Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÔNG NHÂN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (179.95 KB, 23 trang )

CHUYÊN ĐỀ II:
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÔNG NHÂN
I. VỀ KHÁI NIỆM GIAI CẤP CÔNG NHÂN
Các nhà kinh điển của CNXH khoa học đã nhiều lần đề cập và đưa ra
những chỉ dẫn cơ bản về khái niệm Giai cấp công nhân (GCCN) và những
đặc trưng chủ yếu của nó.
Mác và Ăng-ghen đã dung nhiều thuật ngữ khác nhau để nói về
GCCN. Hai ông sử dụng các thuật ngữ: Giai cấp vô sản, giai cấp của những
người hoàn toàn không có tài sản, giai cấp xã hội hoàn toàn chỉ sống dựa
vào bán sức lao động của mình, giai cấp lao động làm thuê trong thế kỷ
XIX, lao động làm thuê, giai cấp vô sản hiện đại, giai cấp công nhân hiện
đại, giai cấp công nhân đại công nghiệp…, như những cụm từ đồng nghĩa để
biểu thị một khái niệm: giai cấp công nhân trong thế kỷ XIX – Con đẻ của
nền đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa (TBCN), giai cấp đại biểu cho lực
lượng sản xuất tiên tiến và đại biểu cho phương thức sản xuất tiên tiến. Mác
và Ăng-ghen còn dùng những thuật ngữ có nội dung hẹp hơn để chỉ các loại
công nhân trong các ngành khác nhau, trong những giai đoạn phát triển khác
nhau của công nghiệp: công nhân nông nghiệp, công nhân công xưởng, công
nhân thủ công, công nhân công trường thủ công, công nhân hiện đại, v.v
Trong các tác phẩm: “Góp phần phê phán triết học pháp quyền của
Hê-ghen – Lời nói đầu”, “ Gia đình thần thánh”, “Tình cảnh của giai cấp
lao động ở Anh”, “Những nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản” và “Tuyên
ngôn của Đảng Cộng sản”, Mác và Ăng-ghen đã nêu ra những thuộc tính
cơ bản của giai cấp vô sản. Hai ông đã trình bày khái niệm giai cấp vô sản
1
(GCVS) tương đối đầy đủ trên những phương diện khác nhau. Có thể khái
quát lại như sau:
Thứ nhất, về nguồn gốc kinh tế: GCVS ra đời gắn với nền đại công
nghiệp và phát triển cùng với sự phát triển của nền công nghiệp hiện đại:
“Các giai cấp khác đều suy tàn và tiêu vong cùng với sự phát triển của đại
công nghiệp; giai cấp vô sản, trái lại, là sản phẩm của bản thân nền đại công


nghiệp”
1
. Về nguồn gốc xã hội: GCVS được tuyển mộ trong tất cả các giai
cấp, tầng lớp xã hội.
Thứ hai, những đặc trưng chủ yếu của GCVS là:
- Không có tư liệu sản xuất, đối lập trực tiếp về lợi ích với giai cấp tư
sản (GCTS); ở địa vị là giai cấp bị trị, làm thuê, bán sức lao động và tạo ra
giá trị thặng dư cho nhà tư bản, bị GCTS bóc lột giá trị thặng dư. Cùng với
sự tiến bộ của công nghiệp, GCVS ngày càng bị bóc lột nặng nề hơn.
- Có bản chất cách mạng: “trong tất cả các giai cấp hiện đang đối lập
với GCTS thì chỉ có GCVS là giai cấp thực sự cách mạng”
2
. GCVS là hiện
thân của lực lượng sản xuất hiện đại, đại biểu cho phương thức sản xuất tiên
tiến.
- Có tinh thần quốc tế vô sản, tình đoàn kết giai cấp, tính tổ chức, kỷ
luật cao.
Thứ ba, xu hướng phát triển của GCVS: cùng với sự phát triển của đại
công nghiệp, số lượng và chất lượng của GCVS không ngừng tăng lên.
Những vấn đề đã nêu ở trên, được Mác và Ăng-ghen rút ra qua sự
phân tích một cách sâu sắc từ địa vị kinh tế - xã hội của GCVS dưới chế độ
tư bản trong những năm đầu của thế kỷ XIX. Những kết luận ấy cũng đã
được thực tiễn cuộc sống đương thời chứng minh là đúng đắn và khoa học.
1
C.Mác-Ăng-ghen: Tuyển tập, Nxb. Sự Thật, Hà Nội, 1980, T.1, tr.554.
2
Sách đã dẫn, tr. 554.
2
Những đặc trưng cơ bản của GCVS dưới chế độ tư bản mà Mác và
Ăng-ghen đã nêu ra, được Lênin tiếp tục làm rõ, khẳng định và bổ sung

trong các tác phẩm: “Dự thảo cương lĩnh của Đảng Cộng sản Nga”
1
, “Những
“Người bạn dân” là thế nào…”, “Dự thảo và thuyết minh cương lĩnh của
Đảng Dân chủ - xã hội” và nhiều tác phẩm khác. Đến các tác phẩm “Nhà
nước và cách mạng”, “Sáng kiến vĩ đại”…, từ thực tiễn cách mạng, Lênin bổ
sung và khẳng định rõ vai trò của GCCN trong cách mạng XHCN: là giai
cấp thống trị về chính trị, giai cấp lãnh đạo toàn thể xã hội trong cuộc đấu
tranh lật đổ ách tư bản, trong sự nghiệp sáng tạo ra một xã hội mới, trong
toàn bộ cuộc đấu tranh để thủ tiêu hoàn toàn các giai cấp. Theo Lênin, Công
nhân là những người lao động công nghiệp, làm việc trong nền đại công
nghiệp. Lênin viết: “được coi là công nhân người nào trước đây đã là công
nhân làm thuê bình thường trong nền đại công nghiệp ít ra là 10 năm và hiện
nay đang làm việc trong đại công nghiệp từ 2 đến 3 năm”
2
. Lênin nhấn
mạnh, khái niệm công nhân “chỉ bao gồm những ai do điều kiện sinh sống
của bản thân mà thực sự có đầy đủ tâm lý vô sản. Song, muốn có đầy đủ tâm
lý đó thì phải làm việc nhiều năm trong công xưởng, do những điều kiện
chung về sinh hoạt kinh tế và xã hội bắt buộc…”
3
.
Những đặc trưng cơ bản của GCCN được Mác, Ăng-ghen và Lênin đề
cập và nhấn mạnh là: Thứ nhất, đó là những người lao động công nghiệp,
trực tiếp hay gián tiếp vận hành các công cụ sản xuất công nghiệp, tạo ra của
cải vật chất cho xã hội; Thứ hai, dưới chế độ tư bản, công nhân là những
người lao động không có tư liệu sản xuất, phải làm thuê, bán sức lao động
cho nhà tư bản để sống, bị nhà tư bản bóc lột giá trị thặng dư, có lợi ích căn
bản đối lập với lợi ích của giai cấp tư sản.
1

Sách đã dẫn, tr. 554.
2
Lênin: Toàn tập, T.44, Nxb. Tiến Bộ, M., 1978, tr.349.
3
Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến Bộ, M., 1978, tr.24.
3
Đặc trưng thứ hai là đặc trưng cơ bản của người công nhân dưới ché
độ tư bản. Cũng chính từ đặc trưng này mà Mác và Ăng-ghen gọi GCCN là
giai cấp vô sản.
Những đặc trưng cơ bản của GCCN mà các nhà kinh điển của chủ
nghĩa Mác – Lênin đã nêu ra là phù hợp và đúng với điều kiện lịch sử đương
thời. Những đặc trưng cơ bản đó, đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Nó là cơ
sở phương pháp luận khoa học để chúng ta nghiên cứu GCCN hiện đại và
làm sáng tỏ sứ mệnh lịch sử của nó trong thời đại ngày nay.
Giai cấp công nhân là một phạm trù lịch sử, nó là con đẻ của một hoàn
cảnh lịch sử cụ thể. Cùng với sự tiến triển của lịch sử, sự phát triển của nền
đại công nghiệp, GCCN cũng luôn luôn phát triển, có thêm những đặc trưng
mới.
Sau khi GCCN và nhân dân lao động đã giành được chính quyền về
tay mình, GCCN đã trở thành giai cấp cầm quyền thì nó không còn ở địa vị
bị áp bức, bóc lột như trước. GCCN đã trở thành giai cấp thống trị về chính
trị, giai cấp lãnh đạo toàn thể xã hội trong cuộc đấu tranh cải tạo xã hội cũ,
xây dựng xã hội mới. Nó đã cùng toàn thể nhân dân lao động trở thành
người làm chủ những tư liệu sản xuất chủ yếu.
Đến nay, vẫn còn có những ý kiến khác nhau về khái niệm GCCN.
Song, căn cứ vào ý kiến của các nhà kinh điển của CNXH khoa học và từ
thực tiễn hiện nay, chúng ta có thể rút ra kết luận: đặc trưng chủ yếu của
GCCN là lao động công nghiệp, trực tiếp sản xuất, hoặc tham gia vào quá
trình sản xuất công nghiệp tạo ra giá trị vật chất cho xã hội. Trong nền sản
xuất công nghiệp hiện đại, đội ngũ những người lao động có trình độ học

vấn, tay nghề cao ngày càng tăng. Họ trực tiếp tham gia vào quá trình sản
xuất công nghiệp. Lao động của họ chủ yếu là lao động trí tuệ trong những
dây chuyền công nghệ hiện đại. Như vậy, do sự phát triển của lực lượng sản
4
xuất, một bộ phận trí thức đã gia nhập GCCN. Đó là những nhà nghiên cứu,
sáng chế, áp dụng khoa học, kỹ thuật vào sản xuất, các kỹ sư, kỹ thuật viên
cao cấp, cán bộ kỹ thuật, cán bộ quản lý trực tiếp lao động hoặc tham gia
vào quá trình sản xuất công nghiệp, sản xuất và tái sản xuất ra của cải vật
chất, thực hiện chức năng của người công nhân lành nghề trong sản xuất. Và
thêm nữa, cả những người lao động trong các ngành dịch vụ công nghiệp mà
lao động của họ có tính chất lao động công nghiệp.
Như vậy, một bộ phận trí thức – gắn liền trực tiếp với lao động công
nghiệp với quy trình sản xuất công nghiệp, tạo ra của cải vật chất cho xã hội
– nằm trong nội hàm khái niệm GCCN. Đó là những công nhân – trí thức
hóa, còn các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu khác của tầng lớp trí thức
như: trí thức trong các ngành khoa học xã hội – nhân văn, y tế, giáo dục, văn
hóa, dịch vụ ( không quan hệ trực tiếp đến sản xuất công nghiệp), trí thức
nghiên cứu, sáng tạo ra các sản phẩm văn hóa, tinh thần, lý luận,… không có
hoạt động lao động sản xuất trực tiếp hoặc tham gia vào quy trình sản xuất
công nghiệp, thì không thể gọi là công nhân.
Không thể quan niệm GCCN chỉ bao gồm những người lao động chân
tay, điều khiển các máy móc cơ khí. Nếu chỉ dừng lại ở khái niệm GCCN
theo quan niệm truyền thống thì chưa đủ. Lực lượng xã hội này cũng như tất
cả sự vật, hiện tượng, quá trình xã hội khác không ngừng vận động, phát
triển. Song, cũng không nên đưa tất cả những người lao động “làm công ăn
lương” vào GCCN.
Quán triệt tư tưởng của các nhà kinh điển của CNXH khoa học về các
vấn đề giai cấp, và từ thực tiễn cách mạng và đời sống kinh tế - xã hội, có
thể đưa ra định nghĩa về GCCN như sau:
“GCCN hiện đại là một tập đoàn xã hội ổn định, hình thành và phát

triển cùng với cách mạng công nghiệp, với nhịp độ phát triển của lực lượng
5
sản xuất hiện đại có tính chất xã hội hóa ngày càng cao; là lực lượng sản
xuất cơ bản, tiên tiến trong các qui trình công nghệ, dịch vụ công nghiệp,
trực tiếp hoặc tham gia vào quá trình sản xuất, tái sản xuất ra của cải vật
chất và cải tạo các quan hệ xã hội, động lực chính của tiến trình lịch sử từ
CNTB lên CNXH”.
Trong xã hội TBCN, GCCN là giai cấp bị áp bức, bị tước đoạt hết mọi
quyền sở hữu tư liệu sản xuất, hoặc về cơ bản không có tư liệu sản xuất; làm
thuê trong nền sản xuất đại công nghiệp TBCN, bị GCTS thống trị, bóc lột
giá trị thặng dư; là giai cấp duy nhất trực tiếp đối lập với GCTS về lợi ích cơ
bản; giai cấp duy nhất có khả năng lãnh đạo quần chúng nhân dân lao động
và các lực lượng tiến bộ trong toàn thể dân tộc tiến hành cuộc cải biến cách
mạng, thay thế CNTB bằng CNXH.
Dưới CNXH, GCCN là giai cấp cơ bản, là một lực lượng sản xuất cơ
bản, tiên tiến trong sản xuất của cải vật chất và cải tạo các quan hệ xã hội; là
giai cấp lãnh đạo xã hội, làm chủ các công cụ, tư liệu sản xuất chủ yếu; đại
đa số làm việc trong những nhà máy, xí nghiệp, cơ sở sản xuất… thuộc sở
hữu Nhà nước và một bộ phận làm việc trong những thành phần kinh tế cá
thể, tư nhân, công tư hợp doanh, liên doanh… Dưới sự lãnh đạo của Đảng,
GCCN liên minh chặt chẽ với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức, thực
hiện cuộc cải biến cách mạng, xây dựng xã hội mới – XHCN và CSCN.
GCCN có mặt trong các ngành, các thành phần, lĩnh vực kinh tế, các
loại hình sở hữu. Hiện nay, cơ cấu GCCN – xét trên mọi phương diện – khác
xa cơ cấu GCCN thế kỷ XIX, nhất là cơ cấu GCCN trong các nước tư bản
phát triển. GCCN không chỉ có mặt trong các ngành công nghiệp truyền
thống, mà còn hiện diện trong tất cả các ngành sản xuất. Trong các nước tư
bản phát triển, bộ phận công nhân trong các ngành công nghiệp truyền
thống, công nhân trong khu vực sản xuất vật chất ngày càng giảm; hiện nay,
6

bộ phận này chiếm tỷ lệ rất thấp trong cơ cấu GCCN. Trái lại, công nhân
trong các ngành nghề mới như: điện tử, tin học, hàng không, dịch vụ công
nghiệp v.v tăng lên nhanh chóng. Đội ngũ công nhân lao động chủ yếu
bằng cơ bắp giảm, công nhân lao động chủ yếu bằng trí tuệ tăng nhanh và
chiếm số đông trong cơ cấu GCCN. Đa số công nhân có trình độ học vấn,
văn hóa và tay nghề cao. Người công nhân không hoàn toàn “vô sản” như
trước đây, một bộ phận công nhân có quyền sở hữu tư liệu sản xuất ở mức
chừng mực nhất định… Cơ cấu GCCN phong phú, đa dạng, phức tạp hơn.
Công nhân ở các xí nghiệp qui mô lớn giảm nhiều, có xu hướng phân tán về
các xí nghiệp qui mô vừa, nhỏ và làm việc tại gia đình. Sự phân hóa khá sâu
sắc trong nội bộ GCCN. Số công nhân có mức sống trung lưu tăng lên. Một
bộ phận công nhân có cổ phần, “trung lưu” hóa. Tầng lớp “công nhân mới”
ra đời. Tuy bộ mặt, cơ cấu số lượng và chất lượng (trên một số phương diện)
của GCCN hiện nay có sự thay đổi, nhưng không phải GCCN đã “biến mất”,
“teo đi”, “hòa tan” vào các giai cấp khác như một số người đã ngộ nhận hoặc
cố tình phủ nhận. Bản chất cách mạng của GCCN vẫn không thay đổi,
GCCN vẫn đang không ngừng phát triển về số lượng và chất lượng.
Do sự phát triển của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, đòi hỏi
đội ngũ công nhân ngày nay có trình độ trí tuệ ngày càng cao Trong những
dây chuyền sản xuất hiện đại, lao động trí tuệ của người công nhân nhiều
hơn lao động cơ bắp. Nhìn chung, đội ngũ công nhân ngày càng được “trí
thức hóa”. Một bộ phận trí thức ( như đã phân tích ở trên) nằm trong nội
hàm khái niệm GCCN. Tuy vậy, không phải tất cả trí thức đều nằm trong
GCCN. Đưa tất cả đội ngũ trí thức vào GCCN là sai lầm cả về lý luận và
thực tiễn.
7
Điểm căn bản để phân biệt công nhân và trí thức là phương thức lao
động. Đặc trưng lao động của trí thức là lao động trí óc, sáng tạo, có tính
độc lập tương đối. Sản phẩm lao động của họ mang dấu ấn cá nhân rõ rệt.
Trong thời đại cách mạng khoa học và công nghệ có sự phát triển như

hiện nay, chất lượng của GCCN ngày càng được nâng lên, nhất là về trình
độ tay nghề, mặt bằng học vấn, trình độ lao động trí tuệ… Đã và đang có sự
xích lại gần nhau đáng kể giữa lao động chân tay và lao động trí óc, giữa
công nhân và trí thức. Song, không vì thế mà ranh giới giữa công nhân và trí
thức đã bị xóa nhòa, không còn có sự khác nhau giữa công nhân và trí thức.
Từ khái niệm về GCCN hiện đại nêu trên, một vấn đề lý luận và thực
tiễn đặt ra là: GCCN Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
bao gồm những người lao động như thế nào, cơ cấu và vai trò của nó?
Có nhà nghiên cứu quan niệm GCCN Việt Nam hiện nay “ bao gồm
toàn bộ những người lao động thuộc các xí nghiệp quốc doanh ở thành thị và
nông thôn, trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất của cải vật chất”. Với
quan niệm như vậy, phải chăng, tác giả này xem tiêu chí lao động ở các xí
nghiệp quốc doanh và trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất của cải vật
chất như là hai đặc trưng chủ yếu của GCCN Việt Nam hiện nay?
Chúng tôi cho rằng, đó là những yếu tố cần, nhưng chưa đủ. Nếu
chúng ta còn coi định nghĩa của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác –
Lênin về GCCN hiện đại và những đặc trưng cơ bản của nó mà ông đã nêu
ra như là cơ sở phương pháp luận đúng đắn để nghiên cứu GCCN Việt Nam,
thì cần phải thấy rằng, đặc trưng chủ yếu của GCCN mà các ông nêu lên là
lao động công nghiệp, là hiện thân của lực lượng sản xuất hiện đại… Chính
tính chất lao động này – lao động mang tính chất xã hội hóa cao – mới là yếu
tố quyết định địa vị tiên tiến của GCCN trong sản xuất cũng như trong đời
sống chính trị, xã hội, đạo đức; quyết định bản chất, khả năng, tinh thần triệt
8
để và vai trò lãnh đạo của GCCN ; quyết định tính tổ chức, kỷ luật và tinh
thần đoàn kết giai cấp. “ Lao động ở các xí nghiệp quốc doanh” chưa nói lên
đầy đủ địa vị tiên tiến trong nền sản xuất và những phẩm chất cách mạng
của giai cấp mà chúng ta đang xem xét. Vì, ở nước ta hiện nay, không phải
tất cả các xí nghiệp quốc doanh đều sản xuất có tính chất công nghiệp hiện
đại, mà không ít xí nghiệp còn sản xuất có tính chất thủ công giản đơn, ở

giai đoạn “công trường thủ công”, nhất là các xí nghiệp ở nông thôn. Vì vạy,
chúng tôi không hoàn toàn tán thành quan niệm của tác giả này.
Nước ta đang ở trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Sự tồn tại
của nền kinh tế hàng hóa với nhiều hình thức sở hữu trong thời kỳ quá độ là
tất yếu khách quan. Đó là những vấn đề đã được các Đại hội Đại biểu toàn
quốc của Đảng trong những năm đổi mới khẳng định. Từ thực tiễn đó và
trên cơ sở định nghĩa về GCCN hiện đại, như đã nêu ở trên, chúng tôi quan
niệm cơ cấu xã hội GCCN Việt Nam hiện nay bao gồm những người lao
động công nghiệp và dịch vụ mà lao động của họ có tính chất lao động công
nghiệp; những kỹ sư, cán bộ kỹ thuật, nghiên cứu, áp dụng những thành tựu
của cách mạng khoa học – kỹ thuật vào sản xuất, trực tiếp tham gia vào quá
trình sản xuất và tái sản xuất của cải vật chất, lao động trong các xí nghiệp
quốc doanh, quốc phòng, công tư hợp doanh, tư bản tư nhân, hợp tác liên
doanh với nước ngoài, xí nghiệp cổ phần, tiểu công nghiệp khu vực tập thể
và một bộ phận lao động công nghiệp, cơ khí kỹ thuật cao thuộc khu vực
kinh tế tập thể và tư nhân. Họ đã và đang là lực lượng lãnh đạo, lực lượng xã
hội nòng cốt trong công cuộc xây dựng chế độ xã hội mới, chế độ xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam, là lực lượng sản xuất cơ bản, có vai trò quan trọng trong
nền kinh tế quốc dân.
Một trong những đặc trưng kinh tế của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam là sự tồn tại khách quan của nền kinh tế hàng hóa với
9
nhiều hình thức sở hữu, và những hình thức tổ chức kinh doanh đa dạng.
Đặc trưng kinh tế ấy chẳng những quy định tính chất phức tạp và đa dạng
của cơ cấu xã hội nói chung ở nước ta trong thời kỳ quá độ, mà còn quy định
tính chất đa dạng, phức tạp của cơ cấu GCCN nói riêng.
II. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CHỦ YẾU CỦA GIAI CẤP CÔNG
NHÂN VIỆT NAM
Do đặc điểm sự hình thành của mình, GCCN Việt Nam có những đặc
điểm riêng. Những đặc điểm riêng ấy quy định những mặt mạnh và những

hạn chế của GCCN Việt Nam, đồng thời cũng cắt nghĩa vì sao GCCN nước
ta tuy còn tương đối non trẻ, chưa phát triển về số lượng, trình độ nghề
nghiệp và một số mặt về chất lượng còn hạn chế, nhưng vẫn giữ vị trí lãnh
đạo trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và tiếp tục giữ vai trò lãnh
đạo trong giai đoạn cách mạng XHCN. Những đặc điểm chủ yếu ấy là:
1. Tuy sinh trưởng ở một nước thuộc địa, nửa phong kiến với một nền
sản xuất nông nghiệp lạc hậu, công nghiệp chưa phát triển, đa số dân cư là
nông dân, song GCCN Việt Nam ra đời vào lúc phong trào cộng sản và công
nhân quốc tế phát triển mạnh mẽ và được ảnh hưởng của cách mạng tháng
Mười Nga, cách mạng Trung Quốc; không bị ảnh hưởng của chủ nghĩa cơ
hội hữu khuynh trong quốc tế II, và được tác động tích cực của quốc tế cộng
sản nên GCCN Việt Nam dễ tiếp thu chủ nghĩa Mác – Lênin, sớm biết gắn
vấn đề dân tộc với chủ nghĩa quốc tế vô sản. GCCN Việt Nam từ khi có
chính Đảng của mình cho đến nay vẫn giữ được truyền thống cách mạng,
thống nhất về tư tưởng và tổ chức trong phạm vi cả nước.
2. GCCN Việt Nam sinh trưởng trong lòng một dân tộc có truyền
thống đấu tranh chống ngoại xâm. Cũng như nông dân, GCCN có hai mối
thù sâu sắc đối với đế quốc, thực dân: mối thù dân tộc do bị áp bức và mối
10
thù giai cấp do bị bóc lột nặng nề. Vì vậy, GCCN có tinh thần triệt để cách
mạng.
Nét điển hình nhất và cũng là yếu tố rất cơ bản tạo nên sức mạnh của
GCCN Việt Nam, nhân sức mạnh của nó lên là ở chỗ, từ khi ra đời đến nay,
GCCN có mối liên hệ gắn bó mật thiết với dân tộc, số phận, lợi ích của nó
ngay từ đầu đã gắn bó với số phận và lợi ích dân tộc, ý thức giai cấp và ý
thức dân tộc hòa quyện vào nhau, lòng yêu nước quyện chặt với yêu CNXH.
Sự nghiệp giải phóng GCCN gắn bó hữu cơ với sự nghiệp giải phóng dân
tộc. Lợi ích cơ bản của GCCN thống nhất với lợi ích cơ bản của dân tộc. Vì
thế, ngay từ đầu, GCCN Việt Nam đã đại biểu cho lợi ích của dân tộc. Và do
vậy, vai trò lãnh đạo của nó đã được cả dân tộc thừa nhận.

3. GCCN Việt Nam, do nguồn gốc xuất thân của nó đã sẵn có mối liên
hệ tự nhiên, máu thịt với giai cấp nông dân (GCND), với tầng lớp trí thức và
nhân dân lao động. Đó là cơ sở tình cảm, là yếu tố thuận lợi để xây dựng
khối liên minh công – nông – trí thức và khối đại đoàn kết dân tộc. Đó là
điều kiện thuận lợi, là cơ sở xã hội vững chắc đảm bảo cho vị trí lãnh đạo
trong sự nghiệp cách mạng giành, giữ chính quyền và xây dựng xã hội mới.
4. Ra đời tuy có muộn so với GCCN ở các nước công nghiệp phát
triển, số lượng lúc đầu còn nhỏ bé, nhưng GCCN Việt Nam đã sớm tỏ ra là
một đội ngũ kiên cường trong quá trình đấu tranh cách mạng vì độc lập dân
tộc và CNXH. Do đó, nó chẳng những tập hợp lôi cuốn được cả dân tộc theo
mình, mà còn tạo ra được sự đồng tình, ủng hộ, giúp đỡ to lớn của nhân loại
tiến bộ, của các lực lượng chống đế quốc, thực dân, kết hợp được sức mạnh
của dân tộc với sức mạnh của thời đại, trong nước và quốc tế tạo ra sức
mạnh tổng hợp nhân lên sức mạnh của giai cấp và dân tộc trong quá trình
đấu tranh cách mạng. Và do vậy, vai trò lãnh đạo của GCCN được hình
11
thành thực tế trong lịch sử, được quần chúng nhân dân thừa nhận, chứ không
phải là sự gán ghép chủ quan của mình.
5. GCCN Việt Nam là một bộ phận của GCCN quốc tế, do vậy, nó
mang những đặc trưng cơ bản của GCCN quốc tế và có sứ mệnh lịch sử của
GCCN quốc tế. GCCN Việt Nam có lãnh tụ sáng suốt, vĩ đại vừa là lãnh tụ
của giai cấp, vừa là lãnh tụ của dân tộc – Hồ Chí Minh – vạch đường chỉ lối,
giáo dục, rèn luyện. Người là hiện thân và đại biểu tập trung được ý chí, tình
cảm, trí tuệ của dân tộc. Người đã sớm tiếp thu chủ nghĩa Mác – Lênin và
đưa vào nước ta. Người đã sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Thông qua
chính Đảng của mình, GCCN bước lên vũ đài chính trị giành quyền lãnh đạo
sự nghiệp giải phóng dân tộc, trong khi nhiều cương lĩnh của các giai cấp và
tầng lớp yêu nước khác bị phá sản. Ngay từ đầu, chính Đảng của GCCN đã
biết vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của Việt
Nam, đề ra cương lĩnh cứu nước đúng đắn cho dân tộc, chỉ rõ con đường

duy nhất đúng đắn để giải phóng dân tộc – con đường kết hợp độc lập dân
tộc với chủ nghĩa xã hội. Do vậy, GCCN Việt Nam đã đóng được vai trò tiên
phong, giành được quyền là lực lượng duy nhất lãnh đạo cách mạng Việt
Nam trong giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và trong sự
nghiệp xây dựng xã hội mới. 80 năm qua, trên thực tế Đảng Cộng sản Việt
Nam đã độc quyền lãnh đạo cách mạng nước ta.
Tuy nhiên, do được sinh ra và lớn lên ở một nước nông nghiệp nông
nghiệp lạc hậu, nền đại công nghiệp chưa phát triển, trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất còn ở mức độ thấp, công nhân nhiều đời còn ít, v.v nên
GCCN Việt Nam cũng còn những mặt hạn chế nhất định như: tính tổ chức,
kỷ luật chưa cao; tư tưởng, tâm lý, tác phong và thói quen của người sản
xuất nhỏ còn khá nặng nề; biểu hiện rõ nhất là tính tự do, tùy tiện, sự manh
mún, tản mạn, tư tưởng cục bộ, phường hội, tác phong gia trưởng… Điều đó
12
thể hiện với những mức độ khác nhau trong mỗi người công nhân. Và, trong
chừng mực nhất định, thể hiện cả trong hoạt động của các tổ chức chính trị,
xã hội của GCCN. Những hạn chế của Đảng và Nhà nước ta trong lãnh đạo
quản lý kinh tế, xã hội, văn hóa; một số biểu hiện tiêu cực trong bộ máy
Đảng và Nhà nước ta hiện nay, ở một phương diện nào đấy có thể lý giải từ
nguyên nhân sâu xa của nó, đó là những hạn chế của GCCN Việt Nam – một
trong những cơ sở xã hội chủ yếu của Đảng và Nhà nước ta. Những hạn chế,
yếu kém ấy của GCCN Việt Nam một phần là do điều kiện kinh tế, xã hội –
mà GCCN Việt Nam ra đời, cũng như trong quá trình tồn tại và phát triển
của nó quy định.
III. Quan điểm của Hồ Chí Minh về giai cấp công nhân Việt Nam
1. Giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua
Đảng của giai cấp mình.
Quán triệt sâu sắc học thuyết Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của
nước ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh – lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam tuy
không đưa ra định nghĩa cụ thể về giai cấp công nhân, song trong nhiều bài

viết, nhiều cuộc nói chuyện quan trọng, Người đã chỉ ra những ai là công
nhân, lực lượng nòng cốt trong giai cấp công nhân là những người nào.
Đồng thời Hồ Chí Minh cũng luôn khẳng định vị trí, vai trò to lớn của giai
cấp công nhân nói chung, giai cấp công nhân Việt Nam nói riêng trong quá
trình cách mạng.
Cuối năm 1922, được tin 600 thợ nhuộm Chợ Lớn quyết định bãi
công, Nguyễn Ái Quốc coi đó là dấu hiệu chứng tỏ ở Việt Nam “ giai cấp
công nhân cũng bắt đầu giác ngộ về lực lượng và giá trị của mình”. Theo
Nguyễn Ái Quốc, “những người công nhân bản xứ khốn khổ kia, thường là
13
rất ngoan ngoãn, dễ sai bảo, không được giáo dục và tổ chức đã đi đến phải
tập hợp nhau lại…” thì chúng ta phải “ ghi lấy dấu hiệu đó của thời đại”.
Năm 1928, trong bài viết về công tác quân sự của Đảng trong nông
dân, Người đã nhấn mạnh vai trò to lớn trong sự nghiệp cách mạng của giai
cấp công nhân: “ Đảng cách mạng phải hiểu rằng phong trào nông dân, cho
dù có quy mô to lớn tới đâu đi nữa, cũng không mong gì giành được những
thắng lợi quyết định nếu như giai cấp công nhân không hành động”
1
.
Trong tài liệu Thường thức chính trị viết năm 1953, để lý giải vì sao
công nhân là giai cấp lãnh đạo cách mạng, Hồ Chí Minh đã nêu ra: “ Tất cả
những người không có tư liệu sản xuất, phải bán sức lao động mà sống, là
công nhân. Bất kỳ họ lao động trong công nghệ hay trong nông nghiệp, bất
kỳ họ làm nghề gì, cũng đều thuộc về giai cấp công nhân.
Chủ chốt của giai cấp ấy, là những công nhân ở các xí nghiệp như:
nhà máy, hầm mỏ, xe lửa v.v Những công nhân thủ công nghệ, những
người làm thuê ở các cửa hàng, những cố nông, v.v…, cũng thuộc về giai
cấp công nhân. Nhưng chỉ công nhân công nghệ là hoàn toàn đại biểu cho
cái đặc tính của giai cấp công nhân”
2

.
Như vậy, trong điều kiện giai cấp công nhân chưa giành được chính
quyền. Hồ Chí Minh đã chỉ ra tiêu chí quan trọng để xem xét ai là công
nhân, đó là người không có tư liệu sản xuất, phải bán sức lao động để sống.
Mặt khác, theo Người đặc tính cách mạng của giai cấp công nhân là: kiên
quyết, triệt để, tập thể, có tổ chức, có kỷ luật, là giai cấp tiên tiến nhất trong
sản xuất, gánh trách nhiệm đánh đổ chế độ tư bản và đế quốc, để xây dựng
một xã hội mới, giai cấp công nhân có thể thấm nhuần một tư tưởng cách
mạng nhất, tức là chủ nghĩa Mác – Lênin. Đồng thời, tinh thần đấu tranh của
1
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 2, tr. 418.
2
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 7, tr.211-212.
14
họ ảnh hưởng và giáo dục các tầng lớp khác. Vì vậy, về các mặt chính trị, tư
tưởng, tổ chức và hành động, giai cấp công nhân đều giữ vai trò lãnh đạo.
Nhân dịp kỷ niệm 30 năm ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định:
“ Chỉ có giai cấp công nhân là dũng cảm nhất, cách mạng nhất, luôn
gan góc đương đầu với bọn đế quốc thực dân. Với lý luận cách mạng tiên
phong và kinh nghiệm của phong trào vô sản quốc tế, giai cấp công nhân ta
đã tỏ ra là người lãnh đạo xứng đáng nhất và đáng tin cậy nhất của nhân dân
Việt Nam”
1
.
Đặc biệt, khi đến thăm và nói chuyện với các đồng chí lãnh đạo Tổng
Công đoàn Việt Nam ( nay là Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam), Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã nhắc lại lời khẳng định về vị trí, vai trò của giai cấp công
nhân trong các giai đoạn cách mạng:
“ Để giành thắng lợi, cách mạng nhất định phải do giai cấp công nhân

lãnh đạo. Vì nó là giai cấp tiên tiến nhất, giác ngộ nhất, kiên quyết nhất, có
kỷ luật nhất và tổ chức chặt chẽ nhất”
2
.
Người còn nói: “ Trong thời đại hiện nay, giai cấp công nhân là giai
cấp độc nhất và duy nhất có sứ mệnh lịch sử là lãnh đạo cách mạng đến
thắng lợi cuối cùng”
3
.
Nhưng để lãnh đạo cách mạng, để hoàn thành được sứ mệnh vẻ vang
của mình, giai cấp công nhân lại cần phải có đội tiên phong, có lãnh tụ chính
trị, có bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp mình, đó là Đảng Cộng sản.
Người viết trong cuốn Đường cách mệnh: “ cách mệnh trước hết phải có
1
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 10, tr.9.
2
Hồ Chí Minh: Sđd, tập 9, tr. 283.
3
Hồ Chí Minh: Sđd, tập 1, tr. 26.
15
Đảng cách mệnh. Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người
cầm lái có vững, thuyền mới chạy”
1
.
Người chỉ ra tấm gương của cách mạng Nga: “ Cách mệnh Nga dạy
chúng ta rằng muốn cách mệnh thành công thì phải dân chúng (công nông)
làm gốc, phải có đảng vững bền, phải bền gan, phải hy sinh, phải thống nhất.
Nói tóm lại là phải theo chủ nghĩa Mã Khắc Tư và Lênin”
2
.

Quan điểm trên của Hồ Chí Minh thể hiện trước hết ở sự khẳng định
về tầm quan trọng và sự cần thiết phải có Đảng lãnh đạo, đồng thời Người
còn chỉ ra rằng Đảng đó phải là một Đảng kiểu mới, Đảng theo Chủ nghĩa
Mác – Lênin và mang bản chất cách mạng của giai cấp công nhân. Bản chất
đó được thể hiện:
- Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đại biểu trung thành
cho lợi ích của giai cấp của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của
toàn dân tộc.
- Mục tiêu đấu tranh của Đảng là giải phóng dân tộc, đưa đất nước đi
lên chủ nghĩa xã hội, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con
người.
- Đảng lấy Chủ nghĩa Mác – Lênin làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ
nam cho hành động.
- Đảng luôn tuân thủ các nguyên tắc hoạt động và sinh hoạt của Đảng
vô sản kiểu mới của V.I.Lênin.
- Đảng có truyền thống đoàn kết, thống nhất, có tổ chức và kỷ luật
chặt chẽ.
- Đảng có mối quan hệ mật thiết với nhân dân lao động.
- Đảng thấm nhuần chủ nghĩa quốc tế vô sản.
1
Hồ Chí Minh: Sđd, t.2, tr. 267.
2
Hồ Chí Minh: Sđd, t.2, tr. 280.
16
2. Giai cấp công nhân là lực lượng chủ yếu, là gốc cách mạng.
Theo Hồ Chí Minh: giai cấp công nhân không chỉ là giai cấp nắm vai
trò lãnh đạo cách mạng thông qua chính Đảng cộng sản, mà còn là lực
lượng quan trọng, cốt yếu của cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản, chủ
nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân để giành lấy độc lập, tự do cho dân tộc và
xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa.

Sở dĩ giai cấp công nhân là lực lượng quan trọng, lực lượng cốt yếu,
vì:
- Cùng với nông dân, công nhân bị áp bức nặng nề hơn các tầng lớp,
giai cấp khác. Trong cuốn Đường Cách mệnh, Người viết: “ Bị áp bức mà
sinh ra cách mệnh, cho nên ai mà bị áp bức càng nặng thì lòng cách mạng
càng bền, chí cách mạng càng quyết. Khi trước tư bản bị phong kiến áp bức
cho nên nó cách mệnh. Bây giờ tư bản lại đi áp bức công nông, cho nên công
nông là người chủ cách mệnh, công nông là gốc cách mệnh”
1
.
- Công nhân, nông dân chiếm số đông, công nông không có tài sản,
không có nhà máy, hầm mỏ, ruộng đất… cho nên họ hăng hái đấu tranh.
Nếu có thua thì chỉ mất cái kiếp khổ. Còn nếu thắng lợi thì được cả thế giới.
Cho nên công nhân, nông dân kiên trì, gan góc, dũng cảm, hăng hái đấu
tranh chống thực dân, đế quốc để giải phóng cho mình, cho dân tộc.
Hồ Chí Minh cũng nhấn mạnh: tuy giai cấp công nhân là chủ, là gốc
cách mệnh, nhưng phải liên minh với nông dân, đoàn kết với các giai cấp,
tầng lớp khác mới có thể giành thắng lợi trong đấu tranh giành chính quyền
cũng như trong xây dựng xã hội mới. Người nói: “ Nông dân bị giai cấp tư
sản bóc lột và áp bức không ít hơn công nhân, phải đấu tranh để tự giải
phóng. Giai cấp duy nhất để đấu tranh thẳng tay chống chế độ hiện nay là
1
Hồ Chí Minh: Sđd, tập 2, tr. 26.
17
giai cấp công nhân, nông dân. Vì nông dân và công nhân là hai bạn đồng
minh tự nhiên”
1
.
Sau này, khi Cách mạng Tháng Tám thành công, miền Bắc được giải
phóng, chính quyền thuộc về tay công nông, Hồ Chí Minh tiếp tục khẳng

định: “ Ta đoàn kết nội bộ công nhân, đồng thời cũng có sự liên minh của
công nhân và nông dân là hai giai cấp lớn nhất, mạnh nhất”
2
.
Cùng với liên minh với nông dân, theo Hồ Chí Minh, công nhân còn
phải liên minh chặt chẽ với trí thức. Người viết: “ Lực lượng chủ chốt cách
mệnh là công nhân và nông dân, vì họ là người trực tiếp sản xuất ra mọi tài
sản cho xã hội sống. Nhưng cách mạng cũng cần có lực lượng trí thức. Thí
dụ cần có thầy thuốc để chăm sóc sức khỏe cho nhân dân, cần có thầy giáo
để dạy văn hóa và đào tạo và đào tạo cán bộ, cần có kỹ sư để xây dựng kinh
tế”. Người khẳng định: “ Công, nông, trí cần phải đoàn kết chặt chẽ thì
chúng ta sẽ khắc phục được mọi khó khăn, trở ngại, chúng ta sẽ thắng lợi”
3
.
Vai trò to lớn của công nhân còn được Hồ Chí Minh đề cập nhiều
trong thời kỳ miền Bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Người nói: “ Công nhân
phải hiểu xí nghiệp là của mình, làm chủ nước là nói chung, làm chủ xí
nghiệp là nói riêng, xí nghiệp có phát triển, tương lai của công nhân mới tiến
lên”
4
.
Công nhân làm chủ nhà nước còn có nghĩa là công nhân phải tích cực
lao động sản xuất. “ muốn thực hiện đúng vai trò làm chủ, giai cấp công
nhân phải quản lý tốt kinh tế, quản lý tốt xí nghiệp, làm cho năng suất lao
động không ngừng nâng cao, của cải xã hội ngày càng nhiều với phẩm chất
tốt, giá thành hạ”
5
.
1
Hồ Chí Minh: Sđd, tập 1, tr. 157.

2
Hồ Chí Minh: Sđd, tập 7, tr. 569.
3
Hồ Chí Minh: Sđd, tập 7, tr. 484.
4
Hồ Chí Minh: Sđd, tập 7, tr. 566.
5
Hồ Chí Minh: Sđd, t.10, tr. 808.
18
Để làm tốt vai trò lực lượng chủ chốt xây dựng chủ nghĩa xã hội, mỗi
người công nhân phải “ tự nguyện, tự giác giữ kỷ luật lao động, phải làm đủ
8 giờ vàng ngọc, phải giữ gìn của công và thực hành tiết kiệm”
1
.
3. Phải tập hợp công nhân vào một tổ chức ( công hội, công đoàn).
Từ thực tiễn hoạt động trong phong trào công nhân, đồng thời là thành
viên của các tổ chức như “ Lao động hải ngoại”, một tổ chức của những
người thuộc địa sống trên đất Anh; “ Nghiệp đoàn kim khí”, quận 17 Pari
(Pháp), Hồ Chí Minh đã rất chú ý đến việc tập hợp thợ thuyền người Việt.
Ngay từ đầu những năm 1920, Người đã yêu cầu Đảng Cộng sản Pháp
và tổ chức Công hội Pháp giúp đỡ để những người lao động Việt Nam ở
Pháp thành lập Hội Ái hữu, hội Tương tế. Người cũng gửi thư cho Trung
ương Đảng Cộng sản Pháp (7-1923) yêu cầu giúp đỡ để “ tổ chức nghiệp
đoàn hoặc thành lập các nhóm tương tự ở các thuộc địa”
2
.
Trong cuốn Đường cách mệnh, Người nói rất rõ về Công hội (từ mục
đích của Công hội đến cách tổ chức và phương pháp hoạt động):
Về mục đích của Công hội, Người chỉ rõ: “ một là để cho công nhân
đi lại với nhau cho có cảm tình; hai là để nghiên cứu với nhau; ba là để sửa

sang cách sinh hoạt của công nhân cho khá hơn bây giờ; bốn là để giữ gìn
quyền lợi cho công nhân; năm là để giúp cho quốc dân, giúp cho thế giới”
3
.
Về cách thức và hình thức hoạt động của công đoàn, Người viết: “
Nước ta bị Pháp đè nén, nó cấm không cho tổ chức hội hè, cho nên muốn tổ
chức hội gì cũng phải dùng cách bí mật mới được, công nhân nước ta có ba
thứ: một là thủ công, hai là công xưởng, ba là bán công, mỗi thứ công nhân
một khác nên tổ chức theo chức nghiệp và sản nghiệp. Chức nghiệp tổ chức
là: nghề nghiệp nào tổ chức theo nghề nghiệp ấy… sản nghiệp tổ chức là
1
Hồ Chí Minh: Sđd, t.10, tr. 808.
2
Hồ Chí Minh: Sđd, t.1, tr.19.
3
Hồ Chí Minh: Sđd, t.1, tr.280.
19
không theo nghề nghiệp mà theo những người làm ở chỗ nào thì tổ chức chỗ
ấy”
1
. Như vậy, theo Hồ Chí Minh: Công đoàn tổ chức tập hợp công nhân
theo ngành, nghề và theo địa phương. Mỗi công nhân chỉ được vào một hội
hoặc là sản nghiệp hoặc hội nghề nghiệp “ đoàn thể thì có phép vào nhiều
Tổng công hội mà từng người thì chỉ được vào một công hội mà thôi. Nếu
giới hạn này không nghiêm thì sau hay bối rối”
2
.
Về mối quan hệ giữa tổ chức Công hội và tổ chức Đảng, Hồ Chí Minh
khẳng định: “ tuy đều là tổ chức của giai cấp công nhân, tập hợp tổ chức
công nhân tranh đấu nhưng Công hội chú trọng mặt kinh tế hơn. Đảng chú

trọng mặt chính trị hơn”
3
, “ Ai vào cả Đảng và Hội chính trị thì theo Đảng
chỉ huy, mà kinh tế thì theo Công hội chỉ huy. Đảng viên ai cũng phải vào
Công hội để mà tuyên truyền chủ nghĩa của Đảng, nhưng không phải hội
viên nào cũng vào được Đảng”
4
.
Về điều kiện xây dựng hội vững bền, Người chỉ rõ rằng: “chớ phân
biệt người này là Nam kỳ, người kia là Trung kỳ, người nọ là Bắc kỳ… đã
một nghề, một hội là anh em cả, phải xem nhau như người một nhà”
5
.
Sau này, trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc,
Người đặc biệt nhấn mạnh đến vai trò của tổ chức Công đoàn và cán bộ
công đoàn. Trong nhiều bài viết, bài nói của Người ở Trường cán bộ công
đoàn năm 1957, huấn thị của Người tại Hội nghị cán bộ công đoàn năm
1959 và bài nói chuyện với các đồng chí lãnh đạo Tổng công đoàn Việt Nam
đã thể hiện rất rõ những quan điểm của Người. Đó là:
Công đoàn phải tuyên truyền đường lối chính sách của Đảng và giáo
dục cho công nhân về đạo đức vô sản, đạo đức cách mạng.
1
Báo Thanh niên: 3-10-1926.
2
Hồ Chí Minh: Sđd, tr. 282.
3
Hồ Chí Minh: tuyển tập, tập 1, Nxb ST, H, 1980, tr. 283
4
Hồ Chí Minh: tuyển tập, tập 1, Nxb ST, H, 1980, tr. 284.
5

Hồ Chí Minh: tuyển tập, tập 1, Nxb ST, H, 1980, tr. 284.
20
Hồ Chí Minh thường căn dặn cán bộ: “ Công đoàn phải tuyên truyền
đường lối chính sách chung của Đảng, vì Đảng mình là đảng của giai cấp vô
sản. Đường lối chung là giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp. Giai cấp mà
không có Đảng lãnh đạo thì không làm cách mạng được, Đảng mà không có
giai cấp công nhân cũng không làm được gì”
1
. Bởi thế Công đoàn phải hiểu
và tuyên truyền sâu rộng chính sách chung của Đảng trong hàng ngũ giai cấp
công nhân.
Theo Hồ Chí Minh, tổ chức Công đoàn cần phải nắm được những
kiến thức về thực tiễn để tuyên truyền trong công nhân lao động bằng những
phương pháp thích hợp với trình độ, điều kiện lao động của công nhân.
Người khuyên: “Công đoàn và cán bộ công đoàn phải học trước để hiểu biết
khoa học. Công đoàn và cán bộ công đoàn phải tìm cách này hay cách khác
giải thích cho công nhân rõ tình hình trong nước và ngoài nước”
2
.
Công đoàn phải giáo dục cho công nhân thái độ của người làm chủ
nước nhà, làm cho công nhân phải hiểu được rằng “tương lai của công nhân
và tương lai của xí nghiệp phải dính liền”
3
. Công nhân phải bảo vệ chế độ
của ta, phải hiểu lao động là vè vang, phải tự nguyện, tự giác giữ kỷ luật lao
động, giữ gìn của công, chống tham ô lãng phí. Cải thiện sinh hoạt phải dựa
trên cơ sở tăng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm. “Trong công tác giáo dục
phải gắn liền với nhiệm vụ cụ thể. Ví như nói giai cấp công nhân là giai cấp
lãnh đạo, thì cụ thể là phải gương mẫu trong sản xuất, gương mẫu trong đời
sống”

4
, tránh chung chung chính trị suông.
Về vai trò của Công đoàn là vận động công nhân lao động sản xuất,
nâng cao đời sống.
1
Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 8, tr. 295.
2
Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 8, tr. 298.
3
Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 8, tr. 296.
4
Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 12, tr. 566.
21
Trước hết, Hồ Chí Minh quan niệm Công đoàn phải vận động quần
chúng lao động tham gia xây dựng nền kinh tế quốc dân. “Công đoàn phải
hiểu để giải thích cho công nhân, công nhân phải hiểu để giải thích cho nhân
dân là: phải tăng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm”
1
. Tích cực tham gia lao
động sản xuất chưa đủ mà công nhân cần phải tham gia quản lý đất nước,
quản lý kinh tế, xã hội thông qua hoạt động công đoàn. Cho nên “Công đoàn
là một trường học để thực hiện cải tiến dần dần lên chủ nghĩa xã hội”
2
. Vì
thế “Công đoàn phải thật sự trở thành trường học quản lý Nhà nước, quản lý
kinh tế và văn hóa của giai cấp công nhân nước ta”
3
. Công nhân phải biết
yêu quý doanh nghiệp, nhà máy, phải học cách quản lý doanh nghiệp “Công
đoàn sẽ giáo dục cho công nhân nam nữ biết quản lý nhà máy của mình”

4
.
“Công đoàn phải vận động quần chúng lao động tham gia ngày càng
rộng rãi vào toàn bộ sự nghiệp xây dựng nền kinh tế quốc dân, vào các kế
hoạch kinh tế sản xuất, phân phối”
5
. Hồ Chí Minh thường nhắc nhở cán bộ
Công đoàn các cấp, nhất là công đoàn các xí nghiệp cần phải hướng dẫn cho
công nhân hiểu rõ quyền lợi và trách nhiệm của mình. “Trong xí nghiệp,
công đoàn phải làm cho công nhân hiểu rõ trách nhiệm nâng cao năng suất
lao động là nguồn của cải to lớn nhất; phải làm cho họ hiểu tình hình kinh
doanh lỗ lãi, việc sử dụng công suất máy móc, việc tiêu hao nguyên liệu, vật
liệu, v.v , dần hướng họ tham gia mọi hoạt động của xí nghiệp, làm cho xí
nghiệp ngày càng phát triển”
6
.
Công đoàn tổ chức phong trào thi đua. Đó là nhiệm vụ hết sức quan
trọng của Công đoàn. Khi nói chuyện với các cán bộ Công đoàn, Người
thường căn dặn: “Tính hăng hái, sáng tạo tỏ ra ở chỗ thi đua. Thi đua không
1
Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 8, tr. 297.
2
Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 8, tr. 515.
3
Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 10, tr. 21.
4
Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 8, tr.515,
5
Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 12, tr. 568.
6

Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 12, tr. 569.
22
phải là tranh đua. Mọi người phải cố gắng tiến bộ, không giấu nghề, người
đi trước hiểu biết, dẫn người đi sau, làm cho mọi người cùng tiến bộ. thi đua
là phải làm cho tốt. Làm xấu mau hỏng, dùng không bền. Lại phải làm nhiều
mới đủ dùng. Phải làm nhanh và phải làm rẻ, không phí phạm thì giờ,
nguyên vật liệu”
1
.
Muốn cho phong trào Công đoàn mạnh cần có cán bộ công đoàn
tốt.
Theo Hồ Chí Minh, cán bộ công đoàn phải là người hiểu biết sản xuất,
đời sống, nguyện vọng của công nhân, viên chức, phải hiểu chính sách của
Đảng, phải hiểu về quản lí kinh tế, khoa học, kỹ thuật. Cán bộ công đoàn
“phải giỏi cả về chính trị, thạo về kinh tế”
2
thì mới lãnh đạo được đội ngũ
công nhân ngày càng phát triển lại có trình độ cả về tư tưởng văn hóa, kĩ
thuật. “Cán bộ công đoàn phải tham gia lao động gần gũi công nhân, viên
chức”
3
phải biết dựa vào quần chúng, phát huy sức sáng tạo của quần chúng,
học tập kinh nghiệm của quần chúng… thì mới làm tròn được nhiệm vụ của
mình.
Cán bộ công đoàn phải là trung tâm của đoàn kết, phải có trách nhiệm
cao, vì lợi ích giai cấp, vì lợi ích cách mạng. “Muốn giáo dục tốt công nhân,
trước hết đội ngũ cán bộ công đoàn phải đoàn kết nhất trí”
4
phải là nòng cốt
của khối đoàn kết trong hệ thống Công đoàn, phải làm gương cho công nhân

noi theo.


1
Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 8, tr. 343.
2
Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 8, tr. 814.
3
Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 8, tr. 814.
4
Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 8, tr. 815.
23

×