Tải bản đầy đủ (.pdf) (40 trang)

Tình hình hoạt động nghiệp vụ thị trường mở của ngân hàng nhà nước Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.26 MB, 40 trang )

Tình hình hoạt động Nghiệp vụ thị trường mở của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
GVHD: PGS.TS.Trương Thị Hồng Trang -1-
Thực hiện: Nhóm 6 –Lớp CH Ngân hàng đêm 4-K19
kôùh?lôü?ñ`Þt
Nghiệp vụ thị trường mở là một trong những công cụ của chính sách tiền tệ quan
trọng được Ngân hàng Trung ương các qu ốc gia sử dụng; là thị trường tiền tệ thứ cấp,
nhằm bảo đảm hỗ trợ khả năng thanh toán cho các tổ chức tín dụng và điều tiết thị trường
tiền tệ, phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế.
Ở Việt Nam, nghiệp vụ thị trường mở được xem là còn khá mới để Ngân hàng Nhà
nước điều hành chính sách tiền tệ. Phiên giao dịch đầu tiên được thực hiện vào tháng
7/2000. Mặc dù vậy, việc triển khai nghiệp vụ thị trường mở cơ bản đã đáp ứng được yêu
cầu đổi mới của nền kinh tế, chuyển dần từ sử dụng các công cụ tiền tệ trực tiếp sang sử
dụng công cụ gián tiếp, giúp các tổ chức tín dụng đảm bảo khả năng thanh toán nhanh
chóng, kịp thời. Phát biểu tại “Hội nghị triển khai nghiệp vụ thị trường tiền tệ” do Ngân
hàng Nhà nước tổ chức ngày 18/2/2009, Phó thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn
Đồng Tiến nhấn mạnh: “Thị trường tiền tệ có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc đảm
bảo tính thanh khoản cho nền kinh tế, tác động trực tiếp đến cung cầu tiền tệ và lãi suất
trên thị trường, từ đó giúp Ngân hàng Nhà nước thực thi một cách hiệu quả chính sách tiền
tệ quốc gia. Trong các kênh hỗ trợ vốn của Ngân hàng Nhà nước cho các Tổ chức tín
dụng, kênh thị trường mở đang ngày càng phát huy hiệu quả và trở thành công cụ điều
hành tiền tệ chủ yếu của Ngân hàng Nhà nước ”. Vì vậy, nhằm hiểu rõ hơn về tình hình
hoạt động của Nghiệp vụ thị trường mở tại Việt Nam, nhóm đã quyết định chọn đề tài:
“Tình hình hoạt động Nghiệp vụ thị trường mở của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam”
Tình hình hoạt động Nghiệp vụ thị trường mở của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
GVHD: PGS.TS.Trương Thị Hồng Trang -2-
Thực hiện: Nhóm 6 –Lớp CH Ngân hàng đêm 4-K19
Phần I : TỔNG QUAN VỀ NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG MỞ
I. Các khái niệm chung về Nghiệp vụ thị trường mở
1.1 Những vấn đề chung về thị trường mở:
1.11 Khái niệm:
Thị trường mở (Open Market) là một bộ phận của thị trường tiền tệ (Money Market)


là nơi diển ra các hoạt động giao dịch, trao đổi, mua bán ngắn hạn các giấy tờ có giá giữa
NHTW với NHTM, các TCTD, thông qua đó NHTW tác đ ộng đến khối lượng tiền cung
ứng để thực hiện mục tiêu của chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ.
Thị trường mở được hình thành lần đầu tiên trên thế giới vào năm 1920 tại Mỹ, khi
Cục dự trữ liên bang FED (NHTW Mỹ) tiến hành mua bán chứng khoán chính phủ với các
NHTM để hỗ trợ thêm cho các nghiệp vụ của NHTW. Ở Việt Nam thì thị trường mở được
triển khai áp dụng vào năm 2000. Theo quyết định số 85/2000/QĐ-NHNN14 ngày
09/03/2000 của Thống đốc NHNN Việt Nam, đến tháng 7 năm 2000 phiên giao dịch đầu
tiên của thị trường mở Việt Nam đã được thực hiện thành công, đánh dấu bước phát triển
mới trong cơ chế điều hành CSTT ở Việt Nam.
1.1.2 Các chủ thể tham gia thị trường mở:
Thị trường mở là một thị trường có tính chất mở nên các thành viên thị trường rất đa
dạng với các mục đích khác nhau. Nhìn chung, mọi nhà đầu tư đều có thể là đối tác giao
dịch với NHTW trong các giao dịch nghiệp vụ thị trường mở (OMO) nếu thoả mãn những
tiêu chuẩn cụ thể của NHTW ở các nước. Các tiêu chuẩn này nhằm mục đích: (i) Các đối
tác phải đảm bảo độ tin cậy nhất định và (ii) Việc giao dịch với các đối tác phải có hiệu quả
xét trên khía cạnh can thiệp của NHTW. Thông thường, thành viên OMO bao gồm:
a. Ngân hàng trung ương (NHTW):
NHTW là người tổ chức, xây dựng và vận hành hoạt động của thị trường mở
theo các mục tiêu CSTT. NHTW là người quyết định lựa chọn sử dụng các loại
OMO và tần suất sử dụng OMO. NHTW tham gia thị trường thông qua việc mua
bán các GTCG nhằm tác động đến dự trữ của hệ thống ngân hàng để đảm bảo khả
năng thanh toán và gián tiếp tác động đến các lãi suất thị trường theo mục tiêu
CSTT. NHTW cũng là người can thiệp thị trường khi cần thiết thông qua thực hiện
chức năng người cho vay cuối cùng nhằm kiểm soát tiền tệ, đảm bảo đủ phương
tiện thanh toán cho các tổ chức tín dụng (TCTD) cũng như nhu cầu tín dụng của
nền kinh tế.
Tình hình hoạt động Nghiệp vụ thị trường mở của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
GVHD: PGS.TS.Trương Thị Hồng Trang -3-
Thực hiện: Nhóm 6 –Lớp CH Ngân hàng đêm 4-K19

Như vậy, NHTW tham gia thị trường mở không phải vì mục tiêu kinh doanh mà
để quản lý, chi phối, điều tiết thị trường làm cho CSTT được thực hiện theo các
mục tiêu xác định của nó.
b. Đối tác của NHTW:
󽝷 Các ngân hàng thương mại (NHTM)
Các NHTM là chủ thể thường xuyên và chủ yếu của thị trường mở, đồng thời là
“đối tác”, là khách hàng chủ yếu của NHTW trong hoạt động giao dịch mua bán
chứng từ có giá.
Hoạt động của NHTM là hoạt động kinh doanh vì mục tiêu lợi nhuận, họ tham
gia mua bán chứng từ có giá trên thị trường mở cũng không ngoài mục tiêu đó.
Chính điều này giúp NHTW điều tiết được hành vi kinh doanh của NHTM.
Các NHTM với các mạng lưới rộng khắp đã trở thành đối tác quan trọng nhất
của NHTW trong các nghiệp vụ của mình trên thị trường mở, qua đó mà tác động
một cách nhanh nhất, hiệu quả nhất theo các mục tiêu và ý đồ cần đạt được trong
điều hành CSTT.
󽝷 Các định chế tài chính phi ngân hàng
Ngoài NHTM là đối tác chủ yếu và thường xuyên của NHTW trên thị trường
mở, còn có các định chế tài chính phi ngân hàng , bao gồm các công ty tài chính,
các công ty cho thuê tài chính, các công ty b ảo hiểm, các công ty chứng khoán, các
quỹ đầu tư, với tư cách là người đầu tư và kinh doanh chứng từ có giá.
󽝷 Các đối tượng khác
Ngoài các đối tượng nêu trên, thị trường mở như tên gọi của nó, còn mở rộng
cánh cửa để thu nhận các thành viên khác - nếu thỏa mãn các điều kiện quy định.
Những đối tượng này rất phong phú bao gồm các tổng công ty, các tập đoàn kinh
tế, các công ty SX TM DV, thậm chí các cá nhân cũng có thể tham gia vào thị
trường này.
1.1.3 Hàng hóa của thị trường mở:
- Tín phiếu kho bạc (Treasury Bonds)
- Tín phiếu NHTW (Central Bankl Bonds)
- Trái phiếu chính phủ (Government Bonds)

- Trái phiếu đô thi (Municipal Bonds)
- Chứng chỉ tiền gửi (Certificate of Deposit)
- Hối phiếu (Bill of Exchange)
Nhìn chung các hàng hoá giao dịch trên thị trường mở cần thoả mãn những điều
kiện cơ bản sau đây:
+ Được phát hành và lưu thông hợp pháp
Tình hình hoạt động Nghiệp vụ thị trường mở của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
GVHD: PGS.TS.Trương Thị Hồng Trang -4-
Thực hiện: Nhóm 6 –Lớp CH Ngân hàng đêm 4-K19
+ Được giao dịch mua bán chuyển nhượng
+ Còn thời gian hiệu lực
Riêng tại VN, ngoài điều kiện trên, còn phải thoả mãn các điều kiện khác như:
+ Các loại chứng từ có giá được giao dịch là những chứng từ có giá được phát
hành và thanh toán bằng VND
+ Phải đăng ký chứng từ có giá giao dịch tại NHNN
+ Giấy tờ có giá mua bán hẳn phải có thời hạn tối đa 90 ngày và phải dài hơn
thời hạn mua bán (đối với mua bán có kỳ hạn)
1.2 Những vấn đề chung về nghiệp vụ thị trường mở:
1.2.1 Khái niệm:
Nghiệp vụ thị trường mở (Open Market Operations) là nghiệp vụ của NHTW để
mua bán ngắn hạn các giấy tờ có giá với các NHTM, TCTD. Như vậy nghiệp vụ thị trường
mở vừa là nghiệp vụ của thị trường vừa là công cụ của NHTW để thực thi chính sách tiền
tệ có giá. Hoạt động không vì mục đích lợi nhuận mà vì mục tiêu chính sách tiền tệ quốc,
vì mục đích chung của toàn bộ nền kinh tế.
1.2.2 Các nghiệp vụ thị trường mở:
Tùy theo tình hình thực tế mà NHTW thực hiện một trong hai nghiệp vụ sau
a. Giao dịch mua hoặc bán hẳn (Giao dịch không hoàn lại) :
Nghiệp vụ giao dịch này được sử dụng khi yêu cầu điều chỉnh và tác động đến
lượng tiền cung ứng là rõ ràng và rứt khoát. Như vậy, giao dịch không hoàn lại là việc
NHTW mua, bán chứng từ có giá với các đối tác của mình mà không có bất kỳ một cam

kết nào về việc bán hoặc mua lại các chứng từ đó.
b.Giao dịch mua hoặc bán có kỳ hạn (Giao dịch có hoàn lại – REPO)
Giao dịch có kỳ hạn là nghiệp vụ giao dịch mua, bán chứng từ có giá của NHTW
với các đối tác của mình, có kèm theo điều kiện là các bên giao dịch sẽ bán hoặc mua lại
các chứng từ có giá đã mua, bán trong một hợp đồng cụ thể.
Như vậy, việc Bán và phải Mua lại cũng như việc Mua và phải Bán lại là cách mà
các đối tác của thị trường, ở phải tuân thủ khi được NHTW thông báo, tức là phải giao dịch
hai chiều. Bên bán chuyển giao quyền sở hữu chứng từ có giá cho bên mua và nhận tiền từ
bên mua. Sau đó, đến kỳ hạn đã xác định bên bán mua lại chứng từ có giá đó bằng việc
chuyển tiền thanh toán để nhận lại các chứng từ có giá đã bán.
Trong nghiệp vụ giao dịch kỳ hạn, các đối tác vừa đóng vai trò là người mua, vừa là
người bán. Như vậy giao dịch này mang tính chất hoán đổi SWAP.
Tình hình hoạt động Nghiệp vụ thị trường mở của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
GVHD: PGS.TS.Trương Thị Hồng Trang -5-
Thực hiện: Nhóm 6 –Lớp CH Ngân hàng đêm 4-K19
1.3 Các phương thức giao dịch trên thị trường mở:
Tất cả các loại chứng từ có giá được giao dịch trên thị trường mở đều được mua
hoặc bán theo phương thức đấu thầu (Bid for contract), phương th ức này sẽ loại bỏ hoàn
toàn các yếu tố chủ quan, một chiều trong giao dịch tạo sự công bằng cho mọi đối tác tham
gia thị trường đấu thầu sẽ tạo điều kiện để thúc đẩy cạnh tranh hợp pháp và lạnh mạnh.
Phương thức đấu thầu còn đòi hỏi các thành viên tham gia thị trường phải tính toán, cân
nhắc, phải phân tích, dự báo để đưa ra các quyết định trong đấu thầu một cách đúng nhất và
tốt nhất. Các thành viên sẽ thi thố tài năng để điều chỉnh cơ cấu dự trữ và tìm kiếm lợi
nhuận cao.
Trên thị trường mở, áp dụng các phương thức đấu thầu sau:
a. Đấu thầu khối lượng (Mass Tender):
Đấu thầu khối lượng là phương thức đấu cho phép người người giao dịch (mua
or bán) đăng ký khối lượng (giá trị) chứng từ có giá sẽ mua hoặc bán (khối
lượng dự thầu).
Căn cứ khối lượng dự thầu, khối lượng chứng từ cần bán hoặc cần mua trong

từng đợt thông báo để NHTW xác định khối lượng trúng thầu cho mỗi thành
viên đấu thầu theo lãi suất đã được thông báo (Lãi suất cố định)
Nói cách khác: Đấu thầu khối lượng là việc xác định Khối lượng trúng thầu của
người giao dịch trên cơ sở khối lượng dự thầu của mỗi thành viên và khối lượng
chứng từ có giá cần mua, bán của NHTW.
Đấu thầu khối lượng không có tính cạnh tranh vì khi đã tham gia đấu thầu thì
chắc chắn sẽ được mua, hoặc bán với một khối lượng trúng thầu được phân bổ.
Vì vậy phương pháp đấu thầu khối lượng ít được sử dụng. Phương pháp này chỉ
được sử dụng khi NHTW xác định mục tiêu cung ứng tiền trong một thời gian
ổn định.
b. Đấu thầu Lãi suất (Interrest Rate Tender):
Đấu thầu lãi suất là phương thức đấu thầu cho phép người giao dịch (người mua
or bán) được quyền đưa ra các mức lãi suất với các khối lượng tương ứng để
đăng ký bán hoặc mua chứng từ có giá theo thông báo của NHTW.
Căn cứ vào đó, sẽ xác định khối lượng trúng thầu với lãi suất với trúng thầu
được chọn sao cho với lãi suất đó sẽ đảm bảo khối lượng giao dịch mua bán theo
yêu cầu của NHTW.
+ NHTW bán giấy tờ có giá mà NHTM nào đặt mua chứng từ có giá của NHTW
với giá cao nhất tức là lãi suất đặt thầu thấp nhất thì NHTM đó sẽ trúng thầu.
+ NHTW mua chứng từ có giá mà NHTM nào đặt bán với giá thấp nhất tức là lãi
suất đặt thầu cao nhất thì NHTM đó sẽ trúng thầu.
Tình hình hoạt động Nghiệp vụ thị trường mở của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
GVHD: PGS.TS.Trương Thị Hồng Trang -6-
Thực hiện: Nhóm 6 –Lớp CH Ngân hàng đêm 4-K19
󽟱 Đó là nguyên tắc chung của đấu thầu lãi suất, tuy nhiên các NHTM không thể
cứ mua với giá cao hay bán với giá thấp bao nhiêu cũng được mà phải cân nhắc,
tính toán sao cho có lợi nhất.
Do đấu thầu lãi suất là phương thức đấu thầu có tính cạnh tranh mãnh liệt nên
các NHTM chỉ cần đưa ra mức lãi suất đấu thầu không hợp lý thì các NHTM sẽ
bỏ lỡ cơ hội kinh doanh hoặc sẽ bị thua lỗ, đây là cuộc chơi trí tuệ và đầy thử

thách.
1.4 Ưu và nhược điểm của thị trường mở:
So với các công cụ khác của chính sách tiền tệ, OMO có những ưu điểm sau:
1.4.1 Ưu điểm:
- OMO có tác động nhanh, chính sách và có thể được sử dụng ở bất kỳ mức độ
nào. Nghiệp vụ thị trường mở có thể được hoàn thành nhanh chóng, ít bị ảnh
hưởng bởi các thủ tục hành chính. Mặt khác việc thay đổi mức dự trữ hoặc cơ
số tiền tệ ở mức nhỏ, thì nghiệp vụ thị trường mở cũng đáp ứng được thông
qua việc mua hoặc bán ít chứng từ có giá. Ngược lại muốn thay đổi về dự trữ
hoặc cơ số tiền lớn thì nghiệp vụ trường mở đủ sức thực hiện điều đó thông
qua việc mua hoặc bán khối lượng lớn chứng từ có giá lớn.
- OMO rất linh hoạt. Khi có một sai lầm xảy ra trong lúc tiến hành nghiệp vụ
thị trường mở, NHTW có thể lập tức đo ngược lại việc sử dụng công cụ đó.
Nếu NHTW thấy rằng cung ứng tiền tệ tăng quá nhanh do NHTW mua ch ứng
từ có giá trên thị trường mở quá nhiều, thì NHTW sẽ sửa chữa ngay lập tức
bằng cách bán lại các chứng từ có giá vừa mua.
- OMO là công cụ chính sách tiền tệ chủ động, cho phép NHTW có thể tạo ra
những biến động có khả năng hướng dẫn xư hướng thị trường trên cơ sở dự
báo nhu cầu vốn khả dụng.
- Mặt khác, việc hoàn thành nghiệp vụ thị trường mở không phụ thuộc nhiều
lắm vào ý thích chủ quan của các đối tác. Lợi dụng tác động của các lực lượng
thị trường, NHTW có thể buộc các đối tác có thể hoạt động theo mục tiêu của
mình. Khả năng sử dụng công cụ này hơn hẳn so với nghiệp vụ tái chiết khấu.
Ở nghiệp vụ tái chiết khấu, NHTW có thể khuyến khích hoặc hạn chế khối
lượng tái chiết khấu và có thể chống chế hạn mức tái chiết khấu nhưng không
thể kiểm soát được nhu cầu tái chiết khấu của NHTM.
1.4.2 Nhược điểm:
- Sự can thiệp của NHTW có thể trở nên vô hiệu khi có tác động ngược chiều,
chẳng hạn do mất cân đối trong cán cân thanh toán hoặc số dư tiền gửi ngân
Tình hình hoạt động Nghiệp vụ thị trường mở của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

GVHD: PGS.TS.Trương Thị Hồng Trang -7-
Thực hiện: Nhóm 6 –Lớp CH Ngân hàng đêm 4-K19
sách ở NHTW tăng lên.Khi đó, các hoạt động của thị trường mở của NHTW
nhằm tăng lượng tiền cung ứng sẽ bị triệt tiêu một phần hay toàn bộ.
- Khả năng phát huy hiệu quả tối đa của nghiệp vụ thị trường mở nhiều khi
không phụ thuộc vào ngân hàng mà nó còn bị chi phối bởi môi trường kinh tế
vĩ mô, hành vi của công chúng và các quyết định của NHTM.
- Việc thực hiện công cụ này đòi hỏi sự phát triển của thị trường tài chính thứ
cấp nói chung và thị trường tiền tệ nói riêng. Ngoài ra ngân hàng phải có khả
năng dự đoán và kiểm soát sự biến động của lượng vốn khả dụng trong hệ
thống ngân hàng.
II. Hoạt động thị trường mở của Ngân hàng trung ương ở một số nước trên thế giới.
2.1 Cục dự trữ liên bang Mỹ
Cục dự trữ liên bang Mỹ (Fed, NHTW của
Mỹ) bắt đầu thực hiện OMO từ cuối những
năm 1920. Khi đó, OMO được sử dụng như
một công cụ hỗ trợ thực hiện cho vay chiết
khấu của Fed. Nhưng đến nay, OMO được
coi là công cụ CSTT linh hoạt, có hiệu quả và
quan trọng nhất của Fed vì hoạt động OMO
có tính chất quyết định đến sự thay đổi dự trữ
của hệ thống ngân hàng và lãi suất thị trường. Để điều hành OMO, Fed đã thành lập Uỷ
ban nghiệp vụ thị trường mở (FOMC)
, chịu trách
nhiệm hoạch định chính sách, chỉ đạo
các OMO nhằm thực thi CSTT trong việc kiểm soát lượng tiền cung ứng.
u󰗂?¦?¦󰖦·?︲?¦⁄﹃¦K FOMC bao gồm bảy thành viên của Hội đồng thống đốc và lựa
chọn thêm năm chủ tịch của năm Ngân hàng Dự trữ Liên bang trong số mười hai Ngân hàng
Dự trữ Liên bang. Hàng năm, FOMC tổ chức ít nhất là bốn phiên họp, thông thường là tám
phiên họp định kỳ (khoảng sáu tuần một lần) nhằm cơ cấu tổ chức của FOMC đồng thời xem

xét, đánh giá tình hình kinh tế, thị trường tài chính trong và ngoài nước và lập kế hoạch cho
các hoạt động của CSTT.
u󰗂?⁄Ÿ‹£?⁄›Ž?¦﹁\?⁄󰗌?‒︹‹£?«[K FOMC tổ chức OMO thông qua việc mua, bán trái
Tình hình hoạt động Nghiệp vụ thị trường mở của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
GVHD: PGS.TS.Trương Thị Hồng Trang -8-
Thực hiện: Nhóm 6 –Lớp CH Ngân hàng đêm 4-K19
phiếu Chính phủ, trong đó tín phiếu KBNN được giao dịch nhiều nhất trên thị
trường
mở bởi tín phiếu KBNN có tính thanh khoản cao và Chính phủ có dung lượng bán ra lớn
nhất.
u󰗂?fi⁄‹£?⁄﹃¦?J󰗂·?⁄Ÿ‹⁄, FOMC là cơ quan có quyền ra quyết định OMO. Tuy nhiên,
cơ quan thực sự tiến hành các hoạt động của thị trường mở là Phòng kinh doanh tại Ngân
hàng Dự trữ Liên bang Newyork. Hàng ngày, giám đốc bộ phận kinh doanh phân tích
tình hình thực tế dựa trên cơ sở báo cáo đánh giá tổng số tiền dự trữ trong hệ thống ngân
hàng của đêm hôm trước, mức lãi suất liên bang hiện hành, kết hợp với thông tin từ Kho
bạc Mỹ, sau đó đối chiếu với thông tin từ FOMC cho biết tỷ lệ tăng trưởng của lượng
tiền cung ứng và mức vốn liên bang mà Uỷ ban muốn đạt được. Sau khi đã có đầy đủ
thông tin, giám đốc bộ phận kinh doanh sẽ tiến hành cuộc họp bằng điện thoại thường
ngày với các thành viên của FOMC và vạch ra chiến lược hoạt động. Khi kế hoạch được
thông qua, phòng kinh doanh tiến hành liên lạc với các nhà kinh doanh chính để thực
hiện quá trình bơm/hút lượng tiền cung ứng. Một cách thông thường, trong trường hợp
cân đối được lượng tiền cung ứng trong dài hạn, FOMC sẽ can thiệp trên thị trường mở
bằng nghiệp vụ mua hoặc bán hẳn. Những trường hợp việc điều tiết lượng tiền cung ứng
chỉ trong ngắn hạn do mức độ thâm hụt hay nhu cầu vốn chỉ mang tính chất tạm thời,
FOMC sử dụng nghiệp vụ mua lại hoặc hợp đồng mua lại đảo ngược.
Khi thực hiện nghiệp vụ mua hoặc bán hẳn, FOMC áp dụng theo phương pháp đấu thầu lãi
suất. Khi tham gia giao dịch, các thành viên tham gia đặt giá mua hoặc bán cho từng loại
GTCG. Khi xét thầu, FOMC sẽ lựa chọn bán GTCG thành viên đặt mua với giá cao nhất -
lãi suất thấp nhất và mua GTCG của các thành viên có giá bán thấp nhất - lãi suất cao nhất.
Khi thực hiện nghiệp vụ thoả thuận mua lại, FOMC thực hiện giao dịch với các

thành viên bằng cách mua GTCG và yêu cầu thành viên đồng ý mua lại các GTCG
đó với giá cụ thể vào một ngày nhất định. Phương thức giao dịch này được áp dụng
trong ngắn hạn, thông thường không quá một tuần. Khi thực hiện nghiệp vụ bán tạm
thời trên thị trường mở, FOMC thực hiện giao dịch mua, bán kết hợp - gọi là nghiệp
vụ mua lại đảo ngược, theo đó Uỷ ban tiến hành bán GTCG cho các thành viên và
các thành viên sẽ thoả thuận bán trở lại cho FOMC trong một khoảng thời gian ngắn
Tình hình hoạt động Nghiệp vụ thị trường mở của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
GVHD: PGS.TS.Trương Thị Hồng Trang -9-
Thực hiện: Nhóm 6 –Lớp CH Ngân hàng đêm 4-K19
sau đó. Hai hoạt động này cho phép FED có thể điều chỉnh lượng dự trữ theo mong muốn, làm
tăng hiệu quả của CSTT bởi lượng tiền cung ứng được điều chỉnh hàng ngày và thường
xuyên hơn so với giao dịch mua hoặc bán hẳn.
2.2 Ngân hàng Trung ương Nhật Bản
Ngân hàng Trung ương Nhật Bản
(BOJ - Bank of Japan) thực hiện OMO với
mục tiêu để bơm/hút vốn khả dụng vào thị
trường một cách chủ động và linh
hoạt theo
hai hình thức can thiệp hoặc ngắn hoặc dài
hạn. Hoạt động thị trường
mở được BOJ sử
dụng từ khá lâu, ban đầu OMO được thực
hiện rất hạn chế
trong những trường hợp
ngoại lệ để hỗ trợ cho hoạt động tái cấp vốn của BOJ, đến tháng 11/1962, BOJ bắt đầu
thực hiện mua, bán GTCG một cách linh hoạt
hơn nhằm đa dạng hóa các công cụ của
CSTT, đồng thời ổn định thị trường tiền
tệ. Kể từ đó, OMO dần được sử dụng nhiều hơn
và trở thành công cụ được sử

dụng thường xuyên và ngày càng quan trọng trong việc
thực thi CSTT. Thành
viên tham gia thị trường mở là các NHTM và OMO được BOJ tổ
chức thông
qua nối mạng vi tính với các thành viên tham gia.
gŸ‹£?⁄›Ž?£\›?󰗌¦⁄ trên thị trường mở là trái phiếu Chính phủ, trái phiếu của doanh
nghiệp Nhà nước và được phát hành dưới dạng chứng chỉ hoặc ghi sổ. Tuy nhiên, cho đến
nay, thị trường tín phiếu KBNN vẫn là cơ sở quan trọng cho các hoạt động của thị trường mở
của Nhật Bản.
o⁄‹£? ⁄﹃¦? £\›? 󰗌¦⁄ được áp dụng trong OMO của BOJ ban đầu là giao dịch
mua, bán có kỳ hạn thông qua hợp đồng mua lại theo lãi suất cố định, sau phương thức giao
dịch được chuyển sang thực hiện trên cơ sở mua, bán GTCG theo giá thị trường thông qua
hình thức đấu thầu nhằm nâng cao khả năng điều chỉnh lãi suất trên thị trường. Ngân hàng
Trung ương Nhật Bản tổ chức đấu thầu không chỉ thực hiện theo định kỳ mà còn tổ chức
đấu thầu nhanh trong đó khối lượng GTCG mà BOJ cần mua được xác định và thực hiện
ngay trong ngày điều này góp phần nâng cao tính linh hoạt của thị trường mở.
Tình hình hoạt động Nghiệp vụ thị trường mở của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
GVHD: PGS.TS.Trương Thị Hồng Trang -10-
Thực hiện: Nhóm 6 –Lớp CH Ngân hàng đêm 4-K19
Việc thanh toán được thực hiện như sau: trong trường hợp mua hẳn, bán hẳn, tiền
mua trái
phiếu Chính phủ được thanh toán ngay trong ngày T + 0 hoặc sau một
ngày T + 1, 2, 3
đối với trái phiếu của doanh nghiệp Nhà nước. Trong trường hợp
mua, bán có kỳ hạn, thời
gian thanh toán là T + 0, 1, 2 đối với trái phiếu Chính phủ và T + 1, 2 đối với trái phiếu
của doanh nghiệp Nhà nước .
2.3 Ngân hàng Trung ương Thái Lan
Ngân hàng Trung ương Thái Lan (BOT - Bank
of Thailand) thực hiện OMO thông qua mua,

bán GTCG, ngoại tệ với các thành viên bao
gồm NHTM, các tổ chức tài chính phi ngân
hàng và doanh nghiệp.
gŸ‹£?⁄›Ž?£\›?󰗌¦⁄
trên thị trường mở gồm
các trái phiếu Chính phủ, tín phiếu
BOT. Tại
Thái Lan, trong trường hợp số dư trái phiếu Chính phủ giảm mạnh khi tình trạng ngân sách
Nhà nước bội thu, trái phiếu doanh nghiệp Nhà nước được Bộ tài chính bảo lãnh phát hành
và gửi tại BOT được tham gia thị trường mở để tạo điều kiện thuận lợi cho OMO. Ngoài
ra, BOT còn sử dụng USD trong nghiệp vụ swap giữa đồng Bath và USD.
o⁄‹£?⁄﹃¦?£\›?󰗌¦⁄
của OMO chủ yếu của BOT là các giao dịch có kỳ hạn,
thậm chí có thời gian BOT dựa hoàn toàn vào phương thức giao dịch mua, bán có
kỳ hạn.
ðồng thời, nhằm tăng khả năng quản lý trạng thái thanh khoản của thị trường, BOT
thực hiện nghiệp vụ swap giữa đồng Bath và USD.
Hoạt động thị trường mở của BOT hiện nay có những đặc điểm cơ bản:
󽝷
BOT chưa thực hiện OMO năng động với mục đích thay đổi dự trữ của
NHTM theo mục tiêu của CSTT mà chủ yếu thực hiện OMO nhằm đáp ứng
yêu cầu thị trường;
󽝷 BOT tăng cường quy mô hoạt động OMO thông qua việc thực hiện nghiệp vụ
swap giữa đồng Bath và USD nhằm bù đắp lại những biến động của các nhân
Tình hình hoạt động Nghiệp vụ thị trường mở của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
GVHD: PGS.TS.Trương Thị Hồng Trang -11-
Thực hiện: Nhóm 6 –Lớp CH Ngân hàng đêm 4-K19
tố khác gây ra đối với dự trữ của NHTM khi mà thị trường tài chính Thái Lan
bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Ngoài ra, BOT áp
dụng những biện pháp phù hợp khác: BOT bổ sung nhiều GTCG thực hiện

OMO nhằm tăng cường khả năng can thiệp của BOT trên cả thị trường tiền tệ và
thị trường ngoại hối. Ví dụ, BOT phát hành tín phiếu BOT một/hai lần trong
tuần vào các ngày thứ ba, thứ năm, thứ sáu. Danh mục các GTCG đủ điều
kiện sử dụng trên thị trường mở được mở rộng bao gồm cả chứng khoán nợ
có đảm bảo của các cơ quan quản lý chính quyền địa phương; BOT coi việc
thiết lập hệ thống các nhà giao dịch sơ cấp như là một đối tác bổ sung trên thị
trường mở, nhằm tăng cường sự ảnh hưởng của OMO đến thị trường tài chính.
Tình hình hoạt động Nghiệp vụ thị trường mở của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
GVHD: PGS.TS.Trương Thị Hồng Trang -12-
Thực hiện: Nhóm 6 –Lớp CH Ngân hàng đêm 4-K19
Phần II : TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG NGHIỆP VỤ THỊ
TRƯỜNG MỞ CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
I. Cơ sở pháp lý cho việc hình thành nghiệp vụ thị trường mở tại Việt Nam:
1.1 Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Ngoài các điều kiện vĩ mô về tiền tệ ngân hàng thì Luật NHNN Việt Nam có hiệu
lực thi hành từ ngày 01/10/1998 đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho sự ra đời và hoạt động
thị trường mở. Theo quy định tại Điều 21 Luật NHNN (Luật số 06/1997/QHX): "Ngân
hàng Nhà nước thực hiện nghiệp vụ thị trường mở thông qua việc mua, bán tín phiếu kho
bạc, chứng chỉ tiền gửi, tín phiếu Ngân h àng Nhà nước và các loại giấy tờ có giá ngắn hạn
khác trên thị trường tiền tệ để thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia”
1.2 Luật các Tổ chức tín dụng
Luật các Tổ chức Tín dụng tại điều 104 quy định NHTM được tham gia đấu thầu
tín phiếu KBNN, mua, bán công cụ chuyển nhượng, trái phiếu Chính phủ, tín phiếu
KBNN, tín phiếu NHNN và các GTCG trên thị trường tiền tệ; điều 111 quy định
các công ty tài chính được tham gia thị trường tiền tệ theo quy định tại điều 104 của
Luật này.
1.3 Quy chế Quản lý vốn khả dụng
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quyết định bơm/hút tiền qua thị trường mở phải căn cứ
vào vốn khả dụng của toàn hệ thống ngân hàng, do đó việc quản lý và dự báo
vốn khả

dụng nhằm phục vụ cho điều hành OMO là hết sức cần thiết. Ngày
24/1/2000, Thống
đốc NHNN đã ban hành Quy chế Quản lý vốn khả dụng kèm theo Quyết định số
37/2000/Qđ-NHNN1. điều 1 Quy chế Quản lý vốn khả dụng quy định “Quản lý vốn khả
dụng là sự kiểm soát của NHNN đối với sự thay đổi tiền gửi của các TCTD tại NHNN và
thông qua việc sử dụng các công cụ của CSTT, đặc biệt là OMO để tác động vào khả năng
thanh toán của các TCTD nhằm đạt được mục tiêu CSTT trong từng thời kỳ”. Theo quy định
tại Quy chế này, Vụ Chính sách Tiền tệ có trách nhiệm tập hợp số liệu và thông tin về thu,
Tình hình hoạt động Nghiệp vụ thị trường mở của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
GVHD: PGS.TS.Trương Thị Hồng Trang -13-
Thực hiện: Nhóm 6 –Lớp CH Ngân hàng đêm 4-K19
chi ngân sách từ Bộ Tài chính, các số liệu và thông tin từ các đơn vị thuộc NHNN và các
nguồn thông tin khác để dự báo vốn khả dụng của các TCTD, làm cơ sở cho việc xác định
mức vốn khả dụng cần duy trì của các TCTD và kiến nghị khối lượng GTCG cần mua, bán
tại các phiên giao dịch của thị trường mở.
1.4. Quy chế nghiệp vụ thị trường mở
Quyết định số 85/2000/Qđ - NHNN14 ngày 09/3/2000 của Thống đốc cho việc ban
hành Quy chế Nghiệp vụ thị trường mở. Quy chế này gồm 3 Chương với 26 điều quy định
một cách chi tiết trong việc thực hiện OMO, cụ thể với quy định chung
chỉ rõ phạm vi điều chỉnh của các đối tượng có tham gia OMO theo Quy chế này là
NHNN thực hiện OMO với các TCTD trên thị trường tiền tệ nhằm thực hiện
CSTT, hoặc như Ban điều hành OMO được NHNN thành lập do một Phó thống
đốc làm Trưởng ban, các thành viên còn lại là đại diện của các đơn vị có liên quan
thuộc NHNN và được tổ chức, hoạt động theo quy định của Thống đốc, v.v… Còn
lại, đối với phần quy định cụ thể, NHNN quy định một cách cơ bản, chi tiết những
nội dung của OMO như các quy định về GTCG tham gia thị trường mở, phương
thức đấu thầu; việc xác định khối lượng, thời hạn CTCG cần mua, cần bán; vấn đề
nộp đơn dự thầu hợp lệ và không hợp lệ; phương thức tổ chức xét thầu; xác định giá
mua hoặc giá bán GTCG, quy trình thanh toán và chuyển giao quyền sở hữu GTCG, v.v…
những quy định này bước đầu đã giúp thị trường mở được triển khai một cách an toàn cho các

thành viên tham gia.
1.5. Các văn bản khác
Sau khi Quyết định số 85/2000/Qđ-NHNN14, NHNN đã ban hành một loạt Quyết
định, tạo nên một hệ thống các văn bản pháp lý tương đối đồng bộ cho phép hoạt
động thị trường mở được triển khai một cách có hiệu quả như : Quyết định số 87/2000/Qđ-
NHNN9 ngày 13/3/2000 về việc thành lập Ban điều hành OMO ,Quyết định số
171/2000/Qđ-NHNN18 ngày 25/5/2000 về việc đăng ký GTCG ngắn hạn đi kèm là Quy
định về việc đăng ký GTCG ngắn hạn và hiện nay được thay thế bằng Quy chế lưu ký
GTCG tại NHNN ban hành kèm theo Quyết định số 1022/2004/Qđ-NHNN ngày 17/8/2004,
Tình hình hoạt động Nghiệp vụ thị trường mở của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
GVHD: PGS.TS.Trương Thị Hồng Trang -14-
Thực hiện: Nhóm 6 –Lớp CH Ngân hàng đêm 4-K19
bổ sung Quyết định số 1909/2005/Qđ-NHNN ngày 30/12/2005 NHNN về việc các TCTD
sử dụng một số loại trái phiếu trong các giao dịch tái cấp vốn của NHNN, Quyết định số
362/1999/Qđ-NHNN1 ngày 08/10/1999 về việc ban hành Quy chế phát hành tín phiếu
NHNN, Quy trình nghiệp vụ đấu thầu tín phiếu NHNN ngày 06/4/1999, Quyết định số
906/2002/Qđ-NHNN ngày 26/8/2002 về việc ban hành quy chế chiết khấu và tái chiết khấu
của NHNN đối với các NHTM.
Trong quá trình thực hiện, NHNN đã có nhiều văn bản sửa đổi, bổ sung như: Quyết
định số 1439/2001/Qđ-NHNN ngày 20/11/2001 về việc sửa đổi một số điều trong
Quy chế Nghiệp vụ thị trường mở, Quyết định số 877/2002/Qđ-NHNN ngày
19/8/2002 về việc sửa đổi điều 1 Quyết định 1439/2001/Qđ-NHNN ngày 20/11/2001;
Quyết định số 1085/2003/Qđ-NHNN ngày 16/9/2003 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều
trong Quy chế Nghiệp vụ thị trường mở ban hành kèm theo Quyết định số 85/2000/Qđ-
NHNN và Khoản 4 điều 1 Quyết định số 1439/2001/Qđ-NHNN. Công văn số 737/CV-
SGD ngày 09/4/2003 về việc bổ sung mã số GTCG tham gia giao dịch OMO, Công
văn số 2069/CV-SGD ngày 22/10/2003 bổ sung mã số GTCG tham gia OMO. Công văn
số 901/CV-THNH ngày 07/12/2004 của NHNN hướng dẫn vận hành phần mềm OMO qua
mạng tại thành viên và chi nhánh NHNN được uỷ quyền, Công văn số 902/CV-THNH ngày
07/12/2004 hướng dẫn vận hành phần mềm OMO qua mạng.

Tình hình hoạt động Nghiệp vụ thị trường mở của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
GVHD: PGS.TS.Trương Thị Hồng Trang -15-
Thực hiện: Nhóm 6 –Lớp CH Ngân hàng đêm 4-K19
II. Tình hình hoạt động Nghiệp vụ thị trường mở của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
2.1 Cơ cấu tổ chức
Sơ đồ: Mô hình tổ chức hoạt động thị trường mở của Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam
Ban điều hành OMO: gồm 1 trưởng ban, 2 phó trưởng ban, 3 thành viên và 2 thư ký.
Vị trí trưởng ban do Phó thống đốc đảm nhiệm, một phó trưởng ban là Vụ trưởng Vụ chính
sách tiền tệ, một phó trưởng ban là Giám đốc Sở giao dịch, trong đó Vụ trưởng Vụ chính
sách tiền tệ là phó trưởng ban thường trực. 3 thành viên của Ban điều hành là đại diện lãnh
đạo các Vụ tín dụng, Vụ Quản lý Ngoại hối và Sở giao dịch. Thư ký Ban điều hành là
chuyên viên các Vụ chính sách tiền tệ và Sở giao dịch. Ban điều hành là người chịu trách
nhiệm trước các quyết định trong quy chế thực hiện OMO, các vấn đề cụ thể trong từng
phiên giao dịch. Bằng cách căn cứ vào mục tiêu của CSTT, tình hình dự báo vốn khả dụng
của các TCTD, tình hình hoạt động tái cấp vốn của NHNN đối với các TCTD, chỉ số lạm
phát, lãi suất cho vay của nền kinh tế, Ban điều hành sẽ ra quyết định phương thức đấu
thầu, khối lượng các loại GTCG cần mua hoặc bán, lãi suất mua hoặc bán, thời hạn của
giao dịch mua, bán có kỳ hạn, … trong các phiên giao dịch.
Tình hình hoạt động Nghiệp vụ thị trường mở của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
GVHD: PGS.TS.Trương Thị Hồng Trang -16-
Thực hiện: Nhóm 6 –Lớp CH Ngân hàng đêm 4-K19
Vụ Chính sách tiền tệ: thu thập thông tin về tình hình biến động vốn của các TCTD
nhằm quản lý, theo dõi và cung cấp tình hình hoạt động tái cấp vốn cho Ban điều hành. Đề
xuất với Ban điều hành về khối lượng các loại GTCG mua, bán, phương thức mua hoặc
bán, thời hạn cần mua hoặc bán và dự kiến các mức lãi suất áp dụng khi mua, bán GTCG.
Ngoài ra, Vụ còn phối hợp với Vụ Tín dụng, Sở Giao dịch tham mưu cho Thống đốc quy
định về danh mục các loại GTCG, tỷ lệ chênh lệch giữa giá trị GTCG tại thời điểm định
giá và giá thanh toán, tỷ lệ giao dịch của các loại GTCG trên thị trường mở trong từng thời
kỳ.

Vụ Tín dụng: cung cấp số liệu chính xác về hoạt động tái cấp vốn cho Ban điều hành
nhằm kịp thời hỗ trợ trong những quyết định điều tiết thị trường mở như khối lượng GTCG
sẽ đấu thầu, lãi suất đấu thầu, phương thức giao dịch, … Bên cạnh đó, Vụ Tín dụng còn
phối hợp với các đơn vị có liên quan trong quá trình triển khai OMO.
Sở Giao dịch: ban hành quy trình OMO. Phối hợp với Vụ Chính sách tiền tệ và Vụ
Tín dụng. Thực hiện xem xét, công nhận TCTD là thành viên tham gia OMO. Trên cơ sở
khối lượng GTCG trúng thầu của các TCTD, Sở giao dịch thực hiện các giao dịch mua,
bán GTCG và thực hiện thanh toán, hạch toán kế toán theo quy định. Chịu trách nhiệm
tổng hợp, theo dõi và báo cáo thông tin về thị trường mở gửi Ban điều hành, Vụ tín dụng,
Vụ Chính sách tiền tệ. Đồng thời, cung cấp các thông tin OMO tới các TCTD.
Vụ Tài chính – kế toán: là bộ phận hướng dẫn quy trình hạch toán kế toán liên quan
đến OMO.
Cục Công nghệ tin học: cài đặt chương trình phần mềm và đảm bảo hạ tầng mạng
truyền thông cho OMO hoạt động ổn định, an toàn và bảo mật. Thông báo quy định mả số,
mã khóa, chữ ký điện tử cho những thành viên tham gia OMO.
Tình hình hoạt động Nghiệp vụ thị trường mở của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
GVHD: PGS.TS.Trương Thị Hồng Trang -17-
Thực hiện: Nhóm 6 –Lớp CH Ngân hàng đêm 4-K19
2.2 Hàng hóa giao dịch
Bảng: Danh mục giấy tờ có giá giao dịch trên thị trường mở
Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Từ năm 2000 đến 2002, hàng hóa giao dịch là tín phiếu KBNN, tín phiếu NHNN.
Tuy nhiên, khối lượng phát hành tín phiếu KBNN không nhiều (năm 2000 là 4.521 tỷ
đồng, năm 2001 là 3.736 tỷ đồng, năm 2002 là 7.969 tỷ đồng), tín phiếu NHNN chỉ phát
hành rất hạn chế. Ngoài ra, 2 loại GTCG này lãi suất thấp nên không hấp dẫn các TCTD,
nên việc mua bán GTCG này chỉ tập trung ở các NHTM Nhà nước. Vì vậy, khả năng tham
gia thị trường mở của các TCTC là hạn chế.
Từ năm 2003, OMO được thực hiện trên cơ sở “mua,
bán ngắn hạn tín phiếu KBNN, chứng chỉ tiền gửi, tín
phiếu NHNN và các loại GTCG khác trên thị trường tiền

tệ”. Danh mục GTCG được mở rộng. Sự bổ sung các GTCG
nhằm làm phong phú thêm hàng hóa giao dịch trên thị
trường mở và tăng khả năng “kết dính” các chủ thể đã tham
gia thị trường mở cũng như tăng “sức hút” đối với các chủ thể chưa tham gia thị trường
mở.
Tình hình hoạt động Nghiệp vụ thị trường mở của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
GVHD: PGS.TS.Trương Thị Hồng Trang -18-
Thực hiện: Nhóm 6 –Lớp CH Ngân hàng đêm 4-K19
2.3 Chủ thể tham gia
Chủ thể tham gia OMO gồm có NHNN và các TCTD có đ ủ điều kiện. Các tổ chức
TCTD tham gia vào OMO khi đủ các điều kiện theo điều 5 của quyết định số
01/2007/QĐ-NHNN.
Bảng: Số lượng thành viên tham gia hoạt động trên thị trường mở
Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Thời điểm tháng 7/2000, khi OMO bắt đầu vận hành thì chỉ có 20 TCTD được công
nhận là thành viên thị trường mở. Trong khoảng thời gian từ 2000 – 2004, số thành viên
chủ yếu là các NHTM nhà nước. Từ năm 2005, chính sách điều hành OMO của NHNN có
nhiều thay đổi: bổ sung hàng hóa giao dịch trên thị trường mở, thời gian thanh toán rút
ngắn, tần suất giao dịch các phiên tăng lên, … và nhu c ầu đảm bảo vốn khả dụng của các
TCTD ngày càng tăng trong đi ều kiện canh tranh giữa các TCTD ngày càng gay gắt. Chính
vì vậy, các TCTD nhận thấy khi được là thành viên tham gia thị trường mở, hiệu quả đối
với hoạt động kinh doanh của họ tăng lên. Đến hết năm 2010, số lượng các thành viên
tham gia thị trường mở là 66 TCTD trong đó có 3 NHTM Nhà nư ớc, 38 NHTM cổ phần,
16 Ngân hàng nước ngoài, 4 Ngân hàng liên doanh và 5 công ty tài chính.
Tình hình hoạt động Nghiệp vụ thị trường mở của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
GVHD: PGS.TS.Trương Thị Hồng Trang -19-
Thực hiện: Nhóm 6 –Lớp CH Ngân hàng đêm 4-K19
Bảng: Danh sách thành viên tham gia thị trường mở
Tính đến 31/12/2010
Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Tình hình hoạt động Nghiệp vụ thị trường mở của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
GVHD: PGS.TS.Trương Thị Hồng Trang -20-
Thực hiện: Nhóm 6 –Lớp CH Ngân hàng đêm 4-K19
2.4 Thời gian giao dịch và thời gian thanh toán
Thời gian giao dịch: được xác định theo số phiên giao dịch/ ngày hoặc số phiên giao
dịch/ tuần. Năm 2000, khi mới triển khai, các phiên giao dịch trên thị trường mở được tổ
chức định kỳ với chu kỳ 10 ngày cho một phiên giao dịch. Năm 2001, OMO được tổ chức
với tần suất 1 phiên giao dịch/ tuần vào thứ tư hàng tuần. Sang năm 2002, NHNN tăng định
kỳ tổ chức các phiên là 2 phiên giao dịch/ tuần vào các ngày thứ ba và thứ năm hàng tuần.
Ngoài ra, trong những trường hợp đặc biệt, NHNN tổ chức các phiên đấu thầu đột xuất
theo ngày, khi các TCTD cần nhiều hơn số vốn đáp ứng nhu cầu chi trả, NHNN tổ chức 2
phiên giao dịch/ ngày. Tháng 11/2004, NHNN áp dụng định kỳ 3 phiên giao dịch/ tuần vào
các ngày thứ hai, thứ tư và thứ sáu của tuần nhằm mục đích đáp ứng nhu cầu vốn khả dụng
cho các TCTD. Từ năm 2007, NHNN thường xuyên thực hiện 2 phiên giao dịch/ ngày, chủ
yếu với lệnh chào mua GTCG đồng thời chào bán tín phiếu KBNN vào buổi chiều. Điều
này tăng khả năng quản lý, điều tiết thị trường của NHNN thông qua OMO.
Thời gian thanh toán: có sự thay đổi qua các năm. Năm 2000, NHNN áp d ụng thời
gian thanh toán sau 2 ngày kể từ ngày đấu thầu T+2. Sang năm 2001, thời gian thanh toán
giảm xuống còn T+1. Và từ năm 2002 đến nay, việc thanh toán được thực hiện ngay trong
ngày đấu thầu T+0. Điều này giúp NHNN có thể điều tiết vốn khả dụng của nền kinh tế.
Ngoài ra, giúp các TCTD linh hoạt và chủ động kế hoạch lượng vốn cho hoạt động kinh
doanh.
Bảng: Số lượng các phiên giao dịch và định kỳ giao dịch trên thị trường mở
Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Tình hình hoạt động Nghiệp vụ thị trường mở của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
GVHD: PGS.TS.Trương Thị Hồng Trang -21-
Thực hiện: Nhóm 6 –Lớp CH Ngân hàng đêm 4-K19
2.5 Lãi suất nghiệp vụ thị trường mở
Nhìn chung, lãi suất OMO khá bám sát các lãi suất khác của NHNN công bố như lãi
suất cơ bản, lãi suất TCV và lãi suất chiết khấu. Lãi suất trúng thầu thường nằm giữa mức

lãi suất tái cấp vốn và lãi suất chiết khấu. Lãi suất trúng thầu, trong các phiên đấu thầu lãi
suất, thể hiện khá chính xác và phù hợp với diễn biến thị trường. Ví dụ, từ giữa năm 2008 –
2009, lãi suất OMO đã có sự kết hợp khá chặt chẽ với lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn,
lãi suất tái chiết khấu, lãi suất thị trường liên ngân hàng để định hướng lãi suất thị trường.
Do đó, sự vận động cùng chiều, phối kết hợp chặt chẽ lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp
vốn, lãi suất mua bán trên thị trường mở, lãi suất thị trường liên ngân hàng, lãi suất tái chiết
khấu là cơ sở cho các chủ thể trong nền kinh tế có thể đưa ra những quyết định chính xác
trong việc đầu tư, sản xuất, kinh doanh, … đảm bảo hiệu quả kinh tế cao nhất đối với số
vốn họ nắm giữ. Đây là dấu hiệu đáng mừng với sự ổn định, phát triển của hệ thống tài
chính – ngân hàng và nền kinh tế.
Tình hình hoạt động Nghiệp vụ thị trường mở của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
GVHD: PGS.TS.Trương Thị Hồng Trang -22-
Thực hiện: Nhóm 6 –Lớp CH Ngân hàng đêm 4-K19
Bảng: Mối quan hệ các loại lãi suất
Đơn vị tính: %
Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Tình hình hoạt động Nghiệp vụ thị trường mở của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
GVHD: PGS.TS.Trương Thị Hồng Trang -23-
Thực hiện: Nhóm 6 –Lớp CH Ngân hàng đêm 4-K19
2.6 Doanh số giao dịch trên thị trường mở
Bảng: Doanh số giao dịch trên thị trường mở
Đơn vị tính: tỷ đồng
Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Năm 2000, khi thị trường mở bắt đầu giao dịch thì tổng doanh số trúng thầu là 1.904
tỷ đồng. Nhưng đến cuối năm 2010, tổng doanh số trúng thầu là 2.108.715,320 tỷ đồng,
gấp 1.107 lần so với năm 2000.
Nhìn vào doanh số mua bán trên OMO thì hình thức NHNN mua các GTCG – “bơm”
tiền ra là chủ yếu. Tổng doanh số mua chiếm tỷ trọng lớn trong tổng doanh số giao dịch,
ngoại trừ năm 2007. Điều này cho thấy OMO là một “kênh” cung ứng vốn quan trọng của
NHNN nhằm thực hiện mục tiêu của CSTT.

Khối lượng giao dịch tối đa trong một phiên qua các năm cũng có nhiều thay đổi.
Năm 2000, khối lượng giao dịch tối đa trong một phiên chỉ khoảng 300 tỷ đồng, năm 2003
là 1.500 tỷ đồng. Trong các năm 2008, 2009 trư ớc những biến động bất thường của thị
trường, nhằm đáp ứng khả năng thanh toán cho các TCTD, doanh s ố giao dịch có phiên là
10.000 – 15.000 tỷ đồng. Sang năm 2010, gần đến thời điểm cuối năm, doanh số giao dịch
có phiên 20.000 tỷ đồng. Điều này góp phần ổn định thị trường tiền tệ ngay tức thì, đáp
ứng yêu cầu điều tiết vốn khả dụng của các thành viên tham gia thị trường mở.
Tình hình hoạt động Nghiệp vụ thị trường mở của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
GVHD: PGS.TS.Trương Thị Hồng Trang -24-
Thực hiện: Nhóm 6 –Lớp CH Ngân hàng đêm 4-K19
III. Những kết quả đạt được
3.1 Cơ chế và quy trình OMO đã được không ngừng cải tiến và hoàn thiện
Về cơ bản, các vướng mắc về cơ chế, quy trình và hạ tầng kỹ thuật đã được từng
bước xử lý, khắc phục. Công tác tổ chức, điều hành hoạt động OMO của NHNN được thực
hiện bài bản, bảo đảm an toàn tuyệt đối trong các phiên giao dịch.
Các GTCG được sử dụng trong OMO đã được mở rộng bằng quyết định số
01/2007/QĐ-NHNN về việc ban hành Quy chế nghiệp vụ thị trường mở và quyết định số
11/2010/QĐ-NHNN về danh mục giấy tở có giá được sử dụng trong các giao dịch của
NHNN. Đến nay, nghiệp vụ thị trường mở được hiểu là việc NHNN thực hiện mua, bán
ngắn hạn các loại GTCG với các tổ chức tín dụng.
Quy trình thanh toán từng bước được rút ngắn. Từ thanh toán sau 2 ngày kể từ ngày
đấu thầu (T+2) năm 2000, thanh toán sau ngày đ ấu thầu 1 ngày (T+1) năm 2001 và từ năm
2002 đến nay việc thanh toán được thực hiện ngay trong ngày đấu thầu (T+0).
Tần suất giao dịch cũng được từng bước tăng cường từ 10 ngày/phiên trong thời gian
bắt đầu hoạt động lên 1 tuần/phiên trong năm 2001, 2 phiên/t uần năm 2002. Từ tháng
11/2004 hoạt động OMO đã thực hiện định kỳ 3 phiên/tuần, góp phần điều tiết kịp thời vốn
khả dụng của TCTD. Hiện nay, NHNN đã thực hiện giao dịch hằng ngày và tổ chức thêm
các phiên giao dịch đột xuất (cá biệt 2 phiên/ngày), giúp các TCTD đáp ứng kịp thời vốn
đảm bảo khả năng thanh toán, đảm bảo ổn định thị trường tiền tệ và an toàn hệ thống.
Thủ tục đấu thầu ngày càng được cải tiến. Nhất là từ ngày 15/12/2004, NHNN đã bắt

đầu áp dụng công nghệ trang Web trong giao dịch OMO, cho phép thành viên kết nối trực
tuyến với NHNN, không phải đầu tư máy chủ, tiết kiệm chi phí đầu tư khi tham gia nghiệp
vụ này. Điều này đã tạo điều kiện thu hút thêm thành viên tham gia thị trường, qua đó nâng
cao vai trò điều tiết của công cụ này.
3.2 OMO được kết hợp chặt chẽ và đồng bộ với các công cụ khác nhằm phát tín
hiệu điều hành chính sách tiền tệ và thực hiện mục tiêu của chính sách tiền tệ
Trong thời điểm các TCTD gặp khó khăn về vốn khả dụng, OMO đã được kết hợp sử
dụng đồng bộ với các công cụ CSTT khác như nghiệp vụ hoán đổi ngoại tệ, nghiệp vụ cho
vay cầm cố để hỗ trợ kịp thời cho các TCTD đảm bảo khả năng thanh toán, góp phần duy
trì ổn định tiền tệ và thực hiện mục tiêu CSTT.
Tình hình hoạt động Nghiệp vụ thị trường mở của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
GVHD: PGS.TS.Trương Thị Hồng Trang -25-
Thực hiện: Nhóm 6 –Lớp CH Ngân hàng đêm 4-K19
Nhìn chung, việc điều hành OMO đã được kết hợp tương đối đồng bộ với các công cụ
CSTT khác nhằm thực hiện mục tiêu CSTT. Lãi suất OMO đã kết hợp khá chặt chẽ với lãi
suất TCV, lãi suất chiết khấu để định hướng lãi suất thị trường.
3.3 OMO là kênh để NHNN có được nguồn thông tin về tình hình nguồn vốn của
các TCTD và về tình hình thị trường tiền tệ nói chung, làm cơ sở cho việc điều hành
chính sách tiền tệ.
Trong điều kiện thông tin về thị trường tiền tệ còn chưa thu thập được đầy đủ và kịp
thời, kết quả hoạt động OMO có thể coi là kênh thông tin hữu hiệu phản ánh một phần tình
hình thị trường tiền tệ phục vụ cho điều hành CSTT. Thông qua việc tổng hợp, phân tích
các thông tin về khối lượng, lãi suất đặt thầu và trúng thầu trong các phiên giao dịch OMO
cũng có thể đưa ra các nhận định về vốn khả dụng của các TCTD, cũng như xu hướng lãi
suất thị trường.
Trong điều kiện NHNN chuyển sang điều hành bằng các công cụ tiền tệ gián tiếp như
hiện nay, việc dự báo trước các diễn biến của thị trường để có quyết định phù hợp và kịp
thời về việc điều chỉnh các công cụ CSTT ngày càng đóng vai trò quan trọng. Bằng việc
theo dõi, dự báo thường xuyên vốn khả dụng của các TCTD, NHNN đã nắm bắt được các
diễn biến về vốn của các TCTD để đưa ra các quyết định điều hành OMO và điều hành

CSTT nói chung.
3.4 Hoạt động OMO góp phần phát triển thị trường tiền tệ, hỗ trợ các TCTD sử
dụng vốn hiệu quả
Thông qua hoạt động OMO, tính thanh khoản của các GTCG do các TCTD nắm giữ
được tăng cường. Điều này góp phần thúc đẩy hoạt động của thị trường sơ cấp, giúp cho
các TCTD yên tâm hơn khi đầu tư vào các trái phiếu dài hạn của Chính phủ, khuyến khích
các hoạt động mua bán lại trái phiếu chính phủ.
Nhiều TCTD không chỉ coi việc đầu tư vào trái phiếu chính phủ là hình thức đầu tư
an toàn mà còn là hình thức dự trữ thanh khoản có hiệu quả cao. Khi cần thiết để đảm bảo
khả năng thanh toán, các TCTD có th ể sử dụng các GTCG trong các giao dịch OMO cũng
như các nghiệp vụ thị trường tiền tệ nói chung, tạo điều kiện cho các TCTD điều chỉnh cơ
cấu đầu tư theo hướng tăng tỷ suất đầu tư, giảm thiểu rủi ro trong hoạt động kinh doanh.
Qua theo dõi, phân tích các kết quả hoạt động OMO được công bố rộng rãi trên các
phương tiện thông tin, các TCTD có thể tham khảo về diễn biến thị trường để quyết định
việc tham gia các hoạt động thị trường tiền tệ, nắm bắt tín hiệu về định hướng điều hành
CSTT của NHNN để có hướng cân đối nguồn vốn thích hợp.

×