Tải bản đầy đủ (.doc) (60 trang)

Thị trường chứng khoán & các nhân tố ảnh hưởng đến giá cả chứng khoán

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (333.1 KB, 60 trang )

MỞ ĐẦU
I.Đặt vấn đề
Thị trường chứng khoán là yếu tố cơ bản của nền kinh tế thị trường hiện
đại. Người ta nói : thị trường chứng khoán chính là “Hàn thử biểu” của nền
kinh tế. Thật vậy, mọi biến động của kinh tế – chính trị – xã hội sẽ tác động
tức thời ngay trên thị trường chứng khoán & qua sự thăng trầm của các chỉ số
giá cả chứng khoán người ta có thể thấy rõ mức độ ảnh hưởng Êy tác động
đến thế nào.
Trong sự vận dộng của các nền kinh tế trên thế giới thì thị trường chứng
khoán là hình ảnh phản chiếu “khách quan” nhất về tình hình kinh tế cơ bản.
Giờ đây, thị trường chứng khoán đã trở thành một định chế tài chính không
thể thiếu được trong dời sống kinh tế của những nước theo cơ chế thị trường.
Đối với bất kỳ quốc gia nào, việc thực hiện các mục tiêu chiến lược phát
triển kinh tế–xã hội phụ thuộc rất nhiều vào các nguồn huy động vốn. Việc
huy động vốn không phải chỉ ở việc sử dụng nhiều hình thức thu hút tiền gửi
ngắn hạn, trung & dài hạn qua ngân hàng & các trung gian tài chính để cho
vay theo lãi suất thị trường–vì đó mới chỉ là việc sử dụng các công cụ tạo lập
vốn gián tiếp. Vấn đề là phải khuyến khích & tăng cường sử dụng các công cụ
tạo lập vốn trực tiếp bằng cách phát hành chứng khoán & hình thành kênh huy
động vốn mới - đó là Thị trường chứng khoán với mục tiêu la thu hút nhiều
hơn nữa các nguồn vốn phục vụ cho việc đầu tư dài hạn để phát triển kinh tế –
xã hội. Để đạt được điều này, một trong những vấn đề được đặc biệt quan tâm
là - phải nghiên cứu đến sự vận động của giá cả chứng khoán & các nhân tố
ảnh hưởng đến giá chứng khoán trên thị trường. Sự biến động về giá cả của
các chứng khoán thông qua sự thăng trầm của các chỉ số giá cả chứng khoán
trên thị trường là một hiện tượng kinh tế tất yếu. Chứng khoán là một loại
hàng hoá đặc biệt; giá cả của nó chịu sự tác động chủ yếu của quy luật cung –
cầu trên thị trường nhưng cơ chế hình thành giá cả chứng khoán không giống

như các loại hàng hoá dịch vụ thực của nền kinh tế quốc dân. Sự vận động
của giá cả chứng khoán trên thị trường cho thấy những nét đặc thù của nó.


Diễn biến giá cả chứng khoán trên thị trường chứng khoán theo”những bước
đi ngẫu nhiên”, phản ánh đầy đủ trong đó & tức thời tất cả các thông tin có
liên quan đến người đầu tư & nền kinh tế; nghĩa là thị trường chứng khoán rất
nhạy cảm với mọi biến động của tình hình. Sự lên xuống của thị trường chứng
khoán làm cho các khoản thu lợi nhuận khổng lồ có thể biến thành các khoản
lỗ khủng khiếp & nếu sụ biến động đó làm phá vỡ cả hệ thống, làm cho hệ
thống sụp đổ thì hậu quả đối với nền kinh tế thật khó mà lường hết được.
Trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN &
nhất là hiện nay, khi Việt Nam đang đảy nhanh, đẩy mạnh quá trình CNH &
HĐH đất nước thì vấn đề huy động vốn, phát huy cao nhất yếu tố nội lực
càng trở nên cực kì quan trọng hơn bao giờ hết.
Đề tài “Thị trường chứng khoán & các nhân tố ảnh hưởng đến giá cả
chứng khoán” đÒ cập đến những vấn đề cơ bản của thị trường chứng khoán;
nghiên cứu giá cả chứng khoán theo hướng : cơ chế hình thành – sự vận động
& các nhân tố ảnh hưởng đến giá cả chứng khoán dưới góc độ kinh tế học.
Qua đó sẽ phần nào giúp chúng ta nhìn nhận một cách tổng thể về thị trường
chứng khoán & sự vận hành của nó trong môi trường kinh tế – chính trị – xã
hội quốc gia & quốc tế. Từ những vấn đề nghiên cứu này, chúng ta sẽ đưa ra
các chính sách làm chủ, giữ gìn thị trường chứng khoán Việt Nam phát triển
lành mạnh là vấn đề rất quan trọng & có ý nghĩa rất lớn về mặt lý luận & thực
tiễn.
Mặc dù tâm huyết & nỗ lực song thời gian & trình độ còn hạn chế, phạm vi
7 các vần đề nghiên cứu của đề tài rộng, phong phú & có nhiều điều còn mới
mẻ. Vì vậy, đề án chắc chắn không trành khỏi những mặt hạn chế nhất định.
Rất mong nhận được ý kiến đóng góp của thầy cô, bạn bè… để đề tài được
hoàn thiện & hữu Ých hơn.
Em xin chân thành cám ơn

Thầy giáo hướng dẫn Hoàng Xuân Quế cùng các các thầy cô trong
khoa

TC-NH,ĐH KTQD cùng các các bạn bè đã giúp đỡ em hoàn thành đề án này.
II. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề án tập trung vào các vấn đề :
Hệ thống hoá một số vấn đề cơ bản về thị trường chứng khoán; tính quy
luật & nhu cầu tất yếu của sự hình thành & phát triển thị trường chứng khoán
trong nền kinh tế hiện đại; hệ thống pháp lý về thị trường chứng khoán.
Chứng khoán & các đặc điểm của chứng khoán.
Nghiên cứu về cơ chế hình thành, sự vận động & các nhân tố ảnh hưởng
đến giá cả chứng khoán.
Đưa ra một số chính sách làm chủ, giữ gìn thị trường chứng khoán Việt
Nam phát triển lành mạnh & hiệu quả.
III. Ý nghĩa khoa học & thực tiễn của đề tài
Việc hệ thống hoá những vấn đề cơ bản về thị trường chứng khoán; phân
tích cơ chế hình thành, sự vận động & các nhân tố ảnh hưởng đến giá cả
chứng khoán có ý nghĩa rất to lớn về mặt lý luận & thực tiễn. Nó rất cần thiết
trong việc hiểu & nhìn nhận thấu đáo hơn về thị trường chứng khoán, về sự
vận hành của nó trong môi trường của nền kinh tế – chính trị –xã hội, trong
khuôn khổ của luật pháp. Từ những vấn đề được đưa ra nghiên cứu của đề tài
này phần nào sẽ góp Ých cho đưa ra các giải pháp làm chủ & giữ gìn thị
trường chứng khoán Việt nam phát triển lành mạnh nhằm huy động tối đa mọi
nguồn vốn cho đầu tư phát triển nền kinh tế – xã hội của đất nước trong giai
đoạn đổi mới hiện nay, đồng thời tạo thói quen & niềm tin cho mọi thành viên
khi tham gia vào thị trường chứng khoán Việt Nam.

Phần I : Thị trường chứng khoán
I. Khái niệm về thị trường chứng khoán
Hiện nay có rất nhiều khái niệm về thị trường chứng khoán, mỗi khái niệm
chỉ cung cấp được một số vấn đề nào đó về thuật ngữ “Thị trường chứng
khoán” trong đời sống kinh tế. Tuy vậy, khái niệm được sử dụng phổ biến là:
Thị trường chứng khoán là nơi diễn ra các hoạt động mua bán, chuyển

nhượng chứng khoán; nơi mà giá cả chứng khoán được hình thành theo quy
luật cung cầu.
Thị trường chứng khoán phải tồn tại ở một nơi mà ở nơi đó việc mua bán
chứng khoán được thực hiện. Trong quá trình phát triển & hoàn thiện thị
trường chứng khoán ở các nước có nền sản xuất & lưu thông hàng hoá phát
triển thì “nơi đó” tồn tại dưới hai hình thức : thị trường chứng khoán có tổ
chức & thị trường chứng khoán phi tổ chức. Hình thái điển hình của thị
trường chứng khoán có tổ chức là “Sở giao dịch chứng khoán” được thành lập
theo quy định của pháp luật. Mọi việc trao đổi, mua bán, chuyển nhượng
chứng khoán trên thị trường có tổ chức phải tiến hành trong Sở giao dịch
chứng khoán & phải tuân theo mét quy chế nhất định. Thị trường chứng
khoán phi tổ chức(OTC) là thị trường không tồn tại hình thái tổ chức. Nó có
thể là bất cứ nơi nào mà tại đó người mua & người bán trực tiếp gặp nhau để
tiến hành giao dịch.
Xét trên bình diện quốc gia & quốc tế: thị trường chứng khoán là mét
ngành kinh tế hoạt động theo cơ chế cung – cầu, có hệ thống quy chuẩn &
luận thuyết khoa học riêng. Nó đéc lập trong giải quyết nghiệp vụ & có liên
quan với các hoạt động kinh tế tài chính khác trong sù vận hành chung của
nền kinh tế.Với sự hỗ trợ của các thành tựu về công nghệ thông tin & vi xử lý
thì hoạt động của thị trường chứng khoán hiện nay là hoạt động của một
ngành công nghiệp.Từ một nơi chốn cụ thể như Sở giao dịch chứng khoán,

các quầy giao dịch cua ngân hàng thì giờ đây thị trường chứng khoán là cả
khoảng không gian rộng lớn của mạng thông tin & vì thế nó đã tạo điều kiện
& môi trường cho mọi thành viên trong xã hội đều có thể tham gia vào thị
trường chứng khoán hiện đại.
II. Quá trình hình thành & phát triển của thị trường chứng khoán
Thị trường chứng khoán ra đời vào khoảng giữa thế kỉ 15 ở Tây Âu & giữ
vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế của các nước có lực lượng sản xuất
phát triển. Khi Êy, những thành phố, trung tâm mua bán, trao đổi các loại

hàng hoá như: nông sản, khoáng sản, ngoại tệ & giá khoán động sản… Điểm
đặc biệt là trong những cuộc thương lượng này các thương gia chỉ dùng lời
nói để trao đổi với nhau, không có hàng hoá, ngoại tệ, giá khoán động sản hay
bất cứ một loại giấy tờ nào. Những cuộc thương lượng đó nhằm thống nhất
các “Hợp đồng” mua bán, trao đổi thực hiện ngay & cả những hợp đồng sẽ
thực hiện trong tương lai.
Những cuộc trao đổi này lúc đầu chỉ có một nhóm nhỏ, dần dần số người
tăng lên. Đến cuối thế kỉ 15,”khu chợ riêng” này trở thành một “thị trường” &
được họp hầu như thường xuyên. Trong các phiên họp chợ này, họ thống
nhất với nhau những quy ước cho các cuộc thương lượng. Dần dần, những qui
quy ước đó được
hoàn chỉnh dần & trở thành những quy tắc có giá trị bắt buộc đối với những
người tham gia. Cũng từ đó thị trường chứng khoán bắt đầu hình thành
Quá trình hình thành & phát triển của các thị trường chứng khoán trên thế
giới đã trải qua những bước thăng trầm. Thời kì huy hoàng nhất vào những
năm 1875-1913, thị trường chứng khoán phát triển mạnh cùng với sự tăng
trưởng của nền kinh tế. Nhưng đến ngày được gọi là “Ngày thứ năm đen tối”
thì “Một sự kiện đau buồn để lại bóng đen bao trùm lên các thị trường chứng
khoán trong nhiều thập kỷ là cuộc hoảng loạn & sụp đổ năm 1929. Sự kiện
dẫn đến cuộc Đại suy thoái đau đớn & kéo dài trong những năm 30 của thập
kỉ. Khủng hoảng thị trường chứng khoán năm 1929 keo theo cuộc đại khủng

hoảng kinh tế 1929-1933. Đến giai đoạn khủng hoảng sâu sắc nhất của cuộc
suy thoái, năm 1933 thị trường đã giảm 85%”(Paul A.Samuelson. Kinh tế
học). Sau chiến tranh thế giới II, các thị trường chứng khoán hồi phục trở lại
& phát triển mạnh. Nhưng rồi “Cuộc khủng hoảng tài chính” 1987 một lần
nữa lại làm cho các thị trường chứng khoán thế giới suy sụp, Kiệt quệ nặng nề
hơn.”Vào ngày 19/10/1987” - “Ngày thứ hai đen tối” - “Thị trường chứng
khoán đã mất đi 22% giá trị của nó chỉ trong 6 tiếng đồng hồ”
(Paul A.Samuelson. Kinh tế học). Nhưng cũng chỉ sau 2 năm, thị trường

chứng khoán thế giới lại đi vào ổn định, phát triển & trở thành một định chế
tài chính không thể thiếu trong đời sống kinh tế của những quốc gia có nền
kinh tế phát triển theo cơ chế thị trường.
Thị trường chứng khoán & các thị trường tài chính nói chung đã trải qua
một cuộc cách mạng thực sự trong những năm gần đây do có các biến động
lớn trong bối cảnh kinh tế, pháp lý & kỹ thuật. Các cuộc cải cách có nhiều
hình thức khác nhau:
Cải cách các chế đọ thuế nhằm thu hút người có tiền tích luỹ tham gia thị
trường chứng khoán bằng cách giảm thuế thu nhập đánh vào các khoản đầu tư
thu được từ các cổ phiếu.
Tạo ra các hình thức chứng phiếu mới nhằm đáp ứng tốt hơn hình thức tài
trợ qua thị trường chứng khoán cho các nhu cầu cảu các nhà vay vốn.
Hiện đại hoá thị trường vay nợ của nhà nước bằng việc áp dụng các kĩ thuật
mới về phát hành & đấu thầu các tín phiếu; đồng nhất các đợt phát hành trái
phiếu nhằm tạo điều kiện cho nhà nước có thể vay được nhiều vốn trên các thị
trường & để giảm nhẹ bớt chi phí.
Đổi mới kỹ thuật để tạo dựng một cơ cấu đủ hiện đại nhằm đáp ứng được
với sự phát triển của thị trường chứng khoán. Các chức năng kinh doanh thị
trường chứng khoán đã được tin học hoá mạnh mẽ. Hai cải cách lớn nhất về
mặt kĩ thuật, một mặt liên quan đến sự giao dịch & mặt khác đến việc xủ lý
hành chính các nghiệp vụ giao dịch tạo điều kiện thuận lợi hơn cho việc lưu

thông các cổ phiếu giữa các tổ chức thành viên, thông qua các nghiệp vụ
chuyển khoản từ tài khoản này sang tài khoản khác.
III. Mục tiêu & nguyên nhân khách quan thiết lập thị trường chứng
khoán
3.1 Mục tiêu thành lập thị trường chứng khoán
Mục tiêu bao quát nhất là nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn vốn
trong quá trình phát triển kinh tế & coi đây là nhân tố quan trọng nhất để phát
triển sản xuất. Thị trường chứng khoán là “van” điều tiết hữu hiệu nhất các

nguồn vốn từ n ơi sử dụng kém hiệu quả sang nơi có hiệu quả hơn.
Mở rộng nền tảng của quyền sở hữu: thị trường chứng khoán là nơi diễn ra
các quá trình chuyển nhượng quyến sở hữu về vốn hết sức thuận lợi & là môi
trường cho việc đa dạng hoá các chủ thể sở hữu về vốn ở các doanh nghiệp.
Tạo điều kiện cho nhiều ngời sử dụng vốn đầu tư. Đồng thời luôn bảo đảm
& phục vụ cho mọi đối tượng có nhu cầu về vốn để dầu tư cho sản xuất.
Bảo đảm sẵn sàng cấc nguồn vốn cho việc đầu tư dài hạn. Khác với ngân
hàng, thị trường chứng khoán luôn sẵn sàng cung cấp vốn dài hạn kịp thời,
đúng lúc & đủ số lượng cần thiết cho các doanh nghiệp mà không phải thông
qua thủ tục hành chính khắt khe, mức độ cho vay hạn chế.
Nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức tài chính.
Tạo điều kiện thuận lợi cho việc thu hút vốn đầu tư nược ngoài & nâng
cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn đầu tư này.
3.2 Nguyên nhân khách quan của sự hình thành thị trường chứng khoán
Hệ thống tài chính trong nền kinh tế thị trường bao gồm nhiều tổ chức trung
gian với các nghiệp vụ hết sức đa dạng. Tuy vậy, một hệ thống tài chính hoàn
chỉnh & hoạt động có hiệu quả ở tất cả các nước đang phát triển không thể
không có sự tham gia hoạt động của thị trường chứng khoán.
Việc hình thành thị trường chứng khoán là một hiện tượng kinh tế cần thiết
khi phát triển nền kinh tế theo cơ chế thị trường. Kinh nghiệm thế giới cho
thấy, các nước phát triển theo cơ chế thị trường đều phải tuân theo quy luật

khắt khe của thị trường : quy luật giá trị & các quy luật của quan hệ cung –
cầu. Do đó, nền kinh tế thị trường đòi hỏi khách quan phải có các thị trường
dành riêng cho từng loại. Trong cơ cấu của thị trường thì ben cạnh thị trường
hàng hoá, còn có thị trường tư liệu sản xuất, thị trường sức lao động, thị
trường dịch vụ thông tin & thị trường chứng khoán. Điều đó chứng tỏ thị
trường chứng khoán là một yếu tố cấu thành đặc biệt quan trọng của nền kinh
tế thị trường, nó có đầy đủ các đặc trưng của một thị trường; nó tồn tại khách
quan & hầu hết đều hình thành một cách tự phát dưới tác động của hàng loạt

các yếu tố khách quan sau:
Sự phát triển ngày càng tăng của phân công lao động theo hướng chuyên
môn hoá ngành nghề trong cơ cấu sản xuất của nền kinh tế : quá trình chuyên
môn hoá càng cao thì khách quan sẽ đòi hỏi sự giao lưu, luân chuyển các
nguồn vốn tài chính giữa các doanh nghiệp càng phải thuận lợi.Sự luân
chuyển các nguồn vốn tài chính giữa các nguồn vốn tài chính giữa các doanh
nghiệp được diễn ra thông qua các hoạt động mua bán tự do cổ phiếu, trái
phiếu mà chủ yếu được thực hiện trên thị trường chứng khoán.
Trong quá trình hoạt động, Chính phủ & các pháp nhân, thể nhân luôn
thiếu vốn để đầu tư, phát triển sản xuất & lưu thông hàng hoá. Vì vậy họ sẽ
phải phát hành chứng khoán để huy động vốn. Các chứng khoán này phải có
khả năng thanh toán & luôn đòi hỏi sự giao lưu, chuyển đổi từ chủ sở hữu này
sang chủ sở hữu khác trên thị trường dành riêng cho nó. Đó là thị trường
chứng khoán.
Quá trình quốc tế hoá nền kinh tế ngày càng cao làm cho các quan hệ thị
trường nội địa phải thay đổi để theo kịp với xu hướng phát triển của thị
trường thế giới. Thị trương chứng khoán sẽ đáp ứng được nhu cầu này.
IV. Nguyên tắc cơ bản về tổ chức & hoạt động của thị trường chứng
khoán
Nguyên tắc trung gian

Thị trường chứng khoán hoạt động không phai do những người muốn mua
hay muốn muốn bán chứng khoán trực tiếp thực hiện mà thông qua những
người môi giới trung gian. Bởi vì những người đẩu tư không phải ai cũng xét
đoán được giá trị đích thực thực của chứng khoán & họ cũng không thể dự
đoán được một cách chính xác giá trị trường lai của nó. Nếu không có người
môi giới, không có sự phân tích cần thiết về chứng khoán dựa trên những căn
cứ xác đáng để có những nhận xét kĩ lưỡng, thì họ có thể bị nhầm lẫn hoặc bị
lường gạt. Đây là một nguyên tắc căn bản cho các loại chứng khoán được
giao dịch là chứng khoán hợp pháp, đủ tiêu chuẩn quy định & thị trường

chứng khoán hoạt động lành mạnh, đều đặn, ngày càng phát triển, bảo vệ
được quyền lợi của người mua & ban chứng khoán.
4.2 Nguyên tắc đấu giá
Việc định giá chứng khoán trên thị trường hoàn toàn là do các nhà môi giới
thực hiện. Mỗi người môi giới định giá một loại chứng khoán tuỳ thuộc vào
số lượng cung cầu loại chứng khoán đó trên thị trường bằng sự xét đoán kinh
nghiệm & kỹ thuật riêng của mình thông thương lượng trong đấu giá giữa
những người môi giới mua với những người môi giới mua khác; giữa những
người môi giới bán với những người môi giới bán khác hoặc thực hiện qua
thương lượng trực tiếp giữa hai bên.Nguyên tắc đấu giá được xác định là:
người đặt giá bàn thấp hơn sẽ được ưu tiên hơn người đặt giá bán cao &
người trả giá cao hơn sẽ được ưu tiên hơn người trả giá thấp. Có 3 hình thức
đấu giá cơ bản mà thị trường chứng khoán thường áp dụng:
4.2.1 Đấu giá trực tiếp:
Là hình thức đấu giá theo cách mà các nhà môi giới trực tiếp gặp nhau
thông qua mét người trung gian(chuyên gia chứng khoán) tại quầy giao dịch
trong sàn giao dịch. Giá cả chứng khoán sẽ được xác định khi hai bên đã
thống nhất. Không ai có quyền định giá chứng khoán một cách độc đoán.
4.2.2 Đấu giá gián tiếp

Là hình thức mà các nhà môi giới không trực tiếp gặp nhau mà thông qua
các công ty chứng khoán. Các công ty này thường xuyên điều chỉnh & công
bó giá cao nhất mà họ sẵn sàng mua vào & mức giá thấp nhất mà họ sẵn sàng
bán ra cho mỗi loại chứng khoán theo diễn biến của tình hình. Thông tin này
được chuyển đến cho các công ty chứng khoán thành viên có liên quan của
SGDCK thông qua hệ thống máy vi tính nối mạng giữa họ. Những lệnh đặt
mua –bán của một loại chứng khoán so khớp về giá mặc nhiên được thực
hiện.
4.2.3 Đấu giá tự động
Là hình thức đấu giá qua hệ thống máy tính nối mạng giữa máy chủ của

SGDCK với hệ thống máy vi tính của các công ty chứng khoán thành viên.
Các lệnh mua – bán được truyền đến máy chủ & trong một thời gian nhất
định, máy chủ sẽ tự động xác định một giá chốt đảm bảo số lượng chứng
khoán mua bán được nhiều nhất & thông báo kết quả trở lại cho các công ty
chứng khoán có các lệnh đặt hàng được thực hiện.
4.3 Nguyên tắc công khai
Các loại chứng khoán được đưa ra giao dịch; tình hình tài chính & kết quả
kinh doanh của các công ty có chứng khoán đăng ký yết giá; số lượng & giá
cả từng loại chứng khoán đã mua bán đều được thông báo công khai trên sàn
giao dịch cũng như trên các phương tiện thông tin đại chúng. Đó là nguyên
tắc công khai của thị trường chứng khoán. Nguyên tắc này nhằm đảm bảo
quyền lợi cho người đầu tư trong việc lựa chọn mua bán chứng khoán theo ý
thích của mình.
V. Cơ cấu của thị trường chứng khoán
5.1 Căn cứ vào phương thức tổ chức & giao dịch
5.1.1 Thị trường chứng khoán chính thức(thị trường tập trung)
Là một tổ chức có thực thể hoạt động tuân theo các quy định của pháp luật.
Các chứng khoán giao dịch ở đây là của các tổ chức tài chính được cơ quan
có thẩm quyền cho phép sau khi đã đảm bảo các điều kiện luật định; trái phiếu

của Chính phủ được miễn giấy phép của cơ quan có thẩm quyền. Thị trường
chứng khoán chính thức có địa điểm & thời biểu mua bán rõ rệt & giá cả được
xác định theo thể thức đấu giá công khai, có sự kiểm soát của Hội đồng chứng
kho án. Hình thái điển hình của nó là Sở giao dịch chứng khoán.
5.1.2 Thị trường chứng khoán phi chính thức (thị trường OTC)
Là thị trường mà việc mua bán các chứng khoán được thực hiện bên ngoài
Sở giao dịch chứng khoán.Thị trường OTC bao gồm nhiều công ty chứng
khoán ở rải rác khắp nơi trên đất nước. Vì vậy, người ta còn gọi nó là thị
trường chứng khoán tự do. Ở đây không có sự kiểm soát & giám sát của hội
đồng chứng khoán, không có ngày giờ hay thủ tục nhất định nào trong việc

giao dịch mà hoàn toàn là sự thoả thuận của người mua & bán. Trên thị
trường OTC chủ yếu diễn ra cấc cuộc trao đổi về cổ phiếu của các tổ chức
phát hành nhỏ. Thị trường này là một hệ thống bổ xung cho thị trường chứng
khoán tập trung.
5.2 Căn cứ vào quá trình luân chuyển của chứng khoán
5.2.1 Thị trường sơ cấp (primary market)
Là thị trường diễn ra hoạt động giao dịch mua bán những chứng khoán mới
phát hành lần đầu, kéo theo sự tăng thêm quy mô vốn đầu tư cho các tổ chức
phát hành. Về nguyên tắc, thị trường sơ cấp hoạt động dưới sự giám sát của
Bộ tài chính & phải được Bộ chấp thuận. Vì vậy, cơ cấu của nó gồm đủ các
yếu tố tạo lập chứng khoán như: hình thức chứng khoán, phương thức phát
hành, cách định giá chứng khoán, thủ tục tăng vốn, các nghiệp vụ giao dịch
mua bán chứng khoán, các yếu tố pháp lý có liên quan tới việc thanh toán,
đăng ký lưu giữ & bảo quản chứng khoán…
5.1.2 Thị trường chứng khoán thứ cấp (secondary market)( Hay còn gọi là
SGDCK )
Là thị trường diễn ra các hoạt động giao dịch, mua bán chứng khoán đã
được phát hành; tức là việc mua bán tiếp theo sau lần mua bán đầu tiên ở thị

trường sơ cấp. Thị trường này không làm tăng thêm quy mô đầu tư vốn,
không thu hút thêm được các nguồn tài chính mới cho tổ chức phát hành.
Thị trường thứ cấp là thị trường có chức năng luân chuyển vốn bằng việc
mua đi bán lại các chứng khoán. Thị trường thức cấp là bộ phận hợp thành
thứ hai cần thiết cho sự vận hành của thị trường chứng khoán. Nó có vai trò
riêng khác biệt nhưng cũng đồng thời tác động đến sự phát triển của thị
trường sơ cấp. Nó bảo đảm tính thanh khoản cho các chứng khoán, liên tục
định lại giá của các chứng khoán có trong biểu giá. Việc mua bán, chuyển
nhượng các chứng khoán trên thị trường thứ cấp chỉ làm thay đổi về sở hữu
chứng khoán của các chủ thể nắm giữ nó. Không có thị trường thứ cấp thì thị
trường sơ cấp không thể hoạt động tốt được. Thông qua thị trường sơ cấp,

người có chứng khoán có thể biến chứng khoán đó thành tiền mặt một cách dễ
dàng. Điều đó sẽ tăng tính hấp dẫn cho các chứng khoán – như một công cụ
tài chính vừa sinh lợi, vừa có tính thanh khoản cao.
5.1.3 Căn cứ vào đặc điểm của các loại chứng khoán
1. Thị trường cổ phiếu (The Stock market):
Là thị trường phát hành & mua bán các loại cổ phiếu. Hoạt động của thị
trường Chính phủ chứa dựng cả hai lĩnh vực: đầu tư chứng khoán & kinh
doanh chứng khoán.
2. Thị trường trái phiếu (Bond market) :
Là thị trường phát hành & mua bán các loại trái phiếu. Các trái phiếu giao
dịch trên thị trường này thường là trái phiếu của Chính phủ & các doanh
nghiệp. Tương ứng với hai loại trái phiếu cơ bản này, thị trường trái phiếu
được phân ra thành hai loại thị trường trái phiếu khác nhau: thị trường trái
phiếu doanh nghiệp & thị trường trái phiếu Chính phủ. Trong đó, thị trường
trái phiếu Chính phủ không những lớn về qui mô mà tình hình hoạt động của
nó cũng rất sôi động.
VI. Vai trò của thị trường chứng khoán trong nền kinh tế

Thị trường chứng khoán ngày càng có vai trò quan trọng trong quá trình
vận hành của nền kinh tế mỗi quốc gia cũng như trong hệ thống kinh tế toàn
cầu. Qua lịch sử phát triển của nền kinh tế thị trường của các quốc gia phát
triển, thị trường chứng khoán có ý nghĩa quan trọng đặc biệt đối với sự tăng
trưởng một quốc gia. Cụ thể là:
- Công cụ tài trợ cho nền kinh tế: Vai trò quan trọng đầu tiên của thị trường
chứng khoán là thu hút tập trung các nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư để hình
thành các nguồn vốn khổng lồ có khả năng tài trợ cho các dự án đầu tư dài
hạn phát triển kinh tế.
Thị trường chứng khoán là công cụ huy động vốn hết sức hữu hiệu không
chỉ vốn trong nước mà cả ngoài nước. Đối với nước ta một nước có nguồn
vốn tiềm tàng trong dân cư chưa được đưa vào sản xuất kinh doanh thì việc

hoàn thiện thị trường chứng khoán là một chiến lược phát triển kinh tế trước
mắt cũng như lâu dài:
- Khuyến khích tiết kiệm, tạo thói quen để dành tích cực:
Thị trường chứng khoán tạo cơ hội thuận tiện khuyến khích mọi người dân
tiết kiệm và biết cách sử dụng tiền tiết kiệm một cách tích cực mang lại hiệu
quả kinh tế thông qua việc đầu tư vào các loại chứng khoán. Mỗi người trong
xã hội chỉ có một số tiền tiết kiệm nhỏ bé nhưng tổng số tiền đó của xã hội sẽ
lớn hơn bất cứ tài sản của cá nhân nào.
Mặt khác, trong xã hội cũng luôn tồn tại các quỹ tiền tệ tập trung như ngân
hàng đầu tư, ngân hàng thương mại, quỹ bảo hiểm, quỹ đầu tư v.v. đều nhằm
mục đích khuyến khích tiết kiệm nhưng các quỹ tiền tệ này cũng chỉ mang lại
hiệu quả cao khi có một thị trường chứng khoán tồn tại song hành với nó.
- Công cụ bảo đảm tính thanh khoản cho số tiết kiệm phục vụ đầu tư dài hạn:
Vai trò này của thị trường chứng khoán thể hiện qua việc bảo đảm cho quá
trình chuyển các chứng khoán có giá trị tiền mặt. Đây chính là một trong
những yếu tố quan trọng để thu hút các nhà đầu tư đến với thị trường chứng

khoán. Thị trường chứng khoán hoạt động càng hữu hiệu thì tính thanh khoản
càng cao.
- Công cụ đo lường biểu hiện tình hình, khả năng kinh doanh của doanh
nghiệp: Những thông tin doanh nghiệp cung cấp cho các nhà đầu tư trên thị
trường chứng khoán qua các bảng phân tích đánh giá năng lực sản xuất của
doanh nghiệp, triển vọng của doanh nghiệp trên thị trường , khả năng sinh lợi
của hoạt động sản xuất kinh doanh, xu thế phát triển của doanh nghiệp trong
thời kỳ tương lai. Mặt khác, với tính chất đặc biệt nhạy bén của thị trường
chứng khoán, sự lên xuống giá cả chứng khoán trên thị trường cũng nói lên sự
biến động của giá trị doanh nghiệp tại bất cứ thời điểm nào.
- Thị trường chứng khoán tạo điều kiện cho các doanh nghiệp làm ăn có hiệu
quả hơn . Với nguyên tắc hoạt động chủ đạo trên thị trường chứng khoán là
công khai, công bằng và trung thực, mọi thông tin về doanh nghiệp đều được

công chúng kiểm tra, đánh giá phân tích. Thị trường chứng khoán vừa tạo
điều kiện nhưng đồng thời cũng bắt các doanh nghiệp làm làm ăn nghiêm túc.
- Thị trường chứng khoán cũng là công cụ làm giảm lạm phát. Ngân hàng
trung ương với vai trò điều hoà hệ thống tiền tệ sẽ tung ra nhiều trái phiếu kho
bạc bán trên thị trường chứng khoán với lãi suất cao để thu hút bớt số tiền
mặt trong lưu thông nhờ đó số lượng tiền sẽ giảm bớt và hạn chế được lạm
phát.
- Thị trường chứng khoán có vai trò hỗ trợ cho hoạt động của công ty cổ
phần trong việc đưa cổ phiếu tới tay công chúng, giúp cho quá trình phát hành
và lưu hành cổ phiếu đạt hiệu quả cao.
VII. Các chủ thể tham gia trên thị trường chứng khoán
7.1 Nhà nước
Nhà nước tham gia vào thị trường chứng khoán với hai tư cách khác nhau:
-Nhà nước là người tổ chức & quản lý hoạt động thị trường chứng khoán,
thành lập UBCK quốc gia, ban hành các đạo luật & các qui định có liên quan

đảm bảo cho thị trường chứng khoán hoạt động công bằng, công khai & trật
tự, đảm bảo quyền lợi của người đầu tư.
- Nhà nước tham gia thị trường chứng khoán với tư cách như một doanh
nghiệp bình thường. Nhà nước tạo hàng hoá cho thị trường chứng khoán khi
các cấp Chính phủ Trung ương & chính quyền địa phương phát hành trái
phiếu để vay nợ dân chúng & các tổ chức kinh tế trong & ngoài nước ở thị
trường sơ cấp để phục vụ cho mục đích của mình.
Tại thị trường chứng khoán thứ cấp, Nhà nước đóng vai trò là người mua
bán chứng khoán của các doanh nghiệp trong các trường hợp sau:
+ Khi muốn tham gia quản lý các doanh nghiệp thuộc một nghành quan
trọng nào đó có tính then chốt đối với nền kinh tế quốc dân, Nhà nước (Bộ tài
chính) sẽ mua chứng khoán của các tổ chức đó & tuỳ theo mức độ cần tham
gia quản lý để mua với một tỷ lệ nào đó. Khi không muốn hoặc giảm mức độ
quản lý đối với tổ chức đó, Nhà nước có thể bán chứng khoán của họ trên thị

trường chứng khoán thứ cấp.
+ Ngân hàng Trung ương có thể thực hiện việc điều hoà lưu thông tiền tệ
qua sù can thiệp trên thị trường mở. Khi áp dụng chính sách mở rộng tiền tệ
(bơm tiền ra lưu thông), Ngân hàng Trung ương sẽ mua nhiều loại chứng
khoán với số lượng lớn & ngược lại, khi theo đuổi chính sách thắt chặt tiền tệ,
Ngân hàng Trung ương có thể bán các chứng khoán đó ra trên thị trường
chứng khoán thứ cấp để “hút” bớt tiền có trong lưu thông tiền về.
7.2 Các doanh nghiệp
Các doanh nghiệp tham gia thị trường chứng khoán với tư cách là người tạo
hàng hoá cho thị trường chứng khoán tại thị trường sơ cấp & là người mua
bán chứng khoán tại thị trường chứng khoán thứ cấp.
Các công ty cổ phần phát hành Chính phủ để bán ra lấn đầu trên thị trường
sơ cấp nhằm tạo vốn khi mới thành lập, hoặc phát hành thêm cổ phiếu, trái
phiếu để tăng vốn bổ xung cho quá trình sản xuất – kinh doanh của mình.

Các doanh nghiệp khấc cũng có thể phát hành trái phiếu để bổ xung thêm
vốn cho việc mở rộng quy mô sản xuất – kinh doanh của mình.
Các doanh nghiệp không thể chỉ là chủ thể bán chứng khoán mà nó còn là
người mua chứng khoán do các công ty khác phát hành nhằm tạo mục đích sát
nhập, thủ tiêu đối thủ cạnh tranh, khống chế hoặc thao túng để nắm quyền
kiểm soát các công ty đó. Cũng có khi họ mua chứng khoán của các tổ chức
khác chỉ với mục đích đơn giản là tìm kiếm thêm lợi nhuận…
7.3 Các cá nhân, hộ gia đình
Đây là chủ thể tha gia thị trường chứng khoán với tư cách là người mua
chứng khoán quan trọng nhất. Họ là những người có tiền tiết kiệm & muốn
đầu tư số tiền để dành của mình vào việc mua chứng khoán để được hưởng lợi
tức hàng năm. Họ còn là những người bán lại các chứng khoán của mình trên
thị trường chứng khoán thứ cấp để rót vốn ra trước hạn hoặc để nhận được
khoản chênh lệch giá thặng dư. Họ tham gia thị trường bàng hai cách : trực
tiếp hoặc gián tiếp qua quỹ tương hỗ, quỹ đầu tư chứng khoán…

7.4 Các tổ chức tài chính
Các công ty bảo hiểm, các quỹ hưu trí, quỹ tương hỗ tham gia thị trường
chứng khoán với tư cách vừa là người mua, vừa là người bán chứng khoán để
kiếm lợi nhuận từ cổ tức, lãi trái phiếu hàng năm, hoặc tìm kiếm giá thặng dư
hoặc để thanh khoản chứng khoán của mình thu về tiền mặt.
Các ngân hàng thương mại có vai trò then chốt trong việc hình thành &
phát triển thị trường chứng khoán cả đối với thị trường sơ cấp & thị trường
thứ cấp. Đó là:
 Các ngân hàng Chính phủ phát hành Chính phủ để tạo nguồn vốn khi
mới thành lập hoặc tăng vốn bổ xung thêm trong quá trình hoạt động.
Họp cũng có thể phát hành trái phiếu để huy động vốn từ nền kinh tế –
xã hội. Những việc này sẽ tạo r một khối lượng chứng khoán rất lớn ở
thị trường sơ cấp.

 Tư vấn hoặc làm đại lý phát hành chứng khoán cho các tổ chức kinh
tế– xã hội để hưởng phí hoa hồng hoặc bao tiêu toàn bộ chứng khoán
của một đợt phát hành để hưởng phí bao tiêu.
 Thực hiện các dịch vụ với tư cách là người trung gian môi giới chứng
khoán như mua bán hoặc bảo quản hộ chứng khoán cho khách hàng,
dịch vụ thanh toán các chứng khoán…
 Mua bán chứng khoán cho chính mình để hưởng lợi hoặc hưởng giá
trị thặng dư hoặc vì những mục đích khác.
7.5 Người môi giới & kinh doanh chứng khoán
Những người môi giới là những người trung gian thuần tuý, họ hành động
như các đại lý cho những người mua bán chứng khoán. Chức năng của họ là
làm phù hợp giữa những người mua & những người bán. Họ tham gia thị
trường chứng khoán nhằm đảm bảo các loại chứng khoán được giao dịch trên
thị trường là những chứng khoán thực & thị trường hoạt động lành mạnh đều
đặn, hợp pháp& phát triển, bảo vệ lợi Ých người đầu tư vì những người đầu
tư không thể xét đoán được giá trị thực của từng loại chứng khoán & cung

không thể dự đoán được giá trị tương lai của nã. Việc định giá chứng khoán
trên thị trường hoàn toàn thuộc về người môi giới. Khi thực hiện nghiệp vụ
này họ được hưởng một khoản phí hoa hồng. Họ không nắm giữ chứng khoán
trong quá trình hành nghề của mình nên không gặp các rủi ro về sự biến động
của giá cả các chứng khoán.
Những người kinh doanh chứng khoán nối kết người bán & người mua
chứng khoán bằng cách họ đứng ra mua chứng khoán của người bán sau đó
bán lại cho người mua khác những chứng khoán này với giá cao để hưởng
chênh lệch giá. Họ là những người nắm giữ chứng khoán nên thường gặp
những rủi ro lớn ví sự biến động của giá cả chứng khoán trên thị trường.
VIII. Phát hành, niêm yết & giao dịch chứng khoán
8.1 Phát hành chứng khoán

Việc phát hành chứng khoán ra thị trường cũng giống như việc đưa hàng
hoá ra bán. Đây là một giai đoạn cực kỳ quan trọng , quyết định đến việc
chứng khoán có bán được hay không, nhanh hay chậm, giá bán cao hay thấp.
Trước khi quyết định mở đợt phát hành chứng khoán nào đó ra thị trường, tổ
chức phát hành cần phải chuẩn bị kế hoạch như: xin báo giá cho các dịch vụ,
xin đăng ký vào tham gia vào thị trường chứng khoán, đề nghị các cơ quan
pháp lý chấp thuận; chuẩn bị tài liệu chào bán, quản lý thông tin báo chí, liên
hệ với đại lý, bảo lãnh uỷ thác phát hành… Các vấn đề này có ảnh hưởng rất
quan trọng đến kết quả của đợt phát hành chứng khoán.
8.1.1 Phát hành chứng khoán công ty
Một công ty cổ phần có thể phát hành 2 loại chứng khoán: phát hành cổ
phiếu để huy động vốn điều lệ khi thành lập công ty hoặc tăng vốn điều lệ &
phát hành trái phiếu nhằm bổ xung vốn lưu động để phục vụ cho hoạt động
sản xuất – kinh doanh của mình.
Các hình thức phát hành gồm có:
- Phát hành hành trực tiếp tại doanh nghiệp
Chứng khoán phát hành được bán cho các cổ đông là CBCNV của doanh

nghiệp, các cổ đông có đăng kí mua trước.
- Phát hành qua các trung gian tài chính
Phát hành gian tiếp qua trung gian tài chính có tư cách là người đại lý
như: ngân hàng thương mại, công ty tài chính, công ty bảo hiểm, quỹ đầu tư
chứng khoán….
- Phát hành trực tiếp ra công chúng:
Là việc chào bán các chứng khoán đã đáp ứng đủ các điều kiện theo quy
định của pháp lý. Các doanh nghiệp thường không thể tự mình chào bán
chứng khoán ra công chúng mà phải thông qua phương thức bảo lãnh phát
hành chứng khoán được thực hiện trên cơ sở hợp đồng bảo lãnh ký kết giữa
công ty & các nhà bảo lãnh. Phương thức bảo lãnh bao gồm:
+ Bảo lãnh phát hành cổ phiếu

+ Bảo lãnh phát hành trái phiếu
- Phát hành góp riêng:
Là việc phát hành trong nội bộ doanh nghiệp cho các đối tượng la CB-CNV
của doanh nghiệp.
8.1.2 Phát hành trái phiếu Chính phủ & chính quyền địa phương
Trong hoạt động ngân sách, khi chưa thực hiện được thu, nhưng có nhu cầu
chi hoặc khi ngân sách trong năm không đáp ứng được nhu cầu chi ngày càng
tăng, chủ yếu là chi cho đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, các công trình… thì sẽ
nảy sinh nhu cầu vay vốn trung & dài hạn. Khi đó nhà nước hay chính quyền
địa phương sẽ phát hành các loại trái phiếu để huy động vốn cho ngân sách.
Trái phiếu Chính phủ & trái phiếu địa phương được phát hành theo 3
phương pháp sau:
Phương pháp đấu thầu
Phương pháp phát hành qua tổ hợp ngân hàng đầu tư
Phương pháp bán lẻ
8.2 Niêm yết chứng khoán
Các chứng khoán trước khi được đem ra mua bán tại SGDCK phải được

Hội đồng quản trị của SGDCK phê chuẩn cho phép niêm yết.
8.2.1 Khái niệm
Niêm yết là việc định danh các chứng khoán để giao dịch trên SGDCK bao
gồm: yết tên công ty hoặc tên tổ chức phát hành chứng khoán,yết chứng
khoán & giá của chúng lên mét bảng chính thức trên SGDCK.
8.2.2 Các lại yết giá chứng khoán
- Niêm yết ban đầu:
Là việc yết tên chứng khoán(tên công ty) trên SGDCK lần đầu tiên sau
khi công ty đã thoả mãn các yêu cầu chào bán công khai.
- Niêm yết tiếp sau:
Một công ty đã niêm yết chứng khoán của mình trên SGDCK có thể thực
hiện các niêm yết tiếp sau nhằm tăng vốn, sát nhập.

- Niêm yết chéo:
Đây là hình thức chứng khoán của các công ty vừa được niêm yết trên
SGDCK trong nước, vừa được niêm yết trên SGDCK nước ngoài.
8.3 Quy trình giao dịch mua bán chứng khoán
8.3.1 Các giao dịch tại SGDCK
1. Giao dịch trả tiền ngay (cash transaction)
Là giao dịch mà trong đó quy định việc trả tiền & nhận chứng khoán xảy
ra trong ngày kí hợp đồng hoặc chậm nhất là 1 ngày do hai bên thoả thuận.
Đặc điểm
Của giao dịch này là có Ýt rủi ro & các loại phí & thuế chỉ tính một lần hoặc
la tính vào giá ,mua hoặc tính vào giá bán.
2. Giao dịch kì hạn (forward transaction)
Là giao dịch mua bán chứng khoán mà giá cả được Ên định lúc kí hợp đồng,
nhưng thanh toán & giao nhận chứng khoán được thực hiện trong một ngày
hoặc trong một khoảng thời gian nhất định của tương lai.
3. Giao dịch tương lai (futures transaction)
Là giao dịch mua bán hợp đồng tương lai về một loại chứng khoán nhất

định (hợp đồng tương lai phát hành ở đâu thì sẽ giao dịch ở đó). Trong giao
dịch này vì
các hợp đồng tương lai là loại hợp đồng được tiêu chuẩn hoá về nội dung nên
khách hàng chỉ phải thương lượng về số lượng, giá cả chứng khoán (bằng đấu
giá công khai) & cách thực hiện hợp đồng đó.
8.3.2 Giao dịch chứng khoán tại thị trường chứng khoán phi tập trung (OTC)
Còng như SGDCK, giao dịch mua bán chứng khoán trên thị trường OTC
cũng phải được tiến hành thông qua các nghiệp vụ giao dịch cần thiết của một
hoạt động mua bán chứng khoán. Các nghiệp vụ giao dịch đó là: niêm yết
chứng khoán, giao dịch mua bán, thanh toán… Tuy nhiên, mức độ thực hiện,
yêu cầu, quy trình thao tác đơn giản hơn so với SGDCK.

Tại thị trường chứng khoán phi tập trung, các công ty chứng khoán giao
dịch mua bán chứng khoán trực tiếp tại quầy giao dịch của các ngân hàng
hoặc qua điện thoại, mạng Internet chứ không trực tiếp gặp nhau như trên sàn
giao dịch hoặc thông qua trung gian, nếu họ là khách bán hoặc mua chứng
khoán.
Việc mua bán chứng khoán trên thị trường OTC được tiến hành trên nhiều
địa điểm khác nhau & danh mục chứng khoán cũng rất đa dạng. Bởi vì chứng
khoán giao dịch tại thị trường OTC không phải đăng kí( các chứng khoán đã
được dăng kí tại SGDCK cung có thể mua bán tại đây). Ngày nay, thị trường
OTC để chỉ một cách tiến hành kinh doanh hơn là một nơi để kinh doanh. Các
chứng khoán được mua bán trên thị trường này rất phong phú, từ loại Ýt rủi
ro nhất là trái phiếu Chính phủ đến loại mang tính đầu cơ cao nhất là cổ phiếu
thông thường. Thị trường OTC quan trọng đối với thị trường trái phiếu hơn là
đối với thị trường cổ phiếu. Đa số trái phiếu công ty được mua bán ở thị
trường OTC mặc dù hầu hết chúng được niêm yết ở thị trường tập trung. Còn
ở các thị trường tập trung cổ phiếu thường ưu tiên mua bán hơn trái phiếu do
tỷ lệ hoa hồng cho các cổ phiếu cao hơn.
IX. Hệ thống pháp luật & các quy chế

Xét về mặt nội dung, hệ thống luật pháp về thị trường chứng khoán đề cập
đến 3 vấn đề chủ yếu sau:
9.1 Quản lý nhà nước đối với sự hình thành, tổ chức hoạt động & phát triển
thị trường chứng khoán
Bất kỳ nền kinh tế thị trường phát triển nào cũng cần có sự điều tiết của
nhà nước. Mức độ & phạm vi điều tiết của nhà nước như thế nào tuỳ thuộc
vào trình độ phát triển của những quan hệ thị trường & một loạt những nhân
tố cụ thể khác. Quản lý nhà nước đối với việc hình thành & phát triển thị
trường chứng khoán là một nhu cầu khách quan của sự phát triển kinh tế thị
trường nhằm tạo ra những điều kiện thuận lợi để mọi chủ thể tham gia các qh
trên thị trường chứng khoán khai thác được tối đa những thế mạnh của thị

trường chứng khoán & hạn chế đến mức thấp nhất những tác động tiêu cực
của nó. Mặt khác nhằm tạo ra những điều kiện thực tế & thuận lợi phù hợp
với những đặc điểm kinh tế – chính trị – xã hội của đất nước trong mỗi giai
đoạn phát triển lịch sử cụ thể để thị trường chứng khoán ổn định, phát triển,
hoạt động lành mạnh & có hiệu quả.
Nhà nước quản lý đối với sự hình thành & phát triển thị trường chứng
khoán được thực hiện dưới nhiều hình thức & bằng nhiều công cụ khác nhau,
chẳng hạn thông qua việc ban hành Luật thị trường chứng khoán,luật về
SGDCK; thực hiện các chính sách nhà nước về tài chính, tiền tệ, tín dụng, đầu
tư, lãi suất, tỷ giá, thuế…
Nhà nước tổ chức & cho phép thành lập các tổ chức, cá nhân tiến hành
những hoạt động kinh doanh vốn, tiền tệ bằng sự kiểm tra, giám sát việc thực
hiện các chính sách & pháp luật về tổ chức & hoạt động của thị trường chứng
khoán.
9.2 Xác lập các quy chế pháp lý của các chủ thể tham gia các quan hệ trong
lĩnh vực thị trường chứng khoán
Khi tham gia vào các quan hệ thị trường chứng khoán, giữa các chủ thể đã
hình thành những quan hệ nhất định. Để những hoạt động hết sức năng động

này diễn ra theo một trật tự, pháp luật cần qui định:
Vị trí, vai trò & chức năng của mỗi loại chủ thể tham gia thị trường.
Những quyền & nghĩa vụ cũng như trách nhiệm của các chủ thể trong những
hoạt động thuộc lĩnh vực thị trường chứng khoán.
Những trình tự, thủ tục tổ chức, thành lập các pháp nhân hoạt động trên thị
trường chứng khoán.
9.3 Điều chỉnh các chức năng, hình thức & các hoạt động của thị trường
chứng khoán phù hợp với những đặc điểm, hình thức & những quan hệ xã hội
nẩy sinh từ quá trình hình thành & phát triển của thị trường chứng khoán & sự
phát triển của nền kinh tế.

Phần II : Chứng khoán & các nhân tố ảnh hưởng tới giá cả chứng khoán
A. Chứng khoán
Chóng ta đã biết bất kỳ một thị trường nào như thị trường lao động, thị
trường tiền tệ, thị trường hối đoái đều cần có loại hàng hoá riêng. TTCK
cũng vậy, nó có hàng hoá riêng của nó, hàng hoá này còn gọi là chứng khoán.
Vậy chứng khoán là gì?
Chứng khoán thực chất là bằng chứng (là văn bản hay chứng từ) xác
nhận quyền sở hữu hay quyền chủ nợ hợp pháp có thể chuyển nhượng của
người sở hữu chứng khoán đối với tài sản và các lợi Ých khác của người phát
hành. Nó có những đặc điểm về tính lỏng, khả năng sinh lời và tính rủi ro.
Ngày nay với sự phát triển mạnh mẽ của TTCK, các chứng khoán cũng
được đa dạng hoá với nhiều hình thức mới mẻ khác nhau. Vì vậy, người ta có
thể phân loại, xem xét chứng khoán dưới nhiều tiêu thức: phân loại chứng
khoán căn cứ vào chủ thể phát hành, căn cứ vào lợi tức thu được từ chứng
khoán, căn cứ vào thị trường nơi chứng khoán giao dịch và căn cứ theo tính
chất huy động vốn. Ở đây, em chỉ tập trung nghiên cứu chứng khoán theo tính
chất huy động vốn. Theo tiêu thức này, chứng khoán bao gồm:
- Cổ phiếu
Cổ phiếu là một loại chứng từ (được ghi trên văn bản hay trên hệ

thống điện tử) do các công ty cổ phần phát hành xác nhận quyền sở hữu hợp
pháp của người có cổ phiếu với tài sản của người phát hành.
Cổ phiếu có thể được chia ra thành các loại như sau:

Cổ phiếu thường: thể hiện quyền sở hữu được bỏ phiếu đối với một công ty
cổ phần.
Cổ phiếu ưu đãi: cũng giống cổ phiếu thường nhưng những cổ đông sở hữu
nó có thể được hưởng một số ưu đãi hơn so với những cổ đông thường, ví dụ
có thể được nhận cổ tức trước cổ đông thường hay có quyền ưu tiên được
nhận tài sản trước trong trường hợp công ty bị giải thể
Trong cổ phiếu ưu đãi lại có nhiều loại:
Cổ phiếu ưu đãi tích luỹ và không tích luỹ.
Cổ phiếu ưu đãi tham dự và không tham dù chia phần.
Cổ phiếu ưu đãi có quyền chuyển đổi thành cổ phiếu thường.
Cổ phiếu ưu đãi có quyền chuộc lại.
Chứng khoán ngân quỹ.
Chứng khoán trôi nổi.
- Trái phiếu
Trái phiếu là một loại chứng từ (ghi ở dạng văn bản hay trên hệ thống
điện tử) chứng nhận quyền đòi nợ (cả gốc và lãi) của trái chủ (người sở hữu
trái phiếu) với người phát hành. Trái phiếu thường được phát hành do Chính
phủ trung ương, địa phương, các công ty, tổ chức phát hành.
Trái phiếu có hai loại chính là trái phiếu công ty và trái phiếu chính phủ
- địa phương.
Với trái phiếu công ty người ta lại có thể phân thành các loại chính:
Trái phiếu vô danh.
Trái phiếu ghi tên.
Trái phiếu có thể thu hồi.
Trái phiếu có thể chuyển đổi.
Trái phiếu bảo đảm: trái phiếu có tài sản thế chấp hoặc cầm cố.


Trái phiếu không bảo đảm.
Đối với trái phiếu chính phủ-địa phương: có thể là ngắn hạn, trung và dài
hạn. Mặc dù TTCK là nơi mua bán chủ yếu các chứng khoán trung và dài
hạn, tuy nhiên ở đây ta vẫn xét tất cả các loại trái phiếu:
Kỳ phiếu kho bạc ngắn hạn
Trái phiếu kho bạc trung và dài hạn
- Giấy bảo đảm quyền mua cổ phiếu gồm
Chứng quyền là một quyền đặt mua hay mua cổ phiếu mới được phát
hành tại một giá xác định (thường thấp hơn giá thị trường hiện hành) theo tỷ
lệ thuận với số cổ phiếu mà họ đang sở hữu. Chứng quyền thường có thời hạn
từ 2-30 ngày.
Trái quyền (thường gắn với 1 chứng khoán) là một quyền mua cổ phiếu
cho phép người giữ nó mua cổ phiếu theo một giá nhất định đến một thời
điểm nào đó trong tương lai. Giá xác định trên trái quyền cao hơn giá thị
trường hiện hành của cổ phiếu.
- Hợp đồng kì hạn
Hợp đồng kì hạn là một hợp đồng tài chính, trong đó hai bên cam kết
chắc chắn mua hoặc bán một công cụ tài chính vào một thời điểm trong
tương lai.
B. Giá chứng khoán
I. Cơ chế hình thành giá cả chứng khoán
1.1 Giá chứng khoán ở thị trường chứng khoán sơ cấp (giá phát hành - giá cấp
I):
Thị trường chứng khoán sơ cấp là nơ phát hành các chứng khoán, là giai
đoạn động viên vốn cho tổ chức phát hành. Thông thường, chứng khoán do
các công ty phát hành ra trên thị trường sơ cấp sẽ được các tổ chức tài chính
trung gian như ngân hàng thương mại, các công ty chứng khoán… bảo lãnh,
đại lý hỗ trợ tiêu thụ hoặc bao tiêu. Còn trái phiếu của Chính phủ & chính


×