Tải bản đầy đủ (.doc) (51 trang)

Ôn thi môn xây dựng đảng có đáp án

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (246.11 KB, 51 trang )

Câu 1: Xây dựng Đảng về chính trị:
Để tiếp tục đổi mới công tác xây dựng Đảng nhằm đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ công tác trong tình hình hiện nay, nhất là trong công tác đấu tranh
phòng chống các loại tội phạm; củng cố cơ sở chính trị, phát triển KT-VH-
XH ở địa phương Đồng thời đáp ứng được những đòi hỏi về xây dựng lực
lượng đội ngũ cán bộ có bản lĩnh chính trị vững vàng, có khả năng hoàn
thành tốt mọi nhiệm vụ được giao. Có được những kết quả trên là do Đảng
bộ đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, tạo chuyển biến toàn diện, có sức lan tỏa,
góp phần nâng cao sức mạnh tổng hợp và uy tín. Mặt khác, Đảng bộ đã lãnh
đạo xây dựng các chi, đảng bộ trực thuộc vững mạnh về chính trị, tư tưởng;
xây dựng vững mạnh toàn diện, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.
Những mặt nổi bật cơ bản là:
Triển khai có chiều sâu Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh” gắn với các cuộc vận động trong toàn Đảng
bộ “Phát huy truyền thống, giữ vững kỷ cương, sống có tình thương, đề cao
trách nhiệm”.
Đề xuất nhiều giải pháp, triển khai thực hiện qui chế về công tác cán bộ
của; gắn qui hoạch cán bộ với nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ. Đổi mới,
nâng cao chất lượng đào tạo gắn với sử dụng và thực hiện chính sách đối với
cán bộ, cán bộ người dân tộc thiểu số, cán bộ công tác ở các vùng đặc biệt
khó khăn, cán bộ làm các nhiệm vụ đặc thù, đặc biệt.
Đổi mới công tác vận động quần chúng mang lại hiệu quả thiết thực.
Qua phong trào “quần chúng tham gia giữ gìn ANTT thôn bản”, nhân dân
chủ động đấu tranh phòng chống các loại tội phạm, củng cố quốc phòng- an
ninh ở khu vực. Nhiều mô hình giúp dân có hiệu quả, đặc biệt là chương
trình “Mái ấm cho người nghèo” góp phần phát triển kinh tế- xã hội, xây
dựng quê hương giàu mạnh.
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục, triển khai có hiệu quả các
chủ trương, biện pháp nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ
chức đảng, xây dựng cấp ủy và tổ chức đảng trong sạch vững mạnh, nâng
cao chất lượng đội ngũ đảng viên, củng cố và trực tiếp thực hiện việc củng


cố xây dựng hệ thống chính trị cơ sở ở, nhất là phát huy đội ngũ cán bộ tăng
cường xây dựng các mô hình giúp dân, đảng viên tham gia sinh hoạt với chi
bộ thôn, ấp ở địa bàn.
Kết quả những mặt công tác trên đã mang lại hiệu quả rõ rệt, tăng thêm
uy tín, vị thế của cán bộ Đảng viên, thắt chặt thêm mối quan hệ giữa các ban,
ngành, đoàn thể và cấp ủy các cấp. Qua đó góp phần nâng cao trách nhiệm
của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội trong chăm lo, xây dựng, bảo vệ an
ninh trật tự ở địa phương.
Qua hoạt động thực tiễn, chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên của
Đảng bộ được nâng cao, nhất là khả năng tham mưu, đề xuất. Tác phong
người cán bộ chính trị ngày càng được hoàn thiện, gương mẫu, sâu sát cơ sở,
chủ động, nhạy bén trong thực hiện nhiệm vụ. Hầu hết cán bộ, đảng viên đã
phát huy vai trò tiên phong, tạo ra không khí thi đua đoàn kết, dân chủ trong
toàn Đảng bộ.
Hướng tới, trong bối cảnh tình hình thế giới và đất nước có rất nhiều
thuận lợi, song cũng không ít khó khăn, thách thức, vai trò lãnh đạo đối với
địa phương và sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc có ý nghĩa cực kỳ quan trọng,
nhiệm vụ đặt ra rất nặng nề. Phương hướng lãnh đạo của Đảng bộ sẽ tập
trung vào những chủ trương, biện pháp trọng tâm là:
- Nâng cao chất lượng hiệu quả công tác tham mưu, đề xuất với cấp
trên, đề ra chủ trương, giải pháp lãnh đạo, chỉ đạo các hoạt động.
- Lãnh đạo đổi mới nội dung, phương pháp, tác phong công tác, nâng
cao tính kế hoạch, chủ động, nhạy bén trong nắm tình hình, chỉ đạo, hướng
dẫn, đôn đốc, kiểm tra và tổ chức thực hiện các hoạt động.
- Lãnh đạo xây dựng cơ quan vững mạnh về chính trị tư tưởng, tổ chức
làm cơ sở nâng cao chất lượng hiệu quả công tác, hoàn thành xuất sắc mọi
nhiệm vụ được giao.
- Nâng cao chất lượng, đổi mới nội dung, phương thức hoạt động theo
hướng mở rộng dân chủ, tăng cường kỷ cương kỷ luật; giữ vững nguyên tắc
lãnh đạo tập thể, nêu cao trách nhiệm cá nhân phụ trách; khắc phục tính hình

thức trong sinh hoạt; bảo đảm tính lãnh đạo, tính giáo dục, tính chiến đấu
xây dựng tổ chức Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức.
- Đẩy mạnh thực hiện có chiều sâu Cuộc vận động “Học tập và làm theo
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, tạo được sự chuyển biến thực sự rõ nét
về hành động “làm theo” trong tổ chức Đảng./.
Câu 2: Nội dung xây dựng Đảng về tư tưởng:
Tư tưởng về xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam được hình thành trên
cơ sở vận dụng và phát triển sáng tạo học thuyết chủ nghĩa Mác - Lê-nin về
chính đảng vô sản vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, một nước thuộc địa
nửa phong kiến kinh tế nông nghiệp lạc hậu, giai cấp công nhân còn nhỏ bé.
Việc sáng lập và rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam trở thành đội tiền
phong, chiến đấu của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của cả
dân tộc trở thành người tổ chức và lãnh đạo duy nhất của cách mạng Việt
Nam là một cống hiến to lớn của Hồ Chí Minh về lý luận và tổ chức thực
tiễn đối với cách mạng Việt Nam và phong trào giải phóng dân tộc trên thế
giới; làm phong phú thêm lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về xây dựng
đảng kiểu mới của giai cấp vô sản.
Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập (1930)
không chỉ là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào
công nhân mà còn với phong trào yêu nước. Nhận định về lòng yêu nước
của người Việt Nam, ''Dân tộc Việt Nam có một lòng nồng nàn yêu nước”.
Đó là một truyền thống quý báu của dân tộc. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ
quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô
cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm khó khăn, nó nhấn
chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước''. Đảng vô sản ở một quốc gia dân
tộc có nền văn hiến lâu đời, trong đó thần thái và bản sắc dân tộc chiếm vai
trò chủ đạo của lịch sử tư tưởng đó đã được Bác chỉ ra từ năm 1953: ''Đảng
kết hợp phong trào cách mạng Việt Nam với chủ nghĩa Mác - Lênin'', và
khái quát lại vào năm 1960: ''Chủ nghĩa Mác - Lê-nin kết hợp với phong trào
công nhân và phong trào yêu nước đã dẫn tới việc thành lập Đảng Cộng sản

Đông Dương vào đầu năm 1930''.
Nhân tố đóng vai trò quyết định bảo đảm sự chuyển biến về chất của
phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam là chủ nghĩa Mác –
Lênin, thông qua vai trò truyền bá có hệ thống của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Vận dụng sáng tạo tư tưởng của Lê-nin, trong tác phẩm Đường cách mệnh,
Bác viết: ''Không có lý luận cách mệnh, thì không có cách mệnh vận động
Chỉ có theo lý luận cách mệnh tiền phong, Đảng cách mệnh mới làm nổi
trách nhiệm cách mệnh tiền phong''. Và Bác khẳng định: ''Đảng muốn vững
thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong Đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải
theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có
trí khôn”. Lý luận cách mạng tiền phong đó là chủ nghĩa Mác - Lênin. Cách
mạng Việt Nam thì chủ nghĩa chân chính nhất chắc chắn nhất, cách mạng
nhất là chủ nghĩa Mác-Lênin. Thực tiễn cách mạng Việt Nam đã khẳng định
tư tưởng đó. Chỉ có chủ nghĩa Mác - Lênin mới chỉ ra mục tiêu, con đường
và phương pháp đúng đắn làm cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách
mạng xã hội chủ nghĩa.
Song, chủ nghĩa Mác - Lênin là kim chỉ nam chứ không phải là kinh
thánh, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm “Nòng cốt” không có nghĩa là rập
khuôn máy móc, giáo điều, mà là học phép biện chứng, nắm vững lập trường
quan điểm, phương pháp của chủ nghĩa Mác - Lênin, đồng thời học hỏi kinh
nghiệm của các Đảng anh em, vận dụng sáng tạo vào thực tiễn Việt Nam.
Đang kết hợp lý luận, kinh nghiệm và thực hành của cách mạng Việt Nam;
áp dụng lập trường, quan điểm và phương pháp Mác - Lênin vào giải quyết
các vấn đề thực tế của cách mạng Việt Nam. Nhờ nắm vững phương pháp
biện chứng của học thuyết Mác – Lênin, kế thừa tinh hoa văn hoá nhân loại
một cách có phê phán và chọn lọc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xây dựng chính
cương, đường lối cách mạng phù hợp với thực tiễn của đất nước nên đã đưa
cách mạng Việt Nam đến thành công.
Việc xác định phong trào yêu nước là một trong ba thành tố hình thành
Đảng Cộng sản Việt Nam trở thành điểm xuất phát Người khẳng đinh: Đảng

Cộng sản Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân Việt Nam, đồng thời là
Đảng của dân tộc Việt Nam. Theo lý luận Mác - Lênin đảng bao giờ cũng
mang bản chất của một giai cấp, không có đảng chung chung của nhiều giai
cấp; Đảng Cộng sản là đảng của giai cấp vô sản, đấu tranh cho quyền lợi của
giai cấp mình và của cả dân tộc, là đội tiền phong có tổ chức và là tổ chức
cao nhất của giai cấp vô sản, đấu tranh lật đổ giai cấp thống trị giành chính
quyền về tay giai cấp vô sản và quần chúng nhân dân lao động. Vận dụng
sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam. Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã xây dựng thành công một đảng vô sản kiểu mới Đảng Cộng
sản Việt Nam. Theo Người, Đảng Cộng sản Việt Nam mang bản chất của
giai cấp công nhân Việt Nam. Cái quyết định bản chất giai cấp công nhân
của Đảng không phải chỉ ở thành phần xuất thân của đảng viên, mà cơ bản là
ở nền tảng tư tưởng, cương lĩnh, đường lối chính trị, nguyên tắc tổ chức và ở
thực tiễn lãnh đạo phong trào đấu tranh cách mạng. Các văn bản, nghị quyết
của Đảng từ l930 đến nay đều thể hiện rõ tư tưởng của Người: Về nền tảng
tư tưởng - lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm “Nòng cốt”; Về cương lĩnh, đường
lối – giai cấp công nhân thông qua Đảng Cộng sản lãnh đạo toàn dân đấu
tranh để giải phóng dân tộc, thực hiện dân chủ mới, tiến lên chủ nghĩa xã
hội, chủ nghĩa cộng sản; Đó là những người tiền phong giác ngộ nhất của
giai cấp công nhân, của nông dân, trí thức, của nhân dân lao động tự nguyện
phấn đấu cho mục tiêu lý tưởng của Đảng. Thực tiễn đấu tranh cách mạng đã
khẳng định Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập rèn
luyện và lãnh đạo thực sự là đội tiền phong cách mạng tận trung với nước,
tận hiếu với dân, là người tổ chức và lãnh đạo nhân dân Việt Nam lập nên
những kỳ tích trong thế kỷ XX. Khi nói Đảng ta là Đảng của nhân dân lao
động và của toàn dân tộc thì không bao giờ xa rời bản chất giai cấp công
nhân của Đảng; đó là hệ tư tưởng Mác – Lênin, mục tiêu cách mạng là chủ
nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản, được tổ chức theo nguyên tắc tổ chức
xây dựng Đảng của giai cấp vô sản.
Tư tưởng chỉnh đốn đảng là công việc thường xuyên, nhưng phải đặc

biệt chú ý khi hoàn thành từng chặng đường, từng nhiệm vụ và buớc sang
một nhiệm vụ mới. Chỉnh đốn đảng là nhằm bảo đảm cho Đảng luôn trong
sạch, vững mạnh, xứng đáng là đội tiền phong của giai cấp, của dân tộc, là tổ
chức tiền phong chiến đấu vì lợi ích của nhân dân, của Tổ quốc; Đảng phải
trong sạch, phải loại bỏ mọi phần tử cơ hội, thoái hoá; làm cho đội ngũ cán
bộ, đảng viên luôn giữ vững đạo đức cách mạng. Chỉnh đốn đảng là công
việc rất hệ trọng, liên quan đến toàn bộ xã hội. Vì vậy, phải làm từng bước,
phải có trọng tâm; về mặt tư tưởng phải gắn với chỉnh đốn về tổ chức; chỉnh
huấn cán bộ và tập trung chỉ đạo chỉnh đốn đảng không phải là ''chỉnh'' và
“đốn”, mà làm cho mỗi cán bộ, đảng viên thực hiện tốt hơn nhiệm vụ của
mình.
Trong mối quan hệ giữa xây dựng và chỉnh đốn đảng phải trên cơ sở
xây dựng mà chỉnh đốn, chỉnh đốn để nhằm xây dựng đảng vững mạnh hơn,
trong sạch hơn. Nội dung chỉnh đốn đảng là: học tập chủ nghĩa, dùi mài tư
tưởng, nâng cao lý luận, chấn chỉnh tổ chức. Tức là, Đảng lấy chủ nghĩa
Mác – Lênin làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động; phải tuân
thủ và vận dụng linh hoạt các nguyên tắc tổ chức sinh hoạt đảng; xây dựng
và rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên. Về sự cần thiết phải xây dựng và
chỉnh đốn đảng.
Tuân theo lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, toàn đảng, toàn dân, toàn
quân ta đang ra sức thực hiện cuộc vận động xây dựng và chỉnh đốn đảng
nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, làm cho Đảng luôn
trong sạch, vững mạnh, xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ thật trung
thành của nhân dân. Đó là nhiệm vụ then chốt, là cội nguồn thắng lợi của sự
nghiệp cách mạng nước ta. Tình hình nhiệm vụ cách mạng trong từng thời
kỳ có sự thay đổi, song những lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác
xây dựng đảng vẫn là những giáo huấn quan trọng đối với các tổ chức đảng
và đội ngũ cán bộ, đảng viên hiện nay. Việc học tập, quán triệt và vận dụng
có hiệu quả tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn cuộc sống là nhiệm vụ của
toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta, là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của sự

nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo./.
Câu 3: Mục tiêu, quan điểm, nhiệm vụ giải pháp xây dựng đảng:
Đảng Cộng sản VN là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời
là đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và
của dân tộc VN.
Tiếp tục đổi mới và nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
Đảng lên ngang tầm với yêu cầu và nhiệm vụ của tình hình mới cần tập
trung:
Học tập, quán triệt và thực hiện Nghị quyết Đại hội XI của Đảng đây là
đợt sinh hoạt chính trị quan trọng trong toàn Đảng, toàn dân và toàn quân,
làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục để mọi cán bộ, đảng viên và nhân
dân nhận thức đúng ý nghĩa, tầm quan trọng của việc học tập, quán triệt các
văn kiện Đại hội XI của Đảng, nhằm nâng cao tinh thần trách nhiệm trong
lãnh, chỉ đạo, tổ chức thực hiện nghiêm túc, bảo đảm chất lượng, hiệu quả,
thiết thực. Đồng thời tăng cường công tác kiểm tra, lấy kết quả nghiên cứu,
học tập Nghị quyết làm cơ sở để đánh giá phẩm chất, năng lực, mức độ hoàn
thành nhiệm vụ của cán bộ, đảng viên và tổ chức Đảng. Vận dụng và phát
triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong hoạt động
của Đảng. Thường xuyên tổng kết thực tiễn, bổ sung, phát triển lý luận, giải
quyết đúng đắn những vấn đề do cuộc sống đặt ra.
Đổi mới, sáng tạo các hình thức, phương pháp thực hiện, bảo đảm ngắn,
gọn, dễ hiểu, dễ vận dụng thực hiện, phù hợp. Coi trọng tính thiết thực, hiệu
quả trong quá trình học tập, triển khai, gắn với thực tiễn địa. Quá trình học
tập phải kết hợp với thực hiện tốt các nhiệm vụ chính trị, nhất là nghiên cứu,
vận dụng, thực hiện những giải pháp chủ yếu về tình hình kinh tế-xã hội;
Nghị quyết 11 của Chính phủ “Về những giải pháp chủ yếu tập trung kiềm
chế lạm phát, ổn định kinh tế thị trường, bảo đảm an sinh xã hội” để sớm
đưa Nghị quyết của Đảng vào cuộc sống, vận dụng sáng tạo. Đồng thời đấu
tranh với những quan điểm sai trái, thù địch, uốn nắn những nhận thức lệch
lạc, tăng cường tự phê bình và phê bình, phê phán các biểu hiện "tự diễn

biến" trong nội bộ Đảng. Trong tổ chức quán triệt học tập các Nghị quyết
phải chú trọng giới thiệu để cán bộ, nắm chắc phương hướng, mục tiêu,
nhiệm vụ, giải pháp thực hiện nhiệm vụ trong tình hình mới. Đặc biệt coi
trọng liên hệ với tình hình thực tiễn, nhằm nâng cao giác ngộ mục tiêu độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, phát huy phẩm chất đạo đức, phấn đấu vì
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.
Nâng cao trình độ trí tuệ, chất lượng nghiên cứu lý luận của Đảng; tiếp
tục làm sáng tỏ những vấn đề về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội của nước ta; làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn đường lối, chính
sách của Đảng trong thời kỳ mới. Đổi mới công tác giáo dục lý luận chính
trị, tư tưởng trong Đảng, trước hết cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo và quản lý
chủ chốt; đổi mới nội dung, phương pháp học tập, nâng cao tính thiết thực
và hiệu quả.
Xây dựng đội ngũ đảng viên thật sự tiên phong, gương mẫu, có phẩm
chất, đạo đức cách mạng, có ý thức tổ chức kỷ luật và năng lực hoàn thành
nhiệm vụ; kiên định lập trường giai cấp công nhân, phấn đấu cho mục tiêu lý
tưởng của Đảng, vững vàng trước mọi khó khăn, thử thách; năng động, sáng
tạo, góp phần tích cực vào công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc VN xã hội chủ nghĩa.
Mỗi tổ chức cơ sở Đảng có trách nhiệm tổ chức và qui tụ sức mạnh của
toàn đơn vị hoàn thành nhiệm vụ chính trị được giao; làm tốt công tác giáo
dục chính trị, tư tưởng, quản lý và giám sát đảng viên về năng lực hoàn
thành nhiệm vụ và phẩm chất, đạo đức, lối sống; đấu tranh chống chủ nghĩa
cá nhân và những biểu hiện tiêu cực trong Đảng.
Kiện toàn hệ thống tổ chức cơ sở Đảng. Xác định vị thế pháp lý, thể chế
hóa về mặt nhà nước vai trò, chức năng, nhiệm vụ của các loại hình cơ sở,
đặc biệt là tổ chức cơ sở Đảng trong khu vực kinh tế tư nhân, kinh tế có vốn
đầu tư nước ngoài. Chú ý xây dựng tổ chức cơ sở Đảng trong các doanh
nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, vùng sâu, vùng xa;
tập trung giải quyết cơ sở yếu kém.

Xây dựng đội ngũ đảng viên thật sự tiên phong, gương mẫu, có phẩm
chất, đạo đức cách mạng, có ý thức tổ chức kỷ luật và năng lực hoàn thành
nhiệm vụ; kiên định lập trường giai cấp công nhân, phấn đấu cho mục tiêu lý
tưởng của Đảng, vững vàng trước mọi khó khăn, thử thách; năng động, sáng
tạo, góp phần tích cực vào công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc VN xã hội chủ nghĩa.
Nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên gắn với việc nâng cao chất
lượng tổ chức cơ sở Đảng. Đẩy mạnh công tác phát triển Đảng gắn với bảo
đảm chất lượng. Chú trọng trẻ hóa và nâng cao trình độ của đảng viên; lấy
đạo đức làm gốc, đồng thời bồi dưỡng về kiến thức, trí tuệ, năng lực để làm
tròn nhiệm vụ người lãnh đạo, người đi tiên phong trong các lĩnh vực công
tác được giao Phát huy dân chủ đi đôi với tăng cường kỷ luật trong Đảng.
Mọi cán bộ, đảng viên có quyền bàn bạc, tham gia quyết định công việc của
Đảng; quyền được thông tin, tranh luận, nêu ý kiến riêng, bảo lưu ý kiến
trong tổ chức; khi đã thành nghị quyết thì phải nói và làm theo nghị quyết
của Đảng.
Các cấp lãnh đạo, cán bộ lãnh đạo phải thật sự lắng nghe ý kiến của cấp
dưới, của đảng viên và nhân dân. Xây dựng qui chế ra quyết định của Đảng,
bảo đảm phát huy trí tuệ tập thể; có cơ chế để nhân dân bày tỏ ý kiến đối với
những quyết định lớn, tham gia giám sát Đảng, tham gia các công việc của
Đảng; khắc phục lối làm việc quan liêu, xa dân.
Hoàn thiện qui chế bảo đảm quyền kiểm tra, giám sát của tập thể đối
với cá nhân, của tổ chức đối với tổ chức, của cá nhân đối với cá nhân và tổ
chức, kể cả đối với người lãnh đạo chủ chốt và tổ chức cấp trên. Kết hợp
giám sát trong Đảng với giám sát của Nhà nước và giám sát của nhân dân./.
Câu 4: Nguyên tăc tập trung dân chủ trong xây dựng Đảng
Tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản của việc xây dựng đảng cộng
sản. Vấn đề này được Lênin xác định trong học thuyết về xây dựng đảng
kiểu mới của giai cấp vô sản, sau đó được các đảng cộng sản của Quốc tế
Cộng sản, cũng như nhiều đảng cộng sản của phong trào cộng sản quốc tế

vận dụng vào trong các hoạt động của đảng mình.
Hồ Chí Minh coi nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc rất quan
trọng trong xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam. Người coi tập trung và dân
chủ phải luôn luôn đi đôi với nhau; dân chủ phải đi đến tập trung và tập
trung trên cơ sở dân chủ. Gần đây nhất, trong Điều lệ Đảng Cộng sản Việt
Nam được thông qua tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X năm 2006, nêu
rõ: “Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ”,
đồng thời xác định 6 nội dung cụ thể không những về “tổ chức” mà chủ yếu
là về “hoạt động” hoặc “sinh hoạt” của Đảng.
Đối với nguyên tắc tập trung dân chủ, có một số điểm sau đây:
- Mác và Ăngghen chưa đề cập thật rõ vấn đề tập trung dân chủ trong
xây dựng đảng của giai cấp công nhân.
Mác và Ăngghen là những người đầu tiên xác định tính chất hoạt động
của tổ chức cộng sản. Thật ra, thời của hai ông, chưa có một đảng cộng sản
cụ thể nào, chỉ có Liên đoàn những người cộng sản, không rõ tính chất đảng
cộng sản trong một nước cụ thể. Quốc tế I là tổ chức quốc tế của giai cấp
công nhân, không phải là một tổ chức cộng sản. Trong Điều lệ của Đồng
minh những người cộng sản, nội dung của vấn đề chế độ hay nguyên tắc tập
trung dân chủ chưa rõ nét lắm; ở đó chỉ đề cập vấn đề tổ chức rồi có thể bãi
miễn các thành viên, v.v.
- Trong quá trình hoạt động, hiện nay, trong cương lĩnh, nhiều đảng
cộng sản trên thế giới không ghi nguyên tắc này vào trong cương lĩnh chính
trị của mình. Nhiều đảng cộng sản không áp dụng nguyên tắc này vào trong
thực tế xây dựng đảng.
- Đảng Cộng sản Việt Nam, trong Điều lệ Đại hội X, ở Điều 9, nêu 6
“nội dung cơ bản” về nguyên tắc tập trung dân chủ:
Nội dung cơ bản 1. Cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng do bầu cử lập
ra, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Chúng ta thấy rằng, nói đến
bầu cử để lập ra cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng, tức là đã nói đến dân
chủ. Điều lệ Đại hội X của Đảng còn xếp tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách

vào nguyên tắc này. Thực ra, nếu tách riêng cũng được. Bản thân Hồ Chí
Minh có lúc nói: tập thể lãnh đạo là dân chủ, cá nhân phụ trách là tập trung.
Nội dung cơ bản 2. Cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng là Đại hội đại
biểu toàn quốc. Cơ quan lãnh đạo ở mỗi cấp là đại hội đại biểu hoặc đại hội
đảng viên. Giữa hai kỳ đại hội, cơ quan lãnh đạo của Đảng là Ban Chấp
hành Trung ương, ở mỗi cấp là ban chấp hành đảng bộ, chi bộ (gọi tắt là cấp
uỷ). Chúng ta thấy nội dung này đề cập vấn đề tổ chức, cách tổ chức và thứ
tự vị trí các cấp.
Nội dung cơ bản 3. Cấp uỷ các cấp báo cáo và chịu trách nhiệm về hoạt
động của mình trước đại hội cùng cấp, trước cấp uỷ cấp trên và và cấp dưới;
định kỳ thông báo tình hình hoạt động của mình đến các tổ chức đảng trực
thuộc, thực hiện tự phê bình và phê bình. Như vậy là tự phê bình và phê
bình, là một nguyên tắc sinh hoạt Đảng, được ghép vào đây.
Nội dung cơ bản 4. Tổ chức đảng và đảng viên phải chấp hành nghị
quyết của Đảng. Thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, cá
nhân phục tùng tổ chức, các tổ chức trong toàn đảng phục tùng Đại hội đại
biểu toàn quốc và Ban Chấp hành Trung ương. Chúng ta thấy rằng, nội dung
này hoàn toàn phản ánh tính tập trung (“chấp hành”, “phục tùng”).
Nội dung cơ bản 5. Nghị quyết của các cơ quan lãnh đạo của Đảng chỉ
có giá trị thi hành khi có hơn một nửa số thành viên trong cơ quan đó tán
thành. Trước khi biểu quyết, mỗi thành viên được phát biểu ý kiến của mình.
Đảng viên có ý kiến thuộc về thiểu số được quyền bảo lưu và báo cáo cấp uỷ
cấp trên cho đến Đại hội đại biểu toàn quốc, song phải chấp hành nghiêm
chỉnh nghị quyết, không được truyền bá ý kiến trái với nghị quyết cảu Đảng.
Cấp uỷ có thẩm quyền nghiên cứu xem xét ý kiến đó; không phân biệt đối
xử với đảng viên có ý kiến thuộc về thiểu số.
Nội dung cơ bản 6. Tổ chức đảng quyết định các vấn đề thuộc phạm vi
quyền hạn của mình, song không được trái với nguyên tắc, đường lối, chính
sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và nghị quyết của cấp trên.
Các nội dung này nhấn mạnh về tập trung, có đề cập vấn đề thảo luận

dân chủ và đảng viên có ý kiến thiểu số có quyền bảo lưu ý kiến.
Từ sự nghiên cứu lý luận, học thuyết của Lênin về đảng kiểu mới của
giai cấp vô sản, từ thực tế hoạt động của Đảng Cộng sản Việt Nam và từ tình
hình của một số đảng cộng sản trên thế giới hiện nay, cho ta nhận thức một
cách tổng quát lại về nguyên tắc này như sau:
Một là: Thực ra, để cắt lát, để phân biệt thật rạch ròi đâu là dân chủ, đâu
là tập trung thì rất khó, và trên thực tế không nên như vậy. Bởi vì, trong tập
trung đúng đắn thì đã có dân chủ, và ngược lại, trong dân chủ đúng đắn thì
cũng đã có tập trung. Hai nội dung này quyện chặt với nhau, đúng như Hồ
Chí Minh nhấn mạnh: tập trung và dân chủ phải “luôn luôn đi đôi với nhau”.
Thật ra, đây là một nguyên tắc có dân chủ và có tập trung quyện chặt với
nhau, chứ không phải nguyên tắc gồm hai vế, hoặc có lúc hiểu nó là hai
nguyên tắc nhỏ trong một nguyên tắc lớn. Như vậy, với những nội dung cơ
bản trên đây, nhận thấy rằng, nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và
sinh hoạt Đảng Cộng sản Việt Nam đã nêu, phần dân chủ và phần tập trung
đã hoà quyện hữu cơ, khăng khít với nhau.
Hai là: Tập trung dân chủ ở trong đảng cộng sản ở trong điều kiện đảng
cầm quyền liên quan chặt chẽ với tập trung dân chủ ngoài xã hội. Hai cái
tương tác nhau. Tập trung dân chủ trong đảng cộng sản cầm quyền mà tốt thì
tác động tốt vào dân chủ ngoài xã hội, vào trật tự kỷ cương của xã hội. Đồng
thời, dân chủ ngoài xã hội, kỷ cương ngoài xã hội mà tốt thì có ảnh hưởng
đến hoạt động của Đảng.
Ba là: Trên thực tế, khi thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, phải có
điều kiện tiên quyết, mà thiếu nó thì không thể thực hiện tốt nguyên tắc này
được.
Nguyên tắc tập trung dân chủ trong đảng cộng sản, phải có những điều
kiện tiên quyết để bảo đảm cho nó được thực thi, đưa lại kết quả đúng đắn,
lành mạnh, tránh được độc quyền, tránh được sự lợi dụng để mưu lợi riêng,
thực hiện ý đồ cá nhân.
Bởi vì, trong sinh hoạt Đảng, cấp dưới phải phục tùng cấp trên, thiểu số

phục tùng đa số. Trong một tổ chức Đảng trong sạch, vững mạnh thì thực
hiện nguyên tắc tập trung dân chủ thường là đúng đắn, không có vấn đề gì
đáng lo ngại. Nhưng, đối với những tổ chức Đảng mất đoàn kết, chia rẽ, bè
phái, lục đục, số đảng viên tốt ít hơn số đảng viên bị thoái hoá, biến chất, thì
điều gì sẽ xảy ra khi biểu quyết “thiểu số phục tùng đa số”? Chắc chắn là ở
những tổ chức Đảng như thế, số đảng viên thoái hoá, biến chất đang chiếm
đa số kia sẽ lũng đoạn và số đảng viên tích cực bị thiểu số sẽ luôn luôn bị lép
vế. Điều này là cực kỳ tai hại, khi biểu quyết để kết nạp những người ưu tú
vào Đảng và khi biểu quyết để đưa những người không đủ tư cách đảng viên
ra khỏi Đảng. Bởi vì, như thế sẽ không kết nạp được những người ưu tú vào
Đảng và những đảng viên thoái hoá, biến chất vẫn ở trong Đảng, dẫn đến tổ
chức Đảng yếu, từ tổ chức Đảng yếu lại dẫn đến tình trạng nguyên tắc tập
trung dân chủ lại bị thực hiện lệch lạc. Vì vậy, nguyên tắc tập trung dân chủ,
về mặt nào đó, là “con dao hai lưỡi”, cần thận trọng khi thực hiện nó ở trong
Đảng, ứng với từng tổ chức cụ thể trong từng lúc. Nguyên tắc đó, cái “lưỡi”
tốt của nó chỉ phát huy tác dụng tốt khi tổ chức Đảng trong sạch vững mạnh,
còn nếu không, tổ chức Đảng nào mà mất đoàn kết, chia rẽ, bè phái, lục đục
thì khi thực hiện thiểu số phục trùng đa số thì sẽ dẫn đến kết quả Đảng bị suy
yếu.
Vì vậy, điều kiện tiên quyết để thực hiện thật tốt nguyên tắc tập trung
dân chủ trong tình hình hiện nay và cũng là sự nhận thức lại từ học thuyết về
đảng kiểu mới của giai cấp vô sản là: Tổ chức đảng phải trong sạch, vững
mạnh; số đảng viên trong sạch, vững mạnh, phải chiếm đa số trong một tổ
chức Đảng. Điều này bảo đảm cho sự lành mạnh khi thực hiện thiểu số phục
tùng đa số./.
Câu 5: Vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của tổ chức cơ sở Đảng:
Vị trí và vai trò
Tổ chức cơ sở đảng có vai trò rất quan trọng, là sợi dây nối liền Đảng
với quần chúng; là nơi trực tiếp đưa đường lối, chính sách của Đảng và Nhà
nước vào quần chúng; tổ chức cho quần chúng thực hiện những đường lối,

chính sách đó nhằm không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần
của quần chúng ở cơ sở. Thông qua phong trào cách mạng của quần chúng
mà đội ngũ cán bộ, đảng viên ở cơ sở nắm vững tâm tư, nguyện vọng, tổng
kết sáng kiến của quần chúng để Đảng và Nhà nước tiếp tục cụ thể hóa, bổ
sung, phát triển đường lối, chính sách.
Tổ chức cơ sở đảng còn là nơi giáo dục, rèn luyện, kết nạp đảng viên;
nơi đào tạo cán bộ cho Đảng, nơi xuất phát đề cử ra cơ quan lãnh đạo cấp
trên của Đảng.
Tổ chức cơ sở đảng có vai trò đặc biệt quan trọng đối với việc nâng cao
vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X đã khẳng định: "Với vị trí là nền
tảng của Đảng, là hạt chân chính trị ở cơ sở, vai trò của tổ chức cơ sở đảng
rất quan trọng. Phải dồn sức xây dựng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng, làm cho tổ chức này thực sự trong sạch,
vững mạnh; làm tốt công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, quản lý, giám sát
đảng viên về năng lực hoàn thành nhiệm vụ và phẩm chất đạo đức, lối sống;
đấu tranh chống những biểu hiện tiêu cực trong Đảng”.
Chức năng, nhiệm vụ:
Xây dựng cơ sở Đảng về chính trị, tư tưởng.
- Tăng cường công tác giáo dục, tuyên truyền làm cho tất cả đảng viên
nhận thức được rõ về nền tư tưởng của Đảng ta là Chủ nghĩa Mác - Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh, tư tưởng đó là bảo vệ lợi ích của nhân dân.
- Thường xuyên giáo dục truyền thống vẻ vang của Đảng làm cho mọi
đảng viên kiên định lập trường đi theo con đường mà Đảng, Bác Hồ đã
chọn.
- Làm tốt công tác xây dựng Đảng về chính trị và tư tưởng nhằm nâng
cao bản lĩnh chính trị, trí tuệ và năng lực của Đảng viên.
Xây dựng cơ sở Đảng về tổ chức.
- Các tổ chức cơ sở Đảng phải thực hiện nghiêm ngặt các nguyên tắc tổ
chức và sinh hoạt Đảng, trước hết là nguyên tắc tập trung dân chủ.

- Nâng cao chất lượng sinh hoạt của chi bộ; thực hiện nghiêm túc chế
độ tự phê bình và phê bình một cách thường xuyên trong tổ chức Đảng.
Chống cách làm hình thức, không sửa chữa khuyết điểm.
- Mỗi chi bộ, phải thực hiện tốt công tác quản lý chặt chẽ đảng viên,
không để một đảng viên nào đứng ngoài trách nhiệm quản lý của tổ chức
Đảng.
- Tiếp tục xây dựng và củng cố chi bộ, bởi chi bộ chính là cầu nối giữa
Đảng với các tầng lớp nhân dân, trực tiếp tổ chức và lãnh đạo nhân dân thực
hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng.
Nâng cao chất lượng đảng viên.
- Cần phải làm cho mọi đảng viên ở cơ sở nhận thức được tình hình mới
hiện nay, người đảng viên phải có trình độ giác ngộ cách mạng cao, trình độ
trí tuệ cao, ý thức tổ chức kỷ luật nghiêm, phẩm chất đạo đức tốt.
- Mọi đảng viên đều được tổ chức Đảng quản lý và phân công nhiệm vụ
công tác cụ thể, hàng năm phân tích chất lượng đảng viên trên cơ sở mức độ
hoàn thành nhiệm vụ của đảng viên.
- Công tác phát triển đảng viên mới cần phải coi trọng hơn nữa. Phải
thường xuyên quan tâm lãnh đạo xây dựng Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ
Chí Minh, coi đây là một nhiệm vụ quan trọng của công tác xây dựng Đảng.
- Việc phân công công tác cho đảng viên, nên nghiên cứu khả năng và
điều kiện của từng đồng chí để phân công cho phù hợp.
- Cấp uỷ chi bộ cần quan tâm động viên tới từng đồng chí đảng viên;
khắc phục ngay tình hình thiếu sót khuyết điểm hiện nay là chỉ biết giao
nhiệm vụ mà không chú ý tới đời tư.
Nâng cao năng lực lãnh đạo của đội ngũ cán bộ cơ sở.
- Phải rà soát, sắp xếp điều chỉnh, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ hiện có,
trước hết là các chức danh lãnh đạo. Đối với cán bộ chủ chốt kiến thức năng
lực yếu không đảm đương nổi nhiệm vụ cần điều chỉnh, bố trí công việc thích
hợp, ở những nơi trì trệ, yếu kém, cán bộ chủ chốt có sai phạm cần làm rõ, xử
lý kịp thời, nghiêm minh.

- Nên có kế hoạch và động viên số cán bộ đương chức học chuyên môn
và nghiệp vụ, chọn hình thức đào tạo cho phù hợp với điều kiện công tác cơ
sở.
Công tác vận động nhân dân, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và
nhân dân.
- Trước hết, giáo dục và động viên đảng viên, tạo điều kiện cho đảng
viên liên hệ chặt chẽ với quần chúng, thông qua sự liên hệ, đảng viên tuyên
truyền đường lối chính sách của Đảng đến với quần chúng với Đảng.
- Cấp uỷ phải có kế hoạch chăm lo thường xuyên tới các đoàn thể quần
chúng, phân công đảng viên làm công tác quần chúng, tạo cho mối quan hệ
giữa Đảng và nhân dân gắn bó hơn.
- Đảng lãnh đạo thông qua chủ trương, định hướng bằng chương trình
kế hoạch, không can thiệp sâu vào việc điều hành của chính quyền và hoạt
động của các đoàn thể.
Đổi mới phương thức hoạt động, lãnh đạo của đảng bộ cơ sở.
- Xây dựng chỉnh đốn Đảng, hoàn thiện quy chế làm việc, đưa các hoạt
động của tổ chức Đảng vào nền nếp, đúng chức năng, nhiệm vụ.
- Cải tiến và nâng cao chất lượng, ra nghị quyết chi bộ trên cơ sở nghị
quyết Đảng bộ, làm cho nghị quyết sát thực tế, phù hợp với đa số cán bộ
đảng viên và quần chúng nhân dân.
- Tăng cường công tác kiểm tra, coi công tác kiểm tra là nhiệm vụ
thường xuyên của mỗi cấp uỷ trên các lĩnh vực hoạt động./.
Câu 6; Nâng cao năng lực tổ chức cơ sở Đảng
Tổ chức cơ sở đảng (TCCSĐ) là “gốc rễ” của Đảng, giữ vai trò rất quan
trọng trong hệ thống tổ chức của Đảng, là nơi thực hiện các chủ trương, nghị
quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước; nơi trực tiếp giáo dục, rèn luyện,
quản lý đảng viên; nơi thể hiện quyền làm chủ của nhân dân trên tất cả các
mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng. Đời sống các
mặt của nhân dân lao động có được nâng lên hay không, hệ thống chính trị
cơ sở có thực sự trong sạch vững mạnh hay không đều tùy thuộc vào chất

lượng TCCSĐ. Bác Hồ chỉ rõ: "Đảng mạnh là do chi bộ tốt, chi bộ tốt là do
các đảng viên đều tốt".
Những thành quả của hơn 20 năm tiến hành sự nghiệp đổi mới, của
cuộc vận động xây dựng chỉnh đốn Đảng có sự đóng góp to lớn của TCCSĐ.
Tuy nhiên, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6, khóa X cũng thẳng thắn nhận
định: “Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của TCCSĐ và chất lượng đội ngũ
cán bộ, đảng viên còn một số khuyết điểm, yếu kém: Nhiều cấp ủy chưa
thực sự coi trọng vị trí then chốt của công tác xây dựng Đảng… Không ít
TCCSĐ chưa nhận thức và thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ của
TCCSĐ… khả năng nhận thức vận dụng, cụ thể hóa và tổ chức thực hiện các
chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước và của
cấp ủy cấp trên của nhiều TCCSĐ còn yếu”. Vì vậy, việc nâng cao năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu của TCCSĐ đang đặt ra những đòi hỏi tất yếu và
bức bách. Và, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6, khóa X đã đề ra nhiều
giải pháp quan trọng cần triển khai thực hiện tốt trong thời gian tới.
- Trước hết, cần tiếp tục cụ thể hoá chức năng, nhiệm vụ của các loại
hình TCCSĐ; bổ sung hoàn thiện quy chế lãnh đạo của đảng bộ, chi bộ cơ
sở; đặc biệt là xác định vị trí pháp lý, thể chế hóa về mặt nhà nước vai trò,
chức năng, nhiệm vụ của các loại hình cơ sở. Điểm mấu chốt là nâng cao
năng lực vận dụng, xác định đúng nhiệm vụ chính trị, cụ thể hóa và tổ chức
thực hiện có hiệu quả các chủ trương, nghị quyết của Đảng, pháp luật của
Nhà nước. Định hướng chỉ đạo chính quyền, các đoàn thể chính trị xã hội
của hệ thống chính trị bằng nhiều biện pháp tích cực, chủ động, sáng tạo để
đưa nghị quyết vào cuộc sống.
- Nâng cao chất lượng cấp ủy viên gắn với xây dựng cán bộ chủ chốt có
phẩm chất, năng lực, tận tụy phục vụ nhân dân. Cán bộ luôn là cái gốc của
mọi công việc, là rường cột của hệ thống chính trị cơ sở. “Thực hiện mạnh
mẽ chủ trương trẻ hóa, tiêu chuẩn hóa, thể chế hóa và từng bước nhất thể
hóa chức danh cán bộ; tạo bước chuyển có tính đột phá về xây dựng đội ngũ
cán bộ, công chức ở cơ sở”. Chủ động tạo nguồn bằng cách lựa chọn những

thanh niên có phẩm chất, năng lực, trưởng thành trong thực tiễn, thu hút các
sinh viên đã tốt nghiệp đại học, cao đẳng để vừa bổ sung đội ngũ cán bộ
nguồn vừa nâng cao chất lượng cán bộ, công chức cho cơ sở. Ngoài việc coi
trọng bồi dưỡng kiến thức lý luận chính trị, quản lý nhà nước, quản lý kinh
tế, công tác vận động quần chúng, cần khẩn trương “đổi mới mạnh mẽ nội
dung, hình thức đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ, công chức cơ sở xã,
phường, thị trấn theo chức danh cán bộ; chú ý bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng,
nghiệp vụ và kinh nghiệm giải quyết những tình huống cụ thể ở cơ sở” để họ
“dĩ bất biến, ứng vạn biến” xử lý điều hành công việc trong thực tiễn. Căn
cứ vào tiêu chuẩn, năng lực sở trường của cán bộ để bố trí cán bộ cho hợp lý
nhằm phát huy hiệu quả chất lượng công tác.
- Giữ vững các nguyên tắc tổ chức sinh hoạt đảng, nguyên tắc tập trung
dân chủ, tự phê bình và phê bình, xây dựng khối đoàn kết thống nhất… Đây
là nhân tố đảm bảo cho TCCSĐ luôn trong sạch vững mạnh. Các cấp ủy, chi
bộ cần duy trì nghiêm túc, nền nếp chế độ sinh hoạt đảng định kỳ. Làm sao
nội dung sinh hoạt phải được chuẩn bị cụ thể, thiết thực, hướng vào giải
quyết những vấn đề nổi cộm, thúc bách của đảng bộ, chi bộ. Nhận thức và
vận hành đúng nguyên tắc tập trung dân chủ - mở rộng dân chủ để phát huy
trí sáng tạo hiến kế của cấp ủy viên, đảng viên; nhưng dân chủ phải nằm
trong biên độ chỉ đạo của tập trung để giữ vững kỷ luật kỷ cương, tạo nên
sức mạnh đoàn kết thống nhất của tổ chức đảng. Đồng thời tập thể lãnh đạo
phải đi đôi với cá thể hóa cá nhân phụ trách để khắc phục tình trạng “Sãi
đông không ai đống cửa chùa”.
Chú trọng nâng cao chất lượng tự phê bình và phê bình; làm sao khi phê
bình phải ráo riết, triệt để, khách quan, trung thực và phải coi trọng văn hóa
phê bình để giúp nhau sửa chữa khuyết điểm. Chỉ với những TCCSĐ có gan
thừa nhận khuyết điểm, yếu kém của mình thì mới mạnh dạng tìm ra biện
pháp để khắc phục.
- Tăng cường giáo dục, rèn luyện, quản lý đảng viên, không để một
đảng viên nào đứng ngoài sự quản lý của tổ chức đảng. Nâng cao chất lượng

TCCSĐ không thể tách rời chất lượng đảng viên. Trước yêu cầu mới đòi hỏi
người đảng viên phải giác ngộ lý tưởng cách mạng, kiên định mục tiêu lý
tưởng của Đảng, tiên phong gương mẫu, có ý thức tổ chức kỷ luật, nói đi đôi
với làm. Muốn hướng dẫn nhân dân phải làm gương mẫu cho ngườI dân noi
theo. Đó là mệnh lệnh không lời có sức cảm hóa rất lớn đối với nhân dân.
Do đó cần “thường xuyên giáo dục, rèn luyện, nâng cao phẩm chất chính trị,
đạo đức cách mạng, trình độ, kiến thức và năng lực công tác cho đội ngũ cán
bộ, đảng viên”.
- Phát huy trách nhiệm xây dựng Đảng của quần chúng. Tạo lập cơ chế,
quy định, môi trường để nhân dân giám sát, phản biện tổ chức đảng, chính
quyền trong việc cụ thể hóa các chủ trương, nghị quyết của Đảng, pháp luật
của Nhà nước; giám sát cán bộ, đảng viên thực hiện chức trách, nhiệm vụ
được giao, giữ gìn phẩm chất đạo đức lối sống./.
Câu 7: Vai trò công tác dân vận của đảng:
Công tác dân vận là một trong những công tác cơ bản của Đảng cộng
sản Việt Nam, là một trong những nhân tố góp phần hình thành các nhiệm
vụ cách mạng, tạo nên mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân.
Trong giai đoạn hiện nay công tác dân vận vừa mang tính chiến lược
vừa mang tính cấp thiết đối với sự nghiệp đổi mới đất nước. Để phát huy vai
trò lãnh đạo và thực thi quyền lực chính trị của Đảng, công tác dân vận cần
quán triệt và thực hiện tốt những nội dung sau:
1. Truyền bá Chủ nghĩa Mác Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh:
Để góp phần làm cho Đảng ta ngày càng vững mạnh hơn, xứng đáng là
hạt nhân lãnh đạo, phát huy trí tuệ và sức mạnh của dân tộc thì vai trò của
công tác dân vận trong việc truyền bá hệ tư tưởng của Đảng trong nhân dân
có ý nghĩa hết sức quan trọng. C.Mác đã từng viết, lý luận sẽ trở thành sức
mạnh vật chất khi thâm nhập vào quần chúng.
Để khẳng định giá trị bền vững và sức sống của CNMLN, tư tưởng Hồ
Chí Minh đòi hỏi Đảng ta phải bảo vệ và phát triển nó lên một trình độ mới,
tuyên truyền, phổ biến sâu rộng trong toàn Đảng, toàn dân là yếu tố cần thiết

để củng cố lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước. Truyền bá sâu
rộng hệ tư tưởng của Đảng để nhân dân cảnh giác với những âm mưu chống
phá những thành quả của Cách mạng như: Âm mưu diễn biến hoà bình của
chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch khác với thủ đoạn làm tha hoá đội
ngũ cán bộ, làm rệu rã về mặt tổ chức và làm sa sút lòng tin của nhân dân
đối với Đảng.
Thực hiện tốt công tác dân vận trong việc truyền bá tư tưởng, giáo dục
đạo đức trong cán bộ, đảng viên để họ tự giác thực hiện những nhiệm vụ
chính trị đặt ra trong từng giai đoạn lịch sử. Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã nói: giáo dục tư tưởng và lãnh đạo tư tưởng là việc quan trọng nhất của
Đảng, phải kiên quyết chống thói xem nhẹ tư tưởng. Mà để đưa một hệ tư
tưởng đến với người dân thì không thể thiếu vai trò của công tác dân vận.
Tuy nhiên trong tình hình tư tưởng có nhiều diễn biến phức tạp và sự
bùng nổ thông tin dữ dội như hiện nay thì việc truyền bá Chủ nghĩa Mác Lê
nin, tư tưởng Hồ Chí Minh đòi hỏi người làm công tác tuyên truyền phải
thường xuyên cập nhật, phân tích các thông tin và lựa chọn những thông tin
có lợi cho Đảng, cho cách mạng để tuyên truyền vào quần chúng nhân dân.
Đồng thời đưa ra những lập luận xác đáng để phê phán, loại bỏ các thông tin
có tư tưởng xấu, nhằm bảo vệ sự trong sáng của Chủ nghĩa Mác Lê nin, tư
tưởng Hồ Chí Minh - Hệ tư tưởng của Đảng ta.
2. Truyền bá cương lĩnh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước cho nhân dân:
Một trong những nội dung quan trọng nhất của công tác dân vận là
truyền bá cương lĩnh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước cho nhân dân để mọi người dân hiểu rõ, tin tưởng và quyết
tâm thực hiện tốt đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật đó. Chủ tịch
Hồ Chí Minh viết: "Chúng ta phải ghi tạc vào đầu cái chân lý này, dân rất
tốt, lúc họ đã hiểu thì việc gì khó khăn mấy họ cũng làm được, hy sinh mấy
họ cũng không sợ. Nhưng trước hết phải chịu khó tìm đủ mọi cách giải thích
cho họ hiểu rằng: những việc đó là vì lợi ích của họ mà họ phải làm".

Mọi chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước muốn
được nhân dân nhất trí, tin tưởng, quyết tâm thực hiện tốt đều phụ thuộc vào
công tác dân vận tốt hay kém. Nhiệm vụ của công tác dân vận là phải đưa nó
vào cuộc sống, biến thành hành động cách mạng sôi nổi, tự giác của các tầng
lớp nhân dân, giải quyết các vấn đề thực tiễn đem lại lợi ích cho nhân dân.
Trong điều kiện Đảng cầm quyền, mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân
chủ yếu thông qua Nhà nước, cụ thể là thông qua hệ thống luật pháp, chính
sách, tổ chức điều hành, thực thi luật pháp, chính sách, thông qua mối quan
hệ phối hợp giữa Mặt trận và các đoàn thể nhân dân để thực hiện luật pháp
và chính sách, thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, thông qua cán
bộ, công chức Nhà nước. Thực chất của quá trình này là thực hiện ý chí
chính trị, mục tiêu chính trị của Đảng. Công tác dân vận là một cơ chế thực
thi quyền lực chính trị của Đảng. Trong quá trình này cần phối hợp tốt giữa
dân vận của Đảng, dân vận của Nhà nước và các tổ chức chính – xã hội, tổ
chức thực hiện chặt chẽ, kiên quyết nhằm biến đường lối, chủ trương của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước thành các phong trào cách mạng
của nhân dân, là điều kiện quyết định thành công đối với công tác dân vận
của Đảng.
3. Phản ánh ý chí nguyện vọng của nhân dân:
Công tác dân vận không chỉ là sự "tuyên truyền", "vận động "…mà
công tác dân vận còn nhằm phát huy các sáng kiến, sáng tạo từ phía quần
chúng nhân dân, "Dân chúng biết giải quyết nhiều vấn đề một cách đơn giản,

×