Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

Tài liệu môn Đường lối đối ngoại - MỘT SỐ KINH NGHIỆM CỦA 20 NĂM ĐỔI MỚI HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI(1986 – 2006)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (197.5 KB, 28 trang )

MỘT SỐ KINH NGHIỆM CỦA 20 NĂM
ĐỔI MỚI HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI(1986 – 2006)
Xuất phát từ các nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh
thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, không dùng vũ lực hoặc
đe doạ dùng vũ lực trong quan hệ với nhau, bình đẳng và cùng có lợi, bảo
đảm góp phần phát triển kinh tế của nước ta, bảo vệ sản xuất, tài tài nguyên,
môi trường và an ninh quốc gia, giữ gìn và phát huy truyền thống bản sắc tố
đẹp của văn hoá dân tộc, ngoại giao Việt Nam đã giành được nhièu thành tựu
trong thời kỳ đổi mới và cũng để lạinhièu kinh nghiệm quý giá. Những kinh
nghiệm đó không chỉ mang lại những hiệu quả thiết thực chô công cuộc đổi
mới của đất nước trong thời gian qua mà nó còn chi phối toàn bộ hoạt động
đối ngoại của Đảng và Nhà nước Việt Nam.
Các nhà nghiên cứu đề cập tới nhiều bại học khác nhau nhưng ở đay
chúng ta chỉ có thể đề cập đến những bài học chung nhất có ý nghĩa chỉ đạo
quá trình hoạch định và thực hiện chính sách đối ngoại của Đảng Cộng sản
Việt Nam.
Một là, đảm bảo lợi ích dân tộc, giữ vững độc lập tự chủ là nguyên tắc
cơ bản của quá trình hoạch định và thực hiện chính sách đối ngoại.
Xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ của đất nước và xu thế của thời đại, bài
học đảm bảo lợi ích dân tộc, giữ vững độc lập tự chủ nằm trong mục tiêu, tư
tưởng chỉ đạo, phương châm và thước đo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt
Nam.
Mục tiêu của chính sách đối ngoại truỳen thống cũng như hiện đại của
bốn phương đều nhằm đạt được ba nội dung cư bản là: góp phần bảo đảm chủ
quyền, anh ninh quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ; tạo dựng củng cố môi trường
quốc tế để xây dựng phát triển đất nước và nâng cao vai trò, vị trí trên trường
1
quốc tế. Ba nội dung trên có tác động qua lại, gắn bó hữu cơ với nhau nhưng
mục tiêu giữ vững độc lập tự chủ từ đó mới đảm bảo được lợi ích dân tọcc là
nội dung quan trọng hàng đầu. Ngoại giao Việt Nam trong thời ky đổi mới
càng không thể xa rời mục tiêu tối thượng đó.


“Không có gì quý hơn độc lập tự do”, độc lập tự do của Tổ quốc, an
ninh và phát triển của đất nước là lợi ích tối cao của dân tộc. Là một quốc gia
ở Việt Nam gắn liền với lợi ích của các nước trong cộng đồng quốc tế. Kinh
nghiệm này đã được thể hiện nhuần nhuyễn trong phong cách ngoại giao Hồ
Chí Minh, nền tảng của trường phái ngoại giao Việt Nam hiện đại. Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã thể hiện sinh đông sự kết hợp giữa truyền thồng ngoại giao
Đại Việt và tinh hoa kim, cổ, đông, tây, về ngoại giao của nhân loại. Dựa trên
nền tảng của chỷ nghĩa Mác – Lênin, ngay từ khi cách mạng Việt Nam cong
chưa có đường ra, Người đã có định hướng sáng suất trong việc gắn việc đảm
bảo lợi ích dân tộc với việc giữ vững độc lập tự chủ, an ninh và chủ quyền của
đất nước. Trong “chương trình tóm tắt của Đảng”, Hồ Chí Minh đã kết luận:
“Đảng phổ biến khẩu hiệu “Việt Nam tự do” và đồng thời Đảng liên kết với
các dân tộc bị áp bức và quần chúng vô sản Pháp”
(1)
. Ở nhiều tác phẩm viết
trong quá trình đi tim đường cứu nước, Người đã xây dựng mối quan hệ kiểu
mới giữa cách mạng thuộc địa với cách mạng vô sản ở chính quốc. giữa cách
mạng giải phóng dân tộc với CNXH thế giới. Trong cuộc kháng chiến chống
Pháp, lúc vận nước đang”chông chênh” Người đã khéo léo bằng những biện
pháp ngoại giao để “hòa Phap, gạt Tưởng”, có thời gian và điều kiện để đối
phó với một kể thù…trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, hai đồngg
minh chủ yếu của Việt Nam là Liên Xô và Trung Quốc có lợi ích và chính
sách khác nhau đối với Việt Nam nhưng Việt Nam đã kiên trì đoàn kết và
tranh thủ được sự viện trợ to lớn của cả hai nước. Việt Nam đã làm được vì
đặt lợi ích giải phóng dân tộc khỏi ách xâm lược lên trên hết và đã tìm thấy
lợi ích chung trong đánh thắng Mỹ của Trung Quốc và Liên Xô. Trong suốt
(1)
Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc, H.1995 tr.4.
2
cuộc kháng chiến chống Mỹ, Việt Nam vẫn giữ được độc lập, tự chủ, vẫn đi

con đường riêng của mình để giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Khi Việt Nam thống nhất bước vào thời kỳ mới, thời kỳ xây dựng
XHCN, để phá thế bị bao vây, cô lập do vấn để Campuchia gây ra, ngày 20 –
05 – 1988 Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết số 13 về nhiệm vụ và chính sách đối
ngoại trong tình hìnnh mới. Với chủ đề:”Giữ vững hòa bình, phát triển kinh
tế”, Nghị quyết nhấn mạnh nhiệm vụ ngoại giao phục vụ ổn định chính trị, ưu
tiên phát triển kinh tế là hàng đâu đồng thời bảo vệ Tổ quốc. Đây là một mốc
quan trọng trong việc chuyển hướng đối ngoại. Nếu trước đay Việt Nam coi
Trung Quốc như là kẻ thù nguy hiểm, trực tiếp thì nay do yêu cầu nội tại của
đất nước đang tiến hành đổi mới và do đặc điểm, xu thế thời đại nên nhu cầu
bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc được đặt ra như là đột phá khẩu. Để
đạt được điều đó Việt Nam nêu rõ các chủ trương gáp phàn giải quyết vấn đề
Campuchia, cải thiện quan hệ với với các nước trong tổ chức SEAn, mở rộng
quan hệ với các nước Tây, Bắc Âu, Nhật Bản, từng bước bình thường hóa
quan hệ với Mỹ. Triển khai Nghị quyết 13 Bộ Chính trị, Việt Nam đã sửa lời
nói đầu của Hiến pháp, không nêu tên các kẻ thù , rút hết quân ở Campuchia
vào năm 1989, tham gia ký hiệp định bình thường hóa quan hệ với Trung
Quốc, cải thiện quan hệ với từng nước và tổ chức ASEAN …
Nghị quyết XIII Bộ Chính trị là cơ sở để phát triển và nâng cao đường
lối độc lập tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa mà Đại hội VII chính thức
công bố.
Giữ vững đường đối ngoại độc lập là vô cùng quan trọng trong việc
đảm bảo trọn vẹn lợi ích dân tộc, tránh trở thành con bài trong tay người khác,
nhất là trong lúc thế và lực đòi hởi phải có sự hỗ trợ từ bên ngoài và tất nhiên
độc lập tự chủ không phải là tự cô lập, đoàn kết quốc tế không có nghĩa là lệ
thuộc. Trong muôn vàn khó khăn và thử thách, ngoại giao Việt Nam đã vượt
khó đi lên để “hội nhập quốc tế và giữ gìn bản sắc” trong một thế giới mở”
3
thể hiệntinh thần độc lập tự chủ, đoàn kết quốc tế để giữ vững lợi ích quốc
gia.

Thắng lợi ngoại giao trong thời kỳ 1986 đến 1996 được bắt nguồn từ
truyền thống ngoại giao của dân tộc, từ phong cách ngoại giao Việt Nam mà
tiêu biểu là ngoại giao Hồ Chí Minh nhưng trực tiếp bắt nguồn từ Nghị quyết
Đại hội VI, Nghị quyết 13 Bộ Chính trị, Nghị quyết Hội nghị TW 3 (khóa
VII) và Nghị quyết Đại hội VIII trong đó Nghị quyết 13 của Bộ Chính trị là
điển hình về việc nắm chắc lợi ích dân tộc đáp ứng nguyện vọng của nhân
dân.
Đảm bảo lợi ích dân tộc và giữ vững độc lập tự chủ có thể bao hàm ở
một số điểm chính như:
- Coi trọng lợi ích lâu dài do vậy nên đặt ngoại giao thành một mặt trận
góp phần bảo vệ độc lập, tự chủ, giữ vững hòa bình an ninh lâu dài, tạo mối
quan hệ hòa bình, tin cậy với cac nước láng giềng, “là bạn với tất cả các
nước”.
- Lợi ích dân tộc trong thời dựng nước là hòa bình; thời kháng chiến là
thắng kẻ thù; thời kỳ cả nước xây dựng phát triển thì đó phải là mở rộng quan
hệ hữu nghị hợp tác, tạo môi trương quốc tế hòa bình, thuận lợi cho công
cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
- Muốn giữ vững lợi ích dân tộc, ngoại giao phải giữ vững độc lập tự
chủ, muốn độc lập tự chủ phải nêu cao sức mạnh chính nghĩa dâm tộc. Sở dĩ
Việt Nam thắng kẻ thù xâm lược vì các cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc là
chính nghĩa. Năm 1978 ta đưa quan tình nguyện vàl giúp đỡ và giải phóng
Campuchia khỏi nạn diệt chủng Ponpốt, các lực lượng thù địch vu cáo ta xâm
lược Campuchia để cô lập Việt Nam với cộng đồng thế giới. Sau 10 năm
tuyen truyền vận động, các nước trên thế giới dần hiều đúng sự kiện
Campuchia, cùng với sự rút quân Việt Nam ra khỏi Campuchia, các nước trên
thế giới xích lại gần Việt Nam.
4
- Trong xu thế một thế giới mở, Việt Nam mở cửa để hòa nhập với khu
vực và thế giới nhưng “hòa nhập” chứ không “hòa tan”. Việt Nam vẫn giữ
được bản sắc dân tộc đặc biệtlà bản chất của chế độ XHCN trong liên kết khu

vực cũng như hợp tác quốc tế.
Hai là, nắm được xu thế và quy luật vận động của thế giới, kết hợp
giữa tư duy biện chứng với thực tiễn để hoạch định chính sách đối ngoại đổi
mới.
Hoạt động đối ngoại trước hết là sự kế tục của chính sách đối nội
nhưng thiếu sự đánh giá, dự báo chính xác của tình hình thế giới thì hiệu quả
sẽ bị hạn chế. Sự phát triển của tình hình thế giới và sự vận động của xu thế
thời đại liên quan chặt chẽ đến việc xác định đường lối, chủ trương đối ngoại.
Điều này là một vấn đề mang tính nghệ thuật cao trong sự nghiệp cách mạng
nói chung và trong hoạt động ngoại giao nói riêng.
Trong cách mạng giải phóng dân tộc, nhiều chủ trương, đường lối của
Đảng đã bán sát tình hình trong nước và thế giới nên đã giành được nhiều
thắng lợi.
Trong sự nghiệp đổi mới, nhờ nắm được xu thế của thời đại đó là xu
thế các dân tộc cuối cùng đều đi tới CNXH, trên cơ sơ những đặc điểm và xu
thế của thời đại đặc biệt là xu thế khu vực hóa, toàn cầu hóa ngày một gia
tăng, Việt Nam đã triển khai đường lối đối ngoại mở cửa, đa dạng hóa, đa
phương hóa, ưu tiên coi trọng quan hệ với các nước láng giềng và các nước
trong khu vực. Quan hệ với các nước lớn được coi trọng đồng thời mở rộng
quan hệ với các nước trong khu vực, đẩy nhanh qua trình hội nhập khu vực,
hội nhập thế gới, tranh thủ những điều kiện quốc tế thuận lợi, đẩy tới việc
CNH, HĐH đất nước.
Xu thế mở của là một xu thế không thể cưỡng lại đối với bất kỳ quốc
gia nào dù là phát triển hay chậm phát triển. Ngay từ khi Liên Xô lâm vào
khủng hoảng. Việt Nam đã chủ động chuyển đổi quan hệ kinh tế từ chỗ bao
5
cấp, viện trợ, cho vay sang phaoang thức trao đổi ngang giá, hai bên cùng có
lợi. Chính vì chủ động như vậy nên khi CNXH sụp đổ ở Đông Âu, Liên Xô
tan rã, Việt Nam không những không bị sụp đổ mà còn phát triển mạnh mẽ
hơn.

Nắm bắt được xu thế hòa bình của khu vưch và trên thế giới, Việt Nam
đã tạo dựng quan hệ hòa bình, hữu nghị với các nước láng giềng và các nước
trong khu vực để tạo ra môi trường quốc tế thuận lợi và thị trường để xây
dựng và bảo vệ đất nước.
Ba là, ngoại giao phải gắn được sức mạnh dân tộc với sức manh thời
đại để tạo ra sức mạnh tổng hợp, bảo đảm thắng lợi trong mọi giai đoạn của
đất nước.
Thắng lợi về ngoại giao phụ thuộc vào thực lực của đất nước, dưới sự
vận dụng khéo léo của con người. Ở Việt Nam, thời nào cũng gặp những khó
khăn to lớn, thới chiến thì kẻ thù thường mạnh hơn nhiều lần, thời bình thì các
đối tác có sức mạnh vật chất hơn hẳn. Để có thể vươn lên được, Việt Nam đã
kết hợp mọi lĩnh vực và hình thức hoạt động, huy động mọi lực lượng của đât
nước. đồng thời gắn sức mạnh đó với khả năng bên ngoài để nhân sức mạnh
lên gấp bội.
Trong chiến tranh, thắng lợi về chính trị và quân sự là nền tảng và cơ
sở để triển khai có hiệu quả hoạt động ngoại giao. Hoạt động ngoại giao hỗ
trợ, bổ sung điều kiện và trong những thời điểm nhất định tạo tiền đề cho đấu
tranh quân sự và đấu tranh chính trị dành thắng lợi. Qua hai cuộc kháng chiến
sự phối hợp trên ba mặt trận đã phát huy được các nhân tố tích cực trong nước
và trên quốc tế để tăng cường lực lượng, tạo cho mình một hậu phương rộng
lớn và vững mạnh, thu hẹp hâu phương địch, làm suy giảm lực lượng đối
phương. Mặt khác ngoại giao đã phối hợp chặt chẽ với hoạt động đối ngoại
của các đoàn thể nhân dân, các tổ chức chính trị - xã hội tranh thủ sự đồng
6
tình, ủng hộ rộng rãi vf sự giúp đỡ ngày càng to lớn của nhân dân thế giới với
cuộc chiến đấu của nhân dân ta.
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng Cộng sản
Việt Nam đã khẳng định loài người vẫn đang trong thời đại quá độ từ CNTB
lên CNXH. Xu thế thời đại chứng tỏ cách mạng Việt Nam đang phát triển
thuận chiều với lịch sử, tạo ra cho Việt Nam thêm sức mạnh vì sức mạnh của

dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại.
Trong bối cảnh CNXH bị thoái trào nhưng với truyền thống gĩ nước và
dựng nước trải qua hàng ngàn năm lịch sử lại có sự lãnh đạo sáng suất của
Đảng Cộng sản Việt Nam, Việt Nam vẫn kiên trì còn đường XHCN. Trong
điều kiện cuộc cách mạng khoa học thay đổi nhanh chóng bọ mặt của hành
tinh, Việt Nam thúc đẩy việc hội nhập khu vực và thế giới nhưng vẫn giữ
vững bản sắc dân tộc, vẫn đã bắt nhịp với sức mạnh thời đại, tạo cho Việt
Nam có thêm sức mạnh để tiến hành đổi mới giành thắng lợi.
Kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thười đại là một bài học kinh
nghiệm bao trùm của sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và thống nhất Tổ
Quốc. Đây cũng là bài học quan trọng của việc vận dụng tư duy biện chứng,
kết hợp cái chung, lấy cái chung tác động cái riêng, tạo nên thế và lực để
giành thắng lợi.
Hiện nay, Việt Nam đang tiến hành đổi mới thực hiện CNH, HĐH đất
nước trong điều kiện cuộc cách mạng khoa học – công nghệ đang phát triển
như vũ bão, đặc biệt sự tiến mạnh của công nghệ tin học, công nghệ sinh học,
công nghệ vật liệu mới…đang làm biến đổi nhanh chóng các mặt củacuả đời
sống xã hội. Đảng Cộng sản Việt Nam đã đổi mới tư duy đối ngoại, gắn bó
chặt chẽ ngoại giao về chính trị với ngoại giao kinh tế, mở rộng và tăng cường
sự hợp tác với các nước, tranh thủ các tiến bộ khoa học kỹ thuật và thế mạnh
của từng đối tác, đưa Việt Nam vào quỹ đạo chung của sự tiến hóa. Kết hợp
7
sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại là một tất yếu khách quan, là
vấn đề có tính quy luật của cách mạng Việt Nam.
Sự giúp đõ quốc tế là rất to lớn và quan trọng, là nhân tố đảm bảo thắng
lợi không thể thiếu được của cách mạng Việt Nam. Nhưng độc lập, tự chủ, tự
lực, tự chủ, tự cường không có nghĩa là đóng cửa khép kín, biệt lập với thế
giới bên ngoài, từ chối sự hợp tác và giúp đỡ của thế giới bên ngoài theo
nguyên tắc hai bên cùng có lợi, mà phải mở rộng cửa quan hệ các nước. Ngyà
nay, trong xu thế toàn cầu hóa, khu vực hó, không một nền kinh tế khép kín

nào có thể phát triển được. Gắn việc xây dựng kinh tế trong nhước với việc
thiết lập và mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài là một tất yếu khách
quan.
Đưa nền kinh tế Việt Nam tham gia vao kinh tế thế giới, tranh thủ sự
phát triển nhảy vọt của khoa học – công nghệ và tính quốc tế hóa đời sống
kinh tế thế giới để đầy nhănh công cuộc phát triển nhảy vọt của khoa học –
công nghệ và tính quốc tế hóa đời sống kinh tế thế giới để đẩy nhanh công
cuộc phát triển kinh tế đất nước là nhiệm vụ quan trọng của công tác đối
ngoại. Tranh thủ sự giúp đỡ nhiều mặt của quốc tế, các nước anh em, láng
giềng đưa nền kinh tế Việt Nam tham gia vào kinh tế thế giới, tranh thủ sự
phát triển nhảy vọt của khoa học - công nghệ và tính quốc tế hoá đời sống
kinh tế thế giới để đẩy nhanh công cuộc phát triển kinh tế đất nước là nhiệm
vụ quan trọng của công tác đối ngoại. Tranh thủ sự giúp đỡ nhiều mặt của
quốc tế, các nước anh em, láng giềng, bè bạn nhưng không trông chờ ỷ lại.
Điều quan trọng là chúng ta phải phát huy được "nội lực" thì sự giúp đỡ, hợp
tác quốc tế mới có hiệu quả để thúc đẩy đất nước phát triển. Việt Nam kết hợp
được sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại nhờ cuộc đấu tranh của
nhân dân Việt Nam luôn thuận chiều với xu thế phát triển của thời đại, với
quy luật của lịch sử, mục tiêu đấu tranh của Việt Nam luôn phù hợp với mục
tiêu đấu tranh của nhân dân thế giới.
8
Bốn là, kết hợp các mặt trận quân sự, chính trị, kinh tế và ngoại giao.
Để có sức mạnh giành được thắng lợi, Việt Nam đã kết hợp sức mạnh
dân tộc với sức mạnh thời đại tạo ra sức mạnh tổng hợp trong tất cả các thời
kỳ. Chỉ có kết hợp được sức mạnh thời đại trong điều kiện phát huy được sức
mạnh trong nước, phát huy được "nội lực". Ngoại giao Việt Nam phát huy
truyền thống dân tộc, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào tình hình trong
nước và hoàn cảnh quốc tế, phối hợp hành động trên tất cả các mặt trận để tạo
ra sức mạnh Việt Nam.
Việt Nam đã phối hợp mặt trận quân sự, chính trị, kinh tế và ngoại giao

trong đó ngoại giao có vai trò quan trọng, chủ động và tích cực. Từ thực tiễn
đấu tranh, quan điểm và sự phối hợp giữa các mặt trận với mặt trận ngoại giao
đã dần được xây dựng. Phối hợp được hoạt động giữa các mặt trận, tạo ra sức
mạnh tổng hợp sẽ kết hợp được sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
Trong khi giành độc lập và thống nhất, đấu tranh quân sự và chính trị
làm suy yếu địch về vật chất. Đấu tranh ngoại giao, bằng tác động của quan
hệ với bạn bè, với đối phương và quan hệ quốc tế, hỗ trợ lực lượng chính trị
và quân sự trong nước, duy trì, củng cố và phát triển để đưa cách mạng tiến
lên. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, Việt Nam phối hợp ba mặt trận quân
sự, chính trị, ngoại giao của cả hai miền, kéo Mỹ xuống thang từng bước,
chấm dứt ném bom miền Bắc, rút quân khỏi miền Nam Việt Nam và ký Hiệp
định Paris, rút quân Mỹ khỏi Việt Nam.
Nếu ngoại giao đứng riêng rẽ thì không thể thắng lợi được, điều quan
trọng là phải xây dựng, phát triển từng bước lực lượng chính trị, quân sự,
dùng ngoại giao hỗ trợ tiến trình đó.
Trong thời kỳ đổi mới, ngoại giao phải kết hợp giữa ngoại giao chính
trị với ngoại giao kinh tế, ưu tiên phát triển kinh tế, tạo mọi điều kiện thuận
lợi để tranh thủ hợp tác và viện trợ, mở rộng quan hệ thương mại
Trong thời kỳ 1986 - 2000 sự kết hợp giữa quân sự, chính trị, kinh tế
với ngoại giao thể hiện rõ nét ở việc giải quyết vấn đề Campuchia sau nghị
9
quyết 13 Bộ chính trị về đối ngoại, Việt Nam đã chủ động rút quân trước thời
hạn vào tháng 9-1989, tích cực đàm phán để giải quyết vấn đề Campuchia,
bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc, khai thông quan hệ với Mỹ trong
điều kiện kinh tế Việt Nam được khởi sắc trong đổi mới. Sự kết hợp giữa
chính trị, kinh tế, quân sự và ngoại giao ở đây đã đạt được hiệu quả rõ rệt.
Ngày nay việc thực hiện sự kết hợp đó là không thể thiếu được trong xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN.
Sự phối hợp giữa quân sự, chính trị, kinh tế và ngoại giao ngày càng
hoàn chỉnh, trên cơ sở một số khía cạnh:

- Sự phối hợp được thực hiện có hiệu quả trên cơ sở sự lãnh đạo của
Đảng nhất trí cao về đánh giá tình hình quốc tế và chủ trương đối ngoại, quán
triệt chủ trương đó trong các ngành, các cấp.
- Mục tiêu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là mục tiêu xuyên suốt chỉ đạo
việc định ra chủ trương, chính sách trong từng thời kỳ. Nắm chắc mục tiêu đó
sẽ không bị chệch hướng, nhất là trong mỗi bước ngoặt của lịch sử. Cần nắm
vững nhiệm vụ của từng mặt trận để bổ sung cho nhau.
- Thông qua thảo luận dân chủ để có những kết luận xác đáng, phát huy
khả năng của tất cả các lĩnh vực đối ngoại để có những quyết sách đúng đắn
và kịp thời.
Kết quả của hoạt động đối ngoại là sản phẩm của sức mạnh tổng hợp
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Việc kết hợp giữa ngoại giao
chính trị với ngoại giao kinh tế ngày nay nhằm tranh thủ được nhân tố quốc tế
giúp ta rút ngắn khoảng cách về kinh tế với các nước trong khu vực, thực hiện
mục tiêu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Năm là, ưu tiên coi trọng quan hệ với các nước láng giềng, các nước
cùng khu vực.
"Bán anh em xa, mua láng giềng gần" là câu châm ngôn phản ánh phổ
cập nhu cầu có quan hệ hữu hảo với láng giềng. Trong mỗi quốc gia, chính
sách đối với láng giềng khu vực được ưu tiên hàng đầu. Trong lịch sử Việt
10
Nam đã từng cố gắng xây dựng mối quan hệ láng giềng thân thiện với các
nước xung quanh, nhưng đáng tiếc là trước khi đổi mới ta chỉ chú trọng bạn
mà coi nhẹ quan hệ láng giềng nên quan hệ với một số nước trong khu vực
không suôn sẻ, thậm chí có lúc thù nghịch, đối đầu.
Do vị trí địa lý, Việt Nam có một nước láng giềng phương Bắc lớn hơn
mình nhiều lần, nước đó đã từng chinh phục và đồng hoá nhiều nước láng
giềng khác, đã từng cai trị nước Việt Nam trong gần 1000 năm. Trong kháng
chiến chống Pháp và chống Mỹ, Trung Quốc là một nước đồng minh chủ yếu
của Việt Nam, quan hệ hữu nghị láng giềng với Trung Quốc được Việt Nam

coi trọng. Việt Nam đã tranh thủ được sự ủng hộ giúp đỡ to lớn của Trung
Quốc trong hai cuộc kháng chiến. Điều đáng tiếc là đã xảy ra quan hệ không
bình thường giữa hai nước trong một thời gian. Vấn đề này có phần trách
nhiệm của phía Việt Nam trong đó có ngoại giao Việt Nam trong việc xử lý
quan hệ với các nước lớn. Điều đáng nói ở đây là mặc dù bất đồng sâu sắc
nhưng Việt Nam nên tận dụng tối đa những giải pháp mềm dẻo để giải quyết
bất đồng giữa hai nước trên cơ sở giữ vững nguyên tắc. Hiện nay quan hệ
giữa hai nước đã trở lại bình thường và đã phát triển sang một giai đoạn mới.
Việt Nam làm hết sức mình để khai thác những điểm đồng, hạn chế bất đồng,
giữ vững và phát triển quan hệ hữu nghị với Trung Quốc.
Một thành công lớn trong nền ngoại giao Việt Nam là đã xây dựng
được quan hệ hữu nghị, hợp tác đặc biệt với Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào.
Quan hệ giữa hai nước tiếp tục phát triển, ngày càng gắn bó trên mọi lĩnh vực
của đời sống xã hội. Và đây cũng là tiêu biểu cho chính sách coi trọng quan
hệ láng giềng, khu vực của ngoại giao Việt Nam.
Đối với Campuchia, trong hai cuộc kháng chiến, Việt Nam đã giúp đỡ
Campuchia về mọi mặt và cùng phối hợp chiến đấu góp phần giành thắng lợi
chung. Sau năm 1975, do sự tuyên truyền xuyên tạc và do có hậu thuẫn của
một số nước nên tập đoàn Pôn Pốt đã thực hiện chính sách thù địch chống
Việt Nam gây ra "vấn đề Campuchia" nặng nề suốt một thập kỷ. Ngày nay,
11
quan hệ hai nước đã trở lại bình thường, Việt Nam giữ vững quan điểm tiếp
tục khôi phục quan hệ láng giềng hữu nghị với Campuchia để giữ yên biên
giới phía Tây Nam Tổ quốc, tạo điều kiện quốc tế thuận lợi để đẩy mạnh
CNH, HĐH đất nước.
Với các nước Đông - Nam á, trong kháng chiến chống Pháp Việt Nam
đã tranh thủ mở rộng quan hệ sang phía Tây, lập cơ quan đại diện ở Thái Lan
và Miến Điện. Sau kháng chiến chống Mỹ, quan hệ Việt Nam với các nước
Đông - Nam á được bình thường hoá, do vấn đề Campuchia nên có sự đối đầu
một thời gian. Ngày nay, quan hệ bình thường giữa Việt Nam và các nước

ASEAN đã được khôi phục và được đẩy mạnh trên cả ba tầng nấc: với các
nước có chung biên giới, các nước Đông - Nam á, và các nước châu á - Thái
Bình Dương. Việt Nam đã trở thành thành viên Hiệp hội các nước Đông -
Nam á (ASEAN), đã tham gia tổ chức hợp tác kinh tế châu á - Thái Bình
Dương (APEC).
Tăng cường quan hệ với các nước láng giềng và các nước trong khu
vực, mở rộng quan hệ song phương và đa phương là phù hợp với xu thế liên
kết khu vực đang phát triển mạnh mẽ trên thế giới. Xu thế này được nảy sinh
từ nhu cầu liên kết để vừa tận dụng tiềm năng của từng khu vực, tranh thủ cơ
hội mới do quá trình toàn cầu hoá đem lại và ứng phó với những thách thức
mới nảy sinh. Xu thế này cũng phù hợp với Việt Nam vì Việt Nam có vị trí
địa - chính trị, địa - kinh tế quan trọng ở khu vực và từ đó có thể tiếp cận với
nhiều đối tác như Liên minh châu Âu (EU) thông qua cơ chế đối thoại
ASEAN - EU và dự các cuộc gặp cấp cao á - Âu (ASEM)
Từ kinh nghiệm quan hệ với các láng giềng trong những năm qua và
kinh nghiệm của thế giới chúng ta nên quan tâm tới một số khía cạnh:
- Hầu hết các nước trên thế giới đều có láng giềng, các nước này đều có
những điều kiện rất khác nhau, nên sống hoà hiếu với láng giềng dù có những
vấn đề lịch sử để lại không thuận lợi. Cần xác định rõ nguyên tắc như chính
sách đối ngoại của Việt Nam đã xác định là giải quyết các tranh chấp, bất
12
đồng bằng phương pháp hoà bình, đối thoại. Có những vấn đề do lịch sử để
lại cần phải giải quyết từng bước, tránh xảy ra đụng độ. Cần xây dựng quan
hệ hiện tại với các nước láng giềng cao đẹp hơn quan hệ trong lịch sử, như
sẵn sàng giúp đỡ lẫn nhau lúc khó khăn hoạn nạn, giúp đỡ nhau chứ không
can thiệp vào công việc nội bộ của nhau trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ
quyền, toàn vẹn lãnh thổ, bình đẳng, cùng có lợi.
- Quan hệ với các nước láng giềng, kể cả các nước cùng khu vực phải
được coi là nhiệm vụ chiến lược, là mối quan tâm hàng đầu trong chính sách
đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta. Quan hệ láng giềng có thể ví như răng

với môi, "môi hở răng lạnh". Quan hệ đối ngoại trước hết là đối với các nước
láng giềng, khu vực vì quan hệ này luôn trực tiếp ảnh hưởng đến hoà bình, an
ninh và phát triển của nước ta, tạo môi trường thuận lợi hay không thuận lợi
trực tiếp cho ta. Nếu quan hệ hữu nghị, thân thiện với láng giềng thì sức mạnh
của ta được nhân lên, nếu bất đồng thì sức mạnh đó bị chia sẻ và sẽ bị các lực
lượng thù địch dòm ngó, chia rẽ. Để quan hệ láng giềng tốt đẹp bền vững, lâu
dài nên không chỉ quan hệ hữu nghị về chính trị mà phải phát triển quan hệ về
nhiều mặt, trong đó phải hợp tác kinh tế - thương mại, văn hoá toàn diện, để
quan hệ láng giềng khu vực hội nhập với xu thế liên kết khu vực và liên kết
quốc tế hiện nay.
Sáu là, xử lý đúng đắn mối quan hệ với các nước lớn và trung tâm
chính trị - kinh tế lớn, đặc biệt là có chính sách cân bằng quan hệ với các
nước lớn.
Việt Nam là một nước có vị trí địa - chính trị, địa - kinh tế quan trọng ở
khu vực Đông - Nam á. Là một quốc gia tầm trung của thế giới với vai trò
ngày càng có trọng lượng hơn nên không thể giải quyết các vấn đề ở Đông -
Nam á mà thiếu Việt Nam. Hơn nữa Đông - Nam á lại là một bộ phận quan
trọng của châu á - Thái Bình Dương.
Vì có vị trí địa lý quan trọng về kinh tế và quân sự nên trong lịch sử
nhiều nước lớn đã tìm cách chia sẻ lợi ích ở Việt Nam. Ngày nay khi xu thế
13
hòa bình, ổn định và hợp tác để phát triển ngày càng trở thành đòi hỏi bức xúc
giữa các dân tộc và quốc gia trên thế giới thì thị trường Việt Nam ngày càng
được coi trọng đối với các nước lớn trên thế giới.
Với Mỹ, sau sự sụp đổ của Đông Âu và Liên Xô, Mỹ chủ trương thiết
lập trật tự thế giới một cực trong đó Mỹ chuyển từ vai trò thống trị thế giới
sang lãnh đạo thế giới. Mỹ liên tục điều chỉnh chiến lược toàn cầu và từ
tháng 12-1999, Văn phòng nhà trắng công bố "chiến lược an ninh quốc gia
cho thế kỷ mới". Theo tác giả Minh Thư (Thông tin công tác tư tưởng số 4-
2000) thì về Việt Nam phía Mỹ cho rằng: "Chúng ta đang tiến tới hoàn tất

một thoả thuận thương mại rộng rãi với Việt Nam nhằm mở cửa thị trường và
thúc đẩy cải cách kinh tế, đồng thời cho phép chúng ta thực hiện quan hệ
thương mại bình thường với Việt Nam
(1)
. Lợi ích của Mỹ ở Việt Nam trong xu
thế toàn cầu hoá trước hết là lợi ích về kinh tế. Thị trường Việt Nam với dân
số đứng thứ 14 trên thế giới, là một thị trường đầy tiềm năng. Hận thù với
Việt Nam trong lịch sử, Mỹ muốn bẻ gãy ý chí độc lập, tự chủ của dân tộc
này bằng việc tăng cường "Diễn biến hoà bình". Hiện nay ở châu á - Thái
Bình Dương đang diễn ra một sự tập hợp lực lượng mới. Mỹ đang củng cố và
nâng cấp các liên minh quân sự, thi hành chiến lược vừa dính líu vừa kiềm
chế các đối thủ chủ yếu là Nga và Trung Quốc nhằm thực hiện vai trò lãnh
đạo của Mỹ. Sự dính líu của Mỹ ở Việt Nam đem lại lợi ích cho Mỹ và nếu
chi phối được Việt Nam, Mỹ tạo ra thêm gọng kìm để bao vây Trung Quốc,
kiềm chế các liên minh quân sự ở châu á - Thái Bình Dương.
Với Trung Quốc, là nước có chung hệ tư tưởng XHCN, đang cải cách
mở cửa, cùng xây dựng nền kinh tế thị trường XHCN Trung Quốc chủ
trương xây dựng một trật tự thế giới đa cực trong đó Trung Quốc là một cực.
Việt Nam và Trung Quốc đã thống nhất nguyên tắc quan hệ Việt - Trung sẽ
phát triển theo tinh thần 16 chữ: "Láng giềng hữu nghị; hợp tác toàn diện; ổn
định lâu dài; hướng tới tương lai". Gần đây hai nước đã ký Hiệp định hoạch
(1)
T p chí Thông tin công tác t t ng, s 4-2000, tr. 18.ạ ư ưở ố
14
định phân định Vịnh Bắc Bộ, Hiệp định Hợp tác nghề cá ở Vịnh Bắc Bộ 925-
12-2000) nhằm ổn định biên giới giữa hai nước. Trung Quốc không muốn có
một Việt Nam chịu ảnh hưởng của Mỹ, đe doạ an ninh của Trung Quốc, Việt
Nam là một thị trường láng giềng với sức múa đang lên được Trung Quốc
ngày càng chú ý. Một Việt Nam ổn định thì sẽ có lợi cho Trung Quốc phát
triển.

Với Nga, là nước kế thừa kế hợp pháp Liên Xô cũ, nước Nga đã thức
tỉnh và đang tìm cách lấy lại vị trí cường quốc của mình. Một thị trường Việt
Nam quen thuộc với đông đảo đội ngũ những người đã học tập, công tác tại
Liên Xô cũ, Nga muốn thông qua Việt Nam để đi vào Đông - Nam á. Nước
Nga khẳng định quan điểm của mình qua ý kiến của SCHEGOLEV V.S -
Trưởng đại diện thương mại Liên bang Nga, tại lễ kỷ niệm 50 năm ngày thiết
lập quan hệ ngoại giao: "Tôi muốn nhấn mạnh rằng mối quan tâm của Nga
đối với thị trường Việt Nam vẫn không hề thay đổi. Về phía nước Nga thị
trường luôn mở rộng cho các nhà kinh doanh Việt Nam"
(1)
.
Với EU, để trở thành một cực trong thế giới đa cực, EU đang ráo riết
tăng cường thực lực kinh tế, quân sự của mình. Quan hệ giữa EU và Việt
Nam có nhiều thuận lợi từ khi Việt Nam đổi mới. Khi Việt Nam chưa ký hiệp
định thương mại với Mỹ thì quan hệ kinh tế thương mại Việt Nam - EU thiếu
vắng một đối thủ cạnh tranh mạnh. Và như vậy thị trường Việt Nam là một thị
trường bậc trung mà EU không thể coi thường.
Với Nhật Bản, chính sách "quay về châu á" trong đó Đông - Nam á là
một trọng điểm chiến lược, Nhật Bản muốn hợp tác toàn diện với Việt Nam.
Nhật Bản là bạn hàng lớn nhất của Việt Nam. Nhật Bản là bạn hàng lớn nhất
của Việt Nam về mậu dịch, đứng thứ 4 sau Singapo, Đài Loan, Hồng Kông về
đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (tính đến năm 1997). Chính phủ Nhật Bản
ủng hộ mạnh mẽ công cuộc đổi mới của Việt Nam, tiếp tục tăng viện trợ
ODA, giảm lãi suất cho Việt Nam, sẵn sàng giúp Việt Nam tạo nguồn nhân
(1)
SCHEGOLEV V.S: Nh ng tri n v ng c a quan h h p tác kinh t th ng m i Vi t - Nga s d tr. 12.ữ ể ọ ủ ệ ợ ế ươ ạ ệ đ
15
lực, giúp các công ty Nhật Bản đầu tư vào Việt Nam. Và như vậy Nhật Bản
tạo được chỗ đứng vững chắc trên thị trường Việt Nam, cạnh tranh mạnh mẽ
với các nước lớn khác.

Sau khi cuộc chiến bằng bạo lực đã lùi xa thì cuộc chiến kinh tế đang
diễn ra quyết liệt tại Việt Nam giữa các nước lớn. Dù hình thức nào thì mục
tiêu của các nước lớn đều nhằm thu được nhiều lợi ích ở một quốc gia giàu
tiềm năng đang phát triển này. Cân bằng quan hệ các nước lớn là một ưu tiên
trong chiến lược đối ngoại của Việt Nam. Rút kinh nghiệm của quá khứ Việt
Nam không chủ trương đi với nước này để chóng nước khác nhưng điều đó
không có nghĩa là quan hệ với các nước lớn trên cơ sở đồng đều nhau vì lợi
ích của các nước lớn đối với Việt Nam không giống nhau. Một điều đáng lưu
ý là trong các mối quan hệ thì quan hệ với Trung Quốc là quan trọng nhất.
Xung đột về lợi ích với Trung Quốc không chỉ là kinh tế, thương mại mà còn
là vấn đề biên giới, lãnh thổ, hải phận, không phận. Mặc dù Trung Quốc đã ký
hiệp định hoạch định biên giới trên bộ nhưng việc phân định cụ thể trên thực
địa còn là một vấn đề hợp tác và đấu tranh lâu dài. Vấn đề đặt ra là Việt Nam
không nên để rơi vào tình trạng các nước lớn buộc phải lựa chọn Việt Nam
hoặc Trung Quốc.
Những kinh nghiệm nêu trên chỉ có hiệu quả nếu biết kết hợp giữa giữ
vững nguyên tắc chiến lược với mềm dẻo trong sách lược "dĩ bất biến, ứng
vạn biến" như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy. Đây vốn là phương châm xử lý
linh hoạt trong các hoạt động đối ngoại của người á Đông, phương châm ấy
được cha ông ta vận dụng nhuần nhuyễn và được Chủ tịch Hồ Chí Minh nâng
lên thành nghệ thuật.
Truyền thống này càng có ý nghĩa quan trọng trong khi bối cảnh quốc
tế diễn ra rất phức tạp, khi phong trào cách mạng thế giới (mà Việt Nam là
một bộ phận) đang trong thời kỳ thoái trào, nên việc vận dụng sách lược nhiều
khi có ý nghĩa chiến lược. Cái "bất biến" của Việt Nam là độc lập dân tộc gắn
liền với CNXH, còn cái "biến" thì muôn hình vạn trạng. Ví dụ gần đây khi
16
Việt Nam chịu tác động nặng nề của cuộc khủng hoảng tài chính, tiền tệ châu
á, đầu tư nước ngoài giảm, tăng trưởng kinh tế giảm, ngoài những biện pháp
phát huy nội lực, kích thích nhu cầu trong nước là rất quan trọng, chúng ta

vẫn chú ý khai thác khả năng có thể có được của yếu tố bên ngoài. Đó là việc
chúng ta đã tích cực trong đàm phán để đi đến sớm ký kết hiệp định thương
mại với Mỹ. Như vậy, Việt Nam sẽ có quan hệ thương mại bình thường với
tất cả các nước lớn và các trung tâm chính trị kinh tế hàng đầu của thế giới.
Đây là yếu tố quan trọng để thu hút đầu tư nước ngoài và kích cầu trong nước
nhưng cũng sẽ tạo ra những điều kiện mới để Mỹ và các thế lực thù địch tăng
cường "cường biến hoà bình" Việt Nam. Giữ vững nguyên tắc chiến lược,
mềm dẻo trong sách lược là vấn đề mang tính nghệ thuật cao, vận dụng thành
công hay không là tuỳ thuộc vào bản lĩnh và trí tuệ của người làm công tác ngoại
giao.
2. Mấy đề xuất về đối sách của Việt Nam hiện nay
Chính sách đối ngoại của Việt Nam trong những năm tới đứng trước
những thời cơ và thách thức mới, đặt ra những nhiệm vụ chính trị to lớn và
đặc biệt quan trọng, nếu thực hiện được sẽ tạo sức bật lớn để Việt Nam tiếp
tục hội nhập với khu vực và thế giới.
Việt Nam phải phấn đấu ngăn chặn đà giảm sút về tốc độ tăng trưởng
kinh tế, hoàn thành ở mức cao nhiệm vụ kinh tế - xã hội, nâng cao chất lượng
và hiệu quả, sức cạnh tranh của sản phẩm hàng hoá Việt Nam. Ngoại giao
Việt Nam phải góp phần mở rộng hợp tác quốc tế đi đôi với phát huy cao độ
nội lực, tạo đà đưa đất nước chuyển sang giai đoạn phát triển mạnh mẽ trong
thế kỷ XXI và thiên nhiên kỷ mới.
Trong những năm tới, thời cơ và thách thức đan xen nhau và đều rất
lớn.
Thuận lợi cơ bản là tình hình chính trị ổn định, kinh tế - xã hội vẫn có
tăng trưởng, nhân dân đồng tình cao, ủng hộ và hưởng ứng chủ trương, chính
sách đổi mới, thế và lực của nước ta sau những năm đổi mới mạnh hơn. Trước
17
uy tín quốc tế ngày càng tăng, chúng ta đang tìm tòi và áp dụng những chính
sách và cơ chế mới, đúng đắn và thông thoáng đã tạo điều kiện tốt hơn cho
đầu tư và phát triển, trên cơ sở đó nhất định sẽ xuất hiện nhiều nhân tố mới,

những điển hình tiên tiến trong các lĩnh vực của đời sống xã hội, phong trào
thi đua yêu nước, xây dựng đời sống văn hoá và nhiều phong trào quần chúng
được đẩy mạnh là động lực quan trọng của công cuộc đổi mới.
Thuận lợi là cơ bản nhưng những thách thức cũng rất to lớn cả ở trong
nước và trên thế giới.
- Chưa có sự vững chắc trong tăng trưởng kinh tế, phần nhiều doanh
nghiệp làm ăn kém hiệu quả, sức cạnh tranh thấp, chưa sẵn sàng hội nhập,
nguy cơ tụt hậu so với khu vực ngày càng rõ; cơ chế quản lý chưa thật hợp lý
hạn chế sự phát triển, tác động đến tư tưởng cán bộ, nhân dân làm cho tâm
trạng xã hội diễn biến phức tạp; những bức xúc nổi cộm về đời sống, việc
làm, đất đai, về tệ nạn xã hội, về dân chủ cơ sở, những diễn biến phức tạp của
thiên tai xã hội còn tiềm ẩn những nhân tố có thể gây mất ổn định, dễ dẫn
đến những phản ứng tập thể lan rộng và kéo dài.
- Tư tưởng thường trực của ta trong khi mở rộng hội nhập quốc tế, và
thực hiện kinh tế thị trường thì phải giữ cho sự phát triển của đất nước đúng
định hướng XHCN; đồng thời phải tăng cường bản lĩnh cách mạng và bản
chất giai cấp của Đảng, giữ vững khối đại đoàn kết toàn dân; vấn đề tôn giáo,
dân tộc rất nhạy cảm, kẻ thù thường dễ lợi dụng để kích động, chia rẽ. Hoà
bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế chính, chi phối đời sống quốc tế,
nhưng chiến tranh xung đột vũ trang vẫn tiếp diễn, ngày càng tăng mức độ
gay gắt, phức tạp, khó lường. Sự áp đặt, đe doạ kinh tế của các nước lớn đối
với các nước chậm phát triển là mối lo ngại lớn. Các thế lực thù địch tăng
cường hoạt động thực hiện âm mưu "Diễn biến hoà bình" kết hợp với tấn
công bạo loạn lật đổ khi có điều kiện, đồng thời đẩy mạnh kích động sự ly
khai các quốc gia để dễ bề thao túng, giật dây. Vấn đề môi trường, dịch bệnh,
thiên tai nghiêm trọng, diễn biến phức tạp chưa lường hết đối với toàn cầu tác
18
động mạnh mẽ đến các nước đang phát triển. Bao trùm lên tất cả những khó
khăn, thách thức trên là nguy cơ tụt hậu về kinh tế, khoa học - công nghệ.
Chính sách đối ngoại đổi mới qua các Đại hội của Đảng khẳng định chủ

trương đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ quốc tế, là bạn với tất cả các
nước trong đó ưu tiên phát triển quan hệ với các nước láng giềng, trong khu
vực, với các nước bạn bè truyền thống, coi trọng quan hệ với các nước phát
triển và các trung tâm kinh tế - chính trị trên thế giới Chính sách này đã thu
được một số thành tựu quan trọng về đối ngoại nhưng trong tình hình hiện
nay muốn trở thành đối tác tin cậy cần phải cụ thể hơn, thiết thực hơn.
Một là, về một số quan hệ trọng điểm.
- Với Lào, quan hệ hữu nghị đặc biệt đã được xây dựng từ trong lịch sử
chống thực dân, đế quốc ngày nay để củng cố và phát triển vững chắc quan hệ
này cần phải thúc đẩy hợp tác toàn diện nhất là về kinh tế và an ninh quốc
phòng. Hợp tác kinh tế phải khai thác được điểm mạnh của Lào về tiềm năng
lâm sản, đất đai, nhân công chỉ có hợp tác có hiệu quả mới giữ vững được
quan hệ hữu nghị đặc biệt. Có thể tăng cường hợp tác chặt chẽ hơn nữa về an
ninh quốc phòng, chống "Diễn biến hoà bình" của các thế lực thù địch nhằm
chia rẽ Lào với Việt Nam để lôi kéo Lào đi theo con đường TBCN.
- Với Trung Quốc, hợp tác Việt Nam - Trung Quốc trên cơ sở vừa hợp
tác, vừa cạnh tranh. Việt Nam đã ký Hiệp định hoạch định biên giới trên bộ
và Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ với Trung Quốc nhưng việc giải quyết
trên thực địa còn nhiều khó khăn và kéo dài. Để bảo vệ chủ quyền Việt Nam
cần phải tăng cường lực và thế, kết hợp giữa đấu tranh ngoại giao với đấu
tranh trên thực địa để giữ vững chủ quyền biên cương Tổ quốc. Đàm phán để
phân định biển Đông là vấn đề khó khăn, phức tạp, do vậy chúng ta phải giữ
vững nguyên tắc chiến lược, mềm dẻo trong sách lược. Chúng ta phải ra sức
hợp tác toàn diện dưới nhiều hình thức đồng thời kiên quyết đấu tranh với
những hành động vi phạm chủ quyền, lãnh thổ của nước ta, tranh thủ diễn đàn
ASEAN tạo tiếng nói chung. Trước khi Hiệp định hoạch định biên giới trên
19
bộ và trên Vịnh Bắc Bộ có hiệu lực trên thực địa Việt Nam phải quản lý chặt
chẽ biên giới lãnh thổ và lãnh hải Việt Nam, đẩy lùi những hiện tượng lấn
chiếm của phía Trung Quốc gây khó khăn bất lợi cho ta. Xây dựng đội ngũ

cán bộ có quan hệ với Trung Quốc từ Trung ương đến địa phương mạnh về
lập trường tư tưởng, kiến thức kinh tế, trình độ nghiệp vụ vững vàng, có kinh
nghiệm và đạo đức để vừa phát triển quan hệ với bạn vừa bảo vệ lợi ích của
đất nước, dân tộc. Chúng ta phải chủ động, sáng tạo, linh hoạt trong quan hệ
với Trung Quốc vì Trung Quốc đặt trọng tâm ở các nước lớn và ưu tiên hàng
đầu cũng là các nước lớn, các nước láng giềng chỉ là phần phụ trợ ở cấp địa
phương. Các hạng mục đầu tư của Trung Quốc vào Việt Nam thường là kỹ
thuật không cao, chủ yếu là cải tạo, sửa chữa các công trình viện trợ trước
đây, đầu tư vào các lĩnh vực mới gặp khó khăn. Việt Nam phải khai thác thế
mạnh của Trung Quốc. Trung Quốc là một thị trường có tiềm năng to lớn về
hàng hoá và kỹ thuật, có khả năng hỗ trợ cho Việt Nam trong xây dựng cơ sở
hạ tầng giao thông vận tải, năng lượng, nông nghiệp. Việt Nam có thể cung
cấp cho Trung Quốc nguyên - nhiên liệu phục vụ cho công nghiệp, là cửa ngõ
để Trung Quốc mở rộng buôn bán với Đông - Nam á. Thị trường Trung Quốc
không khó tính như các thị trường khác, lại gần nên chi phí lưu thông thấp, do
vậy chúng ta cần phải nghiên cứu để khai thác, các hàng hoá nhập khẩu của
Trung Quốc cần phải đưa vào các hạng chính ngạch, được các cơ quan
chuyên môn quản lý, tránh nhập những hàng mà Việt Nam sản xuất được.
Nâng cấp những hàng Việt Nam có thể xuất khẩu được, cải tiến cơ cấu mẫu
mã, giá thành để có thể thâm nhập thị trường Trung Quốc. Như vậy, quan hệ
với Trung Quốc cốt lõi phải vì lợi ích kinh tế trên cơ sản phẩm lợi ích an ninh,
quốc phòng. Có như vậy quan hệ hai nước mới phát triển bền vững, tốt đẹp.
- Với Campuchia, Việt Nam thúc đẩy hợp tác toàn diện với Campuchia
vì đây là một thị trường láng giềng, là một trọng điểm Việt Nam cần phải tăng
cường quan hệ. Thúc đẩy việc đàm phán để phân định biên giới trên bộ, trên
biển để góp phần xây dựng được một khu vực hoà bình, ổn định, phồn vinh
20
trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau, giải quyết
vấn đề bất đồng thông qua thương lượng hoà bình.
- Với Liên bang Nga, là một nước lớn đồng thời lại là nước bạn bè

truyền thống nên phải xác định đây là quan hệ quan trọng. Thời gian vừa qua
do chưa nhận thức được tầm quan trọng trong việc tăng cường quan hệ trở lại
với Nga nên đã có một thời kỳ quan hệ giữa hai bên, nhất là quan hệ kinh tế
thương mại không tương xứng với tiềm năng của hai nước. Ngày nay, chúng
ta xác định việc tăng cường quan hệ với Nga là góp phần ổn định hoà bình
khu vực và trên thế giới nên trong thời gian tới quan hệ với Nga cần phải
được thúc đẩy về mọi mặt. Mặt khác một nước Nga đang đi dần vào thế ổn
định, lấy lại vị thế cường quốc cũng tạo điều kiện cho quan hệ Việt - Nga đi
vào chiều sâu. Tăng cường quan hệ với Nga giúp cho Việt Nam có quan hệ
cân bằng hơn với cả các nước lớn. Giữa Việt Nam và Nga không có xung đột
nào về lợi ích dù là chiến lược hay là lãnh thổ biên giới, Việt Nam có thể còn
là cầu nối giữa Nga và Đông - Nam á và thực tế hiện nay Việt Nam đang là
đại diện cho ASEAN trong đối ngoại với Nga. Ngoài những hợp tác kinh tế
thương mại là rất cần thiết cho quan hệ Việt - Nga thì trong quan hệ Việt -
Nga, Việt Nam là một quốc gia hàng đầu ở Đông - Nam á về đội ngũ các nhà
khoa học và giáo dục được đào tạo ở Nga. Văn hoá Nga rất gần gũi với Việt
Nam và người Nga rất gần gũi với người Việt Nam. Đã đến lúc hai bên cần
phải phát huy những điểm mạnh của mình, hợp tác toàn diện trên cơ sở hai
bên cùng có lợi vì lợi ích của mỗi bên là lợi ích của khu vực và thế giới.
- Với Mỹ, quan hệ kinh tế - thương mại Việt - Mỹ từ khi bình thường
hoá đến nay quan hệ có sự phát triển. Mỹ chủ trương thúc đẩy bình thường
hoá quan hệ thương mại với Việt Nam . Đối với chúng ta quan hệ với Mỹ là
không thể thiếu được nhưng chúng ta phải giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn
vẹn lãnh thổ và định hướng XHCN. Đó là lập trường cơ bản của Việt Nam
trong quan hệ với Mỹ.
21
Ngoài ra quan hệ với EU, Nhật Bản, ấn Độ tiếp tục được quan tâm,
củng cố và phát triển, quan hệ với Cu Ba, Cộng hoà dân chủ nhân dân Triều
Tiên; tăng cường hoạt động ở các tổ chức đa phương để phát huy sức mạnh
tổng hợp, thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.

Hai là, giữ vững sự lãnh đạo của Đảng trên các lĩnh vực đối ngoại.
- Đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ đối ngoại, mở rộng hoạt động
đối ngoại trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, khoa học - kỹ thuật, văn hoá,
giáo dục, y tế, quân sự, an ninh với một số nước nhưng phải quán triệt tư
tưởng chỉ đạo chính sách đối ngoại, vận dụng phương châm xử lý và phải giữ
vững nguyên tắc đối ngoại của Việt Nam.
Mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế với các nước, các tổ chức quốc tế, khu
vực trên nguyên tắc giữ vững độc lập, chủ quyền, bình đẳng, cùng có lợi.
Trong quan hệ Việt Nam phải phát huy tinh thần độc lập, tự chủ, không ỷ lại
vào bên ngoài, phát huy nội lực để tranh thủ và sử dụng có hiệu quả nguồn
lực bên ngoài. Củng cố và tăng cường thị trường quan thuộc và quan hệ với
các bạn hàng truyền thống, Việt Nam tích cực tìm thị trường mới, bạn hàng
mới nhất là thị trường Mỹ.
Có chính sách thích hợp về xuất, nhập khẩu, hợp tác, đầu tư để không
bị lệ thuộc vào nước ngoài, nhất là các nước lớn.
- Mở rộng quan hệ quốc tế của Đảng, để tạo hậu thuẫn chính trị quốc tế
cho công cuộc đổi mới, cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN,
tạo điều kiện mở rộng quan hệ về mặt Nhà nước và mở rộng hoạt động đối
ngoại nhân dân.
Trước hết Đảng Cộng sản Việt Nam coi trọng quan hệ với các Đảng
Cộng sản, công nhân, các phong trào độc lập dân tộc, các tổ chức cách mạng,
dân chủ, tiến bộ bằng hình thức ủng hộ về chính trị, giúp đỡ về kinh nghiệm
đấu tranh cách mạng theo mức độ và khả năng của mình.
Đảng Cộng sản Việt Nam mở rộng quan hệ với một số đảng dân chủ -
xã hội và với quốc tế xã hội trên cơ sở phấn đấu vì hoà bình, phát triển và tiến
22
bộ xã hội vì lợi ích dân sinh, dân chủ của giai cấp công nhân nhưng không
làm ảnh hưởng xấu tới quan hệ với các Đảng Cộng sản và công nhân nước
này, ngăn ngừa ảnh hưởng tiêu cực của chủ nghĩa dân chủ - xã hội.
Đảng Cộng sản Việt Nam duy trì và quan hệ có chọn lọc với một số

đảng tư sản cầm quyền hoặc tham gia cầm quyền nhằm thúc đẩy quan hệ về
mặt Nhà nước với những nước này.
- Mở rộng hoạt động đối ngoại nhân dân
Việt Nam mở rộng quan hệ với các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ
chức quần chúng, xã hội - nghề nghiệp và các tổ chức phi Chính phủ ở các
nước, thúc đẩy các hoạt động đoàn kết hữu nghị với Việt Nam, ủng hộ sự
nghiệp đấu tranh chính nghĩa của nhân dân các nước, tranh thủ sự viện trợ về
vật chất và kỹ thuật có thể được của các tổ chức phi Chính phủ quốc gia và
quốc tế, từ các nguồn ngoài Liên Hợp Quốc. Việt Nam góp phần đổi mới và
đẩy mạnh các hoạt động của các tổ chức dân chủ quốc tế để giữ gìn hoà bình,
độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
- Tăng cường công tác thông tin đối ngoại
Coi trọng công tác thông tin đối ngoại, nâng cao hiệu quả và chất lượng
của công tác này, nội dung hướng vào việc giới thiệu đất nước, con người và
tiềm năng hợp tác và đầu tư của Việt Nam. Công tác thông tin đối ngoại cần
giới thiệu về công cuộc đổi mới và chính sách đối ngoại rộng mở, đa dạng
hoá, đa phương hoá quan hệ đối ngoại của Việt Nam. Trong quá trình tuyên
truyền về Việt Nam cần giải quyết tốt mối quan hệ giữa yêu cầu tranh thủ sự
hợp tác quốc tế vì lợi ích hoà bình, ổn định của Việt Nam với yêu cầu đấu
tranh trên mặt trận dư luận nhằm bảo vệ độc lập, chủ quyền của Việt Nam.
Giữa việc giáo dục nội bộ và công khai tuyên truyền cần thực hiện theo
phương châm trong nội bộ cần nói rõ quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà
nước Việt Nam nhưng khi tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại
chúng phải có cách thực hiện thích hợp để phục vụ tốt yêu cầu đối ngoại.
23
- Giữ vững sự lãnh đạo của Đảng, sự thống nhất quản lý của Nhà nước
về công tác đối ngoại
Việt Nam thực hiện chính sách đổi mới để xây dựng CNXH trong điều
kiện tình hình trong nước và quốc tế có những thuận lợi cơ bản như Việt Nam
đã độc lập, thống nhất, tiến hành công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc

XHCN dưới sự lãnh đạo độc quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam. Con đường
Việt Nam lựa chọn thuận chiều với xu thế phát triển của lịch sử. Bên cạnh đó
cũng gặp những khó khăn to lớn như xuất phát điểm lạc hậu, lại bị tàn phá
trong chiến tranh, trong khi CNXH bị sụp đổ ở Liên Xô và Đông Âu, chủ
nghĩa đế quốc ra sức thực hiện mưu đồ "Diễn biến hoà bình" hòng đưa Việt
Nam đi vào quỹ đạo TBCN
Trong những điều kiện như vậy, sự nghiệp đổi mới của Đảng Cộng sản
Việt Nam trong đó có đổi mới về chính sách đối ngoại đã giành được thắng
lợi bước đầu. Một nguyên nhân sâu xa là Việt Nam đã giữ vững định hướng
XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Đó là nhân tố quyết định bảo
đảm mọi thắng lợi của cách mạng, là nhân tố đảm bảo định hướng XHCN ở
Việt Nam. Trước đây các Đảng Cộng sản và công nhân đã rút ra kết luận này
và coi đây là vấn đề có tính nguyên tắc, có tính quy luật của cách mạng
XHCN. Sự sụp đổ của các nước XHCN Đông Âu và sự tan rã của Liên Xô đã
khẳng định lại nhân tố này. Chuyến thăm của Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu sang
Trung Quốc gần đây, khi hội đàm riêng, đồng chí Giang Trạch Dân nói dứt
khoát phải kiên trì vai trò lãnh đạo của Đảng, vai trò lãnh đạo của một Đảng
chứ không phải đa đảng. Do vậy, phát triển kinh tế là trung tâm nhưng giữ
vững sự lãnh đạo của Đảng là then chốt. Việt Nam đang xây dựng CNXH
trong một bối cảnh rất phức tạp. Đó là mở cửa, đa dạng hoá, đa phương hoá,
phát triển các thành phần kinh tế, áp dụng cơ chế thị trường tạo ra nền kinh
tế phát triển, có hiệu quả, năng động, sáng tạo, nhưng có nhiều vấn đề mới đặt
ra. Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ thế giới ngày càng phát triển như
vũ bão và dự kiến sang thế kỷ XXI, cuộc cách mạng này tiếp tục phát triển
24
mạnh mẽ hơn, đó là tin học, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới,
Thế giới đang nói đến "một nền kinh tế tri thức", "kinh tế số", "kinh tế mạng"
đó là một nền kinh tế trí tuệ rất cao. Trong nền kinh tế đó, muốn giữ vững vai
trò lãnh đạo, Đảng phải luôn chỉnh đốn và tự đổi mới phù hợp với yêu cầu của
thực tiễn.

Trên thế giới cuộc đấu tranh giữa CNXH và CNTB, phong trào cộng
sản, công nhân quốc tế chống lại các lực lượng thù địch đang diễn ra sâu sắc,
quyết liệt. Các nước XHCN, các Đảng Cộng sản và công nhân, các lực lượng
tiến bộ trên thế giới đang kiên trì đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân
chủ và tiến bộ xã hội. Tuy vậy, CNXH thế giới đang khủng hoảng, cách mạng
thế giới đang bị thoái trào. Các thế lực tư bản đang thừa cơ xông lên tiến công
vào CNXH, vào phong trào cách mạng. Việt Nam xây dựng CNXH trong một
tình thế hết sức khó khăn, chủ nghĩa đế quốc đứng đầu là Mỹ dường như đang
thắng thế, đang muốn đóng vai trò lãnh đạo thế giới, đang chi phối nhiều hoạt
động của thế giới. Mỹ tự cho mình cái quyền can thiệp vào bất cứ đâu như
Irắc, Côxôvô Việt Nam chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần trong
đó có sử dụng cả yếu tố của CNTB để xây dựng CNXH, sử dụng kinh tế thị
trường nhưng đi lên CNXH, tăng trưởng kinh tế nhưng phải giữ công bằng xã
hội, phát triển nhưng phải bền vững, mở cửa hội nhập nhưng phải giữ gìn bản
sắc dân tộc một loạt vấn đề đặt ra như là nghịch lý, tưởng như mâu thuẫn vì
vậy càng phải giữ vững sự lãnh đạo của Đảng.
Mặt khác, sự tiến công phá hoại của các thế lực thù địch bằng nhiều
biện pháp trong đó có chiến lược "Diễn biến hoà bình". Các lực lượng thù
địch và bọn phản động lưu vong đang triệt để khai thác các điều kiện phức tạp
do cuộc khủng hoảng tiền tệ khu vực gây sức ép để chuyển hoá nội bộ, sử
dụng kinh tế làm điều kiện để áp Việt Nam thay đổi về chính trị Mỹ thay
chiến lược "vượt trên ngăn chặn" bằng chiến lược "triệt tiêu kẻ thù" để tiêu
diệt các nước cộng sản còn lại và các nước không tuân theo cái gậy chỉ huy
của Mỹ. Mỹ đã áp dụng trực tiếp vào Việt Nam để đánh từ trong nội bộ đánh
25

×