Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

Đề tài khoa học nghiên cứu đề tài Tư tưởng Đại đoàn kết Hồ Chí Minh và sự vận dụng của Đảng ta trong công cuộc đổi mới hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (187.91 KB, 29 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Đại đoàn kết là một tư tưởng lớn được hình thành và phát triển cùng
với toàn bộ quá trình hoạt động lý luận và thực tiễn của Chủ tịch Hồ Chí
Minh.
Theo Người, đại đoàn kết dân tộc không phải là sách lược trong một
thời kỳ, một giai đoạn cách mạng mà là chiến lược cơ bản lâu dài xuyên suốt
tiến trình cách mạng Việt Nam, là nguồn sức mạnh vô tận làm nên thắng lợi
của cách mạng Việt Nam. Người từng nói “đoàn kết là một truyền thống cực
kỳ quý báu của Đảng và của dân ta”
1
, và Người đòi hỏi mỗi người, trước hết
là đảng viên phải giữ gìn sự đoàn kết, thống nhất như “giữ gìn con ngươi của
mắt mình”
2
bởi đó là một trong những nhân tố hàng đầu để giành và giữ độc
lập dân tộc, xây dựng xã hội mới xã hội chủ nghĩa.
Tư tưởng đại đoàn kết của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trở thành đường
lối, chiến lược đại đoàn kết của Đảng ta. Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội do Đại hội VII (năm 1991) thông
qua khẳng định: “đoàn kết là truyền thống quý báu và bài học lớn của cách
mạng nước ta”. Tổng kết bài học kinh nghiệm của 15 năm đổi mới, Báo cáo
Chính trị tại Đại hội IX viết: “Để công cuộc đổi mới thành công phải động
viên được mọi tầng lớp nhân dân và các thành phần kinh tế tham gia”. Gần
đây nhất, Đại hội lần thứ X của Đảng lại tiếp tục khẳng định và coi đó là
“nhân tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững ổn định
chính trị - xã hội của đất nước”.
Chính vì Đại đoàn kết dân tộc có ý nghĩa như vậy, đặc biệt muốn
nhằm hiểu rõ hơn tư tưởng Đại đoàn kết của Hồ Chí Minh và việc vận dụng
1, 2.
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. CTQG, H, 1996, t.12, tr.497.


2
1
của Đảng trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp cách mạng nước ta, chúng tôi
mạnh dạn lựa chọn vấn đề “ Tư tưởng Đại đoàn kết Hồ Chí Minh và sự
vận dụng của Đảng ta trong công cuộc đổi mới hiện nay” làm đề tài
nghiên cứu khoa học cấp cơ sở nhằm vừa góp phần bổ sung, nâng cao hơn
nữa chất lượng nghiên cứu, giảng dạy môn Tư tưởng Hồ Chí Minh mà Khoa
đang đảm nhiệm, vừa góp phần khẳng định ý nghĩa lý luận và thực tiễn của
tư tưởng Đại đoàn kết Hồ Chí Minh trong sự nghiệp đổi mới, công nghiệp
hóa – hiện đại hóa đất nước hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu.
Tư tưởng Đại đoàn kết là một bộ phận quan trọng trong di sản Tư
tưởng Hồ Chí Minh, vì thế đã được nhiều tập thể khoa học, nhiều người
nghiên cứu ở các góc độ khác nhau:
- Tìm hiểu Tư tưởng Hồ Chí Minh với thời đại. Nxb Lao Động, H,
1991.
- GS. Lê Ngọc: Về Tư tưởng Đại đoàn kết của Hồ Chí Minh. Tạp chí
Lịch sử Đảng, số 3 – 1993.
- PGS.TS. Lê Sĩ Giáo: Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết các dân tộc
thiểu số. Tạp chí Lịch sử Đảng, số 3- 1994.
- GS.TS. Phan Ngọc Liên: Tìm hiểu Tư tưởng Hồ Chí Minh về một số
vấn đề quốc tế. Nxb. CTQG, H, 1995.
- PGS.TS. Phùng Hữu Phú: Chiến lược đại đoàn kết Hồ Chí Minh.
Nxb.CTQG, H, 1995.
- GS. Đinh Xuân Lâm – TS. Bùi Đình Phong: Tư tưởng đại đoàn kết
dân tộc của Hồ Chí Minh với thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám. Tạp chí
Cộng sản, số 20 – 1995.
2
- TS. Trần Hậu: Quán triệt tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Chủ tịch
Hồ Chí Minh trong sự nghiệp xây dựng đất nước quá độ lên CNXH. Tạp chí

Lịch sử Đảng, số 6 – 1995.
- Đỗ Mười – Lê Quang Đạo: Đại đoàn kết dân tộc vì sự nghiệp dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Nxb.CTQG, H,
1996.
- Vũ Oanh: Đại đoàn kết dân tộc phát huy nội lực nâng cao hiệu quả
hợp tác quốc tế thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Nxb.CTQG, H, 1998.
- TS. Lê Văn Yên: Hồ Chí Minh với chiến lược đại đoàn kết quốc tế
trong cách mạng giải phóng dân tộc, Nxb.QĐND, H, 1998.
- GS.TS. Phùng Hữu Phú: Chiến lược đại đoàn kết dân tộc của Đảng
Cộng sản Việt Nam. Nxb.CTQG, H, 2003.
- Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng: Tư tưởng Hồ Chí Minh
về việc đại đoàn kết với vấn đề phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc
trong thời kỳ mới. Nxb.CTQG, H, 2004. (Cuốn sách được tuyển chọn từ
những bài tham luận trong Hội thảo khoa học có chủ đề: Tư tưởng đại đoàn
kết của Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh
tổ chức vào tháng 5 – 2003).
Nhìn chung, các công trình, bài viết trên đều đã khẳng định và làm rõ
được Tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh và sự vận dụng vào trong thực
tiễn cách mạng Việt Nam của Đảng ta. Một số tác giả cũng đã mạnh dạn đề
cập đến những hạn chế của việc thực hiện chiến lược đại đoàn kết trong
nhiều thập kỷ qua. Nhưng chưa có công trình nào nghiên cứu tư tưởng đại
đoàn kết của Người một cách có hệ thống, nhất là việc vận dụng trong công
cuộc đổi mới với rất nhiều thách thức mới đang đặt ra.
3. Mục tiêu nghiên cứu.
3
Phân tích, làm rõ những nội dung của chiến lược đại đoàn kết trong tư
tưởng Hồ Chí Minh. Đảng ta vận dụng chiến lược đại đoàn kết Hồ Chí Minh
trong giai đoạn cách mạng hiện nay. Đề xuất một số giải pháp, định hướng
nhằm phát huy hơn nữa sức mạnh đại đoàn kết theo Tư tưởng Hồ Chí Minh

trong thời kỳ mới.
4. Nội dung nghiên cứu.
- Nghiên cứu những cơ sở hình thành tư tưởng đại đoàn kết của Hồ
Chí Minh.
- Những nội dung chiến lược đại đoàn kết trong tư tưởng Hồ Chí
Minh.
- Vận dụng chiến lược đại đoàn kết Hồ Chí minh trong giai đoạn cách
mạng hiện nay.
- Một số định hướng, giải pháp nhằm phát huy hơn nữa sức mạnh đại
đoàn kết theo Tư tưởng Hồ Chí Minh trong sự nghiệp đổi mới, công nghiệp
hóa – hiện đại hóa đất nước.
5. Phương pháp nghiên cứu.
Vận dụng phương pháp nghiên cứu tổng hợp mang tính chất liên
ngành, trong đó phương pháp chủ yếu là phương pháp lịch sử và lôgíc, kết
hợp với các phương pháp khác như thống kê, so sánh, điều tra xã hội học
qua khảo sát thực tế để đưa ra những luận cứ, luận chứng bảo đảm tính xác
thực và độ tin cậy.
6. Đóng góp mới về khoa học của đề tài.
- Góp phần làm rõ hệ thống quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về
Đại đoàn kết và sự vận dụng của Đảng ta trong công cuộc đổi mới hiện nay.
- Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể làm tài liệu tham khảo cho công
tác nghiên cứu, giáo dục Tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung cũng như nghiên
4
cứu và giảng dạy cho các lớp chuyên ngành Tư tưởng Hồ Chí Minh ở Học
viện Báo chí và Tuyên truyền nói riêng.
7. Kết cấu của đề tài.
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài
được kết cấu gồm 3 chương, 9 tiết.
5
V. XÂY DỰNG KHỐI ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN TỘC KẾT

HỢP VỚI MỞ RỘNG HỘI NHẬP QUỐC TẾ DƯỚI ÁNH SÁNG TƯ
TƯỞNG HỒ CHÍ MINH.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là anh hùng giải phóng dân tộc của Việt Nam,
một nhà văn hóa lớn, một chiến sỹ cộng sản quốc tế, đã cống hiến trọn đời
mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam, góp phần
vào cuộc đấu tranh chung của các dân tộc vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân
chủ và tiến bộ xã hội;… Những thành tựu vẻ vang của nhân dân Việt Nam
gắn liền với Chủ tịch Hồ Chí Minh, và Người là một trong những vĩ nhân
của thế kỷ XX đã để lại dấu ấn trong quá trình phát triển của nhân loại. Tư
tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống hoàn chỉnh những luận điểm khoa học
về chính trị, quân sự, văn hóa… Một nội dung nổi bật, xuyên suốt và nhất
quán trong tư duy lý luận và hoạt động thực tiễn của Chủ tịch Hồ Chí Minh
là chiến lược đại đoàn kết dân tộc, phát huy sức mạnh dân tộc kết hợp với
sức mạnh thời đại trong sự nghiệp đấu tranh vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội. Đó là một cống hiến đặc sắc, độc đáo, đã trở thành một bộ phận trong
đường lối chiến lược của Đảng Cộng sản Việt Nam, là nhân tố cực kỳ quan
trọng góp phần tạo nên những thắng lợi trong quá trình đấu tranh cách mạng
của Đảng ta, dân tộc ta.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc và đoàn
kết quốc tế là sự kế thừa, phát triển những giá trị truyền thống dân tộc và văn
hóa nhân loại, đặc biệt là những nguyên lý của chủ nghĩa Mác – Lênin. Đó
là truyền thống yêu nước, nhân văn được hun đúc qua lịch sử dựng nước và
giữ nước hàng ngàn năm, đấu tranh không mệt mỏi khắc phục thiên tai,
chống giặc ngoại xâm của một quốc gia nhỏ bé, đa dân tộc, đa tôn giáo. Tư
tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc là sự thể hiện những giá trị văn
hóa phương Đông, tư tưởng đại đồng, nhân ái, hòa hợp của Nho giáo và Phật
6
giáo, là tiếp thụ giá trị văn hóa phương Tây, những hạt nhân hợp lý của tư
tưởng dân chủ tư sản tiến bộ: tự do, bình đẳng, bác ái. Tinh hoa văn hóa của
nhân loại, những yếu tố hợp lý không chỉ được Người tiếp thụ mà được sàng

lọc, bồi đắp.
Nền tảng cốt yếu nhất của tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết
chính là yêu cầu từ thực tiễn cách mạng Việt Nam, chủ nghĩa nhân văn cao
cả của Hồ Chí Minh, với tấm lòng yêu nước, thương dân vô hạn.
Chiến lược đại đoàn kết Hồ Chí Minh bao gồm nhiều cấp độ, đoàn kết
trong Đảng, đoàn kết toàn dân tộc và đoàn kết quốc tế mà nội dung chủ yếu
là đoàn kết dân tộc, lấy dân làm gốc, lấy lợi ích của toàn dân tộc làm trọng,
đại đoàn kết dân tộc là sức mạnh nội sinh, làm cơ sở để phát huy sức mạnh
đoàn kết quốc tế, xây dựng tình đoàn kết, hữu nghị với các nước trên thế
giới.
Trên cơ sở nền tảng đó, Hồ Chí Minh đã tập hợp, phát huy sức mạnh
đoàn kết toàn dân tộc, tạo thành sức mạnh tổng lực của cả cộng đồng dân tộc
trong Mặt trận dân tộc thống nhất và sức mạnh đoàn kết quốc tế giữa các dân
tộc bị áp bức, nhân dân yêu chuộng hòa bình thế giới, hướng mũi nhọn đấu
tranh vào giặc ngoài, thù trong, các thế lực phản động.
Trong thời kỳ cách mạng giải phóng dân tộc, mâu thuẫn nổi bật, bao
trùm là giữa toàn thể dân tộc Việt Nam và các thế lực ngoại xâm, giữa nhân
dân tiến bộ, yêu chuộng hòa bình thế giới, các nước trong phe xã hội chủ
nghĩa và chủ nghĩa đế quốc, phản động, hiếu chiến. Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã lấy độc lập tự do và hòa bình hữu nghị - lợi ích tối cao của quốc gia và
mỗi con người làm mẫu số chung cho mặt trận đoàn kết dân tộc và quốc tế.
Ngày nay, đất nước đã được độc lập, tự do hoàn toàn. Đảng lãnh đạo
nhân dân thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, thực hiện xây dựng nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, từng bước hội nhập quốc tế
7
trong điều kiện tình hình quốc tế có nhiều thay đổi, phương thức sản xuất tư
bản chủ nghĩa đang còn phát huy tác dụng về mặt phát triển kinh tế; toàn cầu
hóa, quốc tế hóa đang là xu hướng chung… vấn đề xây dựng khối đại đoàn
kết dân tộc, kết hợp hội nhập quốc tế, phát huy sức mạnh thời đại đặt ra cho
chúng ta yêu cầu vận dụng, phát huy sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn

đề này.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần nhấn mạnh quan điểm
về nội dung, con đường đầy khó khăn, phức tạp và lâu dài của cách mạng xã
hội chủ nghĩa ở nước ta. Trong đó, Người cũng chỉ ra đặc điểm lớn nhất là
nước ta từ nước nông nghiệp lạc hậu tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai
đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Chiến lược đại đoàn kết phải làm sao xây
dựng được mặt trận dân tộc thống nhất, tập hợp rộng rãi nhân dân vào khối
đại đoàn kết dân tộc bao gồm các dân tộc, giai cấp, tôn giáo, các giới… khi
mà vị trí, quyền lợi về kinh tế, xã hội của mỗi cá nhân, thành phần xã hội có
sự khác nhau, không thống nhất. Và như vậy, xây dựng khối đại đoàn kết
trong thời kỳ đổi mới đất nước, mở cửa, hội nhập không phải là một vấn đề
mới đặt ra, mà có thể tìm thấy những lý luận và bài học quý trong tư tưởng
Hồ Chí Minh về đại đoàn kết. Bởi vì với Chủ tịch Hồ Chí Minh, đại đoàn
kết là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, lâu dài, xuyên suốt mọi thời kỳ cách
mạng; không phải chỉ là vấn đề phương thức tập hợp, hình thức tổ chức lực
lượng cách mạng trên một trận tuyến đấu tranh mà là một bộ phận xuyên
suốt, thấm đẫm trong đường lối chiến lược cách mạng.
Trong chiến lược đại đoàn kết dân tộc, vấn đề căn bản, quyết định
nhất để xây dựng được khối đại đoàn kết toàn dân tộc là tìm được điểm
thống nhất, mẫu số chung. Theo Hồ Chí Minh, mẫu số chung của khối tập
hợp là thành tâm yêu nước, cùng hướng vào mục tiêu độc lập dân tộc, nhân
dân tự do, hạnh phúc. Đó chính là quyền lợi cơ bản, tối cao của quốc gia dân
8
tộc và quyền chính đáng của mỗi con người. Tâm điểm cho sự quy tụ toàn
dân tộc là chân lý “ không có gì quý hơn độc lập, tự do”, từ đó mà vượt qua
những điểm khác biệt giữa các thành viên trong quốc gia dân tộc.
Để xây dựng khối đại đoàn kết vững chắc, chất kết dính mọi thành
viên lại là truyền thống yêu nước nồng nàn, ý chí tự lực tự cường, lòng tự
tôn dân tộc, truyền thống văn hiến. Dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh,
Đại hội VIII và Đại hội IX của Đảng khẳng định: “ Phát huy sức mạnh của

cả cộng đồng dân tộc, truyền thống yêu nước, và lòng tự hào dân tộc vì mục
tiêu giữ vững độc lập, thống nhất, tiến lên dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh, lấy mục tiêu đó làm điểm tương đồng”
1
. Đồng
thời, trong điều kiện đi lên chủ nghĩa xã hội từ nền nông nghiệp lạc hậu, bỏ
qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, chủ trương xây dựng nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, với nhiều thành phần kinh tế cùng
tồn tại, cạnh tranh nhau, nhiệm vụ chủ yếu là xóa bỏ các tàn tích của chế độ
phong kiến, các tầng lớp, giai cấp có quyền lợi, địa vị kinh tế, chính trị khác
nhau; phải xác định khối đại đoàn kết là đại đoàn kết tự giác, có tổ chức, có
lãnh đạo, trong đó xương sống là “ phải dựa vào giai cấp công nhân, lấy liên
minh công nông làm nền tảng vững chắc để đoàn kết các tầng lớp khác trong
nhân dân”
2
. Trong sự phát triển chung của dân tộc, chấp nhận những yếu tố
khác biệt của mỗi bộ phận dân cư, đồng thời có chính sách đoàn kết với từng
cộng đồng xã hội: tôn giáo, giai cấp, dân tộc, lứa tuổi,… chấp nhận – tôn
trọng những điểm khác nhau không trái với lợi ích chung của dân tộc, cùng
nhau xóa bỏ định kiến, mặc cảm, hướng tới tương lai, cởi mở, tin cậy lẫn
nhau.
1
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 1996, tr.122.
2
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.10, tr.605.
9
Trong bối cảnh quốc tế, mở cửa, hội nhập, toàn cầu hóa trở thành xu
thế tất yếu, vấn đề dân chủ, nhân quyền theo tiêu chí phương Tây đang trở
thành cái cớ để chủ nghĩa đế quốc can thiệp, quốc tế hóa, thì từ sớm trong

chiến lược đại đoàn kết Hồ Chí Minh, tin vào dân, dựa vào dân, đấu tranh vì
dân đã là một nguyên tắc tối cao. Dân là gốc đã là nguyên tắc cơ bản, xuyên
suốt trong tư duy chiến lược và mọi hoạt động, đã trở thành tư tưởng chỉ đạo
trong xây dựng Mặt trận qua các thời kỳ cách mạng. Theo đó, xây dựng mặt
trận dân tộc thống nhất là xuất phát từ nhu cầu khách quan của chính phong
trào cách mạng của quần chúng nhân dân và vì mục tiêu giành thắng lợi của
cuộc đấu tranh. Những mâu thuẫn giai cấp, âm mưu chống đối trong nước và
từ bên ngoài vẫn tồn tại, đặc biệt là khi có sự tiếp tay của các thế lực phản
động, cường quyền, đặt ra yêu cầu phải xử lý những mâu thuẫn theo hướng
tranh thủ mọi khả năng, phát triển cộng đồng, tránh đẩy tới mâu thuẫn đối
kháng, có lợi cho quần chúng nhân dân lao động, không để các thế lực thù
địch, phản động chia rẽ.
Trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc, Đảng Cộng sản là một bộ phận
hữu cơ, là hạt nhân lãnh đạo và là linh hồn của khối đại đoàn kết. Đoàn kết
nội bộ Đảng là chỗ dựa, là cơ sở để đoàn kết dân tộc và khối đại đoàn kết
dân tộc chỉ có thể xây dựng được khi đường lối cách mạng có mục tiêu,
phương pháp phù hợp với nguyện vọng, quyền lợi của đại đa số nhân dân.
Đại đoàn kết dân tộc là nguồn sức mạnh vô địch, là nền tảng, bệ đỡ
cho hoạt động hội nhập quốc tế, phát huy sức mạnh thời đại, tranh thủ những
thời cơ và vận hội trong quá trình xây dựng đất nước. Trong tiến trình hội
nhập quốc tế rất đa dạng và phức tạp, chứa đựng những vấn đề thống nhất và
đối lập, cơ hội và thách thức đan xen, nhiều vấn đề không đồng nhất với tính
độc lập của những yếu tố quốc gia dân tộc. Nguyên tắc trong mở rộng quan
hệ quốc tế được Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu ngắn gọn trong câu “Dĩ bất biến,
10
ứng vạn biến” và trở thành nguyên tắc của Đảng ta là giữ vững độc lập tự
chủ, bình đẳng và cùng có lợi, vì hòa bình, hữu nghị và phát triển. Trên cơ
sở đó tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ của nhân dân thế giới, kết
hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại.
Trung thành, phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh, trong quá

trình lãnh đạo cách mạng xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là trong thời kỳ đổi mới,
Đảng ta đã đồng thời khai thác những điều kiện thuận lợi mới trong quan hệ
đối ngoại, mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước, tạo môi
trường quốc tế thuận lợi và tranh thủ những nhân tố tích cực phục vụ công
cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước, giữ gìn và phát huy bản sắc và những
truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Đó là cội nguồn sức mạnh và thắng lợi của
cách mạng Việt Nam.
11
IV. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ LIÊN MINH CÔNG –
NÔNG – TRÍ THỨC TRONG CÁCH MẠNG VIỆT NAM
1. Liên minh công, nông, trí thức – nhu cầu tất yếu khách quan
của cách mạng Việt Nam, nòng cốt của khối đại đoàn kết toàn dân.
Vấn đề nông dân, liên minh công – nông – trí thức là một trong những
vấn đề trọng yếu, có tính nguyên tắc của lý luận mácxít về cách mạng vô sản
và chuyên chính vô sản. Từ thực tiễn cách mạng Việt Nam, xu thế phát triển
của thời đại, trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lênin, Hồ Chí Minh đã nhận
thức và lựa chọn chuẩn xác con đường vận động của cách mạng Việt Nam,
đó là con đường cách mạng vô sản, gắn liền độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội. Động lực cách mạng để thực hiện con đường cách mạng đó là toàn thể
nhân dân lao động Việt Nam mà nòng cốt là liên minh công, nông, trí thức –
lực lượng cơ bản nhất, điều kiện quyết định nhất để hiện thực hóa mục tiêu
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Quan niệm này vượt xa những quan
điểm truyền thống đương thời, mở ra một bước đột phá trong nhận thức và
tư duy lý luận về xác định các lực lượng cách mạng; nó là sự tổng kết sâu
sắc toàn bộ kinh nghiệm thực tiễn các phong trào cách mạng trong nước và
các cuộc cách mạng điển hình từng diễn ra trên thế giới. Phân tích cách
mạng tư sản Mỹ, Pháp, Hồ Chí Minh đúc rút ra bài học sâu sắc, có giá trị
chiến lược chỉ đạo thực tiễn cách mạng. Theo Người, các cuộc cách mạng
dân chủ tư sản đã dạy cho chúng ta: “ dân chúng công, nông là gốc cách
mệnh”

1
. Đặc biệt, Cách mạng Tháng Mười Nga, cuộc cách mạng xã hội chủ
nghĩa đầu tiên trên thế giới, càng khẳng định vai trò quyết định của khối
quần chúng công – nông “ Cách mệnh Nga dạy cho chúng ta rằng muốn
cách mệnh thành công thì phải dân chúng ( công nông ) làm gốc…”
2
.
1
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.2, tr.274.
2
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.2, tr.280.
12
Quy luật lịch sử khách quan về vai trò quyết định của quần chúng
công – nông, mối quan hệ giữa các tầng lớp quần chúng trong cách mạng vô
sản được Hồ Chí Minh khái quát thành một nguyên lý phổ biến cho tất cả
các hình thức cách mạng vô sản, ở tất cả các nước khác nhau. “ Cuộc cách
mạng vô sản không thể thắng lợi ở các nước nông nghiệp và nửa nông
nghiệp nếu như giai cấp vô sản cách mạng không được quần chúng nông
dân ủng hộ tích cực. Đó là một sự thực hiển nhiên đối với cả hai cuộc cách
mạng – cách mạng tư sản dân quyền và cách mạng vô sản. Trong thời kỳ
cách mạng tư sản dân quyền, cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản để thực hiện
các khẩu hiệu của mình và chuyển cuộc cách mạng tư sản dân quyền thành
cách mạng vô sản không thể giành được thắng lợi hoàn toàn nếu không có
khối liên minh cách mạng của giai cấp vô sản và nông dân, nếu không có sự
tham gia tích cực của quần chúng nông dân bị áp bức vào việc thực hiện
những khẩu hiệu của cách mạng. Ba cuộc cách mạng Nga, cuộc cách mạng
vĩ đại Trung Quốc và các cuộc đấu tranh cách mạng ở nhiều nước khác đã
chứng minh rõ ràng điều đó. Đối với tất cả những nhà cách mạng chân chính
hiện nay, nguyên tắc lêninnít căn bản ấy là sự thực hoàn toàn không thể chối
cãi. Ở Trung Quốc, Ấn Độ, ở Mỹ Latinh, ở nhiều nước châu Âu ( các nước

vùng Bancăng, Rumani, Ba Lan, Italia, Pháp, Tây Ban Nha…), bạn đồng
minh cương quyết của giai cấp vô sản trong cách mạng là quần chúng nông
dân. Cách mạng chỉ có thể thắng lợi nếu như những làn sóng cách mạng lay
động được quần chúng nông dân dưới sự lãnh đạo của giai cấp vô sản. Do
vậy mà việc tuyên truyền của Đảng trong nông thôn có tầm quan trọng đặc
biệt”
1
.
Từ kinh nghiệm thực tiễn là nhận thức lý luận, Hồ Chí Minh đã cụ thể
hóa thành cương lĩnh chính trị hành động của Đảng Cộng sản. Trong cương
1
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.2, tr.413.
13
lĩnh đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam, do Hồ Chí Minh soạn thảo và
thông qua vào đầu năm 1930, đã xác định hết sức sáng tỏ:
“1. Đảng là đội tiên phong của vô sản giai cấp, phải thu phục cho
được đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được
dân chúng.
2. Đảng phải thu phục cho được đại bộ phận dân cày và phải dựa vào
hạng dân cày nghèo làm thổ địa cách mạng đánh trúc bọn đại địa chủ và
phong kiến.
3. Đảng phải làm cho các đoàn thể thợ thuyền và dân cày (công hội,
hợp tác xã) khỏi ở dưới quyền lực và ảnh hưởng của bọn tư sản quốc gia.
4. Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông… để
kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp”
1
.
Việc xác định động lực cách mạng và tương quan lực lượng giai cấp
của Hồ Chí Minh, không chỉ đúng trong thời kỳ đấu tranh giành chính
quyền, mà cả trong việc xây dựng và bảo vệ chính quyền, trong suốt thời kỳ

quá độ lên chủ nghĩa xã hội, cải tạo và xây dựng chế độ xã hội mới. Công
nhân, nông dân là những người trực tiếp tham gia vào quá trình cách mạng
đánh đổ đế quốc, phong kiến, xây dựng nên nhà nước dân chủ nhân dân ở
nước ta. Chính khối liên minh công – nông lại trở thành cơ sở xã hội và nền
tảng xã hội vững chacứ của nhà nước đó. Tư tưởng chỉ đạo này được Hồ Chí
Minh thể hiện thành một nguyên tắc hiến định, có sức mạnh pháp lý, trở
thành nguyên tắc nền móng trong xây dựng và củng cố nhà nước. Theo Hồ
Chí Minh, trong suốt quá trình phát triển đất nước “Nhà nước của ta là Nhà
nước dân chủ nhân dân dựa trên nền tảng liên minh công nông, do giai cấp
công nhân lãnh đạo”
2
. Liên minh công – nông, cơ sở xã hội vững chắc của
1
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.3, tr.3.
2
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.9, tr.586.
14
Nhà nước, là một nội dung quan trọng quy định bản chất giai cấp công nhân
của Nhà nước Việt Nam.
Trong cải tạo và xây dựng xã hội mới, thực hiện bước quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, vai trò quyết định của liên minh công – nông càng thể hiện rõ
nét. Ngoài sự ủng hộ quốc tế, việc có hay không có chủ nghĩa xã hội, chủ
nghĩa xã hội có thắng lợi được trong lòng một nước nông nghiệp lạc hậu hay
không phụ thuộc rất lớn vào việc xây dựng, củng cố và tăng cường khối liên
minh công nông. Bởi lẽ “ Xây dựng chủ nghĩa xã hội là một cuộc đấu tranh
cách mạng phức tạp, gian khổ và lâu dài. Nhân dân ta hãy đoàn kết chặt chẽ
dựa trên nền tảng liên minh công nông, bền bỉ phấn đấu dưới sự lãnh đạo
của Đảng và Chính phủ, thì chúng ta nhất định thắng lợi”
1
.

Nét độc đáo, đặc sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh là Người không chỉ
đề cập, nhấn mạnh đến liên minh giai cấp mà còn bao hàm cả liên minh xã
hội. Quán triệt những chỉ dẫn của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác –
Lênin, Hồ Chí Minh vận dụng sáng tạo tư tưởng: “cách mạng rất cần trí thức
và chỉ có cách mạng mới trọng trí thức”, “chỉ có giai cấp công nhân mới thật
yêu chuộng trí thức”, v.v Theo Hồ Chí Minh, trí thức giữ vai trò đặc biệt
quan trọng không những trong kháng chiến mà cả trong xây dựng. Liên
minh giữa công – nông với trí thức là một nhu cầu của cuộc sống, phản ánh
một xu hướng khách quan: sự xích lại gần nhau giữa lao động chân tay và
lao động trí óc. Người nhấn mạnh: “trí thức phục vụ nhân dân bao giờ cũng
cần, kháng chiến kiến quốc cần, tiến lên chủ nghĩa xã hội cũng cần, tiến lên
chủ nghĩa cộng sản lại càng cần”
2
. Xuất phát từ nhận thức cho rằng “dưới
chủ nghĩa xã hội, khoa học là tài sản chung của toàn dân, chứ không phải là
tài sản riêng của một nhóm người nào”, Hồ Chí Minh khái quát mối liên kết
1
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.9, tr.2.
2
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr.33.
15
giữa các giai tầng xã hội, bằng một phương châm ngắn gọn, nhưng lại hàm
chứa những nội dung lớn: công – nông trí thức hóa; trí thức công - nông hóa.
Có ý kiến cho rằng, với luận điểm này Hồ Chí Minh đã xem thường và hạ
thấp vị trí của đội ngũ trí thức. Thực ra không phải vậy. Bác nhiều lần giải
thích “Công, nông trí thức hóa. Trí thức công, nông hóa, nghĩa là công –
nông cần học tập văn hóa để nâng cao trình độ tri thức của mình; trí thức cần
gần gũi công – nông và học tập tinh thần, nghị lực, sáng kiến và kinh
nghiệm của công – nông”
1

. Người không xóa nhòa ranh giới tính chất hai
loại lao động mà chỉ nhấn mạnh sự xâm nhập, bổ sung lẫn nhau của chúng
mà thôi.
Từ quan điểm của Hồ Chí Minh có thể thấy, vai trò quyết định của
khối liên minh dựa trên hai cơ sở chính. Thứ nhất, trong điều kiện một nước
nông nghiệp lạc hậu, nông dân, công nhân, trí thức chiếm đại đa số dân cư,
là lực lượng sản xuất cơ bản, trực tiếp tham gia cách mạng giải phóng dân
tộc, xây dựng chủ nghĩa xã hội. Vì thế, chủ nghĩa xã hội chỉ có thể là kết quả
lao động sáng tạo của hàng chục triệu quần chúng. Thứ hai, khi đã có sự hợp
tác giữa công, nông, trí thức thì kẻ thù của độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội bị cô lập, mất dần cơ sở xã hội và cuộc đấu tranh phá hoại của chúng bị
vô hiệu hóa. Vì thế, liên minh công, nông, trí thức là hạt nhân, cơ sở của
khối đại đoàn kết dân tộc, khối đại đoàn kết toàn dân, có thể tập hợp, thu hút
mọi lực lượng yêu nước, tiến bộ vào một mặt trận chung thống nhất vì mục
tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
2. Liên minh công – nông – trí thức do giai cấp công nhân lãnh
đạo.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, liên minh công, nông, trí thức là một tất
yếu lịch sử khách quan, được chế định bởi các cơ sở xã hội hiện thực và
1
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr.37.
16
được hiện thực hóa qua đường lối tập hợp lực lượng của Đảng Cộng sản.
Điều này cũng xác định rõ rằng: Liên minh công, nông, trí thức là nhu cầu
tồn tại và phát triển của cả công nhân, nông dân và trí thức, chứ không phải
chỉ là do ý muốn chủ quan của riêng giai cấp công nhân và đảng tiên phong
của nó.
Quan hệ giữa công nhân, nông dân và trí thức là yếu tố nội tại trong
kết cấu xã hội – giai cấp của chủ nghĩa xã hội. Xu hướng hợp tác giữa chúng
dựa trên những cơ sở khách quan, không chỉ xuất phát từ nhu cầu, lợi ích

của riêng giai cấp công nhân mà của cả nông dân, trí thức. Trong khối liên
minh này, Hồ Chí Minh xác định rất rõ vị trí của từng bộ phận. Hồ Chí Minh
rất nhất quán quan điểm: Giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo. Công
nhân thông qua chính đảng của mình đề ra đường lối cách mạng, những chủ
trương lớn nhằm thực hiện cách mạng giải phóng dân tộc và xây dựng chủ
nghĩa xã hội. Nhưng để thực hiện đường lối đúng cần có lực lượng. Bằng
hành động và chính sách thực tiễn, giai cấp công nhân lôi kéo mọi tầng lớp
lao động, trước hết là nông dân và trí thức về phía mình, cùng với họ xây
dựng chủ nghĩa xã hội. Đây cũng là điều kiện để giai cấp công nhân củng cố
vai trò chính trị tiên phong của mình.
Thực tiễn những năm qua cho thấy, sự tăng trưởng và chất lượng của
giai cấp công nhân diễn ra trong mối quan hệ hữu cơ với giai cấp nông dân
và trí thức. Ở nước ta, nông nghiệp là cơ sở quan trọng để phát triển công
nghiệp. Trình độ cơ khí hóa, hiện đại hóa tạo ra khả năng để lao động nông
nghiệp chuyển dịch sang công nghiệp ở các thành phần kinh tế. Chất lượng
giai cấp công nhân được nâng lên cùng với vai trò của tầng lớp trí thức trong
việc nâng cao trình độ văn hóa, chuyên môn, khoa học kỹ thuật, sử dụng
kiến thức lao động tiên tiến. Sự trưởng thành của công nhân ngày càng gắn
bó với bộ phận trí thức giáo dục và khoa học kỹ thuật. Cùng với những
17
thành tựu của cách mạng khoa học kỹ thuật hiện đại, sự gắn bó giữa công
nhân và trí thức ngày một trở nên chặt chẽ, có thể thấy rõ điều này qua hiện
tượng đã trở thành phổ biến: sự liên kết giữa các cơ quan khoa học và trường
đại học với các cơ sở sản xuất công nghiệp để nghiên cứu và ứng dụng
những đề tài khoa học khác nhau. Các nhà khoa học tìm đến các cơ sở sản
xuất, tham gia điều hành các quy trình sản xuất mới, và ngân sách dùng cho
nghiên cứu khoa học của các xí nghiệp ngày càng tăng. Bởi vì, đây chính là
điều kiện quyết định năng suất, chất lượng sản phẩm của xí nghiệp, tạo ra lợi
thế cạnh tranh trên thị trường. Hàm lượng chất xám trong thành phần sản
phẩm phản ánh mối dây ràng buộc giữa công nghiệp và khoa học, công nhân

và trí thức.
Về phía nông dân, do địa vị kinh tế - xã hội và bản chất giai cấp của
mình, họ tự nguyện tìm đến với giai cấp công nhân và nếu không liên kết với
công nhân, trí thức thì dễ bị giai cấp tư sản lợi dụng, lôi kéo trở lại cuộc
sống nô lệ, bóc lột, áp bức. Điều này thể hiện rõ nét hơn đối với nông dân
những nước thuộc địa, nửa phong kiến, tiến lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế
độ tư bản chủ nghĩa. Sự tiến bộ của nông dân ngày càng gắn bó hơn với
công nhân và trí thức. Để đẩy nhanh sản xuất nông sản hàng hóa, làm cho
nông nghiệp phát triển bền vững, nông dân rất cần tới sự hỗ trợ của công
nghiệp và những tri thức khoa học kỹ thuật. Đây là nhu cầu thiết thực để
nông dân tìm đến và gắn bó với các cơ quan nghiên cứu và các cơ sở dịch vụ
kỹ thuật. Trên bình diện xã hội, công nghiệp và khoa học góp phần đắc lực
vào quá trình giải phóng người nông dân, giúp họ thoát khỏi những hạn chế,
tiếp xúc với nền văn minh nhân loại hiện đại và đồng thời có dịp phát huy
các giá trị văn hoấ được tích tụ ngàn đời trong nông thôn.
Về phía tầng lớp trí thức, là một tầng lớp xã hội đặc biệt có đặc trưng
nổi bật là lao động trí óc, sáng tạo, không thể tồn tại biệt lập trong cộng đồng
18
xã hội. Địa vị kinh tế - xã hội không bao giờ đặt trí thức vào vị trí lãnh đạo
xã hội. Trong kháng chiến, xây dựng chủ nghĩa xã hội, công nhân, nông dân
rất cần trí thức như là các đại biểu kết tinh của trí tuệ và các giá trị văn hóa
tinh thần; và trí thức cũng chỉ khẳng định được vị trí của mình trong mối
quan hệ trực tiếp với công nhân và nông dân. Công nhân và nông dân tạo ra
những cơ sở vật chất, những điều kiện sinh hoạt và làm việc cần thiết, đặt ra
các nhu cầu làm động lực cho sự tìm tòi sáng tạo của hoạt động nghiên cứu
khoa học, còn các lĩnh vực hoạt động của công nhân và nông dân sẽ là môi
trường để trí thức đem khoa học kỹ thuật vào cuộc sống, phục vụ con người.
Khoa học chân chính không bao giờ có mục đích tự thân, mà trước hết là
hướng vào việc thỏa mãn các nhu cầu của con người, củng cố và hoàn thiện
các giá trị làm người; chức năng xã hội của mọi khoa học là giải phóng con

người. Thực tiễn này đang diễn ra trong tất cả các thành phần kinh tế, trong
nhiều bộ phận cấu thành xã hội. Các bộ phận trong giai cấp công nhân, nông
dân và trí thức nước ta đều tham gia khối liên minh công, nông, trí làm thay
đổi các quan hệ xã hội theo xu hướng đoàn kết, hòa hợp và trở thành một
động lực của tiến bộ xã hội.
Từ các phương diện vừa nêu, trong tư tưởng Hồ Chí Minh, liên minh
công, nông, trí là sự cố kết của công nhân, nông dân, trí thức trong một
chỉnh thể; mỗi yếu tố có một vị trí, vai trò đặc thù không thể thay thế và đổi
chỗ cho nhau. Hồ Chí Minh đã nhiều lần nhắc nhở: “Giai cấp công nhân là
giai cấp lãnh đạo, phải làm thế nào xứng đáng là lãnh đạo để người ta tin
cậy… Công nhân liên minh chứ không phải “công nông liên minh””
1
. Trong
mối quan hệ và sự tác động đa chiều đó, sức mạnh và chất lượng của khối
liên minh phụ thuộc vào chất lượng của từng thành tố; ngược lại, chất lượng
của khối liên minh sẽ nhân lên sức mạnh cho cả công nhân, nông dân, trí
1
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.10, tr.459.
19
thức. Vì thế, củng cố và tăng cường khối liên minh công, nông, trí gắn liền
chặt chẽ với quá trình xây dựng và phát triển giai cấp công nhân, giai cấp
nông dân và tầng lớp trí thức. Phép biện chứng cách mạng về mối quan hệ
giữa cái riêng và cái chung này được Hồ Chí Minh đặc biệt lưu ý và có
nhiều chỉ dẫn xác đáng.
Đối với quan hệ giữa giai cấp lãnh đạo và lực lượng cách mạng đông
đảo nhất trong dân cư, Hồ Chí Minh xác định: “Chỉ có giai cấp công nhân
lãnh đạo, thì nông dân mới được giải phóng. Cũng chỉ có thắt chặt liên minh
với nông dân thì giai cấp công nhân mới lãnh đạo cách mạng đến thắng lợi.
Cho nên giai cấp công nhân ắt phải chăm chú đến vấn đề nông dân, phải
củng cố công nông liên minh”

1
.
Quan hệ giữa công nhân, nông dân và trí thức cũng diễn ra theo quy
luật chi phối tương tự. Theo Hồ Chí Minh: “Nông dân, công nhân, lao động
trí óc đều phải dựa vào nhau. Nông dân không có sự giúp đỡ của công nhân
thì không được… Công nhân không có nông dân… cũng không được”
2

3. Các hình thức thực hiện liên minh công – nông – trí thức.
Cũng như các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin, Hồ Chí Minh
cho rằng, liên minh công, nông, trí thức là một hình thức hợp tác đặc biệt,
toàn diện giữa các giai cấp và tầng lớp lao động trong tất cả các mặt khác
nhau của đời sống xã hội. Tính chất đặc biệt của nó thể hiện ở chỗ, đây
không phải là một hình thức liên kết để cùng nhau chia sẻ quyền lực, tạm
thời thỏa hiệp, mà là đặt dưới sự lãnh đạo duy nhất của giai cấp công nhân,
rất bền vững, lâu dài, với các mặt phong phú, đa dạng.
Vấn đề lớn nhất mà Hồ Chí Minh trăn trở, thường xuyên tìm kiếm là
các hình thức thực hiện mối quan hệ giữa nông dân với công nhân và trí
1
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.459.
2
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.621-622.
20
thức. Quán triệt phép biện chứng mácxít về giải quyết mối quan hệ giữa cái
chung (xã hội) và cái riêng (từng giai cấp, tầng lớp xã hội), giữa ổn định và
phát triển, Hồ Chí Minh đã chủ động chỉ đạo các hình thức đan kết, cùng
một lúc phối hợp nhiều hình thức khác nhau. Tuy nhiên, sự phong phú, đa
dạng của các hình thức tìm kiếm đều phục vụ cho nhiệm vụ của từng thời kỳ
cụ thể và bị các điều kiện hiện thực chi phối; cùng một hình thức, trong
những thời điểm khác nhau lại có cách sự dụng riêng. Thông thường trong

chỉ đạo thực tiễn, có các hình thức cơ bản sau:
- Thực hiện quan hệ giữa nông dân với công nhân, trí thức thông qua
việc giải quyết thỏa đáng quan hệ giữa cơ cấu kinh tế công nghiệp – nông
nghiệp. Đây là nền tảng vật chất chủ yếu để nông dân, công nhân và trí thức
có thể đồng thời đáp ứng và thỏa mãn cái lợi ích kinh tế thiết thân. Đằng sau
cơ cấu kinh tế công nghiệp – nông nghiệp là một cơ cấu xã hội – giai cấp
tương ứng với hệ thống các lợi ích khác nhau. Hồ Chí Minh nhìn thấy rất rõ
bản chất chính trị - xã hội của hai lĩnh vực sản xuất vật chất cơ bản này của
xã hội. Người khuyến nghị: “Cho nên công nghiệp và nông nghiệp phải giúp
đỡ lẫn nhau và cùng nhau phát triển, như hai chân đi khỏe và đi đều thì tiến
bước sẽ nhanh và nhanh chóng đi đến mục đích. Thế là thực hiện liên minh
công nông để xây dựng chủ nghĩa xã hội, xây dựng đời sống ấm no sung
sướng cho nhân dân”
1
. Công nghiệp và nông nghiệp cũng là môi trường để
áp dụng tiến bộ khoa học – kỹ thuật, thành quả lao động của đội ngũ trí thức
cách mạng.
- Thực hiện quan hệ giữa nông dân với công nhân, trí thức thông qua
hình thức quan hệ giữa thành thị và nông thôn, chính sách phát triển nông
thôn và thành thị, hai địa bàn cư trú cơ bản của nông dân, công nhân và trí
thức.
1
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.10, tr.545.
21
- Thực hiện quan hệ giữa nông dân với công nhân, trí thức trên cơ sở
liên kết, hợp tác giữa các loại hình kinh tế, các cơ sở kinh tế nhà nước, kinh
tế hợp tác và các cơ sở, trung tâm nghiên cứu khoa học, kinh tế trung ương
và kinh tế địa phương.
- Quan hệ giữa công nhân, nông dân, trí thức được thực hiện một cách
tích cực, chủ động thông qua vai trò điều tiết của Nhà nước. Ở đó, Nhà nước

mang bản chất giai cấp công nhân, Nhà nước của dân, do dân, vì dân đại
diện cho lợi ích toàn xã hội. Với tư cách là một hình thức thể hiện liên minh
công – nông – trí, quan hệ Nhà nước – nông dân chứa đựng hai nội dung:
quan hệ quyền lực (giữa một bộ phận hợp thành chủ thể quyền lực với quyền
lực xã hội chung) và quan hệ hợp tác dân sự (quan trọng nhất là trong kinh tế
để Nhà nước và nông dân cùng có lợi).
Dù thực hiện theo bất kỳ một hình thức nào, Hồ Chí Minh luôn yêu
cầu các hình thức quan hệ giữa nông dân với công nhân, trí thức đều phải
thiết thực, cụ thể, bộc lộ được định hướng và vai trò lãnh đạo của giai cấp
công nhân, làm cho liên minh công – nông – trí có nội dung xác định và đi
vào thực chất với sinh khí và sức hấp dẫn vốn có của đời sống hiện thực.
Những chỉ dẫn này của Hồ Chí Minh ngày nay vẫn còn nguyên giá trị. Theo
bác: “Công nhân phải giúp nông dân, giúp hợp tác xã cải tiến công cụ từ
những cái thô sơ trở đi… Một số nhà máy đã tổ chức giúp đỡ nông dân…
Mỗi nhà máy tùy sức mình mà làm. Nhưng giúp phải có kế hoạch và từ đầu
đến đuôi, chứ không phải lúc nào cao hứng thì giúp, không thì lại bỏ. Nên tổ
chức kết nghĩa giữa nhà máy và nông thôn. Tổ chức cho nông dân vào thăm
nhà máy, công nhân thăm quan nông thôn xem hợp tác xã cần gì thì nghiên
cứu giúp đỡ. Các cô, các chú thường nói công nông liên minh. Liên minh là
phải giúp nhau thật sự như vậy chứ không thì chỉ công nông liên minh đầu
22
miệng”
1
. Người còn chỉ dẫn rõ hơn: “Về chính trị, chính quyền của ta là do
giai cấp công nhân lãnh đạo và dựa trên nền tảng công nông liên minh.
Nhưng sự thực có nơi công nhân chưa lãnh đạo gì, chưa liên minh gì. Phải
làm cho công nhân thấy cần giúp nông dân. Phải biết tại sao phải giúp.
Muốn thế phải vận động chính trị, vận động tư tưởng làm cho công nhân
hiểu cần phải giúp nông dân và giúp như thế nào… phải giúp đỡ có kế
hoạch, từ đầu đến cuối, giúp cho có thủy có chung”

2
. Đó chính là bản chất
kiểu mới trong quan hệ xã hội – giai cấp của chế độ xã hội chủ nghĩa.
Những quan điểm chủ yếu của Hồ Chí Minh về liên minh công –
nông – trí thức là cơ sở tư tưởng để xây dựng, củng cố, tăng cường và phát
huy vai trò của nó trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước. Tổng kết thực tiễn cách mạng Việt Nam trong hơn 73 năm qua, đặc
biệt là thực tiễn của hơn 17 năm đổi mới, Đảng ta xác định liên minh công –
nông – trí thức trong khối đại đoàn kết dân tộc là động lực chủ yếu giữ vững,
phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Văn kiện Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ IX khẳng định: “Động lực chủ yếu để phát triển đất nước
là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa công nhân với nông dân
và trí thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hòa các lợi ích cá nhân, tập thể và
xã hội, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành phần kinh tế, của
toàn xã hội”
3
.
Theo quan điểm phát triển hiện đại, xây dựng và tăng cường khối liên
minh công – nông – trí thức là chăm lo cho một trong những nguồn lực nội
sinh quan trọng nhất của đất nước, để có thể thu hút các nguồn lực từ bên
1
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.10, tr.181.
2
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.10, tr.182.
3,
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 2001, tr.86.
23
ngoài; là chăm lo cho lực lượng sản xuất cơ bản nhất của xã hội, và đồng

thời cũng củng cố vững chắc cơ sở xã hội của Nhà nước, nâng cao chất
lượng khối đại đoàn kết dân tộc, khối đại đoàn kết toàn dân. Bởi lẽ: “Khối
đại đoàn kết toàn dân trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam luôn luôn được củng
cố và phát triển sâu rộng trên cơ sở liên minh vững chắc giai cấp công nhân
với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức”
1
.
Điều này đặt ra yêu cầu phải đổi mới và hoàn thiện các chính sách cụ
thể đối với công nhân, nông dân và đội ngũ trí thức, nâng cao chất lượng của
cả khối liên minh.
Đối với công nhân, coi trọng phát triển cả về số lượng và chất lượng,
nâng cao giác ngộ và bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn và nghề nghiệp,
thực hiện “trí thức hóa công nhân”, nâng cao năng lực ứng dụng và sáng tạo
công nghệ mới, lao động đạt năng suất, chất lượng và hiệu quả ngày càng
cao, xứng đáng là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa và vai trò lãnh đạo cách mạng trong thời kỳ mới.
Đối với nông dân, ra sức bồi dưỡng sức dân ở nông thôn thông qua
thực hiện đồng bộ các chính sách kinh tế, xã hội, văn hóa để họ thật sự trở
thành chủ thể năng động, sáng tạo, tự cải thiện đời sống, nâng cao dân trí,
tham gia xây dựng nông thôn mới.
Đối với trí thức, tạo điều kiện thuận lợi để họ thu nhận thông tin, tiếp
cận các thành tựu mới của khoa học, công nghệ của văn hóa thế giới, nâng
cao trình độ chính trị, kiến thức chuyên môn. Khuyến khích tự do sáng tạo
phát minh, cống hiến. Phát hiện, bồi dưỡng, sử dụng đúng và đãi ngộ xứng
đáng các tài năng. Phát huy năng lực của trí thức trong việc thực hiện các
1
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 2001, tr.86.
24
chương trình, đề tài nghiên cứu của Nhà nước và xây dựng đường lối, chủ

trương, chính sách, pháp luật.

25

×