ bảo, tạo điều kiện tốt nhất cho tôi học tập, nghiên
cứu và hoàn thành luận văn này.
Đặc biệt, tôi xin chân thành tỏ lòng biết ơn PGS. TS Nguyễn Thạc – người
Thầy đã định hướng cho tôi nghiên cứu đề tài và nhiệt tình hướng dẫn, giúp đỡ,
cung cấp những kiến thức về lý luận và thực tiễn, cùng với những kinh nghiệm vô
cùng quý báu, đồng thời đã khuyến khích, động viên tôi trong suốt quá trình xây
dựng đề cương và hoàn thành luận văn.
Tôi xin chân thành cám ơn Phòng Giáo dục và Đào tạo, UBND Huyện
Eakar, Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Đăk Lăk đã cung cấp số liệu và tư vấn khoa học
tạo điều kiện thuận lợi trong quá trình nghiên cứu.
Tôi vô cùng biết ơn tập thể cán bộ, giáo viên của 04 trường THPT huyện
Eakar nơi tôi sinh sống và công tác, cùng với bạn bè, đồng nghiệp, gia đình đã tận
tình giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Mặc dù đã hết sức cố gắng, nhưng việc hoàn thành luận văn sẽ không tránh
khỏi những thiếu sót, hạn chế. Kính mong quý Thầy cô giáo, bạn bè và đồng nghiệp
quan tâm, góp ý, chỉ bảo để luận văn này được hoàn thiện hơn.
Trân trọng cảm ơn!


Hà Nội, tháng 11 năm 2012
Lê Văn Thái
CÁC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
CBQL: Cán bộ quản lý
UBND: Ủy ban nhân dân
MN: Mầm non
TH: Tiểu học
THCS: Trung học cơ sở
THPT: Trung học phổ thông
TCCN: Trung cấp chuyên nghiệp
CĐ: Cao đẳng
ĐH: Đại học
CNH: Công nghiệp hóa
HĐH: Hiện đại hóa
XHCN: Xã hội chủ nghĩa
GD: Giáo dục
GD – ĐT: Giáo dục và đào tạo
PPDH : Phương pháp dạy học
GV: Giáo viên
HS: Học sinh
CNCS: Chủ nghĩa cộng sản
CNXH: Chủ nghĩa xã hội
THPT: Trung học phổ thông
GDPT: Giáo dục phổ thông
GDCD: Giáo dục công dân
GVTH: Giáo viên trung học
SGK: Sách giáo khoa
GVDG: Giáo viên dạy giỏi
KT – XH: Kinh tế và xã hội
CT – XH: Chính trị và xã hội

CNTT: Công nghệ thông tin
CSVN: Cộng sản Việt Nam
CSGD: Cơ sở giáo dục
PT: Phổ thông
CHXHCNVN: Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
TNCSHCM: Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh
TNTPHCM: Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh
HTGDQD: Hệ thống giáo dục quốc dân
QLGD: Quản lý giáo dục
DSKHHGĐ: Dân số kế hoạch hóa gia đình
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1 Thống kê về trường lớp, học sinh huyện Ea Kar năm học 2009 - 2010: 43
Bảng 2.2 Thống kê về trường lớp, học sinh huyện Ea Kar năm học 2010 - 2011: 43
Bảng 2.3 Thống kê về trường lớp, học sinh huyện Ea Kar năm học 2011 - 2012: 44
Bảng 2.4 Quy mô trường, lớp, học sinh, giáo viên các bậc học trên địa bàn huyện Eakar
năm học 2011 – 2012: 46
Bảng 2.5. Thống kê ngân sách chi sự nghiệp GDPT (2009 - 2012) 49
Bảng 2.6. Thống kê số phòng học GDPT từ năm 2009 đến năm 2012 50
Bảng 2.7 Đội ngũ giáo viên THPT huyện Eakar từ năm 2009 đến năm 2012 53
Bảng 2.8. Thực trạng cơ cấu đội ngũ giáo viên THPT theo bộ môn năm học 2011 – 2012 ở
huyện Eakar 54
Bảng 2.9. Thực trạng về độ tuổi, giới tính của đội ngũ giáo viên THPT huyện Eakar trong
năm học: 2011 – 2012 56
Bảng 2.10. Trình độ đội ngũ giáo viên THPT huyện Eakar năm học: 2011-2012 58
Bảng 2.11 Đánh giá phẩm chất của đội ngũ giáo viên THPT huyện Ea Kar tỉnh Đăk Lăk.60
Bảng 2.12. Đánh giá năng lực tìm hiểu đối tượng và môi trường giáo dục đội ngũ giáo viên
THPT huyện Ea Kar tỉnh Đăk Lăk 61
Bảng 2.13. Đánh giá năng lực dạy học đội ngũ giáo viên THPT huyện Ea Kar tỉnh Đăk Lăk
61

Bảng 2.14. Đánh giá năng lực giáo dục đội ngũ giáo viên THPT huyện Ea Kar tỉnh Đăk
Lăk 63
Bảng 2.15. Đánh giá năng lực hoạt động chính trị, xã hội đội ngũ giáo viên THPT huyện
Ea Kar tỉnh Đăk Lăk 64
Bảng 2.16. Đánh giá năng lực phát triển nghề nghiệp đội ngũ giáo viên THPT huyện Ea
Kar tỉnh Đăk Lăk 64
Bảng 2.17. Đánh giá chung về phẩm chất và năng lực hiện nay (chuẩn nghề nghiệp GVTH)
của đội ngũ giáo viên THPT huyện Ea Kar tỉnh Đăk Lăk 65
Bảng 2.18. Tổng hợp chung về thực trạng mức độ thực hiện các biện pháp phát triển đội
ngũ giáo viên THPT huyện Ea Kar tỉnh Đăk Lăk 67
Bảng 2.19 Đánh giá của cán bộ quản lý và giáo viên về mức độ thực hiện biện pháp “Đẩy
mạnh công tác xã hội hóa giáo dục” 69
Bảng 2.20 Đánh giá của cán bộ quản lý và giáo viên về mức độ thực hiện của biện pháp
“Quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên THPT” 71
Bảng 2.21 Đánh giá của cán bộ quản lý và giáo viên về mức độ thực hiện của biện pháp
“Rà soát, sắp xếp, phân công lại đội ngũ giáo viên THPT” 72
Bảng 2.22 Đánh giá của cán bộ quản lý và giáo viên về mức độ thực hiện của biện pháp
“Triển khai hoạt động của cụm chuyên môn; Xây dựng chỉ tiêu thi đua của mỗi giáo viên
trong năm học” 74
Bảng 2.23 Đánh giá của cán bộ quản lý và giáo viên về mức độ thực hiện biện pháp “Tăng
cường đầu tư CNTT để nâng cao trình độ tay nghề cho đội ngũ giáo viên THPT” 75
Bảng 2.24. Đánh giá của cán bộ quản lý và giáo viên về mức độ thực hiện của biện pháp
“Đẩy mạnh hoạt động chuyên môn để nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên THPT” 77
Bảng 2.25. Đánh giá của cán bộ quản lý và giáo viên về mức độ thực hiện biện pháp “Tạo
môi trường thuận lợi cho việc phát triển đội ngũ giáo viên THPT” 78
Bảng 2.26. Đánh giá của cán bộ quản lý và giáo viên về các yếu tố khách quan ảnh hưởng
đến sự phát triển đội ngũ giáo viên THPT huyện Ea Kar tỉnh Đăk Lăk 79
Bảng 2.27. Đánh giá của cán bộ quản lý và giáo viên về các yếu tố chủ quan ảnh hưởng
đến sự phát triển đội ngũ giáo viên THPT huyện Ea Kar tỉnh Đăk Lăk 80
Bảng 2.28. So sánh mức độ ảnh hưởng của yếu tố khách quan và yếu tố chủ quan đến

sự phát triển đội ngũ giáo viên THPT huyện Ea Kar tỉnh Đăk Lăk 82
Bảng 2.29. Đánh giá của cán bộ quản lý và giáo viên về mức độ thuận lợi đến phát triển
đội ngũ giáo viên THPT 85
Bảng 2.30. Đánh giá của cán bộ quản lý và giáo viên về mức độ khó khăn tác động đến
phát triển đội ngũ giáo viên THPT 86
Bảng 3.1 Kết quả khảo nghiệm tính cần thiết của các biện pháp phát triển đội ngũ giáo
viên THPT huyện Ea kar tỉnh Đăk Lăk 118
Bảng 3.2. Kết quả khảo nghiệm tính khả thi của các biện pháp phát triển đội ngũ giáo viên
THPT huyện Ea Kar tỉnh Đăk Lăk 120
Bảng 3.3 Kết quả khảo nghiệm mối quan hệ giữa cần thiết và tính khả thi của các biện
pháp phát triển đội ngũ giáo viên THPT huyện Ea kar tỉnh Đăk Lăk 122
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 2.1 So sánh phát triển quy mô trường phổ thông 47
Biểu đồ 2.3 So sánh phát triển số lượng học sinh phổ thông 48
Biểu đồ 2.5. Trình độ chuyên môn đội ngũ GV THPT huyện Ea Kar tính đến 9/2012 59
Biểu đồ 2.6. Năng lực, phẩm chất giáo viên 66
Biểu đồ 2.7 Mức độ thực hiện trong đội ngũ GV về các biện pháp phát triển đội ngũ GV
THPT huyện Eakar 68
Biểu đồ 3.1 Tương quan giữa tính cần thiết và tính khả thi của các biện pháp đề xuất 124
MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Sự phát triển KT - XH trong bối cảnh quốc tế được đặc trưng bởi xã hội tri
thức và toàn cầu hoá đặt ra những yêu cầu mới cho sự nghiệp giáo dục thế hệ trẻ và
đào tạo nguồn nhân lực. Giáo dục cần đào tạo đội ngũ nhân lực có khả năng đáp
ứng được những đòi hỏi mới của xã hội và thị trường lao động, đặc biệt là năng lực
hành động, tính sáng tạo, tính tự lực và trách nhiệm, năng lực giải quyết các vấn đề
phức hợp.
Giáo dục là một hoạt động xã hội rộng lớn có liên quan trực tiếp đến lợi ích
nghĩa vụ và quyền lợi của mọi người dân, mọi tổ chức kinh tế - xã hội, đồng thời có
tác động mạnh mẽ đến tiến trình phát triển của quốc gia. Hiến pháp nước ta năm

1992 đã nêu rõ : “Giáo dục là quốc sách hàng đầu”, đầu tư cho giáo dục là đầu tư
cho sự phát triển. Giáo dục và đào tạo nhằm phát triển tối đa tiềm năng của con
người, là chìa khoá để mở ra một xã hội tương lai. “Tương lai, con người hoàn toàn
phụ thuộc vào giáo dục” (Alvin Toffler). Giáo dục và đào tạo là quyền cơ bản nhất
của con người.
Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc Đảng CSVN lần thứ IX đã chỉ rõ:
“Phát triển GD - ĐT là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá, là điều kiện để phát huy nguồn lực con người - yếu
tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững”. Sinh thời
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã khẳng định tầm quan trọng của giáo dục và đào tạo
là: “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng
người…”[41,tr639].
Phát triển GD - ĐT là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân và toàn xã hội,
trong đó đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý là lực lượng nòng cốt, giữ vai trò quyết
định trong việc đảm bảo chất lượng giáo dục.
Đánh giá vai trò của nhà giáo, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Các thầy cô
giáo là những chiến sỹ vô danh, không có thầy thì không có giáo dục; không có giáo
dục thì không có cán bộ; không có cán bộ thì không nói gì đến kinh tế, văn hóa”.
Chỉ thị số 40-CT/TW ngày 15/6/2004 của Ban bí thư Trung ương Đảng
Cộng sản Việt Nam khóa IX nêu rõ: “Mục tiêu là xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán
bộ quản lý giáo dục được chuẩn hoá, đảm bảo chất lượng, đủ về số lượng, đồng bộ
1
về cơ cấu, đặc biệt chú trọng nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất, lối sống, lương
tâm, tay nghề của nhà giáo; thông qua việc quản lý, phát triển đúng định hướng và
có hiệu quả sự nghiệp giáo dục để nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực, đáp
ứng đòi hỏi ngày càng cao sự nghiệp CNH, HĐH đất nước” [1,tr1].
Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VIII)
cũng đã khẳng định “Giáo viên là nhân tố quyết định chất lượng GD - ĐT và được xã
hội tôn vinh”. Bởi vậy, xây dựng và phát triển đội ngũ giáo viên là một việc làm cấp
thiết, là yếu tố cơ bản có ý nghĩa quyết định trong việc phát triển giáo dục.

Trước những yêu cầu mới của sự phát triển giáo dục trong thời kỳ CNH,
HĐH đất nước, đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục còn có những hạn chế,
bất cập. Số lượng giáo viên còn thiếu nhiều, đặc biệt ở các vùng sâu, vùng xa, vùng
đồng bào dân tộc thiểu số. Cơ cấu đội ngũ giáo viên đang mất cân đối giữa các môn
học, bậc học, các vùng, miền. Chất lượng chuyên môn, nghiệp vụ của đội ngũ nhà
giáo có những mặt chưa đáp ứng yêu cầu về truyền đạt lý thuyết, ít chú ý đến phát
triển tư duy, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành cho người học; một bộ phận nhà
giáo thiếu gương mẫu trong đạo đức, lối sống, nhân cách, không đấu tranh, thỏa
hiệp với những gian dối tiêu cực trong giáo dục, chưa làm gương tốt cho học sinh,
sinh viên. Chế độ, chính sách còn bất hợp lý, chưa tạo động lực đủ mạnh để phát
huy tiềm năng của đội ngũ này.
Tình hình trên đòi hòi phải tăng cường xây dựng và phát triển đội ngũ nhà
giáo và cán bộ quản lý một cách toàn diện. Đây là nhiệm vụ vừa đáp ứng yêu cầu
trước mắt, vừa mang lại tính chiến lược lâu dài, nhằm thực hiện thành công chiến
lược phát triển giáo dục 2001 – 2010 và chấn hưng đất nước.
Xuất phát từ thực tế của 4 trường THPT loại hình công lập huyện Eakar, tỉnh
Đăk Lăk - là các trường còn non trẻ đóng trên địa bàn vùng cao, vùng xa của Tây
Nguyên - kinh tế kém phát triển, giao thông còn nhiều khó khăn, trình độ dân trí
còn hạn chế, cơ sở vật chất, thiết bị dạy học của các trường còn nhiều thiếu thốn,
chưa đồng bộ. Đội ngũ giáo viên thiếu về số lượng, hạn chế về năng lực, chưa đạt
trình độ chuẩn so với yêu cầu của thực tế, hạn chế trong việc cập nhật kiến thức và
phương pháp giáo dục nên không phát huy được tính tích cực chủ động, sáng tạo và
năng lực tự học của học sinh, chưa tạo được sự hứng thú cho học sinh đến trường.
Tuy nhiên, cho đến nay trên địa bàn huyện Eakar, tỉnh Đăk Lăk chưa có đề tài khoa
2
học nào nghiên cứu về vấn đề phát triển đội ngũ giáo viên trường THPT. Là một
cán bộ lãnh đạo, quản lý nhà trường, với ý thức trách nhiệm và vai trò của mình,
cùng với những lý do nêu trên, tôi lựa chọn đề tài nghiên cứu là:“Biện pháp phát
triển đội ngũ giáo viên trường THPT huyện Ea Kar, tỉnh Đăk Lăk” với một mong
muốn góp một phần nhỏ bé vào sự nghiệp phát triển GD - ĐT của địa phương.

2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn đội ngũ giáo viên, lý giải những
tồn tại và đề xuất các biện pháp phát triển đội ngũ giáo viên cho các trường THPT
huyện Ea Kar, tỉnh Đăk Lăk góp phần nâng chất lượng dạy và học, đáp ứng yêu cầu
đổi mới giáo dục THPT hiện nay.
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ KHÁCH THỂ NGHIÊN CỨU
3.1 Khách thể nghiên cứu:
Hoạt động phát triển đội ngũ giáo viên THPT.
3.2 Đối tượng nghiên cứu:
Biện pháp phát triển đội ngũ giáo viên THPT.
4. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC
Trong thời gian qua, đội ngũ giáo viên đã có những bước phát triển về số
lượng, cơ cấu, trình độ. Tuy nhiên, hiện nay công tác phát triển đội ngũ giáo viên
trường THPT huyện Ea Kar, tỉnh Đăk Lăk chưa thật hiệu quả, vẫn còn nhiều hạn
chế, bất cập. Nếu đề xuất được những biện pháp phù hợp với thực tế của địa
phương trong việc phát triển đội ngũ giáo viên trường THPT thì sẽ nâng cao chất
lượng đội ngũ này và đáp ứng yêu cầu giáo dục trong giai đoạn hiện nay.
5. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
5.1 Xác định cơ sở lý luận và các chủ trương, đường lối, chính sách của
Đảng và Nhà nước về phát triển đội ngũ giáo viên THPT.
5.2 Khảo sát thực trạng sự phát triển của các trường THPT huyện Ea Kar,
tỉnh Đăk Lăk và thực trạng phát triển đội ngũ giáo viên các trường THPT trên địa
bàn huyện.
5.3 Đề xuất các biện pháp phát triển đội ngũ giáo viên THPT huyện Ea Kar
trong giai đoạn hiện nay.
6. GIỚI HẠN VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
6.1 Giới hạn về đối tượng nghiên cứu
3
Một số biện pháp cơ bản để phát triển đội ngũ giáo viên trường THPT.
6.2 Giới hạn về khách thể và địa bàn khảo sát

Nghiên cứu đội ngũ giáo viên của 4 trường: THPT Trần Quốc Toản, THPT
Nguyễn Thái Bình, THPT Trần Nhân Tông, THPT Ngô Gia Tự với số lượng cụ thể:
Tổng số giáo viên là 286, trong đó : THPT Trần Quốc Toản là 73, THPT Nguyễn
Thái Bình là 45, THPT Trần Nhân Tông là 75, THPT Ngô Gia Tự là 93.
6.3 Giới hạn về thời gian
Nghiên cứu tình hình phát triển đội ngũ GV ở 4 trường THPT huyện Eakar
trong 3 năm học gần đây (2009 – 2010; 2010 – 2011; 2011 – 2012).
7. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
7.1 Nhóm phương pháp nghiên cứu lí luận
- Nghiên cứu các Văn kiện, Nghị quyết của Đảng, của Nhà nước và địa
phương về phát triển đất nước, phát triển GD – ĐT trong thời kỳ CNH, HĐH; Dự
thảo chiến lược phát triển giáo dục giai đoạn 2009 – 2020; các văn bản, Chỉ thị của
Bộ GD - ĐT như: Luật giáo dục, Điều lệ trường Trung học, Chỉ thị năm học, một số
văn bản khác có liên quan về đội ngũ giáo viên.
- Nghiên cứu sách, tài liệu, báo cáo khoa học, tạp chí, tập san về quản lí giáo
dục, hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ năm học của Bộ GD - ĐT và Sở GD - ĐT tỉnh
Đăk Lăk.
7.2 Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Sử dụng phương pháp quan sát, phương pháp phỏng vấn, phương pháp đàm
thoại, phương pháp điều tra, phương pháp chuyên gia, phương pháp tổng kết kinh
nghiệm, phương pháp phân tích, tổng hợp.
7.3 Nhóm các phương pháp hỗ trợ
Xử lý số liệu, lập bảng biểu, thống kê, sơ đồ bằng thống kê toán học.
8. ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN VĂN
Luận văn đã làm sáng tỏ những khái niệm liên quan đến nội dung biện pháp
phát triển đội ngũ giáo viên THPT.
Luận văn đã nêu lên thực trạng phát triển đội ngũ GV THPT ở huyện Eakar.
Trên cơ sở đó đề xuất các biện pháp phát triển đội ngũ giáo viên THPT ở huyện
Eakar - huyện miền núi - dựa vào Nghị quyết Trung ương II (khoá VIII): Phương
hướng phát triển GD – ĐT đến năm 2020; nội dung Nghị quyết của Đại hội lần thứ

4
XI (1/2011) và trên nền tảng Chuẩn nghề nghiệp giáo viên trung học trong nền kinh
tế thị trường định hướng XHCN.
9. CẤU TRÚC LUẬN VĂN
- Mở đầu.
- Chương 1: Cơ sở lý luận về phát triển đội ngũ giáo viên trường THPT
- Chương 2: Thực trạng phát triển đội ngũ giáo viên trường THPT huyện
Eakar, tỉnh Đăk Lăk
- Chương 3: Biện pháp phát triển đội ngũ giáo viên trường THPT huyện Ea
Kar, tỉnh Đăk Lăk
- Kết luận và kiến nghị.

5
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN NGHIÊN CỨU BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ
GIÁO VIÊN TRƯỜNG THPT
1.1 LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, bất kỳ ở một giai đoạn lịch sử
nào, giáo dục và đào tạo luôn đóng một vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát
triển của mỗi cá nhân, tập thể, cộng đồng, dân tộc và cả nhân loại. C.Mác và
Ăngghen đều coi GD - ĐT là chìa khoá, là động lực đối với sự phát triển của xã hội,
đặc biệt là đối với quá trình xây dựng CNXH của một quốc gia, một dân tộc.
Trong cuộc đấu tranh tự khẳng định để phát triển của các nước trên thế giới,
theo kinh nghiệm của UNESCO, giáo dục giữ vai trò to lớn, “Giáo dục có thể đóng
một vai trò năng động và xây dựng”.
Từ những quan điểm trên chúng ta có thể thấy rằng, sự nghiệp GD –ĐT có vị
trí hết sức quan trọng và có vai trò hết sức to lớn trong quá trình phát triển KT – XH
của mỗi đất nước cũng như trên toàn thế giới.
Phát triển GD - ĐT sẽ nâng cao mặt bằng dân trí, yếu tố thúc đẩy sự phát
triển và tiến bộ xã hội của mỗi quốc gia. Nó sẽ tạo ra một nguồn nhân lực có đạo

đức và trí tuệ cao đáp ứng yêu cầu của sự phát triển, đặc biệt yêu cầu của sự nghiệp
CNH, HĐH đất nước. Khi phân tích năng suất lao động, người ta thấy rằng trình độ
văn hóa kĩ thuật của người lao động là một nhân tố chủ yếu tăng năng suất lao động.
Nhận thức vai trò của GD - ĐT, Nghị quyết của Hội nghị Ban Chấp hành
Trung ương Đảng lần thứ 2 (khóa VIII ) đã khẳng định: " Thực sự coi GD - ĐT là
quốc sách hàng đầu. Nhận thức sâu sắc GD - ĐT cùng với khoa học và công nghệ là
nhân tố quyết định tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội, đầu tư cho GD - ĐT là
đầu tư phát triển. Thực hiện các chính sách ưu tiên, ưu đãi đối với GD - ĐT đặc biệt
là chính sách đầu tư và chính sách tiền lương. Có giải pháp mạnh mẽ để phát triển
giáo dục" [11,tr29].
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, tiếp tục khẳng định: “Phát triển giáo
dục là quốc sách hàng đầu. Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam theo
hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hoá, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế, trong
6
đó, đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý
giáo dục là khâu then chốt” [14,tr30].
Phát triển GD – ĐT là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy CNH,
HĐH, là điều kiện phát huy nguồn lực của con người – yếu tố cơ bản phát triển xã
hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Mục tiêu đến năm 2020 đất nước ta cơ
bản sẽ trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại hóa, ngành giáo dục
cần phát triển mạnh mẽ phục vụ đắc lực mục tiêu đó.
Hiện nay, chúng ta có thể khẳng định: đội ngũ giáo viên là lực lượng cốt cán
biến các mục tiêu giáo dục thành hiện thực, giữ vai trò quyết định chất lượng và
hiệu quả giáo dục [19,tr13].
Trước ngưỡng cửa thế kỉ XXI, giáo dục thế giới đang có những thách thức
lớn: nâng cao mức trình độ xóa mù chữ; thu hút thanh thiếu niên trong tuổi học đến
nhà trường; thực hiện giáo dục phân hóa ở bậc trung học, gắn hơn nữa giáo dục với
thế giới lao động và việc làm; đổi mới nội dung phương pháp dạy học nhằm phục
vụ tốt hơn nhiệm vụ phát triển KT - XH; tăng cường giáo dục quốc tế; chăm lo cho
trẻ có nhu cầu giáo dục đặc biệt,

Xu thế đổi mới giáo dục để chuẩn bị con người cho thế kỉ XXI đang đặt ra
những yêu cầu mới về phẩm chất, năng lực của giáo viên.
Ngày nay, CNTT phát triển nhanh, tạo ra những phương pháp, phương tiện
giáo lưu mới, mở rộng các khả năng học tập, tạo cơ hội cho mỗi người có thể học
dưới nhiều hình thức theo khả năng và điều kiện cho phép. Nhà trường không còn là
nơi duy nhất đem đến cho học sinh những tri thức mới. Tuy nhiên, giáo dục nhà
trường dưới sự chỉ đạo của giáo viên, vẫn là con đường đáng tin cậy và có hiệu quả
nhất trong việc làm cho thế hệ trẻ tiếp thu có mục đích, có chọn lọc, có hệ thống
tinh hoa di sản văn hóa, khoa học, nghệ thuật của dân tộc và của nhân loại. Giáo
viên phải có năng lực chọn lọc các tri thức cơ bản, hiện đại, thực tiễn phù hợp với
mục tiêu giáo dục của bậc học, chuyển tải tới học sinh với sự hấp dẫn cao.
Trong bối cảnh kỹ thuật, công nghệ phát triển đang tạo sự chuyển dịch định
hướng giá trị, giáo viên không thể chỉ đóng vai trò truyền đạt tri thức mà phải có
năng lực phát triển cảm xúc, thái độ, hành vi của học sinh, đảm bảo người học làm
chủ được tri thức và biết ứng dụng hợp lý. Giáo viên phải quan tâm phát triển ở
7
người học ý thức về các giá trị đạo đức, tinh thần, thẩm mĩ, vừa kế thừa, phát triển
các giá trị truyền thống, vừa sáng tạo những giá trị mới, thích nghi với thời đại mới.
Trong xã hội đang biến đổi nhanh, người giáo viên phải có ý thức, có nhu
cầu và có tiềm năng không ngừng hoàn thiện về đạo đức, nhân cách, về chuyên
môn, nghiệp vụ, phát huy tính chủ động, độc lập, sáng tạo trong các hoạt động sư
phạm; biết cách phối hợp nhịp nhàng với tập thể nhà trường, gia đình và xã hội
trong việc thực hiện mục tiêu giáo dục.
CNTT được áp dụng ngày càng rộng rãi trong quá trình dạy học, đem lại
những khả năng mới, giúp giáo viên dễ dàng đưa những phần việc vốn chỉ thực hiện
ngoài lớp vào trong tiết học, biểu diễn trực quan các hiện tượng, quá trình trong thế
giới vi mô và vĩ mô; cung cấp một khối lượng lớn thông tin trong thời gian ngắn, xử
lý các số liệu phức tạp,
Chính vì vậy, với vị trí, vai trò, tầm quan trọng của đội ngũ giáo viên mà
trong những năm gần đây ở lĩnh vực quản lý giáo dục, các chuyên gia đã tập trung

nghiên cứu những vấn đề chiến lược phát triển giáo dục, đổi mới chương trình, mục
tiêu, phương pháp giảng dạy, phát triển nguồn nhân lực, trong đó có nội dung đề
cập đến sự phát triển đội ngũ giáo viên dưới nhiều góc độ của các ngành học, bậc
học khác nhau:
Những công trình nghiên cứu ngoài nước: Hiện nay trên thế giới đã xuất
hiện không ít các công trình nghiên cứu về sự phát triển của đội ngũ giáo viên dưới
góc độ phát triển nguồn nhân lực. Đặc biệt, chú trọng đến nâng cao chất lượng đội
ngũ giáo viên; đề cao khía cạnh phát triển bền vững, thích ứng nhanh của đội ngũ
giáo viên trước xu thế toàn cầu hóa và hội nhập thế giới. Về vấn đề này chúng ta có
thể bắt gặp ở các công trình nghiên cứu của Fumiko Shinohara (2004 “ICT in
Teachers Training, UNESCO”); Harry Kwa (2004 “Information”Technology
Training Program for Student anh Teachers); David C.B (1979 “Teacher”), Daniel
R. Beerens ngay từ những năm cuối thế kỷ XXI trong nghiên cứu của mình
(Creating a culture of Motivation anh Leaning) đã chủ trương tạo “nền văn hóa” về
sự học hỏi trong đội ngũ giáo viên. Ông cho rằng tính tăng trưởng và luôn luôn mới
là tiêu chuẩn trung tâm của đội ngũ giáo viên.
Sau hội thảo Camige về nhà giáo ở thế kỷ XXI, người ta đã đặt ra 5 yêu cầu
cốt lõi đối với nhà giáo là: kiến thức, kỹ năng sư phạm, phẩm chất, thái độ, niềm tin.
8
Ở một số quốc gia như Nhật Bản, Hàn Quốc, Australia, còn nhấn mạnh giáo
viên vừa là nhà chuyên môn vừa là nhà lãnh đạo (lãnh đạo hoạt động lớp học và
lãnh đạo chuyên môn). Ngoài ra, một số công trình nghiên cứu của OECD (tổ chức
hợp tác phát triển Châu Âu) cùng đã đề cập đến chất lượng giáo viên theo 5 tiêu
chuẩn chính, đó là: kiến thức phong phú về nội dung và chương trình bộ môn được
giao giảng dạy; kỹ năng sư phạm kể cả việc tạo được “kho kiến thức” về PPDH, về
năng lực sử dụng những phương pháp đó; có tư duy phản biện trước mỗi vấn đề và
có năng lực tự phê - nét rất đặc trưng của nghề dạy học; biết cảm thông và cam kết
tôn trọng phẩm giá của người khác; có năng lực quản lý, kể cả trách nhiệm quản lý
trong và ngoài lớp học.
Trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay, có không ít quốc gia

trên thế giới đang định hướng xây dựng đội ngũ nhà giáo nước mình phải có các tư
chất: nhà giáo, nhà khoa học, nhà quản lý và nhà cung ứng xã hội.
Warren – Piper và Glatte (1977) cho rằng phát triển giáo viên là thúc đẩy
một loạt động cơ có hệ thống, thỏa mãn hứng thú, ý chí, nguyện vọng và nhu cầu cá
nhân để phát triển sự nghiệp của họ, đồng thời đáp ứng nhu cầu tương lai của tổ
chức. Nhưng Sparks & Loucks – Horsley (1990) lại cho rằng phát triển giáo viên là
một quá trình cải tiến kĩ xảo công tác, tri thức và thái độ của giáo viên nhà trường.
Đối với vấn đề đổi mới phát triển giáo viên, chúng ta hãy đề cập đến quan điểm của
Riches C. (1977). Ông viết: “Cách tiếp cận quản lý nguồn nhân lực là nói về việc
cải thiện hoạt động và hiệu quả công việc, dù những điều này khó xác định đến
mấy, thông qua việc sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực; phải thừa nhận rằng con
người trong một tổ chức là bộ phận quan trong nhất để làm mọi việc. Con người
cũng cần được quản lý để phát huy tối đa hoạt động của chính bản thân và tổ chức
của họ. Và giá trị cần được quản lý. Phớt lờ họ hay đối xử với họ như những quân
tốt đen trên một bàn cờ của một tổ chức là không có đạo đức, không tự do và cũng
không hỗ trợ cho hoạt động của trường”[23,tr10].
Đổi mới quan điểm phát triển giáo viên là đổi mới toàn diện, thể hiện trên
hai bình diện: nhận thức và hành vi. Mặt khác, phát triển giáo viên phải xuất phát từ
chính nhu cầu của họ. Họ là người đề ra kế hoạch, xây dựng nội dung bồi dưỡng và
chính họ tự kiểm tra kết quả đạt được.
9
Việc phát triển giáo viên phải dựa vào lực lượng và nguồn lực tại chỗ. Phát
triển giáo viên bằng và căn cứ vào công việc thực tế hàng ngày của họ (việc giảng
dạy và giáo dục). Đây là quan điểm được nhiều người thừa nhận vì nó thiết thực và
có hiệu quả “trông thấy”.
Những công trình nghiên cứu trong nước:
Ở nước ta, trong những năm đổi mới có nhiều công trình nghiên cứu đã để
lại bài học quý giá về xây dựng và phát triển đội ngũ giáo viên như: Tác giả Nguyễn
Thị Phương Hoa (2002, Con đường nâng cao chất lượng cải cách các cơ sở đào
tạo giáo viên); tác giả Đinh Quang Báo (2005, Giải pháp đổi mới phương thức đào

tạo nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên); đồng tác giả Đặng Quốc Bảo, Đỗ
Quốc Anh, Đinh Thị Kim Thoa (2007, Cẩm nang nâng cao năng lực và phẩm chất
đội ngũ giáo viên); đồng tác giả Nguyễn Văn Cường, Nguyễn Hữu Châu, Trần Bá
Hoành, Nguyễn Bá Kim, Lâm Quang Thiệp (Đổi mới nội dung đào tạo giáo viên
THCS theo chương trình cao đẳng sư phạm mới); đồng tác giả Nguyễn Ngọc Cầu,
Bùi Văn Quân (Một số cách tiếp cận trong nghiên cứu và phát triển đội ngũ giảng
viên); tác giả Trần Bá Hoành (Vấn đề giáo viên những nghiên cứu lí luận và thực
tiễn) v.v Những công trình nghiên cứu sự phát triển đội ngũ giáo viên trên được
các tác giả đề cập theo 3 xu hướng: Thứ nhất, nghiên cứu phát triển đội ngũ giáo
viên dưới góc độ phát triển nguồn nhân lực; thứ hai, nâng cao chất lượng đội ngũ
giáo viên để đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục; thứ ba, nghiên cứu đề xuất hệ thống
các giải pháp xây dựng phát triển đội ngũ giáo viên trong thời kỳ CNH, HĐH đất
nước.
Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu nêu trên mặc dù để lại cho chúng ta
những kinh nghiệm quý giá về lý luận lẫn thực tiễn trong công tác xây dựng và phát
triển đội ngũ giáo viên, nhưng vẫn ít đề cập đến vấn đề quản lý, phát triển đội ngũ
giáo viên trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN với xu thế toàn cầu hóa và
hội nhập quốc tế.
Ngoài ra, trong thời gian gần đây đã có một số công trình nghiên cứu bàn về
vấn đề xây dựng và phát triển đội ngũ giáo viên như:
Các nghiên cứu về phát triển đội ngũ giáo viên ở các trường ĐH, CĐ:
- “Những biện pháp xây dựng và phát triển đội ngũ giáo viên trường Trung
cấp Công nghiệp Hải Phòng giai đoạn 2006 - 2010” của tác giả Vũ Đức Huấn (2006).
10
- “Biện pháp phát triển đội ngũ giảng viên trường Cao đẳng Văn hóa nghệ
thuật Đăk Lăk” của tác giả Nguyễn Hùng (2008)
- “Biện pháp phát triển đội ngũ giảng viên trường Cao đẳng Ngô Gia Tự
Tỉnh Bắc Giang” của tác giả Ngô Thị Minh Thực (2010) v.v
Các nghiên cứu về phát triển đội ngũ giáo viên ở các trường THPT:
- “Xây dựng quy hoạch phát triển đội ngũ giáo viên THPT Tỉnh Hậu Giang

đến năm 2015” của tác giả Trinh Anh Việt (2008).
- “Giải pháp tăng cường quản lý phát triển đội ngũ giáo viên THPT Thị xã
Bảo Lộc Tỉnh Lâm Đồng” của tác giả Đặng Cao Vân (2009)
- “Giải pháp phát triển đội ngũ giáo viên THPT Tỉnh Sơn La đến năm 2015”
của tác giả Cẩm Thị Thanh Huyền (2010) v.v
Nhận xét:
Các công trình phần lớn tập trung nghiên cứu việc xây dựng và phát triển đội
ngũ cán bộ quản lý, giảng viên ở các trường trung cấp, cao đẳng.
Hướng phát triển đội ngũ giáo viên ở cấp THPT ít được nghiên cứu, đặc biệt
chưa có công trình nào nghiên cứu về phát triển đội ngũ giáo viên THPT ở huyện
miền núi trên nền tảng Chuẩn nghề nghiệp giáo viên trung học (Theo Thông tư số
30/2009/TT-BGDĐT, ngày 22/10/2009 của Bộ trưởng Bộ GD – ĐT về Quy định
Chuẩn nghề nghiệp giáo viên THCS, giáo viên THPT).
Chính vì thế, luận văn này đầu tiên nghiên cứu vấn đề phát triển đội ngũ giáo
viên THPT huyện Ea Kar tỉnh Đăk Lăk trên nền tảng Chuẩn nghề nghiệp giáo viên
THPT với mục đích đưa ra các biện pháp phát triển đội ngũ giáo viên THPT huyện
Ea Kar tỉnh Đăk Lăk nhằm nâng cao chất lượng dạy và học đáp ứng yêu cầu đổi
mới giáo dục phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
1.2 CÁC KHÁI NIỆM CƠ BẢN CỦA ĐỀ TÀI
1.2.1 Đội ngũ giáo viên
Đội ngũ
Theo đại Từ điển Đại tiếng Việt đã định nghĩa: “Đội ngũ là khối đông người
cùng chức năng hoặc nghề nghiệp tập hợp thành lực lượng”[42,tr659].
Khái niệm đội ngũ dùng cho các tổ chức trong xã hội một cách khá rộng rãi
như: đội ngũ tri thức, đội ngũ giáo viên, đội ngũ thanh niên xung phong, Các khái
11
niệm đó đều xuất phát theo cách hiểu thuật ngữ quân sự về đội ngũ, đó là gồm nhiều
người, tập hợp thành một lực lượng, hàng ngũ chỉnh tề.
Tuy nhiên ở một nghĩa chung nhất chúng ta có thể hiểu như sau: đội ngũ là
tập hợp một số đông người, hợp thành một lực lượng để thực hiện một hay nhiều

chức năng, có thể cùng nghề nghiệp hoặc khác nghề, nhưng có chung mục đích xác
định; họ làm việc theo kế hoạch và gắn bó với nhau về lợi ích vật chất và tinh thần
cụ thể.
Giáo viên
Từ điển tiếng Việt định nghĩa: “Giáo viên là người dạy học ở bậc phổ thông
hoặc tương đương”[42, tr734].
Tại Điều 70 của Luật GD của nước CHXHCNVN năm 2005 đã đưa ra định
nghĩa pháp lý đầy đủ về Nhà giáo và những tiêu chuẩn của một Nhà giáo như sau:
“1. Nhà giáo là người làm nhiệm vụ giảng dạy, giáo dục trong nhà trường, cơ
sở giáo dục khác.
2. Nhà giáo phải có những tiêu chuẩn sau đây:
a) Phẩm chất, đạo đức, tư tưởng tốt;
b) Đạt trình độ chuẩn được đào tạo về chuyên môn, nghiệp vụ;
c) Đủ sức khỏe theo yêu cầu nghề nghiệp;
d) Lý lịch bản thân rõ ràng
3. Nhà giáo giảng dạy ở các cơ sở GDMN, GDPT, giáo dục nghề nghiệp
trình độ sơ cấp nghề, trung cấp nghề, TCCN gọi là giáo viên. Nhà giáo giảng dạy ở
các cơ sở giáo dục đại học, trường cao đẳng nghề gọi là giảng viên”[32,tr734].
Đội ngũ giáo viên: Là những nhà giáo dạy ở các cơ sở GDMN, GDPT, giáo
dục nghề nghiệp trong hệ thống giáo dục quốc dân.
Khi đề cập đến đội ngũ giáo viên, Tiến sĩ Raja Roy Singh-Nhà giáo dục nổi
tiếng Ấn Độ, chuyên gia giáo dục nhiều năm ở UNESCO khu vực Châu Á – Thái
Bình Dương đã nói: “Giáo viên giữ vai trò quyết định trong quá trình giáo dục và
đặc biệt trong việc định hướng lại giáo dục. Những công nghệ thành đạt, nói chính
xác là những công nghệ thông tin (giáo dục từ xa chẳng hạn) sử dụng trình độ nghề
nghiệp và phong cách của những giáo viên giỏi nhất. Trong quá trình dạy học giáo
viên không chỉ là người truyền thụ những phần tri thức rời rạc. Giáo viên giúp
người học thường xuyên gắn bó với cơ cấu lớn hơn. Giáo viên cũng đồng thời là
12
người hướng dẫn, người cố vấn, người mẫu mực của người học. Giáo viên do đó

không phải là người chuyên về lĩnh vực hẹp mà là người cán bộ tri thức, người học
suốt đời. Trong công cuộc hoàn thiện quá trình dạy học, người dạy, người học là
những người bạn cùng làm việc, cùng nhau tìm hiểu và khám phá” [4,tr149].
Từ xa xưa, ông cha ta đã khẳng định: “Không thầy đố mày làm nên!” hay
“Thầy nào trò nấy”. Những lời răn dạy ấy đã khẳng định vai trò quyết định của
người Thầy đối với quá trình giáo dục. Chân lý đó là hiển nhiên và mãi mãi trường
tồn. Trong xã hội nào cũng vậy, nghề giáo luôn được đánh giá là nghề cao quý nhất
và người thầy giáo luôn có vị thế quan trọng. Một điều quan trọng hơn nữa là phải
biết tôn kính, biết ơn đối với thầy giáo, người đã giáo dục tư cách, đạo đức, mở
mang trí tuệ cho ta. Vì thế “công cha, nghĩa mẹ, ơn thầy” bao giờ cũng được nhân
dân ta coi trọng, đề cao. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định: “Không
có thầy giáo thì không có giáo dục không có giáo dục, không có cán bộ thì không
nói gì đến kinh tế - văn hóa”
Ngày nay, trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, Đảng, Nhà nước và
nhân dân ta đang ra sức quyết tâm, nỗ lực xây dựng và phát triển đất nước trở thành
một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020, thì vai trò vị thế của
người Thầy một lần nữa lại được đề cao: “Một ngày thiếu giáo dục đất nước không
thể tồn tại và giáo dục không có người thầy không thể vận động được”[4,tr148].
Từ các khái niệm mà các tác giả trong và ngoài nước đã nêu, ta có thể hiểu:
Đội ngũ giáo viên là tập hợp những người làm nghề dạy học – giáo dục, được tổ
chức thành một lực lượng, cùng chung một lý tưởng, mục đích, nhiệm vụ, cùng
thực hiện các nhiệm vụ theo một kế hoạch thống nhất, gắn bó với nhau thông qua
lợi ích về vật chất và tinh thần và được hưởng các quyền lợi như nhau theo Luật lao
động, Luật giáo dục và các Luật khác được Nhà nước quy định.
Đội ngũ giáo viên THPT: Là những giáo viên dạy ở cấp THPT, bao gồm cả
THPT công lập và ngoài công lập.
Theo Điều 28 – Chương IV. Điều lệ trường Trung học của Bộ GD - ĐT ban
hành thì giáo viên trường Trung học là người làm nhiệm vụ giảng dạy, giáo dục
trong nhà trường, bao gồm: Hiệu trưởng, Phó hiệu trưởng, giáo viên bộ môn, giáo
viên tổng phụ trách (đối với trường THCS). Trong phạm vi đề tài này, tác giả chỉ

13
nói đến đội ngũ giáo viên trường THPT là những giáo viên bộ môn trong các trường
THPT Huyện Ea Kar Tỉnh Đăk Lăk.
1.2.2 Biện pháp phát triển đội ngũ giáo viên
Biện pháp
Theo định nghĩa của triết học: biện pháp là cách thức, con đường, phương
tiện và tổ hợp các thao tác xác định để đạt được mục đích, giải quyết những nhiệm
vụ nhất định trong nhận thức và thực tiễn. Còn theo Từ điển Tiếng Việt của Ủy ban
khoa học xã hội Việt Nam ,viện ngôn ngữ học: “Biện pháp là cách làm, cách giải
quyết một vấn đề cụ thể” [29,tr80].
Đối với lĩnh vực quản lý giáo dục, biện pháp được hiểu đó là tổ hợp những
cách thức, con đường của chủ thể quản lý giáo dục tác động vào khách thể quản lý
nhằm khai thác và sử dụng có hiệu quả các tiềm năng, cơ hội của khách thể quản lý
để đạt được mục tiêu quản lý.
Phát triển
Theo quan niệm của phép biện chứng duy vật, phát triển là một phạm trù
dùng để khái quát quá trình vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến
phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Phát triển là sự vận động đi lên,
thông qua bước nhảy; sự vật, hiện tượng cũ mất đi, sự vật, hiện tượng mới về chất
ra đời. Đặc điểm của sự phát triển là tính kế thừa, tính tiến lên theo con đường xoắn
ốc, dường như lặp lại giữa sự vật, hiện tượng cũ với sự vật, hiện tượng mới nhưng
trên cơ sở cao hơn, thể hiện tính quanh co, phức tạp, có thể có những bước thụt lùi
tương đối trong sự phát triển. Nguồn gốc của sự phát triển là đấu tranh giữa các mặt
đối lập bên trong sự vật, hiện tượng.
Phát triển là nguyên tắc chung chỉ đạo hoạt động nhận thức và hoạt động
thực tiễn, nguyên tắc này giúp chúng ta nhận thức được rằng, muốn thực sự nắm
được bản chất sự vật, hiện tượng, nắm được khuynh hướng phát triển của chúng thì
phải có quan điểm phát triển, khắc phục tư tưởng bảo thủ, trì trệ. Khi phân tích sự
vật, hiện tượng phải đặt chúng trong sự vận động, phải phát hiện được các xu hướng
biến đổi, phát triển của chúng. V.I. Lênin cho rằng: “”Lô gic biện chứng đòi hỏi

phải xét sự vật trong sự phát triển, trong sự “tự vận động” trong sự biến đổi của
nó” [24,tr364].
14
Nguyên tắc phát triển cũng là một trong những nguyên tắc phương pháp luận
cơ bản, quan trọng nhất của hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn. Cơ sở lý
luận của nguyên tắc phát triển là nguyên lý về sự phát triển của phép biện chứng
duy vật.
Phát triển là một trường hợp đặc biệt của sự vận động và trong sự phát triển sẽ
nảy sinh những tính quy định mới, cao hơn về chất, nhờ đó làm cho cơ cấu tổ chức,
phương thức tồn tại và vận động của sự vật, hiện tượng cùng chức năng vốn có của nó
ngày càng hoàn thiện hơn. Do vậy, để nhận thức được sự tự vận động, phát triển của sự
vật, hiện tượng chúng ta cần chỉ ra được nguồn gốc và động lực bên trong, nghĩa là tìm
ra được và biết cách giải quyết những mâu thuẫn; phải xác định xu thế phát triển của sự
vật, hiện tượng do sự phủ định biện chứng quy định; coi phủ định là tiền đề cho sự ra
đời của sự vật, hiện tượng mới; sự vật, hiện tượng mới ra đời phù hợp với quy luật vận
động và phát triển, bởi vậy phải ủng hộ cái mới, cái tiến bộ. Mọi sự vật, hiện tượng
chỉ có tính ổn định tương đối; chúng luôn luôn vận động, biến đổi và phát triển.
Phát triển là xu thế khách quan.
Theo Từ điển Tiếng Việt: “Phát triển là biến đổi hoặc làm cho biến đổi từ ít
đến nhiều, từ hẹp đến rộng, từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp”[29,tr797].
Phát triển là xu thế chung của thế giới vật chất. Trong xã hội luôn luôn tồn
tại xu hướng phát triển: phát triển của mỗi cá nhân, của hoạt động, phát triển của
cộng đồng, của xã hội, Tuy nhiên, sự phát triển của mỗi con người, của mỗi xã hội
nhanh hay chậm còn lệ thuộc vào nhiều yếu tố. Chẳng hạn, muốn xã hội phát triển
cần phải phát triển nguồn nhân lực; muốn phát triển giáo dục – đào tạo thì một
trong những yếu tố quan trọng, đó là phải phát triển đội ngũ giáo viên, bởi vì giáo
viên là người quyết định chất lượng của quá trình giáo dục và đào tạo.
Từ những quan niệm nêu trên, chúng ta có thể hiểu phát triển là biểu hiện sự
thay đổi, sự tăng tiến cả về số lượng lẫn vật chất của sự vật, hiện tượng, của con
người trong cộng đồng và trong xã hội.

Phát triển đội ngũ giáo viên
Phát triển đội ngũ giáo viên là phát triển nguồn nhân lực trong lĩnh vực GD -
ĐT, tạo ra một đội ngũ (tổ chức) giáo viên đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu (tổ
chức, độ tuổi, giới tính, dân tộc), đảm bảo về chất lượng (trình độ chuẩn, phẩm chất,
15
năng lực) đảm bảo thực hiện tốt các yêu cầu phát triển GD - ĐT trong từng thời kỳ
phát triển của đất nước.
Sự phát triển đội ngũ giáo viên chủ yếu thể hiện ở các mặt: Phát triển về
phẩm chất chính trị, trình độ chuyên môn nghiệp vụ và năng lực hoạt động thực tiễn
của giáo viên, đảm bảo đầy đủ về số lượng giáo viên trong đội ngũ và đội ngũ có cơ
cấu phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ phải đảm nhiệm.
Biện pháp phát triển đội ngũ giáo viên
Từ những cách tiếp cận nêu trên, chúng tôi cho rằng biện pháp phát triển đội
ngũ giáo viên là cách thức và tổ hợp các thao tác xác định của chủ thể quản lý tác
động đến đối tượng quản lý nhằm xây dựng và phát triển đội ngũ giáo viên đủ về số
lượng, đồng bộ về cơ cấu, đạt chuẩn về chất lượng đảm bảo thực hiện tốt kế hoạch
chiến lược của nhà trường, qua đó không ngừng nâng cao chất lượng dạy và học
nhà trường, đáp ứng không yêu cầu phát triển GD và ĐT.
Biện pháp phát triển đội ngũ giáo viên THPT
Biện pháp phát triển đội ngũ giáo viên THPT là cách thức và tổ hợp các thao
tác xác định của hiệu trưởng tác động đến đội ngũ giáo viên THPT nhằm đảm bảo
chất lượng theo chuẩn, đủ về số lượng và có cơ cấu hợp lý đáp ứng yêu cầu phát
triển GD – ĐT, những đòi hỏi ngày càng cao của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
Biện pháp phát triển đội ngũ giáo viên THPT huyện Ea Kar
Biện pháp phát triển đội ngũ giáo viên THPT huyện Ea kar là cách thức của
hiệu trưởng tác động đến đội ngũ giáo viên nhằm xây dựng và phát triển đội ngũ
giáo viên THPT huyện Ea Kar đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, đạt chuẩn về chất
lượng nhằm thực hiện tốt chiến lược phát triển của nhà trường, đảm bảo chương
trình phát triển nguồn nhân lực, đáp ứng yêu cầu phát triển GD – ĐT và nhu cầu
phát triển KT – XH của huyện trong giai đoạn mới.

1.2.3 Các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển đội ngũ giáo viên
Yếu tố là bộ phận cấu thành một sự vật, hiện tượng [30,tr1206].
Chủ quan là cái thuộc về ý thức, ý chí của con người, trong quan hệ đối lập
với khách quan [30,tr199].
Khách quan là cái tồn tại bên ngoài, không phụ thuộc vào ý thức, ý chí của
con người, trong quan hệ đối lập với chủ quan.
16
1.2.3.1 Yếu tố chủ quan
* Quan niệm về nghề dạy học
* Suy nghĩ về chính sách tiền lương, chế độ đãi ngộ, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên
* Lòng yêu nghề, mến trẻ
1.2.3.2 Yếu tố khách quan
* Các yếu tố về kinh tế- xã hội
* Các yếu tố về dân số và dân số trong độ tuổi đến trường
* Sự phát triển quy mô trường, lớp
1.3 CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ VÀ VAI TRÒ CỦA GIÁO VIÊN TRƯỜNG
THPT TRONG SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI GIÁO DỤC
Nhà trường – thiết chế hiện thực hóa sứ mệnh của nền giáo dục trong đời
sống KT - XH. Nhà trường trong nền kinh tế công nghiệp không chỉ là thiết chế sư
phạm đơn thuần. Công việc diễn ra trong nhà trường có mục tiêu cao nhất là hình
thành “Nhân cách – sức lao động”, phục vụ phát triển cộng đồng làm tăng nguồn
vốn con người, vốn tổ chức và vốn xã hội. “Nhà trường là vầng trán của cộng
đồng” và đến lượt mình “cộng đồng là trái tim của nhà trường”. Từ nhà trường,
hai quá trình “Xã hội hóa giáo dục” và “Giáo dục hóa xã hội” quyện chặt vào nhau
để hình thành “Xã hội học tập”, tạo nên sự đồng thuận xã hội, tăng trưởng kinh tế
cho mỗi quốc gia với mục tiêu phát triển nhân văn, đưa giáo dục đến cho mỗi
người, cho mọi người và huy động mọi tiềm năng, nguồn lực của xã hội cho giáo
dục [18,tr210].
1.3.1 Nhà trường THPT trong hệ thống giáo dục quốc dân
Nhà trường trong hệ thống giáo dục quốc dân được tổ chức theo các loại

hình sau đây:
- Trường công lập do Nhà nước thành lập, đầu tư xây dựng cơ sở vật chất,
bảo đảm kinh phí cho các nhiệm vụ chi thường xuyên;
- Trường dân lập do cộng đồng dân cư ở cơ sở thành lập, đầu tư xây dựng cơ
sở vật chất và bảo đảm kinh phí hoạt động;
- Trường tư thục do các tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức
kinh tế hoặc cá nhân thành lập, đầu tư xây dựng cơ sở vật chất và bảo đảm kinh phí
hoạt động bằng vốn ngoài ngân sách nhà nước.
17

×