Tải bản đầy đủ (.pdf) (29 trang)

Mua bán nợ xấu và vai trò của công ty VAMC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (592.48 KB, 29 trang )

PGS.TS BÙI KIM YẾN THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH

VIETNAM ASSET MANAGEMENT COMPANY (VAMC) NH ĐEM 1 – K22- Nhóm 4
Page 1









Tiểu luận
Mua bán xấu và vai trò của công ty
VAMC












PGS.TS BÙI KIM YẾN THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH

VIETNAM ASSET MANAGEMENT COMPANY (VAMC) NH ĐEM 1 – K22- Nhóm 4


Page 2


LỜI MỞ ĐẦU 2
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THỊ TRƯỜNG MUA BÁN NỢ 3
1. Định nghĩa về mua bán nợ 4
2. Thực trạng nợ xấu và thị trường mua bán nợ của Việt Nam hiện nay 6
II. VAMC - TỔ CHỨC MUA BÁN NỢ VIỆT NAM 8
1. Sơ lược về VAMC 8
2. Cơ cấu tổ chức và mô hình hoạt động của VAMC 9
a. Cơ cấu tổ chức của VAMC 9
b. Cơ chế hoạt động của VAMC 11
3. Đặc trưng và định hướng hoạt động của VAMC 11
4. Các hình thức và điều kiện mua nợ của VAMC 12
5. Khung pháp lý và cơ chế giám sát 12
6. Hoạt động của VAMC trong thời gian qua 15
a. VAMC và Agribank 15
b. VAMC và SHB, PGBank và SCB 16
c. VAMC và ACB 16
7. Đánh giá hoạt động của VAMC 17
III. Giải pháp : 24
1. Giải pháp về phía VAMC: 24
2. Giải pháp về phía các Ngân hàng 25
3. Giải pháp về phía các doanh nghiệp : 27
KẾT LUẬN 28
TÀI LIỆU THAM KHẢO 29






LỜI MỞ ĐẦU
PGS.TS BÙI KIM YẾN THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH

VIETNAM ASSET MANAGEMENT COMPANY (VAMC) NH ĐEM 1 – K22- Nhóm 4
Page 3

Nợ xấu là một trong những vấn đề thường trực luôn đe dọa sự tồn tại và phát
triển ổn định của hệ thống tài chính ở các quốc gia. Đặc biệt trong các cuộc khủng
hoảng hay thời kỳ tái cấu trúc hệ thống tài chính, nợ xấu lại được bàn đến như
một trong những vấn đề cốt lõi nhất cần giải quyết. Nhưng đến nay, con số nợ xấu
chính xác là bao nhiêu vẫn là một ẩn số. Đây thực sự là một trong những khó
khăn lớn để giải quyết vấn đề nợ xấu. Kinh nghiệm của nhiều quốc gia cho thấy,
mua bán nợ chính là một trong những biện pháp quan trọng để thoát khỏi khủng
hoảng. Khi xử lý được nợ xấu sẽ ổn định tài chính trong nước và nâng cao sức
mạnh cho các định chế tài chính. Do vậy, phát triển thị trường mua bán nợ là đòi
hỏi tất yếu trong quá trình phát triển kinh tế thị trường trên thế giới cũng như nền
kinh tế Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Thực tế cho thấy, thị
trường này phát triển, sẽ giúp cho tình hình tài chính trong các doanh nghiệp và
cả các ngân hàng thương mại được lành mạnh, minh bạch, giảm rủi ro trong hoạt
động sản xuất, kinh doanh. Tuy nhiên, hiện nay, các cơ chế, chính sách cho thị
trường mua bán nợ ở Việt Nam cũng chưa hoàn chỉnh; chức năng, nhiệm vụ của
các công ty mua bán nợ, đặc biệt là các công ty mua bán nợ tư nhân chưa rõ ràng.
Sự ra đời của VAMC cũng đang tốn nhiều giấy mực của dư luận. Vì vậy, việc
nghiên cứu về thị trường mua bán nợ ở Việt Nam hiện nay nói chung và VAMC
nói riêng và đưa ra các định hướng, giải pháp để phát triển thị trường này là vô
cùng cần thiết, nhằm giải quyết cơ bản vấn đề nợ xấu tại Việt Nam.







I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THỊ TRƯỜNG MUA BÁN NỢ
PGS.TS BÙI KIM YẾN THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH

VIETNAM ASSET MANAGEMENT COMPANY (VAMC) NH ĐEM 1 – K22- Nhóm 4
Page 4

1. Định nghĩa về mua bán nợ
Mua bán nợ là hoạt động kinh tế - tài chính để trao đổi và chuyển nhượng
phần tài sản đặc biệt là các "khoản nợ phải thu" từ đối tượng này sang đối tượng
khác. Về bản chất, đó là việc bán lại "quyền thu hồi nợ" từ một "khoản nợ phải
thu" của bên bán nợ (hay còn gọi là chủ nợ) đối với khách nợ sang cho bên mua
nợ để bên mua nợ trở thành chủ nợ mới của khách nợ. Hoạt động mua bán nợ
được thực hiện đối với các khoản nợ phải thu của chủ nợ, mà không phải là nợ
phải trả của khách nợ.
Ở Việt Nam hiện nay, thị trường mua bán nợ đang trong quá trình hình
thành, do đó còn khá mới mẻ đối với cả người bán, người mua và cơ chế vận
hành, quản lý của Nhà nước. Xét cả về mặt lý thuyết và thực tiễn, hoạt động mua
bán nợ đang được xem là một lối thoát cho doanh nghiệp đang gặp phải nhiều khó
khăn về tài chính trong sản xuất kinh doanh hiện nay. Nếu không có công ty nào
tham gia vào việc mua các khoản nợ đó thì các công ty sẽ lâm vào sản xuất, kinh
doanh cầm chừng, hoặc thu hẹp, thậm chí chờ xin phá sản. Rõ ràng, để thị trường
mua bán nợ hình thành thì điều tiên quyết là phải có chính sách hỗ trợ phát triển
cho các công ty chuyên mua bán nợ và tài sản tồn đọng của các thành phần kinh
tế. Các công ty mua bán nợ với sứ mệnh cao cả là mua bán các tài sản, khoản nợ
của các công ty sản xuất, kinh doanh đang gặp rủi ro lớn về vốn, sẽ tạo điều kiện
cho các công ty nợ tái vốn để tiếp tục hoạt động sản xuất, kinh doanh. Ngược lại,
cũng phải có những công ty do nhiều nguyên nhân (cả khách quan và chủ quan)

dẫn đến nảy sinh những khoản nợ không thể tự mình trả được, sẵn sàng bán các
tài sản, khoản nợ đó cho các công ty mua bán nợ. Cũng như mọi thị trường khác,
trên thị trường mua bán nợ sẽ có các lực của thị trường: các công ty mua bán nợ
là bên cầu, còn các công ty chuyển nhượng nợ là bên cung. Khi đã có cung và cầu
thì phải xây dựng cơ chế vận hành, quản lý; phải có sự cạnh tranh nếu không sẽ
làm cho thị trường mua bán nợ bị méo mó. Để bên cầu và bên cung hợp tác thuận
lợi, hiệu quả thì cần phải có hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách vĩ mô tạo hành
lang pháp lý cho thị trường vận hành trôi chảy như những thị trường khác. Nguồn
cung chủ yếu trên thị trường mua bán nợ là các ngân hàng thương mại, với các
PGS.TS BÙI KIM YẾN THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH

VIETNAM ASSET MANAGEMENT COMPANY (VAMC) NH ĐEM 1 – K22- Nhóm 4
Page 5

khoản nợ xấu khổng lồ chủ yếu từ cho vay kinh doanh bất động sản. Theo số liệu
của Ngân hàng Nhà nước (NHNN, 31/3/2012), con số nợ xấu của hệ thống ngân
hàng hiện nay là 8,6% trên tổng dư nợ (tương đương 202.000 tỷ đồng). Đặc biệt
nguy hiểm, đó là số dư nợ tập trung ở một vài cá nhân, doanh nghiệp ước tính lên
đến ngàn tỷ, do vậy khả năng thu hồi nợ là rất khó khăn. Theo tiến trình phát triển
kinh tế thị trường của Việt Nam đến năm 2020, số lượng doanh nghiệp sẽ tăng lên
khoảng 1 triệu doanh nghiệp, quy mô doanh nghiệp sẽ tăng lên, thị trường sản
xuất, kinh doanh không chỉ trong nước mà còn mở rộng ra toàn cầu. Khi đó, tình
hình sản xuất, kinh doanh sẽ càng phức tạp, đòi hỏi các doanh nghiệp phải có tầm
nhìn chiến lược tốt, năng lực điều hành sản xuất, kinh doanh tốt nếu không sẽ bị
rơi vào nguy cơ rủi ro cao, sẽ nảy sinh nhiều doanh nghiệp sẵn sàng bán các
khoản nợ và tài sản, dẫn đến nguồn cung sẽ rất nhiều và đa dạng. Lúc đó, nhu cầu
mua lại các khoản nợ sẽ rất lớn. Trong khi đó, Việt Nam hiện có rất ít công ty
mua bán nợ hoạt động, chỉ có duy nhất Công ty Mua bán nợ Việt Nam (DATC)
của Bộ Tài chính thực hiện theo chỉ đạo của Chính phủ, và một số công ty mua
bán nợ tư nhân. Tuy nhiên, các công ty mua bán nợ tư nhân này chỉ hoạt động với

vai trò tư vấn doanh nghiệp hoặc chỉ là các tổ chức cho vay nặng lãi, vay nóng trá
hình. Như vậy, cơ sở hình thành độc quyền mua trên thị trường là có khả năng,
mà độc quyền thì sẽ dẫn đến hàng loạt vấn đề về tính minh bạch, vấn đề lợi ích
nhóm, hiệu quả hoạt động, tiêu cực, gây phương hại cho người muốn bán. Có thể
nói, sự hình thành và phát triển thị trường mua bán nợ là yêu cầu khách quan hiện
nay ở Việt Nam. Cũng như các thị trường khác, thị trường mua bán nợ gồm có
các doanh nghiệp sẵn sàng bán (bên cung) và doanh nghiệp có nhu cầu mua (bên
cầu). Nghĩa là phải có nhiều chủ thể mua bán trên thị trường, phải có cơ chế,
chính sách, luật pháp tạo môi trường, hành lang pháp lý cho thị trường hình
thành, hoạt động, phát triển và chịu sự quản lý của Nhà nước. Thị trường mua bán
nợ cũng là một loại thị trường nên sẽ chịu sự chi phối của các quy luật thị trường,
nhất là quy luật cung - cầu, quy luật cạnh tranh và các phạm trù về giá cả, chi phí,
lợi nhuận Do vậy, việc phát triển thị trường mua bán nợ là cần thiết, phải hình
thành trên cơ sở minh bạch, công khai về "hàng hóa" và giá cả. Đây đang là một
PGS.TS BÙI KIM YẾN THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH

VIETNAM ASSET MANAGEMENT COMPANY (VAMC) NH ĐEM 1 – K22- Nhóm 4
Page 6

thách thức lớn đối với nền kinh tế nói chung và trong hệ thống ngân hàng nói
riêng.
2. Thực trạng nợ xấu và thị trường mua bán nợ của Việt Nam hiện nay
Thị trường mua bán nợ ở VN đang trong tiến trình hình thành. Nên nhu
cầu (cung) hiện nay khá nhiều, vì số tổng công ty, DNNN có nợ xấu đang tăng
lên như: các tổng công ty xây dựng giao thông thuộc Bộ Giao thông & Vận tải,
các tổng công ty xây dựng thuộc Bộ Xây dựng, một số tổng công ty thuộc Bộ
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, các đơn vị thành viên thuộc Vinashin chưa
kể đến các doanh nghiệp tư nhân, cổ phần, thậm chí cả liên doanh. Cùng với sự
phát triển nhanh của kinh tế thị trường toàn cầu hóa, cạnh tranh ngày cành gay
gắt, với năng lực điều hành không theo kịp thì nợ của các doanh nghiệp sẽ tăng

lên. Nhu cầu bán tài sản và khoản nợ sẽ ngày càng tăng về số lượng, quy mô và
tính đa dạng. Chẳng hạn riêng trong hệ thống ngân hàng thương mại, tỉ lệ nợ xấu
trong toàn hệ thống đang tăng rất nhanh - từ hơn 3% vào cuối năm 2011, lên 6%
vào đầu năm 2012 và hiên nay lên đến 10%.Với tỉ lệ nợ xấu 10% trong hệ thống
ngân hàng thì chắc hẳn nhiều ngân hàng sẽ có tỉ lệ nợ xấu trên 10% và cũng sẽ có
những ngân hàng có tỉ lệ nợ xấu lên tới 30-40% như Habubank vừa qua. Những
ngân hàng có nhiều nợ xấu nhất tập trung tại các ngân hàng thuộc nhóm 3 và
nhóm 4. Tuy nhiên cũng không nên loại trừ cả các ngân hàng thuộc nhóm 1 và
nhóm 2. Bằng các nghiệp vụ kế toán tinh vi, ngân hàng có thể tránh được việc
phải hạch toán các khoản nợ vào các nhóm nợ 3,4,5. Điều này phản ánh trên thực
tế, trong thời gian qua số liệu về nợ xấu công bố luôn ở mức an toàn. Nhu cầu
mua lại các khoản nợ của các công ty cũng đang gia tăng, hiện nay ở VN, ngoài
công ty mua bán nợ của Bộ Tài chính thì có khoảng 20 công ty quản lý và khai
thác tài sản (A.M.C). Các công ty quản lý và khai thác tài sản ở VN hiện nay hầu
như là do các ngân hàng thương mại (NHTM) đứng ra thành lập và quản lý. Đồ
thị dưới đây thể hiện vốn của một số công ty quản lý và khai thác tài sản thuộc
các ngân hàng lớn: Còn với giá trị nợ xấu từ 14 tỉ USD thì thực sự quy mô của
các công ty quản lý và khai thác tài sản VN là không tương xứng khi mà vốn của
các công ty mua bán nợ chỉ vài trăm tỉ. Bên cạnh đó, nếu nhìn vào các ngân hàng
PGS.TS BÙI KIM YẾN THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH

VIETNAM ASSET MANAGEMENT COMPANY (VAMC) NH ĐEM 1 – K22- Nhóm 4
Page 7

nhóm 1, chủ yếu các NHTM cổ phần như Eximbank, ACB, MBB còn các NHTM
có vốn nhà nước không thực sự tham gia như CTG, VCB, Agribank, BIDV. Nợ
xấu theo báo cáo chính thức của Ngân hàng Nhà nước, đến ngày 31/3 là 8,6%,
tương đương với 202.000 tỉ đồng. Để xử lý khoản nợ xấu này, nhà điều hành
cũng gợi ý giải pháp thành lập công ty mua bán nợ xấu quốc gia (AMC) với số
vốn 100.000 tỉ đồng. Tuy nhiên, theo Ngân hàng Nhà nước, giải pháp về công ty

mua bán nợ xấu vẫn dừng lại ở mức tham khảo và bàn bạc, chứ chưa có gì chính
thức, cụ thể. Để xử lý nợ của các công ty, để có vốn tiếp tục SXKD, Công ty mua
bán nợ cần một lượng vốn khoảng 40.000-80.000 tỉ đồng tương đương với
khoảng 1,6-3,2% GDP của VN năm 2011, trong đó các công ty mua bán nợ có
thể huy động trên thị trường gấp 3 lần số vốn hiện có, thì Nhà nước cần cấp cho
Công ty này là 15.000 - 20.000 tỉ đồng. Đây thực sự là một khó khăn khó vượt
qua trong điều kiện nền kinh tế VN.
Những số liệu trên cho thấy tại VN, nợ xấu phát sinh cao, nhưng thị
trường mua bán nợ lại chưa phát triển, do đó việc xây dựng một thị trường mua
bán nợ quốc gia được xem là giải pháp để giải cứu thị trường tài chính. Theo ước
tính giá trị các khoản nợ xấu của hệ thống NHTM VN là vào khoảng 14 tỉ USD,
để công ty công ty quản lý và khai thác tài sản có thể hoạt động thì phải cần 5-7 tỉ
USD để xử lý các khoản nợ xấu này. Điều này có nghĩa là các NHTM chỉ có thể
thu hồi từ 30-40% giá trị các khoản nợ. Hệ quả sẽ ảnh hưởng đến tổng tài sản và
các hệ số an toàn tài chính; tuy nhiên đấy là một điều cần thiết để làm trong sạch
thị trường tài chính. Nhiều chuyên gia cho rằng xử lý nợ xấu là việc nên quyết
định và hành động nhanh thông qua thị trường mua bán nợ, để tránh những hệ lụy
tiêu cực cho nền kinh tế. Ngân hàng Nhà nước cũng hứa sẽ đưa ra những biện
pháp cụ thẻ trong năm nay để trình Chính phủ. Thực tế cho thấy kể từ khi thành
lập đến nay, Công ty mua bán nợ của Bộ Tài chính đã thực hiện 118 phương án
xử lý nợ với giá trị sổ sách là hơn 7.400 đồng. Như vậy, trung bình mỗi năm,
công ty xử lý được 928 tỉ đồng nợ. Tuy nhiên với khoản nợ xấu ngân hàng gia
tăng đột biến khoảng 270 nghìn tỉ cuối năm 2012, thì tốc độ xử lý của Công ty
mua bán nợ quốc gia phải tăng vốn nhiều lần thì mới đáp ứng đủ. Ở VN, thị
PGS.TS BÙI KIM YẾN THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH

VIETNAM ASSET MANAGEMENT COMPANY (VAMC) NH ĐEM 1 – K22- Nhóm 4
Page 8

trường mua bán nợ đã manh nha hình thành với sự ra đời của các công ty quản lý

tài sản thuộc các ngân hàng và công ty mua bán nợ - DATC thuộc Bộ Tài chính.
Do năng lực tài chính hiện tại của các chủ thể thị trường mua bán nợ chưa đủ để
giải quyết lượng nợ xấu tăng mạnh lên đến hơn 85 nghìn tỉ đồng, tương đương
3,39% của tổng dư nợ hiện nay.Thực tế cũng cho thấy điều kiện cho hoạt động
như vốn, nhân sự, cơ sở vật chất kỹ thuật chưa đảm bảo cho công ty mua bán
nợ phát huy hiệu quả. Trong bối cảnh năng lực tài chính trong nước hạn chế,
nhiều người hiện kỳ vọng vào nguồn vốn nước ngoài. Thị trường mua bán nợ của
VN được coi là cơ hội hấp dẫn trong mắt các nhà đầu tư nước ngoài, nhưng
khuôn khổ pháp lý đang là rào cản hạn chế nguồn vốn từ bên ngoài, đặc biệt tài
sản đảm bảo.
II. VAMC - TỔ CHỨC MUA BÁN NỢ VIỆT NAM
1. Sơ lược về VAMC
VAMC (Vietnam Asset Management Company) là tên viết tắt của công
ty quản lý tài sản quốc gia, được thành lập theo QĐ số 1459/QĐ-NHNN ngày
27/06/2013 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, là một trong những
đề án nhằm xử lý nợ xấu của NHNN. Trong bước đầu tiên của quá trình cơ cấu
nợ, ngân hàng sẽ “chuyển giao” giá trị sổ sách nợ xấu sang VAMC. Đổi lại,
VAMC sẽ phát hành trái phiếu đặc biệt với lãi suất cực thấp cho ngân hàng.
a. Thông tin pháp lý của VAMC
Tên đầy đủ bằng tiếng Việt: CÔNG TY TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN
MỘT THÀNH VIÊN QUẢN LÝ TÀI SẢN CỦA CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG
VIỆT NAM
Tên viết tắt bằng tiếng Việt: CÔNG TY QUẢN LÝ TÀI SẢN
Tên đầy đủ bằng tiếng Anh: VIETNAM ASSET MANAGEMENT
COMPANY
Tên viết tắt bằng tiếng Anh: VAMC
Địa chỉ trụ sở chính: Số 22 Hàng Vôi, phường Lý Thái Tổ, quận Hoàn
Kiếm, thành phố Hà Nội.
PGS.TS BÙI KIM YẾN THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH


VIETNAM ASSET MANAGEMENT COMPANY (VAMC) NH ĐEM 1 – K22- Nhóm 4
Page 9

Vốn điều lệ: 500.000.000.000 đồng (năm trăm tỷ đồng)
Người đại diện theo pháp luật
Họ và tên: Đặng Thanh Bình
Chức danh: Chủ tịch Hội đồng thành viên
Địa chỉ thường trú: Số 332B đường Âu Cơ, Nhật Tân, Tây Hồ, Hà Nội
Quốc tịch: Việt Nam
Số Giấy chứng minh nhân dân: 010107962
b. Nghiệp vụ chính của VAMC
Mua nợ xấu của các tổ chức tín dụng.
Thu hồi nợ, đòi nợ và xử lý, bán nợ, tài sản bảo đảm.
Cơ cấu lại khoản nợ, điều chỉnh điều kiện trả nợ, chuyển nợ thành vốn
góp, vốn cổ phần của khách hàng vay.
Đầu tư, sửa chữa, nâng cấp, khai thác, sử dụng, cho thuê tài sản bảo đảm
đã được Công ty Quản lý tài sản thu nợ.
Quản lý khoản nợ xấu đã mua và kiểm tra, giám sát tài sản bảo đảm có
liên quan đến khoản nợ xấu, bao gồm cả tài liệu, hồ sơ liên quan đến khoản nợ
xấu và bảo đảm tiền vay.
Tư vấn, môi giới mua, bán nợ và tài sản.
Đầu tư tài chính, góp vốn, mua cổ phần.
Tổ chức bán đấu giá tài sản.
Bảo lãnh cho các tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân vay vốn của tổ chức tín
dụng.
Hoạt động khác phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của Công ty Quản lý
tài sản sau khi được Thống đốc Ngân hàng Nhà nước cho phép.
Công ty Quản lý tài sản được ủy quyền cho các tổ chức tín dụng bán nợ
thực hiện các hoạt động được qui định tại điểm b, c, d, e.
2. Cơ cấu tổ chức và mô hình hoạt động của VAMC

a. Cơ cấu tổ chức của VAMC
 Hội đồng thành viên
PGS.TS BÙI KIM YẾN THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH

VIETNAM ASSET MANAGEMENT COMPANY (VAMC) NH ĐEM 1 – K22- Nhóm 4
Page 10

1. Ông Đặng Thanh Bình – Phó Thống đốc kiêm Chủ tịch Hội đồng thành
viên VAMC.
2. Ông Nguyễn Quốc Hùng – Phó Chủ tịch thường trực.
3. Ông Nguyễn Hữu Thủy – Uỷ viên Hội đồng thành viên kiêm Tổng Giám
đốc.
 Ban điều hành
1. Ông Nguyễn Hữu Thủy – Uỷ viên Hội đồng thành viên kiêm Tổng Giám
đốc.
2. Ông Bùi Tín Nghị - Phó Tổng Giám đốc.
3. Ông Lê Quang Châu - Phó Tổng Giám đốc.
4. Ông Đoàn Văn Thắng - Phó Tổng Giám đốc.
 Ban Kiểm soát
1. Bà Lê Thị Mai Hương - Trưởng Ban Kiểm soát.
2. Ông Phạm Tiến Thành - Thành viên
 Các ban nghiệp vụ
1. Ban Hành chính – Nhân sự
2. Ban Mua bán xử lý nợ xấu của tổ chức tín dụng nhà nước
3. Ban Mua bán xử lý nợ xấu của tổ chức tín dụng cổ phần
4. Ban Tài chính – Kế toán
5. Ban Công nghệ thông tin
6. Ban Kiểm tra – Giám sát
7. Ban Pháp chế
PGS.TS BÙI KIM YẾN THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH


VIETNAM ASSET MANAGEMENT COMPANY (VAMC) NH ĐEM 1 – K22- Nhóm 4
Page 11

b. Cơ chế hoạt động của VAMC

3. Đặc trưng và định hướng hoạt động của VAMC
Trờ thành một đơn vị đặc biệt của Nhà nước nhằm chuyên xử lý nhanh
nợ xấu, lành mạnh hóa tài chính, giảm thiểu rủi ro cho các tổ chức tín dụng,
doanh nghiệp và thúc đẩy tăng trưởng tín dụng hợp lý cho nền kinh tế.
Công ty quản lý tài sản hoạt động theo Luật Doanh nghiệp và Nghị định
số 53/2013/NĐ-CP ngày 18/05/2013 của Chính phủ về thành lập, tổ chức và hoạt
động của Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam.
Công ty Quản lý tài sản là doanh nghiệp đặc thù do Nhà nước sở hữu
100% vốn, chịu sự quản lý nhà nước, thanh tra, giám sát trực tiếp của Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam.
Công ty Quản lý tài sản hoạt động với số vốn điều lệ 500.000.000.000 đ
(năm trăm tỷ đồng) và theo nguyên tắc lấy thu bù chi, không vì mục tiêu lợi
nhuận; công khai, minh bạch; hạn chế rủi ro và chi phí trong xử lý nợ xấu.
PGS.TS BÙI KIM YẾN THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH

VIETNAM ASSET MANAGEMENT COMPANY (VAMC) NH ĐEM 1 – K22- Nhóm 4
Page 12

4. Các hình thức và điều kiện mua nợ của VAMC
 VAMC mua nợ xấu theo giá trị ghi sổ và thanh toán bằng trái phiếu đặc
biệt
Khoản nợ xấu trong các hoạt động cấp tín dụng, mua trái phiếu doanh
nghiệp, ủy thác mua trái phiếu doanh nghiệp, ủy thác cấp tín dụng và hoạt động
khác theo quy định của Ngân hàng Nhà nước;

Khoản nợ xấu có tài sản bảo đảm;
Khoản nợ xấu, tài sản bảo đảm phải hợp pháp và có hồ sơ, giấy tờ hợp lệ;
Khách hàng vay còn tồn tại;
Số dư của khoản nợ xấu hoặc dư nợ xấu của khách hàng vay không thấp hơn
mức quy định của Ngân hàng Nhà nước.
 VAMC mua nợ xấu theo giá trị thị trường
Đáp ứng đầy đủ các điều kiện theo quy định tại điểm 1 nêu trên
Được đánh giá có khả năng thu hồi đầy đủ số tiền mua nợ xấu
Tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu có khả năng phát mại
Khách hàng vay có triển vọng phục hồi khả năng trả nợ.
5. Khung pháp lý và cơ chế giám sát
Hỗ trợ cho hoạt động của VAMC, ngày 10.9.2013, Ngân hàng Nhà nước
ban hành thông tư 21/2013/TT-NHNN, quy định về mạng lưới hoạt động của
ngân hàng thương mại có hiệu lực từ ngày 23.10.2013.
Để được thành lập chi nhánh ở trong nước các NHTM phải đáp ứng một số
điều kiện như:
- Thời gian hoạt động từ 12 tháng trở lên.
PGS.TS BÙI KIM YẾN THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH

VIETNAM ASSET MANAGEMENT COMPANY (VAMC) NH ĐEM 1 – K22- Nhóm 4
Page 13

- Hoạt động kinh doanh có lãi theo báo cáo tài chính được kiểm toán…
- Đặc biệt, NH phải thực hiện đầy đủ quy định về phân loại, nợ, trích lập
dự phòng rủi ro theo quy định và tỷ lệ nợ xấu so với tổng dư nợ không được vượt
quá 3%.
Cũng theo thông tư này, các NHTM được thành lập tối đa 10 chi nhánh tại
mỗi khu vực nội thành TP.Hà Nội hoặc nội thành TP.HCM. NH có hoạt động
dưới 12 tháng chỉ được phép thành lập không quá ba chi nhánh và các chi nhánh
này không được thành lập cùng trên một địa bàn tỉnh, thành phố. Đối với các NH

hoạt động từ 12 tháng trở lên được thành lập không quá 5 chi nhánh trong một
năm tài chính.
Đối với các phòng giao dịch, chỉ được thành lập khi các chi nhánh quản lý
có tỷ lệ nợ xấu không quá 3% tổng dư nợ. Các phòng giao dịch không được cấp
tín dụng vượt quá 2 tỉ đồng/khách hàng, trừ trường hợp khoản cấp tín dụng được
bảo đảm bằng toàn bộ tiền, thẻ thiết kiệm, giấy tờ có giá cho chính NH đó phát
hành.
Ngày 06.9.2013 Thông tư 19/2013/TT-NHNN do NHNN ban hành quy định
trái phiếu đặc biệt dùng mua nợ xấu do VAMC phát hành dưới hình thức chứng
chỉ ghi danh, bút toán ghi sổ hoặc dữ liệu điện tử có định danh.
Một trái phiếu được phát hành tương ứng với một khoản nợ xấu được mua,
bán và mệnh giá có giá trị bằng giá mua của các khoản nợ xấu. Các TCTD có tỷ
lệ nợ xấu từ 3% so với tổng dư nợ trở lên phải bán nợ cho VAMC.
Trường hợp không bán nợ, NHNN xem xét áp dụng các biện pháp kiểm
soát. Trên cơ sở thanh tra, định giá, kiểm toán, NHNN yêu cầu TCTD phải bán nợ
cho VAMC. Sau khi mua nợ xấu, VAMC xem xét, điều chỉnh lãi suất đang áp
dụng với khoản nợ xấu đã mua về mức lãi suất hợp lý, phù hợp với khả năng trả
nợ của khách hàng. Tuy nhiên, khách hàng vay phải có phương án trả nợ khả thi.
VAMC bán nợ xấu đã mua theo hình thức đấu giá hoặc chào giá cạnh tranh
với sự tham gia của ít nhất 3 bên mua không có liên quan với nhau. Trường hợp
PGS.TS BÙI KIM YẾN THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH

VIETNAM ASSET MANAGEMENT COMPANY (VAMC) NH ĐEM 1 – K22- Nhóm 4
Page 14

không thể đấu giá, chào giá cạnh tranh thì VAMC bán khoản nợ xấu trên cơ sở
thỏa thuận trực tiếp với bên mua nợ.
Ngoài ra, VAMC cũng có thể bán nợ xấu đã mua bằng trái phiếu đặc biệt
hoặc chuyển khoản nợ xấu đã mua bằng trái phiếu thành vốn điều lệ, vốn cổ phần
tại các doanh nghiệp mua nợ. Tuy nhiên, thông tư quy định, tổng mức đầu tư,

cung cấp tài chính và bảo lãnh của VAMC đối với một khách hàng không vượt
quá 50% vốn điều lệ củaVAMC(không quá 250 tỉ đồng).
Ngày 09.09.2013, Thông tư số 20/2013/TT-NHNN thì quy định về cho vay
tái cấp vốn trên cơ sở trái phiếu đặc biệt của VAMC.
Theo nội dung thông tư, NHNN xem xét và quyết định tái cấp vốn khi
TCTD đáp ứng đủ các điều kiện. Mức tái cấp vốn đối với TCTD trên cơ sở mệnh
giá trái phiếu đặc biệt do Thống đốc NHNN quyết định căn cứ vào mục tiêu điều
hành chính sách tiền tệ, kết quả trích lập dự phòng rủi ro đối với trái phiếu đặc
biệt và kết quả xử lý nợ xấu nhưng không vượt quá 70% so với mệnh giá trái
phiếu đặc biệt.
Lãi suất tái cấp vốn đối với TCTD do Thủ tướng Chính phủ quyết định
trong từng thời kỳ; Lãi suất tái cấp vốn quá hạn bằng 150% lãi suất tái cấp vốn
ghi trên hợp đồng tín dụng giữa NHNN và TCTD. Thời hạn tái cấp vốn dưới 12
tháng nhưng không vượt quá thời hạn còn lại của trái phiếu đặc biệt.
NHNN xem xét, quyết định gia hạn tái cấp vốn đối với TCTD, thời gian gia
hạn mỗi lần không vượt quá thời hạn tái cấp vốn lần đầu của khoản tái cấp vốn
đó.
Ngoài ra, Thông tư cũng quy định cụ thể về trình tự xem xét tái cấp vốn
hoặc gia hạn tái cấp vốn; Trả nợ vay tái cấp vốn; Xử lý đối với việc TCTD không
trả nợ đúng hạn; Trách nhiệm của TCTD, VAMC và trách nhiệm của các đơn vị
thuộc NHNN.
Cùng ngày, NHNN cũng ban hành Thông tư 21/2013/TT-NHNN quy định
về mạng lưới hoạt động của NHTM. Theo đó, kể từ ngày 23/10, để được thành
lập chi nhánh ở trong nước, các ngân hàng phải đáp ứng một số điều kiện như
PGS.TS BÙI KIM YẾN THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH

VIETNAM ASSET MANAGEMENT COMPANY (VAMC) NH ĐEM 1 – K22- Nhóm 4
Page 15

thời gian hoạt động từ 12 tháng trở lên; hoạt động kinh doanh có lãi theo báo cáo

tài chính được kiểm toán; có tỷ lệ nợ xấu so với tổng dư nợ không được vượt quá
3%.
Ngân hàng được thành lập tối đa 10 chi nhánh tại mỗi khu vực nội thành Hà
Nội hoặc nội thành TP.HCM. Các ngân hàng có hoạt động dưới 12 tháng chỉ
được phép thành lập không quá 3 chi nhánh và các chi nhánh này không được
thành lập trên cùng một địa bàn tỉnh, thành phố. Đối với các ngân hàng hoạt động
từ 12 tháng trở lên được thành lập không quá 5 chi nhánh trong một năm tài
chính.
Thông tư 21 đồng thời quy định, số lượng chi nhánh được thành lập của
ngân hàng thương mại phải đảm bảo yêu cầu: 300 tỷ đồng x N1 + 50 tỷ đồng x
N2 < C (Trong đó: C là giá trị thực của vốn điều lệ của NHTM đến thời điểm đề
nghị; N1 là số lượng chi nhánh đã thành lập và đề nghị thành lập tại khu vực nội
thành TP Hà Nội và khu vực nội thành TP Hồ Chí Minh; N2 là số lượng chi
nhánh đã thành lập và đề nghị thành lập tại khu vực ngoại thành TP Hà Nội, TP
Hồ Chí Minh và các tỉnh, thành phố khác trực thuộc Trung ương). Quy định này
cao hơn rất nhiều so với trước đây là chỉ cần 100 tỷ x N1 + 50 tỷ x N2 < C.
6. Hoạt động của VAMC trong thời gian qua
a. VAMC và Agribank
Ngày 01/10/2013, VAMC đã chính thức ký hợp đồng với Ngân hàng
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam (Agribank) mua lại 27 khoản nợ
xấu từ 11 khách hàng doanh nghiệp với giá 1.723 tỷ đồng. VAMC tuyên bố từ
nay đến hết năm sẽ mua về 35.000 - 40.000 tỷ đồng nợ xấu, nhưng nhiều chuyên
gia kinh tế đang lo ngại về đầu ra của các khoản nợ xấu sau khi VAMC mua về.
Giá trị phát hành của trái phiếu đặc biệt cho hợp đồng là 1.723 tỉ đồng.
Giá trị của khoản nợ trên sổ sách là 2.451 tỉ đồng. Giá trị của tài sản đảm bảo các
khoản nợ trong hợp đồng khung có tổng 3.640 tỉ đồng. Các điều kiện của các
khoản nợ đảm bảo được yêu cầu đặt ra của Thông tư 19/2013 quy định về việc
PGS.TS BÙI KIM YẾN THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH

VIETNAM ASSET MANAGEMENT COMPANY (VAMC) NH ĐEM 1 – K22- Nhóm 4

Page 16

mua, bán, xử lý nợ xấu của VAMC. Sau hợp đồng khung này, các hợp đồng con
giữa VAMC và Agribank về các khoản nợ cụ thể cũng sẽ được ký kết riêng biệt.
Cũng trong ngày 1-10, VAMC và Agribank đã ký một số hợp đồng mua nợ cụ thể
với từng khoản nợ trong hợp đồng khung này và các hợp đồng con tiếp theo sẽ
được tiếp tục ký ngay khi thủ tục hoàn tất. VAMC sẽ thanh toán cho Agribank
bằng trái phiếu đặc biệt do VAMC phát hành. Agribank được sử dụng trái phiếu
đặc biệt này để vay tái cấp vốn tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Agribank sẽ
tiếp tục cho vay các dự án có hiệu quả, tập trung cho lĩnh vực nông nghiệp, nông
dân, nông thôn mà trực tiếp là các doanh nghiệp và hộ sản xuất kinh doanh. Với
việc bán các khoản nợ xấu cho VAMC đợt này, Agribank giảm được 7,56% tổng
nợ xấu của toàn hệ thống.
b. VAMC và SHB, PGBank và SCB
Ngày 04/10/2013, VAMC hoàn tất hợp đồng ký kết mua nợ xấu của 3
ngân hàng là Sài Gòn Hà Nội (SHB), Xăng dầu (PGBank) và Sài Gòn (SCB).
Tổng giá trị sổ sách của các món nợ xấu là 1.159 tỷ đồng nhưng được VAMC
mua lại với giá 846 tỷ. Hiện tại, nợ xấu của SHB đang ở mức 9%, PGBank là 8%.
Và dự kiến trong thời gian tới, Ngân hàng TMCP Sài Gòn Hà Nội (SHB) sẽ tiến
hành ký kết hợp đồng mua bán nợ xấu với VAMC với tổng giá trị dự kiến hơn
1.000 tỉ đồng, hầu hết các món nợ xấu này đều là của Habubank chuyển về sau
khi sáp nhập vào SHB. Ngoài những khoản nợ đã bán cho VAMC chiều 4-10, còn
những khoản nợ khác mà VAMC đang trong quá trình rà soát.
c. VAMC và ACB
ACB hiện đang có 3.090 tỷ đồng nợ xấu, chiếm khoảng 2,9% tổng dư nợ.
So với cùng kỳ, số nợ xấu của ACB đã tăng thêm 20%. Tuy tỷ lệ nợ xấu của ACB
vẫn thấp hơn 3%, mức bắt buộc phải bán lại nợ cho VAMC nhưng ACB đang là
ngân hàng đầu tiên dám lên tiếng về khả năng bán lại nợ xấu cho VAMC, với
khoản nợ trị giá khoảng 1.500 tỷ đồng, tức là một nửa số nợ xấu. Trên thực tế
chưa có một cuộc tiếp xúc chính thức nào giữa ACB với VAMC. Con số 1.500 tỷ

PGS.TS BÙI KIM YẾN THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH

VIETNAM ASSET MANAGEMENT COMPANY (VAMC) NH ĐEM 1 – K22- Nhóm 4
Page 17

đồng ngân hàng dự kiến của ACB đưa ra mới chỉ là con số nợ xấu đáp ứng được
các tiêu chí mua lại mà VAMC đặt ra. Còn việc bán nợ hiện mới chỉ là một khả
năng.
7. Đánh giá hoạt động của VAMC
Theo chủ quan của VAMC: " Một mũi tên trúng 3 đích"
Thứ nhất, doanh nghiệp được vay vốn, ngân hàng lành mạnh hơn và kích
hoạt được tín dụng, nền kinh tế được kích cầu khi dòng vốn được kích hoạt. Cụ
thể, sau khi bán nợ ngân hàng có cơ hội cơ cấu lại chính mình để đảm bảo hoạt
động an toàn. Ngân hàng có thể sử dụng trái phiếu đặc biệt vay vốn của Ngân
hàng Nhà nước tối đa 70% để đảm bảo nguồn vốn cho vay tới doanh nghiệp.
Thứ 2, khi nợ xấu giảm, trong điều kiện trích dự phòng rủi ro tối thiểu chỉ
20%/năm sẽ giúp họ đạt chuẩn nợ xấu theo quy định, nâng được uy tín trong và
ngoài nước.
Thứ 3, đối với TCTD sau khi bán nợ cũng được lợi là có cơ hội để tái cơ
cấu lại nợ và cơ cấu lại chính bản thân tổ chức tín dụng để từng bước ổn định hoạt
động. Thêm nữa, tài sản đảm bảo của khách hàng không phải bán rẻ nên họ và
ngân hàng đều được lợi. Đặc biệt, tại thời điểm này lĩnh vực bất động sản đanh rất
trầm lắng thì bán rẻ rất phí nên thông qua xử lý nợ, ngân hàng và doanh nghiệp
đều giữ được tài sản, vẫn có vốn để hoạt động. Ngoài ra, sau khi bán được nợ các
doanh nghiệp cũng được xem xét vay các khoản mới.
Theo đánh giá khách quan của các nhà kinh tế và dư luận: "Còn
nhiều vấn đề cần phải cân nhắc"
Thứ nhất, Công ty mua bán nợ xấu sẽ mua các khoản nợ xấu của các NHTM
và tổ chức tín dụng khác. Hệ quả tỉ lệ nợ xấu của các NHTM sẽ giảm đi. Nhưng
xét trên bình diện tổng thể của nền kinh tế, nhất là Ngân hàng Nhà nước, thì Công

ty mua bán nợ xấu là thuộc NHNN, nên các khoản nợ xấu của các NHTM chỉ
PGS.TS BÙI KIM YẾN THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH

VIETNAM ASSET MANAGEMENT COMPANY (VAMC) NH ĐEM 1 – K22- Nhóm 4
Page 18

chuyển từ đơn vị này sang đơn vị khác trong hệ thống ngân hàng mà thôi và cuối
cùng Nhà nước phải gánh chịu các khoản nợ đó.
Thứ 2, các doanh nghiệp vay vốn của NHTM, do gặp khó khăn trong SXKD
nên không trả được nợ đúng hạn. Do đó, doanh nghiệp không thể tiếp tục vay vốn
cho sản xuất, kinh doanh. Và, đó cũng là một nguyên nhân quyết định phát sinh
nợ xấu của NHTM. Khi Công ty mua bán nợ xấu mua một khoản nợ xấu của
NHTM thì doanh nghiệp vay vốn chưa trả được nợ sẽ trở thành “con nợ” của
Công ty mua bán nợ xấu. Khi “chuyển chủ nợ” thì các doanh nghiệp là “con nợ”
về bản chất không gì thay đổi lớn. Liệu khoản nợ đã “chuyển chủ” có được
khoanh lại và doanh nghiệp sẽ tiếp tục được vay vốn ở các NHTM? Chỉ có ngân
hàng thương mại nào cho vay mới quyết định vấn đề này.
Thứ 3, sau khi mua các khoản nợ xấu của các NHTM, Công ty mua bán nợ
xấu sẽ làm gì với khoản nợ mà doanh nghiệp chuyển sang. Bằng cách nào và bao
lâu sẽ thu hồi số hàng hóa nợ xấu đã mua. Rất có thể đem khoản nợ đã mua bán
cho một công ty mua bán nợ khác khi họ có nhu cầu. Đây là điều rất dễ diễn ra
trong thị trường mua bán nợ. Nếu không thực hiện được những vấn đề trên, thì
Công ty mua bán nợ xấu sẽ khó mà tồn tại được lâu dài v.v Cơ chế, chính sách,
nhất là hệ thống luật pháp chưa đủ để tạo hành lang cho thị trường phát triển.
Chẳng hạn công ty mua bán nợ quốc gia nhận sứ mạng mua các món nợ của các
công ty nhà nước và cả công ty cổ phần (trường hợp Công ty Bình An TP. Cần
Thơ). Vậy thì lợi ích về kinh tế - tài chính mà công ty này nhận được là gì nếu rủi
ro ai sẽ gánh chịu, chẳng lẽ Nhà nước. Nghĩa là lợi ích mà Nhà nước, công ty
mua, công ty bán nhận được là gì, nếu không quản lý tốt sẽ phục vụ cho lợi ích
nhóm.

Thứ 4, VAMC đang sử dụng đòn bẩy tài chính quá rủi ro. Theo bố cáo thành
lập doanh nghiệp, vốn điều lệ của VAMC chỉ 500 tỷ đồng. Trong khi đó, Ngân
hàng Nhà nước hy vọng VAMC xử lý nợ xấu khoảng 40 - 70 nghìn tỷ đồng, còn
Ủy ban Giám sát tài chính Quốc gia cho rằng sẽ xử lý được 100 nghìn tỷ. Giả
định, lấy mục tiêu xử lý khoảng 50 nghìn tỷ đồng thì khi VAMC mua nợ 50 nghìn
PGS.TS BÙI KIM YẾN THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH

VIETNAM ASSET MANAGEMENT COMPANY (VAMC) NH ĐEM 1 – K22- Nhóm 4
Page 19

tỷ đồng và trao lại cho ngân hàng những tờ trái phiếu đặc biệt, trong bảng cân đối
tài sản của VAMC ở một thời điểm nào đó trong tương lai, sẽ là: bên “Nợ” 50
nghìn tỷ đồng nhưng bên “Có” chỉ 500 tỷ đồng từ vốn điều lệ. Đòn bẩy tài chính
ở đây là 50 nghìn tỷ/500 tỷ đồng, bằng 100/1. Thông thường, tỷ lệ đòn bẩy tài
chính ở một ngân hàng đang hoạt động khoảng 10/1, những đơn vị nào có tỷ lệ
này 15/1 được coi là rủi ro, còn nếu ở mức 20/1 là quá rủi ro, hơn nữa thì ngấp
nghé phá sản bất cứ lúc nào. Một VAMC tầm cỡ quốc gia mà đòn bẩy tài chính
như trên là khó thuyết phục về mặt kỹ thuật tài chính.
Tiếp nữa, trái phiếu “đặc biệt” của VAMC là loại trái phiếu gì? Chắc chắn là
không phải trái phiếu Chính phủ, không phải trái phiếu công ty được Chính phủ
bảo lãnh như trái phiếu Ngân hàng Phát triển Việt Nam, trái phiếu Ngân hàng
Chính sách Xã hội và cũng khác xa với tín phiếu Ngân hàng Nhà nước, vốn là
loại giấy tờ có giá đứng đầu về giá trị trong giao dịch nghiệp vụ thị trường mở.
Và cũng vì chưa có tiền lệ nên vẫn còn một băn khoăn nữa về mặt pháp lý:
VAMC hoạt động theo luật công ty, nếu trái phiếu đó không có giá trị do VAMC
hoạt động không hiệu quả thì ai sẽ có trách nhiệm? Do đó, rất nhiều khả năng là
khi các ngân hàng thương mại cầm trái phiếu VAMC, họ sẽ đến Ngân hàng Nhà
nước chiết khấu ngay để lấy tiền tươi thóc thật thay vì giữ lại. Hiện tỷ lệ chiết
khấu cũng chưa rõ bao nhiêu vì Ngân hàng Nhà nước cần phải thống nhất với Bộ
Tài chính. Trong khi đó, mỗi năm các ngân hàng lại phải trích lập dự phòng rủi ro

khoảng 20% trong vòng 5 năm để giảm trừ giá trị trái phiếu về số nợ cần cân
bằng trước khi bán.
8. Kinh nghiệm xử lý nợ xấu trên thế giới:
Các công ty quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng quốc gia đã trở thành
một phần của các chiến lược giải quyết vấn đề nợ xấu của hệ thống ngân hàng
trên thế giới. Các mô hình xử lý nợ xấu sử dụng công ty quản lý tài sản quốc gia
thường chỉ chọn một trong 2 nhiệm vụ hoặc tập trung thanh lý tài sản hoặc tập
trung tái cơ cấu nợ để đẩy nhanh tốc độ xử lý nợ xấu. Và các công ty này chỉ tồn
tại trong khoản thời gian nhất định, vừa tạo áp lực khẩn trương để hoàn thành
PGS.TS BÙI KIM YẾN THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH

VIETNAM ASSET MANAGEMENT COMPANY (VAMC) NH ĐEM 1 – K22- Nhóm 4
Page 20

nhiệm vụ, vừa dẹp bỏ tâm lý ỷ lại tiếp tục dựa dẫm các AMC của các tổ chức tín
dụng sau khi giải quyết nợ xấu.
Một số mô hình AMC điển hình trên thế giới:
*Korean Asset Management Corporation - KAMCO (Hàn Quốc)
Tính đến năm 1998, nợ xấu của toàn bộ hệ thống tài chính Hàn Quốc lên tới
118 ngàn tỉ won, bằng 18% tổng dư nợ (tương đương khoảng 27% GDP của Hàn
Quốc năm 1998), trong đó có 42% là nợ quá hạn từ 3 – 6 tháng, và 58% là nợ quá
hạn trên 6 tháng.
Để giải quyết lượng nợ xấu khổng lồ, Chính phủ Hàn Quốc đã cải tiến lại
chức năng và nhiệm vụ của KAMCO, vốn là một Cty quản lý tài sản nợ thuộc NH
phát triển Hàn Quốc - KDB.
 Nhiệm vụ: giải quyết nợ xấu của hệ thống tín dụng nhằm giúp nền kinh
tế lấy lại đà tăng trưởng. KAMCO có nhiệm vụ điều hành một quỹ quản lý nợ
xấu (NPA) có thời hạn hoạt động năm năm để giải quyết nợ xấu của toàn bộ hệ
thống.
 Phương pháp xử lý: KAMCO phân các tài sản mà nó mua thành 2 loại:

tài sản thông thường và tài sản đặc biệt. Tài sản thông thường là những khoản nợ
xấu mà khả năng được thanh toán là không chắc chắn. Tài sản đặc biệt là những
khoản nợ xấu cho các công ty đang trong quá trình tái tổ chức doanh nghiệp, do
đó các khoản nợ được cơ cấu lại với lãi suất thấp hơn và kéo dài thời gian trả nợ.
Các loại tài sản này lại tiếp tục đươc phân thành các khoản vay có đảm bảo và
không có đảm bảo. Sau khi mua lại, KAMCO sẽ nhóm các khoản nợ xấu này lại
và bán cho các nhà đầu tư thông qua đấu giá quốc tế hoặc KAMCO sẽ phát hành
các chứng khoán có đảm bảo bằng tài sản dựa trên các khoản nợ xấu đã mua.
KAMCO cũng có thể tịch thu thế chấp của các tài sản có đảm bảo. Đôi khi,
KAMCO nắm giữ các khoản nợ xấu và cố gắng tái cơ cấu nợ, tái tài trợ hay
chuyển đổi nợ - vốn chủ nếu KAMCO cho rằng công ty đó có khả năng hồi phục.
 Kết quả: Bằng việc mua lại và xử lý các khoản nợ xấu, KAMCO đã
thành công trong việc xử lý nợ xấu, nâng cao chất lượng tài sản của các ngân
hàng. Tỉ lệ an toàn vốn theo BIS đã tăng đáng kể từ 7% năm 1997 lên 10,8% vào
PGS.TS BÙI KIM YẾN THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH

VIETNAM ASSET MANAGEMENT COMPANY (VAMC) NH ĐEM 1 – K22- Nhóm 4
Page 21

tháng 3 năm 2002, đồng thời tỉ lệ nợ xấu/tổng dư nợ của các ngân hàng giảm từ
16,9% vào năm 1998 xuống còn 2,8% vào năm 2001.
 Giải pháp hỗ trợ: Để khuyến khích khả năng bán các khoản nợ xấu,
Chính phủ Hàn Quốc đã ban hành những luật thuế đặc biệt - một số đã tỏ ra rất có
hiệu quả trong một khoảng thời gian nhất định như:
(1) Giảm thuế trên thặng dư vốn: Thặng dư vốn thu đươc từ việc chuyển đổi
các tài sản sở hữu bởi các tổ chức tài chính như KAMCO đều được giảm 50%
thuế.
(2) Tính vào chi phí: Khi tổ chức tín dụng có số nợ xấu nhiều hơn mức dự
phòng mất vốn, tổ chức tín dụng được phép bù phần nhiều hơn đó với dự phòng
định giá lại tài sản. Phần bù đó được tính vào chi phí khi tính thu nhập chịu thuế

của tổ chức tín dụng.
(3) Miễn giảm thuế giao dịch chứng khoán: Khi KAMCO hay tổ chức tài
chính nào mua cổ phiếu của các tổ chức tài chính mất khả năng thanh toán để tổ
chức lại tổ chức này và chuyển đổi lượng cổ phiếu đó cho bên thứ ba sẽ được
miễn giảm thuế.
*Danaharta - Malaysia:
Khủng hoảng kinh tế Châu Á năm 1997 đã làm đồng Ringgit mất đến 50%
giá trị, niềm tin tiêu dùng suy giảm trầm trọng. Nếu như các khoản nợ xấu tại thời
kỳ ngay trước khủng hoảng dao động từ 2-3% thì khi bong bóng vỡ ra, tỷ lệ nợ
xấu tăng lên hai con số, đỉnh điểm vào tháng 8/1998 khi nợ xấu lên đến 11,4%.
Đối mặt với khủng hoảng kinh tế, tháng 6/1998, Chính phủ Malaysia đã
thành lập ra Danaharta để xử lý nợ xấu, lành mạnh hệ thống tài chính và khôi
phục lại đà tăng trưởng
 Nhiệm vụ: Với tỷ lệ nợ xấu lên 11,4% vào tháng 8/1998, nhiệm vụ của
Danaharta là đưa tỷ lệ nợ xấu về dưới 10%. Tuy nhiên AMC này đặt ra mục tiêu
chỉ mua những khoản nợ xấu trên 5 triệu Ringit, tức là gần 70% tổng nợ xấu trong
hệ thống tài chính. Điều này tương đương với khoảng từ 2.000 đến 3.000 khoản
PGS.TS BÙI KIM YẾN THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH

VIETNAM ASSET MANAGEMENT COMPANY (VAMC) NH ĐEM 1 – K22- Nhóm 4
Page 22

nợ xấu, một con số khả thi với năng lực xử lý của Danaharta trong thời gian 5
năm.
 Phương pháp xử lý: Danaharta mua lại nợ xấu theo giá trị thị trường và
trả bằng 2 cách: tiền mặt hoặc phát hành trái phiếu với lãi suất coupon bằng 0%.
Điều này gúp Danaharta tổi thiểu hóa chi phí đi mua và khiến cho danh mục tài
sản của nó trở nên đáng tin cậy hơn trong mắt các nhà đầu tư. Cũng nhờ mua nợ
theo giá thị trường, Danaharta nắm rõ đặc điểm của từng món nợ và doanh nghiệp
mắc nợ, từ đó có nhiều cách để thực hiện tái cấu trúc lại doanh nghiệp và thu lợi

nhuận lớn sau khi xử lý xong các khoản nợ xấu này.
 Kết quả: Danaharta đã mua 23.1 tỷ Ringgit Malaysia (RM), tương đương
31.8% nợ xấu trong hệ thống ngân hàng, đưa nợ xấu của Malaysia về khoảng
12.4% vào giữa năm 2009. Việc mua bán nợ được thực hiện trong vòng 6 tháng,
nhanh hơn cả mục tiêu đề ra.
 Giải pháp hỗ trợ: Một yếu tố đóng vai trò rất quan trọng giúp cho
Danaharta thành công đó là bởi nó được sự hậu thuẫn đặc biệt từ chính quyền
Malaysia. Vào tháng 8/1998, Luật Danaharta ra đời đem lại bộ khung pháp lý rất
đặc biệt cho tổ chức này. Đạo luật này cho phép Danaharta những đặc quyền mà
không một tổ chức tài chính nào có thể có được trong lịch sử ngành tài chính
quốc gia, đó là: mua lại tài sản của các tổ chức tài chính; bổ nhiệm lãnh đạo ở các
tổ chức đang nợ và có quyền tịch biên những tài sản thế chấp.
* Thai Asset Management Corporation – TAMC (Thái Lan):
Năm 2001, Thái Lan thành lập một công ty quản lý tài sản tập trung có tên
Thai Asset Management Corporation (TAMC)
 Nhiệm vụ: xử lý triệt để vấn đề nợ xấu cho tất cả các TCTD.
 Phương pháp xử lý: Việc xử lý nợ xấu sẽ dựa trên nguyên tắc chia sẻ lời
– lỗ giữa TAMC và các TCTD bán nợ. Nếu nợ xấu có thể sinh lời thì ngân hàng
bán nợ sẽ được hưởng 80% phần lợi nhuận, còn nếu nợ xấu tạo lỗ thì ngân hàng
đó sẽ phải chịu 20% khoản lỗ ấy. Hầu hết nợ xấu của các ngân hàng chuyển sang
TAMC quản lý xuất phát từ các doanh nghiệp bất động sản và sản xuất. Đối với
các khoản vay có thế chấp không còn khả năng trả nợ, TAMC thực hiện tịch thu
PGS.TS BÙI KIM YẾN THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH

VIETNAM ASSET MANAGEMENT COMPANY (VAMC) NH ĐEM 1 – K22- Nhóm 4
Page 23

tài sản thế chấp và bán thanh lý để hoàn phần vốn vay dựa trên nguyên tắc chia sẻ
lời-lỗ. Đối với các khoản vay mà TAMC nhận thấy còn khả năng trả nợ, TAMC
đã chủ động phối hợp với các cơ quan đại diện cho các khu vực kinh tế để đưa ra

các giải pháp khôi phục lại hoạt động sản xuất kinh doanh của các khu vực đó, tạo
nguồn vốn trả nợ.
 Kết quả: tính đến tháng 6/2003, số nợ xấu được TAMC giải quyết là
784,4 tỷ Baht, đạt 73,46% tổng số nợ cần xử lý. Tỷ lệ nợ xấu của hệ thống ngân
hàng Thái Lan giảm rõ rệt xuống 12,9% năm 2003, 10% năm 2004 và tiếp tục
giảm dần ở mức ổn định qua các quý từ năm 2005 đến nay.
Để các AMC thành công thì kinh nghiệm quốc tế cho thấy,
Quy trình xử lý nợ xấu của các AMC gồm 2 khâu chính quan trọng là khâu
thu mua các khoản nợ xấu và khâu xử lý các khoản nợ xấu đã được mua lại. Dù
rằng mục đích của các AMC thường được cho là làm trong sạch bảng cân đối của
các ngân hàng thương mại, các tổ chức tài chính thông qua nghiệp vụ mua lại nợ
xấu, nhưng trong thực tế nó còn phải tìm cách phục hồi giá trị của các tài sản
thanh lý và nợ xấu đã mua ở mức cao nhất có thể.
Thứ nhất, để làm được điều này thì một trong những yếu tố quan trọng là
phải đưa nền kinh tế ra khỏi tình trạng ảm đạm và suy thoái. Nếu không làm được
điều đó thì nợ xấu của các ngân hàng sẽ không thực sự mất đi mà nó chỉ chuyển
lòng vòng trong nền kinh tế.
Thứ hai, nhà nước cần xây dựng một khuôn khổ pháp lý đủ mạnh để có thể
điều tiết toàn bộ các hoạt động liên quan đến việc xử lý nợ xấu, tạo lập một môi
trường hoạt động minh bạch, bình đẳng, thông suốt. Chứ không chỉ hỗ trợ nguồn
vốn ban đầu rồi để các AMC tự xử lý nợ xấu.
Thứ ba, cơ chế định giá các khoản nợ xấu một cách công khai và minh bạch
giảm bất cân xứng thông tin giữa AMC và các ngân hàng, bởi vì các ngân hàng
luôn có nhiều thông tin hơn AMC về những khoản nợ xấu để không thất thoát vốn
nhà nước mà không đạt được hiệu quả. Và các quyết định mua bán nợ cần phải
được độc lập về chính trị để đảm bảo các AMC có thể đạt mục tiêu xử lý nợ.
Thứ tư, các AMC phù hợp về qui mô, phải có đầy đủ các nguồn lực về vốn,
nhân sự, năng lực đánh giá được rủi ro và xếp loại các tài sản, nợ xấu mà các
PGS.TS BÙI KIM YẾN THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH


VIETNAM ASSET MANAGEMENT COMPANY (VAMC) NH ĐEM 1 – K22- Nhóm 4
Page 24

ngân hàng mang đến bán cho mình. Đồng thời phải ngăn ngừa được rủi ro đạo
đức, tâm lý ỷ lại của các ngân hàng khi bán nợ xấu cho AMC. Không để phát sinh
nhiều nợ xấu mới trong nền kinh tế trong khi nợ xấu cũ vẫn chưa xử lý xong.
III. Giải pháp :
1. Giải pháp về phía VAMC:
Một là,chốt lại mục đích chính nhất của VAMC là gì? Vì với một số vốn
nhỏ 500 tỷ đồng mà vừa muốn xử lý nợ xấu , vừa muốn tái cơ cấu doanh nghiệp
thì giống như một chân hai thuyền. Với số vốn điều lệ là 500 tỷ đồng chủ yếu để
duy trì hoạt động của mình, để giải cứu được số nợ xấu bằng giải pháp mua theo
giá thị trường có lẽ số vốn VAMC cần phải lên đến hàng trăm nghìn tỷ nhưng
điều này đã không được Quốc hội chấp nhận
Hai là, có nguồn vốn thích hợp và ban quản lý chuyên nghiệp và nguồn
nhân lực có trình độ chuyên môn.Việc mua theo giá thị trường cần quá trình
đánh giá tài sản phức tạp và mất nhiều thời gian cũng như nguồn lực và sự đồng
thuận của tổ chức bán nợ, kể cả tất cả điều này diễn ra một cách thuận lợi thì
VAMC cũng không thể mua được vì không có vốn, tất cả vốn điều lệ của VAMC
chỉ là 500 tỷ đồng, trong khi số nợ xấu lên đến hàng trăm nghìn tỷ. Xử lý và tái cơ
cấu nợ xấu đòi hỏi phải có lượng nhân sự giàu kinh nghiệm, vững vàng về chuyên
môn, chịu trách nhiệm cao bởi khối lượng tài sản xử lý lên đến hàng nghìn tỷ,
phải có đãi ngộ tương xứng với đóng góp của họ. Điều này xem ra khó khả thi bởi
VAMC là một công ty nhà nước với cơ chế lương thưởng, khuyến khích đã được
đóng khung, đến hiện tại ngoài bộ khung lãnh đạo VAMC được công bố, các vị
trí khác VAMC vẫn đang tuyển.
Ba là, sự độc lập chính trị của VAMC, đây là điều rất khó khả thi vì
VAMC sẽ chịu nhiều áp lực từ các nhóm lợi ích khác nhau.Một phần nợ xấu
rất lớn chiếm 70% tổng mức nợ xấu trong nền kinh tế tập trung ở các Doanh
nghiệp nhà nước khoản nợ này đã làm điêu đứng rất nhiều ngân hàng buộc họ

phải sát nhập hay bị thâu tóm để tránh nguy cơ phá sản.Với khoản nợ rất lớn như
vậy nhưng tài sản đảm bảo không có, hoặc rất khó xử lý, nếu theo khoản 1, điều 8
PGS.TS BÙI KIM YẾN THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH

VIETNAM ASSET MANAGEMENT COMPANY (VAMC) NH ĐEM 1 – K22- Nhóm 4
Page 25

của Nghị định 53 thì các khoản nợ của các tập đoàn này chắc chắn không được
VAMC mua. Tuy nhiên, theo khoản 3 của điều này thì Thủ tướng Chính phủ
quyết định việc Công ty Quản lý tài sản mua lại các khoản nợ xấu của tổ chức tín
dụng không đáp ứng đầy đủ các điều kiện, điều này cho thấy một ngoại lệ hay
một kẽ hở rất lớn trong nghị định này.Không có gì đảm bảo rằng Chính phủ
không sử dụng VAMC như một công cụ bơm tiền gián tiếp cho các tập đoàn nhà
nước này với các lý do thuyết phục như cứu Vinashin, Vinalines là cứu nền kinh
tế, chỉ khi các tập đoàn nhà nước khỏe mạnh thì nền kinh tế mới khỏe mạnh. Điều
này nhiều khi không giải quyết được vấn đề nợ xấu cốt lõi là do tham nhũng, hoạt
động kém hiệu quả mà nó còn gia tăng nợ xấu cũng như lạm phát.
2. Giải pháp về phía các Ngân hàng
* Ngân hàng thương mại :
+ Tuân thủ chặt chẽ các quy định về trích lập dự phòng.
+ Gấp rút tái cơ cấu lại các khoản nợ đối với nhóm khách hàng có năng lực
kinh doanh tốt nhưng gặp khó khăn tạm thời hoặc thực hiện thu hồi nợ thông qua
việc xử lý các tài sản đảm bảo, khai thác tài sản đảm bảo, tiếp tục theo đuổi các
vụ kiện để thu hồi một phần nợ từ thanh lý tài sản của DN phá sản.
+ Thực hiện các biện pháp thu nợ có chiết khấu. Đây là hình thức giảm giá
trị khoản nợ phải trả cho DN khách nợ, giá trị chiết khấu do ngân hàng và DN
thoả thuận nhưng theo hướng có lợi cho DN nhằm thúc đẩy khách nợ thanh toán
dứt điểm khoản nợ, ngân hàng tuy chịu thiệt một chút nhưng cũng sớm thu hồi
được một phần vốn và cắt bỏ được "cục nợ" dây dưa này.
+ Một hướng đi mới trong việc xử lý nợ xấu là chuyển nợ thành vốn góp

gắn với tái cấu trúc DN, đây là hoạt động khá mới tại Việt Nam và cũng chỉ có
DATC đã thực hiện thành công hoạt động này. Sau khi mua nợ từ các chủ nợ,
DATC đàm phán với chủ sở hữu, cổ đông khác của DN để chuyển nợ thành vốn
góp (riêng đối với DNNN thực hiện cổ phần hoá thì DATC phải tham gia đấu giá
cổ phần theo quy định). Sau khi trở thành cổ đông, DATC thực hiện các giải pháp
tái cấu trúc DN như xoá một phần nợ và lãi, hoãn trả nợ, thay đổi thời gian trả nợ,

×