Tải bản đầy đủ (.docx) (65 trang)

Đánh giá các công trình nhà làm việc của trường đại học nông lâm thái nguyên theo ứng dụng khoa học phong thủy

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.28 MB, 65 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NƠNG
LÂM

HỒNG VÂN
ANH
■>

Tên đe tài:
“ ĐÁNH GIÁ CÁC CƠNG TRÌNH NHÀ LÀM VIỆC CỦA TRƯỜNG ĐẠI
HỌC NÔNG LÂM THÁI NGUYÊN THEO ỨNG DỤNG KHOA HỌC
PHONG THỦY ”

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Hệ đào tạo

: Đại học chính quy :

Chuyên ngành

Quản lý đất đai : Quản

Khoa Khóa học

lý Tài nguyên : 20112015

THÁI NGUYÊN - 2015


HỒNG VÂN


ANH
rr-1

-*Ầ . A •

Tên đê tài:
“ĐÁNH GIÁ CÁC CƠNG TRÌNH NHÀ LÀM VIỆC CỦA TRƯỜNG ĐẠI
HỌC NƠNG LÂM THÁI NGUYÊN THEO ỨNG DỤNG KHOA HỌC
PHONG THỦY ”

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Hệ đào tạo

: Đại học chính quy

Chuyên ngành

: Quản lý đất đai

Khoa

: Quản lý Tài nguyên

Khóa học

: 2011-2015

Giảng viên hướng dẫn : GS.TS. Nguyễn Thế Đặng Khoa Quản
lý Tài Nguyên - Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên



3

DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 4.1 :Hiện trạng sử dụng đất trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên năm 2014 ...38
Bảng 4.2: Số lượng cán bộ, giảng viên, nhân viên của Nhà trường....................................42
Bảng 4.3. Thống kê số lượng sinh viên các hệ đào tạo của Nhà trường từ năm 2012201543


'i
i

DANH MỤC CÁC HÌNH


5

MỤC LỤC


6

PHẦN 1
MỞ ĐẦU
1.1.

Đặt vấn đề

Từ ngàn xưa, dân tộc Việt Nam đã lấy khí thiêng sơng núi làm nguồn sống của tâm
tư. Khí có tốt, cảnh vật có hài hịa thì cuộc sống của con người nơi đó mới được ấm no,

hạnh phúc. Vì vậy đã có rất nhiều người nghiên cứu, tìm hiểu về thế đất, mạch nước, hướng
gió, ảnh hưởng như nào đến đời sống, tâm tư, tình cảm của con người. Thuật Phong thuỷ
hình thành rất sớm, có thể nói gần như cùng với sự ra đời của lồi người thì con người từ
khi sinh ra đã biết chọn những vị trí cư trú có núi non che chở bao bọc, lại gần sơng ngịi,
nguồn nước. Từ đời nhà Chu đã có q trình chọn đất xây nhà tại vùng bình nguyên, đây là
vùng đất mầu mỡ, có thể canh tác nơng nghiệp thuận lợi. Gần nguồn nước mà vẫn tránh
được lụt lội, tai hoạ thời tiết, thiên tai. Vì vậy, thuật Phong thuỷ nghe có vẻ huyền bí nhưng
thực ra lại rất thực tế và gần gũi với đời sống.
Thuật Phong thủy là nghệ thuật vận dụng bố cục, sắp đặt, trang trí nhà cửa, văn
phịng công ty, cơ sở thương mại theo những nguyên tắc cụ thể khai thơng và hướng dẫn
sinh khí làm cho cuộc sống tốt đẹp hơn, công việc làm ăn phát đạt.
Trong cuộc sống thực tế, chúng ta vẫn được thấy những trường hợp khác nhau, người
làm nhà xong thì ăn lên làm ra, thăng quan tiến chức, con cái đỗ đạt. Ngược lại, người thì
lụn bại, thất thế sa cơ, suy sụp sức khỏe....
Vậy để tránh được những ảnh hưởng xấu đến cuộc sống của con người cần phải bố
trí cơng trình, nhà ở, bố trí nội ngoại thất như thế nào thì mới phù hợp với quy luật phong
thủy? Mơi trường cảnh quan xung quanh cơng trình, nhà ở có ảnh hưởng như thế nào đến
vận mệnh cơng trình, nhà ở và những người sống trong đó?
Đại học Nơng Lâm là một trường thành viên của Đại học Thái Ngun từ năm 1994.
Ngồi những cơng trình đã có từ trước, nay được xây dựng thêm nhà làm việc, giảng
đường, kí túc xá, phịng thí nghiệm... Một câu hỏi đặt ra là các cơng trình đã có và xây mới


7

có phù hợp với cảnh quan, phù hợp với khía cạnh phong thủy hay khơng? Đây chính là vấn
đề cần quan tâm hiện nay.
Vì vậy được sự phân cơng của Ban chủ nhiệm khoa Quản lý Tài nguyên, Trường Đại
học Nông Lâm Thái Nguyên, dưới sự hướng dẫn trực tiếp của thầy giáo GS.TS. Nguyễn
Thế Đặng, tôi tiến hành thực hiện đề tài: “Đánh giá các cơng trình nhà làm việc của

Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên theo ứng dụng khoa học phong thủy”.
1.2.

Mục tiêu và yêu cầu của đề tài

1.2.1.

Mục tiêu của đề tài



Mục tiêu tổng quát:

-

Ứng dụng khoa học phong thủy trong xây dựng cơng trình và bố trí cảnh quan.



Mục tiêu cụ thể :

-

Đánh giá được việc áp dụng Phong thủy trong xây dựng các công trình, nhà làm
việc và cảnh quan của Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên theo trường phái
Huyền không phi tinh và phái Loan Đầu.

-

Đề xuất một số giải pháp để điều chỉnh cảnh quan phù hợp theo phong thủy.


1.2.2.

Yêu cầu của đề tài

-

Thu thập các tài liệu nghiên cứu về khoa học phong thủy.

-

Nắm bắt được một số quy luật cơ bản của phong thủy trong xây dựng cơng trình nhà
làm việc và bố trí cảnh quan.

-

Xác định rõ ảnh hưởng của việc xây dựng cơng trình theo phong thủy.

-

Đánh giá được từng cơng trình nhà làm việc của Trường Đại học Nông Lâm Thái
Nguyên theo ứng dụng phong thủy.

-

Đề xuất một số giải pháp để điều chỉnh c ảnh quan phù h ợp theo phong

thủ y.
1.3.
-


Ý nghĩa của đề tài
Ý nghĩa trong khoa học: Đề tài có ý nghĩa rất quan trọng trong học tập và nghiên
cứu khoa học, giúp cho người học tập nghiên cứu củng cố lại những kiến thức đã

học, biết cách thực hiện một đề tài khoa học và hồn thành khóa luận tốt nghiệp.
- Ý nghĩa trong thực tiễn: Đề tài góp phần đề xuất các cách giúp chúng ta


8

có được một ngơi nhà như ý, vừa đảm bảo về mặt thẩm mỹ vừa đảm bảo
hài hòa giữa thiên nhiên và con người, đồng thời đón lành, tránh dữ.
Thấy được mức độ ảnh hưởng khi ứng dụng Phong thủy đến đời sống con
người.


2.1.

Cơ sở lý luận của đề tài

2.1.1.

Khái niệm về Phong thủy

PHẦN 2
TỔNG QUAN TÀI LIỆU

Phong thủy là học thuyết chuyên nghiên cứu sự ảnh hưởng của hướng gió, hướng khí, mạch nước đến đời sống hoạ
phúc của con người. Về mặt từ nguyên, Phong có nghĩa là "gió", là hiện tượng khơng khí chuyển động và Thủy có nghĩa là

"nước", là dịng nước, tượng trưng cho địa thế.
Phong thủy khơng phải là yếu tố đơn lẻ mà là tổng hợp hàng loạt yếu tố về địa hình địa thế xung quanh nhà ở, thơn
xóm, thành phố hoặc mồ mả, hướng gió, dịng nước cùng tọa hướng, hình dạng, bố cục mặt bằng không gian xây dựng.
Phong thủy liên quan đến cát hung, họa phúc, thọ yểu, sự cùng thông của nhân sự. Cát ắt là phong thủy hợp, hung ắt là
phong thủy khơng hợp. Hai chữ phong thủy cịn chỉ phương pháp tìm kiếm và chọn lựa nơi trú ngụ hoặc mai táng cát tường
phú quý, phúc thọ bình yên, tức là thuật Phong thủy. Giống như mọi ngành khoa học kĩ thuật cổ truyền khác ở Á Đông,
thuật phong thủy cũng dựa vào dịch lí, thuyết âm dương, ngũ hành.
Có thể hiểu rằng: Phong thủy là học thuyết chuyên nghiên cứu sự ảnh hưởng của địa lý đến đời sống họa phúc của
con người. Là sự ảnh hưởng của hướng gió, khí, mạch nước đến mỗi cá nhân. Phong thủy có vai trị rất to lớn, tuy nhiên nó
chỉ hỗ trợ, có tác dụng cải biến chứ khơng làm thay đổi hoàn toàn vận mệnh.
Nhưng nếu chỉ hiểu như vậy thì quả là chưa đánh giá đúng cái chân giá trị và vai trò của Phong thuỷ trong đời sống
con người! Lịch sử hình thành các dân tộc phương Đơng có khoảng trên dưới năm ngàn năm thì cũng gần hết chiều dài lịch
sử đó đã thấy có sự xuất hiện của Khoa Phong thuỷ. Những văn bản cổ xưa nhất đã ghi dấu lại bằng giáp cốt văn (chữ nòng
nọc - Khoa đẩu) sau khi giải mã đã cho thấy rõ điều này.
Phong thủy có vai trị rất to lớn, tuy nhiên nó chỉ hỗ trợ, có tác dụng cải biến chứ khơng thể làm thay đổi hồn tồn
vận mệnh.Vì vậy có câu :
Nhất Vận, nhì Mệnh, tam Phong thủy, tứ Gia tiên, ngũ Đèn sách
Trên thực tế, phong thủy học chính là mơn khoa học tự nhiên tổng hợp nhiều ngành như địa lý, địa chất, khí tượng

học, cảnh quan học, kiến trúc học, sinh thái học và nhân thể học. Tơn chỉ của nó là khảo sát, tìm hiểu kĩ càng về mơi trường
tự nhiên, thuận theo tự nhiên, sử dụng và cải tạo tự nhiên hợp lý, tạo ra môi trường sinh sống tốt, được thiên thời, địa lợi,
nhân hòa [1].

2.1.2.

Nguồn gốc ra đời của Khoa học phong thủy

Đến nay nguồn gốc của Phong thủy vẫn đang là vấn đề được đem ra tranh cãi.
Có ý kiến cho rằng nguồn gốc Phong thủy từ Trung Hoa, nhưng có ý kiến lại cho rằng nguồn gốc phong thủy từ nước ta bắt



đầu từ thời Hùng Vương dựng nước [2].
Nguồn gốc phong thủy bí ẩn như chính tên gọi của nó. Thực ra cũng khó có thể xác định chắc chắn rằng phong thủy
xuất hiện từ bao giờ. Có lẽ là ngay từ khi con người xuất hiện trên trái đất thì họ đã có tư duy về phong thủy. Tất nhiên vào
những thời kỳ cịn ngun thủy thì khái niệm phong thủy còn rất manh nha nhưng chắc chắn con người đã tìm mọi cách để
có thể thích ứng với thiên nhiên và mục đích hịa hợp với tự nhiên vẫn là một trong những nội dung chính của phong thủy
cho đến ngày nay.
Đã có thời gian Phong thủy được đánh đồng với tơn giáo. Thậm chí bị coi là nhảm nhí, là mê tín dị đoan cũng do
cách giải thích thiếu hiểu biết của chính các thầy Phong thủy, muốn thần thánh hóa, làm thần bí phức tạp thêm trong con
mắt của gia chủ nhằm trục lợi cho bản thân. Ngày nay, Phong thủy đã được coi là một đối tượng nghiên cứu khoa học.
Nhiều nước tiên tiến trên thế giới đã có những cơ quan nghiên cứu về Phong thủy. Tuy nhiên, vẫn chưa có tài liệu chính
xác nào nghiên cứu về nguồn gốc ra đời của khoa học phong thủy mà chỉ là những phỏng đoán theo tiến trình lịch sử của
Trung Quốc là nơi đã phát sinh khoa Phong thủy.
Để xác định một học thuyết thuộc về một văn minh nào đó phải thỏa mãn tiêu chí sau đây:
- Lịch sử phát triển của học thuyết phải chứng tỏ tính hợp lý trong lịch sử của nền văn minh đó.
-

Nền tảng trí thức xã hội trong q trình lịch sử của nền văn minh đó phải chứng tỏ là cơ sở để phát triển và hình
thành nên học thuyết đó.

-

Nội dung của học thuyết đó phải chứng tỏ tính hợp lý một cách có hệ thống và hồn chỉnh.
Bằng việc nghiên cứu và tìm hiểu các tư liệu từ ngàn xưa còn đến ngày nay, mong rằng sẽ sớm có kết luận chính xác.

2.2.

Cơ sở khoa học của đề tài

2.2.1.


Khí

Là hơi thở hoặc năng lượng. Năng lượng được hiểu là Long mạch, ni dưỡng khí đề làm giàu cuộc sống và khí của
những người cư ngụ. Phong thủy ảnh hưởng đến khí của con người. Do đó, có thể dùng phong thủy để giúp gỡ rối được các
“nút” ngăn chặn hạnh phúc, mục đích và hi vọng của con người.

2.2.2.

Âm dương ngũ hành

2.2.2.1.

Âm dương

Là một cặp phạm trù vừa đối nghịch, vừa thống nhất nhau. Triết lý về các cặp phạm trù đã được các nhà triết học như
Hegen, C.Mark...lý giải. Trong thiết kế, phong thủy tìm kiếm sự cân bằng và sự hài hòa cho một ngôi nhà và đem lại cho
người cư ngụ sức khỏe và sự cân bằng cảm xúc.
Như vậy trong âm có dương, trong dương có âm, giữa chúng có thể là ức chế nhau, giúp đỡ, ảnh hưởng lẫn nhau,
nương tựa lẫn nhau và thúc đẩy lẫn nhau. Biết được điều đó chúng ta có thể điều hịa âm dương cho phù hợp.


2.2.2.2.

Ngũ hành

Học thuyết Âm dương được triển khai rộng ra thành lý luận Ngũ hành. Tương tác được chia làm hai loại: Sinh và
khắc.
Học thuyết Ngũ hành là một học thuyết về mối quan hệ giữa các sự vật hiện tượng. Đó là một mối quan hệ “động”
(vì vậy mà gọi là hành). Có hai kiểu quan hệ: Đó là Tương sinh và Tương khắc. Người xưa mượn tên và hình ảnh của 5 loại

vật chất để đặt tên cho 5 vị trí đó là Mộc - Hỏa - Thổ - Kim - Thủy, và gán cho chúng tính chất riêng:
+ Mộc: có tính chất động, khởi đầu (Sinh).
+ Hỏa: có tính chất nhiệt, phát triển (Trưởng).
+ Thổ: có tính chất ni dưỡng, sinh sản (Hóa).
+ Kim: có tính chất thu lại (Thu).
+ Thủy: có tính chất tàng chứa (Tàng).
Sau đó qui nạp mọi sự vật hiện tượng ngồi thiên nhiên lẫn trong cơ thể con người vào Ngũ hành để xét mối quan hệ
Sinh - Khắc giữa các sự vật hiện tượng đó. Như vậy, học thuyết Ngũ hành chính là sự cụ thể hóa qui luật vận động chuyển
hóa của mọi sự vật hiện tượng [1].

Hình 2.1. Ngũ hành
- Các qui luật của Ngũ hành:
+ Tương sinh (Sinh: hàm ý ni dưỡng, giúp đỡ): Giữa Ngũ hành có mối quan hệ nuôi dưỡng, giúp đỡ, thúc đẩy
nhau để vận động khơng ngừng, đó là quan hệ Tương sinh. Người ta qui ước thứ tự của Ngũ hành Tương sinh như sau:
Mộc sinh Hỏa, Hỏa sinh Thổ, Thổ sinh Kim, Kim sinh Thủy, Thủy sinh Mộc.


+ Tương khắc (Khắc hàm ý ức chế, ngăn trở): Giữa Ngũ hành có mối quan hệ ức chế nhau để giữ thế qn bình, đó
là quan hệ Tương khắc. Người ta qui ước thứ tự của Ngũ hành Tương khắc như: Mộc khắc Thổ, Thổ khắc Thủy, Thủy khắc
Hỏa, Hỏa khắc Kim, Kim khắc Mộc.

2.2.3.

Bát quái

Bát Quái sinh ra từ âm dương theo nguyên lý của dịch học là: Thái Cực sinh Lưỡng nghi, Lưỡng nghi sinh Tứ tượng,
Tứ tượng sinh Bát qi.

Hình 2.2. Vơ cực đồ
Trong Phong thủy, một khơng gian có 8 góc và 8 cặp tam quái gọi là bát quái, được dùng để chuẩn đoán các sự bất

cân xứng trong môi trường và đời sống, từ đó cải thiện sức khỏe, hạnh phúc và thịnh vượng. Khi thiết kế, phải xem xét
những góc khơng bình thường của một ngơi nhà để có giải phá xử lý thoát đáng nhằm tạo sự cân bằng và hài hịa giữa chủ
nhân và ngơi nhà [8].
Bát qi đồ là hình ảnh sắp xếp các quẻ bát quái thành một vòng tròn theo một trật tự nhất định. Bát quái đại diện
cho các hiện tượng tự nhiên và được biểu thị bởi 8 quẻ: Càn, Khôn, Chấn, Tốn, Khảm, Ly, Cấn, Đồi.
Có hai loại là Tiên thiên Bát qi và Hậu thiên Bát quái. Phương vị của Bát quái theo Thiên văn ngược với phương vị
trên mặt đất.
+ Tiên thiên Bát Quái Là hình Bát quái được sắp xếp theo trật tự có tính đối xứng rất rõ. Đối xứng với một hào Âm
(vạch đứt) sẽ là một hào Dương (vạch liền). Quẻ Càn ở trên cùng gồm 3 hào dương (3 vạch liền) thì đối xứng dưới cùng

là quẻ Khôn gồm 3 hào âm (3 vạch đứt). Quẻ Khảm gồm 1 hào dương nằm giữa 2 hào âm thì đối xứng là quẻ Ly
gồm 1 hào âm nằm giữa hai hào dương.
Sự vận động của Tiên thiên bát quái về mặt hình học là khá rõ ràng: ngược chiều kim đồng hồ, cứ thay thế một hào
âm bằng một hào dương (hoặc một hào dương bằng một hào âm) từ trên xuống, sẽ cho quẻ tiếp theo phía bên trái.


+ Hậu thiên Bát Quái đặt các quẻ theo trình tự thuận chiều kim đồng hồ là: Càn - Khảm - Cấn - Chấn - Tốn - Ly Khôn - Đồi, với quẻ Càn nằm ở góc tây bắc, vì phương vị người xưa nghịch với ngày nay - Trên Nam, Dưới Bắc, Phải
Tây, Trái Đông (theo Kinh Dịch, Đạo của người quân tử của tác giả Nguyễn Hiến Lê).

(Mùa Hạ) CÀN '
LY
ĐỒI

*
TĨN

Nam ^

LY III Đơng Tây Ịj I ^


(Xn) 11 I

Bác ^

2? $ = = %
CHÁN M ■■ CÁN KHƠN
__
(Mùa Đóng)
TIÉN THIẺN BÁT OI

KHÀM
(Thu)

N

Ỉ:Í—

II

Nam


Bắc

CÁN^^

^^CÀN
KHẢM


HẬU THIÉN BÁT OI

Hình 2.3. Bát quái
Bát quái đồ là biểu thị của việc phân định bát quái theo các phương các hướng khác nhau. Từ bát quái đồ 8 phương
chia thành 24 hướng (sơn), được sắp xếp trên la bàn từ trái sang phải theo chiều kim đồng hồ hết 360o'
2.2.4. Phương vị phong thủy
Nói đến phương vị thường ngụ ý chỉ bốn phương: Đông, Tây, Nam, Bắc Nhưng trong phong thủy thường chia ra 24

phương vị, tổng cộng giác độ của 24 phương vị là 360 0, chia đều ra thành 24 phần, mỗi phương vị là 15 0.24 phương vị trong
phong thủy còn gọi là “Nhị thập tứ sơn phương vị”, lấy tám thiên can “Canh, tân, nhâm, quý, giáp, ất, bính, đinh” cộng với
12 địa chi “Tý, sửu, dần, mão, thìn, tỵ, ngọ, mùi, thân, dậu, tuất, hợi”và 4 quẻ “Kiền, Khôn, Cấn, Tốn”mà thành, dựa theo
chiều kim đồng hồ sắp xếp.


Hình 2.4. Bát quái đồ

2.2.5. Bản chất của phong thủy
Phong thủy giúp nâng cao hiểu biết của mọi người về mơi trường sống tự nhiên và từ đó hình thành ý thức bảo vệ
môi trường, nâng cao chất lượng cuộc sống.
Do đó, nghiên cứu khoa học Phong thủy khơng chỉ là nghiên cứu tư duy cổ mà còn dần dần nghiên cứu cả nền văn
hóa phương Đơng nói riêng và của nhân loại nói chung. Ngày nay khoa học đương đại đã có cách nhìn, cách đánh giá mới
về Phong thủy cổ truyền, coi phong thủy như là bộ môn khoa học cần phải nghiêm túc nghiên cứu và ứng dụng để giúp con
người sống hài hòa với thiên nhiên, đón cát - trừ hung.
Huyền khơng phi tinh:
Theo trường phái Huyền khơng thì mọi sự tương tác của các sự vật hiện tượng đều do Cửu tinh (9 ngôi sao) cai quản
và họ dựa trên Cửu tinh để suy luận cát hung. Huyền khơng phái hay cịn gọi là Huyền không Phi tinh là một trường phái
xuất hiện từ lúc nào thì chưa thể xác định chính xác được. Theo sự ghi chép của những thư tịch cổ thì vào đời Hán, trong
"Hán Thư, Văn nghệ chí" người ta thấy có mối quan hệ với các bài ca quyết của Huyền không phái được ghi chép vào
khoảng đời Đường (Trung Quốc) trở về sau của các Phong thuỷ học.
Huyền không phi tinh dựa vào tính chất và sự di chuyển của 9 sao (tức Cửu tinh hay 9 số) mà đoán định họa, phúc

của từng căn nhà (dương trạch) hay từng phần mộ (âm trạch). Cửu tinh: tức là 9 con số, từ số 1 tới số 9, với mỗi số đều có
tính chất và ngũ hành riêng biệt, bao gồm :
Số 1: Sao Nhất Bạch hoặc Tham Lang, có những tính chất như sau:
-

Về Ngũ Hành: thuộc Thủy

-

Về màu sắc: thuộc màu trắng


-

Về cơ thể: là thận, tai và máu huyết

-

Về người: là con trai thứ trong gia đình.

-

Về tính chất: nếu vượng hay đi với những sao 4, 6 thì chủ về văn tài xuất chúng, công danh, sự nghiệp thăng tiến.
Nếu suy, tử thì mắc bệnh về thận và khí huyết, công danh trắc trở, bị trộm cướp hay trở thành trộm cướp.
Số 2: Sao Nhị Hắc hay Cự Môn, có những tính chất sau:

-

Về Ngũ hành: thuộc Thổ.


-

Về màu sắc : thuộc màu đen.

-

Về cơ thể: là bụng và dạ dày.

-

Về người: là mẹ hoặc vợ trong gia đình.

-

Về tính chất: nếu vượng thì điền sản sung túc, phát về võ nghiệp, con cháu đơng đúc. Suy thì bệnh tật liên miên,
trong nhà xuất hiện quả phụ.
Số 3: Sao Tam Bích hay Lộc Tồn, có những tính chất sau:

-

Về Ngũ hành: thuộc Mộc.

-

Về màu sắc: thuộc màu xanh lá cây.

-

Về cơ thể: mật, vai và 2 tay.


-

Về người: là con trai trưởng trong gia đình.

-

Về tính chất: nếu vượng thì con trưởng phát đạt, lợi cho kinh doanh, vợ cả tốt. Nếu suy thì khắc vợ và hay bị kiện
tụng, tranh chấp.
Số 4: Sao Tứ Lục hoặc Văn Xương, có những tính chất sau:

-

Về Ngũ hành: thuộc Mộc.

-

Về màu sắc: thuộc màu xanh dương (xanh nước biển).

-

Về cơ thể: gan, đùi và 2 chân.

-

Về người: là con gái trưởng trong gia đình.

-

Về tính chất: nếu vượng hoặc đi với sao Nhất Bạch thì văn chương nổi tiếng, đỗ đạt cao, con gái xinh đẹp, lấy
chồng giàu sang. Nếu suy, tử thì trong nhà xuất hiện người dâm đãng, phiêu bạt đó đây, bệnh về thần kinh.

Số 5: Sao Ngũ Hồng, có những tính chất sau:

-

Về Ngũ Hành: thuộc Thổ.

-

Về màu sắc: thuộc màu vàng.

-

Về cơ thể và con người: không.


-

Về tính chất: nếu vượng thì tài lộc, nhân đinh đều phát, phú q song tồn. Nếu suy thì chủ nhiều hung họa, bệnh
tật, tai nạn, chết chóc...
Số 6: Sao Lục Bạch hoặc Vũ Khúc: có những tính chất sau:

-

Về Ngũ hành: thuộc Kim.

-

Về màu sắc: thuộc màu trắng, bạc.

-


Về cơ thể: đầu, mũi, cổ, xương, ruột già.

-

Về người: là chồng hoặc cha trong gia đình.

-

Về tính chất: nếu vượng hoặc đi với sao Nhất Bạch thì cơng danh hiển hách, văn võ song tồn. Nếu suy thì khắc vợ,
mất con, lại hay bị quan tụng, xương cốt dễ gãy.
Số 7: Sao Thất Xích hoặc Phá Qn: có những tính chất sau:

-

Về Ngũ hành: thuộc Kim.

-

Về màu sắc: thuộc màu đỏ.

-

Về cơ thể: phổi, miệng, lưỡi.

-

Về người: là con gái út trong gia đình.

-


Về tính chất: nếu vượng thì hoạnh phát về võ nghiệp hoặc kinh doanh. Nếu suy thì bị trộm cướp hay tiểu nhân làm
hại, đễ mắc tai họa về hỏa tai hay thị phi, hình ngục.
Số 8: Sao Bát Bạch hoặc Tả Phù: có những tính chất sau:

-

Về Ngũ hành: thuộc Thổ.

-

Về màu sắc: thuộc màu trắng.

-

Về cơ thể: lưng, ngực và lá lách.

-

Về người: là con trai út trong gia đình.

-

Về tính chất: nếu vượng thì nhiều ruộng đất, nhà cửa, con cái hiếu thảo, tài đinh đều phát. Nếu suy thì tổn thương
con nhỏ, dễ bị ôn dịch.
Số 9: Sao Cửu Tử hay Hữu Bật, có những tính chất sau:

-

Về Ngũ hành: thuộc Hỏa.


-

Về màu sắc: màu đỏ tía.

-

Về cơ thể: mắt, tim, ấn đường.

-

Về người: con gái thứ trong gia đình.

-

Về tính chất: Nếu vượng thì nhiều văn tài, quý hiển sống lâu. Nếu suy thì bị hỏa tai, hoặc tai họa chốn quan trường,


bị thổ huyết, điên loạn, đau mắt, sinh đẻ khó khăn.
Thuật Huyền không phi tinh lấy sự phối hợp của cửu tinh (9 sao) trong Lạc thư làm chủ. Sự di chuyển của cửu tinh
trong lạc thư theo thuận chiều hay nghịch chiều là cơ sở cho việc xác định hướng tốt hay xấu trong 24 sơn và 8 hướng.

Hình 2.5. Phương vị gôc của Cửu tinh trong Hậu thiên bát quái và Tam nguyên
long
Khi có những thay đổi về khơng gian và thời gian thì Cửu tinh cũng sẽ thay đổi hoặc di động theo 1 qũy đạo nhất
định. Quỹ đạo đó được gọi là vịng Lượng thiên Xích. Lượng thiên Xích cịn được gọi là "Cửu tinh đãng quái” là thứ tự di
chuyển của Cửu tinh trong Lạc thư hay Hậu thiên Bát quái. Gọi là Lượng thiên xích vì đây được coi như là 1 cơng cụ
(Xích: cây thước; lượng: để đo lường; thiên: thiên vận). Nói một cách khác, "Lượng thiên Xích” chính là phương pháp tính
tốn để tìm thấy những giai đoạn cát, hung, họa phước cho dương trạch và âm trạch.
Sự di chuyển của Cửu tinh theo vịng Lượng thiên xích là dựa theo thứ tự số trong Lạc thư (hay Hậu thiên Bát quái)

mà đi, bắt đầu từ chính giữa (tức trung cung) (Hình 2.5).
Sự vận chuyển thuận, nghịch của Cửu tinh: Tuy Cửu tinh di chuyển theo 1 quỹ đạo nhất định là từ trung cung xuống
Tây Bắc, rồi từ đó lên Tây..., nhưng khi di chuyển thì chúng sẽ tạo ra 2 tình huống:
1) Di chuyển thuận: Theo thứ tự từ số nhỏ lên số lớn, chẳng hạn như từ 5 ở trung cung xuống 6 ở Tây Bắc, rồi lên 7 ở
phía Tây, xuống 8 phía Đơng Bắc....
2) Di chuyển nghịch: Theo thứ tự từ số lớn xuống số nhỏ, chẳng hạn như từ 5 ở trung cung xuống 4 ở Tây Bắc, lên 3 ở
phía Tây, xuống 2 ở phía Đơng Bắc....
Sự di chuyển thuận, nghịch của Cửu tinh là hoàn toàn dựa vào nguyên tắc phân định âm - dương của Tam nguyên
long. Tam nguyên long bao gồm: Địa nguyên long, Thiên nguyên long, và Nhân nguyên long.


Với sự phân định âm hay dương của mỗi hướng như trên, người ta có thể biết được lúc nào phi tinh sẽ đi thuận hoặc
đi nghịch khi xoay chuyển chúng theo vịng Lượng thiên Xích.
Chính hướng và Kiêm hướng:
Khi đo hướng nhà (hay hướng mộ) mà nếu thấy hướng nhà (hay hướng mộ đó) nằm tại tọa độ trung tâm của 1 sơn
(bất kể là sơn nào) thì đều được coi là Chính hướng. Cịn nếu khơng đúng với tọa độ tâm điểm của 1 sơn thì được coi là
Kiêm hướng. Kiêm hướng lại chia ra là kiêm bên phải hoặc kiêm bên trái, rồi kiêm nhiều hay kiêm ít. Nếu kiêm bên phải
hoặc kiêm bên trái thì hướng nhà khơng được xem là thuần khí nữa, vì đã lấn sang phạm vi của sơn bên cạnh. Nói kiêm
phải hay kiêm trái là lấy tọa độ tâm điểm của mỗi sơn làm trung tâm.
Riêng với vấn đề kiêm nhiều hay ít thì 1 hướng nếu chỉ lệch sang bên phải hoặc bên trái khoảng 3 độ so với tọa độ
tâm điểm của hướng đó thì được coi là kiêm ít, và vẫn còn giữ được thuần khí của hướng. Còn nếu lệch quá 3 độ so với
trung tâm của 1 hướng thì được coi là lệch nhiều, nên khí lúc đó khơng thuần và coi như bị nhận nhiều tạp khí.
Tam nguyên, Cửu vận:
Khác với những trường phái Phong thủy được lưu hành từ trước tới nay như Loan đầu, Mật tông, Bát trạch... Huyền
không chẳng những dựa vào địa thế và hình cục trong, ngồi, mà cịn dựa vào cả yếu tố thời gian để đoán định sự vượng,
suy, được, mất của âm - dương trạch.
Một căn nhà có thể được xây dựng trên một mảnh đất có địa thế tốt (hoặc xấu), nhưng khơng phải vì thế mà nó sẽ tốt
(hay xấu) vĩnh viễn, mà tùy theo biến đổi của thời gian sẽ đang từ vượng chuyển sang suy, hay đang từ suy chuyển thành
vượng. Cho nên đối với Phong thủy Huyền khơng thì khơng những chỉ là quan sát địa hình, địa vật bên ngồi, cấu trúc,
thiết kế bên trong căn nhà, mà còn phải nắm vững từng mấu chốt của thời gian để đoán định từng giai đoạn lên, xuống của

một trạch vận (nhà ở hay phần mộ) [8].
Tam nguyên Cửu vận tức là 3 Nguyên bao gồm 9 Vận, từ vận 1 tới Vận 9. Tổng chu kỳ là 180 năm, cứ từ Vận 1 (bắt
đầu vào năm Giáp Tý) đi hết 3 Nguyên (tức 9 Vận) rồi lại trở về Vận 1 Thượng Nguyên lúc ban đầu. Cứ thế xoay chuyển
không ngừng. Tam Nguyên Cửu Vận gần đây nhất là :
THƯỢNG NGUYÊN:
*

Vận 1: từ năm 1864 - 1883

*

Vận 2: từ năm 1884 - 1903

*

Vận 3: từ năm 1904 - 1923
TRUNG NGUYÊN:

*

Vận 4: từ năm 1924 - 1943


*

Vận 5: từ năm 1944 - 1963

*

Vận 6: từ năm 1964 - 1983

HẠ NGUYÊN:

*

Vận 7: từ năm 1984 - 2003

*

Vận 8: từ năm 2004 - 2023
* Vận 9: từ năm 2024 - 2043 Cách tính Phi tinh:
Muốn tính Phi tinh cho năm nào đó. Ta lấy năm đó trừ đi năm đầu tiên của Vận 1 tức là năm 1864 (Giáp Tý). Sau đó

lấy kết quả chia cho 9 (cửu tinh). Khi nào kết quả ra số dư không chia hết. Ta lấy 10 trừ đi số dư sẽ ra kết quả. Đó chính là
Phi tinh năm ta cần tìm.
Ví dụ: Muốn tính Phi tinh năm 2014 2014 - 1864 = 150 : 9 = 16,6 Số dư là 6. Ta lấy 10 - 6 = 4.
Phi tinh năm 2014 là 4.
2.3.

Các nguyên tắc của phong thủy hiện đại

Phong thủy học hiện đại có nội hàm phong phú, có tính tổng hợp và tính hệ thống, bao gồm 10 nguyên tắc sau:

2.3.1.

Nguyên tắc một hệ thống chỉnh thể

Lý luận Phong thủy coi trọng môi trường là một hệ thống chỉnh thể, hệ thống
này lấy con người làm trung tâm, bao gồm thiên địa vạn vật. Mỗi một hệ thống nhỏ trong mơi trường đều là yếu tố có liên
hệ với nhau, chế ước lẫn nhau, tồn tại cùng nhau, đối lập nhau và chuyển hóa lẫn nhau. Chức năng của Phong thủy chính là
điều hịa quan hệ giữa các hệ thống.

Bản chất của nguyên tắc này là xem xét thấu đáo tất cả các nhân tố xung quanh môi trường, phối hợp, loại bỏ và
tương tác chúng theo một hệ thống thống nhất đặt con người là trung tâm.
Phong thuỷ hiện đại cịn cần lấy con người, mục đích sinh sống làm việc của con người làm trọng tâm.

2.3.2.

Nguyên tắc nhân - địa phù hợp

Nguyên tắc này là căn cứ tính chất của hồn cảnh khách quan để thích nghi
với mục đích, phương thức sinh hoạt của con người. Nước ta địa hình phức tạp, đồi núi sơng hồ đa dạng, địa mạch kéo dài,
thổ nhưỡng khí hậu đa dạng, địa hình thiếu đồng nhất.

2.3.3.

Nguyên tắc dựa vào sơn thuỷ

Nguyên tắc nương dựa theo sơn thuỷ là nguyên tắc tối cơ bản nhất của Phong thuỷ, sơn mạch đại địa là khởi nguyên
của năng lượng, thuỷ là mẹ của vạn vật, nếu khơng có mạch nước mạch núi thì con người và vạn vật không thể tồn tại.

2.3.4.

Nguyên tắc quan sát hình thế

Phong Thủy vơ cùng quan trọng việc quan sát hình thế mạch khí, sơn thuỷ vì


có quan hệ trực tiếp đến họa phúc, phải quan sát tiểu cục thông qua sự tương quan với đại cục. Nếu đại cục hưng vượng thì
cho dù tiểu cục có xấu cũng khơng đang ngại, nếu cả hai cùng xấu thì khơng nên dùng.

2.3.5.


Ngun tắc thẩm định địa chất

Phong thuỷ khơng thể khơng có khoa học về địa chất, riêng mơn địa chất đã
chứng minh được là nó có những liên hệ mật thiết đến sức khoẻ đời sống con người.
Con người ln có những dao động điện từ, ngay mơi trường xung quanh cũng có những trường điện từ ảnh hưởng
đến sức khoẻ con người thông qua sự giao thoa về trường sóng. Những yếu tố sinh hố cũng vơ cùng quan trọng vì nó ảnh
hưởng đến khí hậu và nguồn nước nơi con người sinh sống.

2.3.6.

Nguyên tắc thẩm định nguồn nước

Nước vô cùng quan trọng đối với các sinh vật nói chung và với con người nói
riêng. Về Phong thuỷ, nước chính là những dịng mạch đi kèm hộ vệ cho sơn mạch. Chất lượng của đất quyết định chất
lượng của nước bởi nước sinh từ trong lòng đất.

2.3.7.

Nguyên tắc tọa Bắc hướng Nam

Nguyên tắc tọa Bắc hướng Nam là nhận thức đúng đắn đối với hiện tượng tự
nhiên, thuận theo thiên đạo, hấp thu được linh khí của núi sơng, tiếp nhận được ánh sáng của mặt trăng, mặt trời, an dưỡng
sức khỏe, địa linh phương xuất nhân kiệt

2.3.8.

Nguyên tắc hài hoà trung tâm

Xét trong một chỉnh thể thống nhất, Phong thuỷ tối quan trọng sự hài hoà âm

dương, thể hiện ở nguyên lý nhà cửa phải hài hồ cân đối, khơng cao khơng thấp, khơng nghiêng lệch, thường được thiết kế
theo nguyên tắc cân đối, đối xứng theo hình chữ Tam, chứ Tứ.

2.3.9.

Nguyên tắc cải tạo

Thơng thường khi thuận theo hình thế tự nhiên của núi sơng, tìm ra nơi sinh khí tụ hội để xây dựng là rất tốt. Nhưng
trong tự nhiên không phải bao giờ cũng tối ưu về mọi mặt. Thông qua sự khảo sát tìm ra khiếm khuyết của vị trí, dùng
những cách thức cải sửa Phong thuỷ thích hợp sẽ hố giải được những bất cập.
Nếu thiếu sơn thuỷ có thể xây dựng các cơng trình giả lập, khí khơng tụ tàng có thể xây dựng để hướng dẫn luồng đi
của khí theo hướng thích hợp tránh được tản mát. Nếu chất lượng khí, nước khơng tốt có thể cải sửa thanh lọc dần biến
hung thành cát hoặc ít ra cũng đỡ được một phần cái xấu.

2.3.10.

Nguyên tắc tiên tích đức hậu tầm long

Cái đích cuối cùng của thuật Phong thuỷ là đạt tới mức Thiên - Địa - Nhân
tương hợp. Để sử dụng, cảm hoá được những nguồn năng lượng của trời đất, con người cũng phải có được những giá trị
tương ứng về tâm linh với cùng một sự đồng cảm.
Địi hỏi phải tu nhân tích đức, chỉ khi có đức mới tìm ra được những vị trí tốt hài hồ với căn cơ của mình. Bởi luật


nhân quả chi phối toàn bộ mọi hoạt động của con người.
Ngồi 10 ngun tắc trên, trong Phong thủy cịn chú ý đến một số nguyên tắc trong bố trí nơi ở như: Dọn dẹp những
đống bừa bộn, Tạo màu xanh cho ngôi nhà, Vứt đồ vật bị vỡ, Đặt đồ đúng vị trí và Tạo bức tranh hồn hảo
2.4.

Tình hình ngiên cứu phong thủy trên thế giới và trong nước


2.4.1.

Tình hình nghiên cứu phong thủy trên thế giới

Trong số các mơn khoa học huyền bí phương Đơng, phải nhìn nhận Phong
Thủy là khoa học gần gũi với thực tế cuộc sống nhất. Người phương Tây có cơ hội tiếp cận Phong Thủy tuy có cho rằng
đây là một khoa huyền bí cổ truyền có lịch sử hàng nghìn năm của xã hội nông nghiệp Trung Hoa. Nhưng cơ bản nó vẫn là
một mơn “khoa học mơi trường” mang tính thời đại đáng được tìm hiểu và nghiên cứu ứng dụng nghiêm chỉnh cho xã hội
công nghiệp [2].
Sở dĩ người phương Tây dễ tiếp thu khoa Phong Thủy là do bộ mơn khoa học huyền bí này khơng giống như các
khoa Tử Vi, Tướng Mệnh chẳng hạn (cho rằng mọi vật có số phận riêng, định mệnh đã an bài, khó lịng thay đổi), mà chủ
trương rằng con người có thể chủ động can thiệp nhằm thay đổi, sửa chữa lại những cái gì chưa hồn hảo để làm tốt hơn
cho cuộc sống. Cho nên không ai lấy làm lạ một khi khoa Phong Thủy du nhập vào thế giới phương Tây thì đã nhanh
chóng biến thành nghệ thuật ứng dụng, chủ yếu nhắm sắp đặt, trang trí nhà cửa, sân vườn, văn phòng và cơ sở thương mại.
Với những nguyên tắc đơn giản mà hiệu nghiệm, khoa Phong Thủy có thể thích nghi vào xã hội mới, góp phần làm
cho cuộc sống tốt đẹp, công việc làm ăn khả quan hơn. Do vậy mà người phương Tây, nhất là người Mỹ, khơng ngại xơng
xáo tìm tịi, nghiên cứu và áp dụng môn khoa học môi trường mới đến từ phương Đông này.
Ngày càng nhiều những nhà kinh doanh phương Tây quay về từ châu Á cũng đã đem khoa Phong Thủy ra áp dụng
vào cơ sở làm ăn, nhà cửa của họ. Người Mỹ ở tầm trung bình cũng hiếu kỳ nghiên cứu Phong Thủy, bắt đầu ứng dụng nó
vào cuộc sống hàng ngày và họ thừa nhận đã thu đạt kết quả tích cực.
Phong thủy cổ Hy Lạp: Từ rất sớm nơi đây đã nuôi dưỡng nên tri thức địa lý học khiến con người mở rộng tầm nhìn
mới mẻ, trong đó có cả luận thuật về phương diện phong thủy [2].
Tiêu biểu có nhà y học bậc thầy cổ Hy Lạp và y học phương Tây người đảo Cô Sơ là Hippôcơrat (khoảng 460 - 377
Trước Công Nguyên) đã thu thập một trước tác của một thầy thuốc vơ danh viết “Bàn về phong thủy và hồn cảnh”. Tác
giả ở đây đưa hoàn cảnh lên thành một thể hệ quan hệ lẫn nhau để chế ước sự tồn tại của xã hội, trong đó có quan hệ giữa
con người và hoàn cảnh. Tác giả cho rằng các loại bệnh tật của cư dân thành thị thường xảy ra theo vị trí ăn ở của cư dân,
có liên quan tới sự thịnh hành của gió Đơng, Nam, Tây, Bắc. Các thành thị chịu sự ảnh hưởng của gió Đơng thì cư dân ít
bệnh tật cịn các thành thị chịu gió Tây thì sức khỏe của cư dân là kém nhất. Tác giả cịn phân tích cả thủy, cho rằng chất
nước quyết định sự khỏe mạnh. Tác giả còn cho hồn cảnh có ảnh hưởng tới phương thức sinh hoạt của con người. Dân



sống nơi khí tù, ở đồng bằng thấp, khí hậu ít thay đổi lớn, không khí ẩm thấp, người dân ở đó khơng thích tiêu phí thể lực.
Cư dân sống trên cao ngun lộng gió thì thân thể cao lớn. Sống ở nơi nghèo nàn, khí hậu bất thường thì cư dân thân thể
gầy yếu, tính cách ngoan cố.
Nhà học giả Pôlypia (208 - 126 Trước Công Nguyên) lại rất coi trọng địa chí học, đưa thủy văn và núi làm thành
nhân tố chủ đạo tạo nên địa khu, căn cứ vào độ màu mỡ, bạc màu của đất đai mà đánh giá tính cánh của cư dân nơi đó hịa
bình, bạo lực.
Bước vào trung thế kỷ, địa lý học cổ Hy Lạp bị rời rạc, thậm chí cịn đứt giữa chừng. Khi lịch sử phát triển cho tới
cận đại, địa lý học cổ Hy Lạp đã cung cấp tiền đề khoa học cho thời Phục Hưng của phương Tây.
Phong thủy cổ Ai Cập: người Ai Cập cổ đại khi xây dựng Kim tự tháp cũng có bài bản, đặc biệt về thuật tướng đất.
Mỗi tòa Kim tự tháp đều theo hướng chính Nam, chính Bắc, chạy đúng tuyến với đường từ lực của trái đất. Bên trong Kim
tự tháp là đá hoa cương xây nên có tính năng tích điện như một ắc quy, có thể hấp thu các loại sóng vũ trụ để tồn trữ lại.
Mặt ngồi được làm bằng đá tảng và vữa đá xây nên, đá xây đá có thể phịng ngừa sóng vũ trụ ở trong khỏi khuếch tán đi.
Do vậy nên có thể bảo tồn lâu dài các tranh ghép bên trong Kim tự tháp. Nhiều nghiên cứu cho thấy rau tươi để trong tháp
sau nửa tháng vẫn tươi nguyên. Ngoài ra kim tự tháp cịn có đường thơng gió tiện cho khí lưu thơng, và các Pharaon có thể
để linh hồn tự do ra vào [11].
Nước Mỹ: người Mỹ rất quan tâm tới phong thủy, rất nhiều cơng trình xây dựng, vật trang trí có áp dụng phong thủy
khi bố trí. Điển hình có tịa nhà Quốc hội (Nhà Trắng) xây dựng theo nguyên tắc “tọa sơn hướng thủy”, bố cục có đầy đủ

Thanh Long, Bạch Hổ, Huyền Vũ, Chu Tước. Cách đây không lâu, khách sạn MGM nổi tiếng tại Las Vegas theo thuật
phong thủy đã cho xây dựng hai con sư tử bằng đá khổng lồ để tránh kinh doanh thua lỗ [2].
Phong thủy ở Châu Á: phong thủy Trung Quốc ảnh hưởng sâu sắc tới các nước Châu Á, đặc biệt là các nước lân cận
như: Hàn Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản, Mianma...
Nhật Bản rất thịnh hành Phong thủy, họ cũng lấy Thanh Long, Bạch Hổ, Chu Tước, Huyền Vũ làm thần của bốn
phương Đông, Tây, Nam, Bắc, rồi cũng xem thủy thổ, cây cối ở trước và sau nhà để suy đoán cát hung. Người Nhật trước
khi xây dựng nhà mới cũng mời người về xem phong thủy, làm lễ “Địa trấn” trước khi động thổ, sau đó rước thần chủ trừ
tà, đọc văn tế rồi chôn xuống bốn góc hình nhân sắt, dao, kiếm... để yểm trừ hung. Khi nhà mới sắp sửa xong phải làm lễ
“dựng xà”, dựng quạt trên xà nhà để mời thần giáng xuống, lại dựng cả cung tên để bắn ác quỷ.
Người Nhật rất coi trọng ngày lành tháng tốt. Rất nhiều quyển lịch Nhật từ ngày thứ hai cho đến thứ bẩy, chủ nhật,

thường có in thêm vào tờ lịch hàng ngày chữ dự báo lành dữ hoặc ở phía dưới hoặc ở bên cạnh như: Đại an, Hữu dẫn, Tiên
thắng, Xích khẩu. Người Nhật rất kiêng kỵ “Quỷ môn” (cửa quỷ). Phương Đơng Bắc là quỷ mơn có âm khí. Khi làm nhà


để trống một góc Đơng Bắc trên chỗ trống khắc hình con vượn để trừ tà.
Mianma: người dân tộc San không chấp nhận dùng cây đổ trôi trong sông để lợp nhà ở, cũng khơng lấy những gì ở
phịng có người chết lợp lên nhà. Khi chọn đất làm nhà, lấy thóc đổ thành một đống, ngày hơm sau đếm lại, số chẵn là tốt,
số lẻ là khơng tốt.

2.4.2.

Tình hình nghiên cứu phong thủy trong nước

Lật lại những trang sử hào hùng của dân tộc ta, bắt đầu từ thời Hùng Vương
dựng nước tới nay đã trải qua hơn 4000 năm lịch sử, thủ đô của đất nước đã được dời đi, đổi lại nhiều lần và vận mệnh dân
tộc cũng vì thế biến đổi theo. Từ Phong Châu (kinh đô của các vua Hùng) đến Cổ Loa, Phiên Ngung, Hoa Lư, rồi tới Thăng
Long (tức Hà Nội), Phú Xuân (tức Huế) và Sài Gịn, đều là những nơi có vận khí và địa thế tốt. Như kinh thành Thăng
Long là vùng đất mới, đất đai phì nhiêu, màu mỡ, địa thế rồng bay hổ chầu, mạng lưới sơng ngịi bao bọc là nơi kết tụ được
nhiều nguyên khí của địa hình sơng núi ở xung quanh. Đây đúng là nơi phong thủy tuyệt đẹp để xây dựng kinh đô.
Người xưa đã dạy “ Lấy vợ hiền hòa, làm nhà hướng Nam”. Vì vậy nhà ở dân gian nước ta đa số chầu về hướng
Nam, Đông Nam, Đông để đảm bảo Đông ấm, Hè mát. Hệ thống cây xanh được bố trí xung quanh nhà. Tổ chức khơng
gian nhà ở thân thiện với môi trường tự nhiên [2].
Người dân nước ta cũng rất coi trọng ngày lành, tháng tốt. Những việc đại sự như cưới hỏi, động thổ xây nhà.. .cần
phải xem xét kỹ lưỡng để chọn được ngày giờ hoàng đạo mới đảm bảo mọi việc tốt lành. Trên những quyển lịch của nước
ta thường cho in thêm giờ hoàng đạo của các ngày.
Ngày nay, Phong thủy đã trở thành một ngành khoa học được nghiên cứu chuyên sâu để làm rõ bản chất và đã được
ứng dụng rộng rãi ở nước ta. Người dân làm nhà không chỉ đơn thuần xem tuổi, chọn ngày tháng tốt để khởi cơng. Mà cịn
chọn thế đất đẹp, hướng nhà, hướng cửa bố trí hợp với cung mệnh chủ nhà, thậm chí cả cách bố trí nội thất, bài trí vật phẩm
hợp phong thủy.
2.5.


Lựa chọn hướng nhà tốt.

2.5.1.

Cung mệnh và các hướng cát hung

Theo Huyền không, mỗi người sinh ra đều chịu ảnh hưởng của sự vận động
của Cửu tinh. Mỗi năm, sẽ có một sao chủ và như vậy mỗi người sinh ra vào năm nào sẽ mang một quái số - hay cịn gọi là
cung mệnh [2].
Có cách tính Cung mệnh quái số:
Dựa vào số quái số tìm ra cung mệnh của từng người tại hình 2.6b, 2.6b, 2.6c,
2.6d.
Lấy hai số cuối của năm sinh và tùy nam hay nữ có cách tính cung mệnh qi số như sau: Cộng hai số cuối của năm


sinh. Nếu tổng số có hai chữ số thì cộng tiếp hai chữ số đó để lấy tổng là số có 1 chữ số.
Nữ: cộng thêm 5 vào tổng số. Kết quả chính là quái số. Nếu nữ sinh sau năm 2000, thì cộng 6.
Ví dụ 1: Nếu nữ sinh năm 1959 thì qi số được tính như sau: 5+9=14, rồi 1+4=5. Rồi cộng thêm 5, vì vậy 5+5=10,
rồi 1+0=1. Quái số của người này là 1.
Ví dụ 2: Nếu nữ sinh năm 2001 thì qi số được tính như sau: Cộng 0+1=1, rồi 1+6=7. Quái số là 7.
Nam: lấy 10 trừ đi tổng số sẽ ra quái số. Nam sinh sau năm 2000 lấy 9 trừ đi tổng số.


Ví dụ 1: Nam sinh ngày 3/1/1939. Năm sinh âm lịch của bạn là 1938. Quái số được tính như sau: 3+8=11, cộng
1+1=2, lấy 10-2=8. Vậy quái số là 8.
Ví dụ 2: Nam sinh năm 2001 âm lịch thì quái số được tính như sau: Cộng 0+1=1, rồi 9-1=8. Quái số là 8.
Ghi chú: Đông tứ mệnh là các số 1, 3, 4 và 9
Tây tứ mệnh là các số: 2, 5, 6, 7 và 8 (số 5 sẽ vào cung Khơn - số 2)


immyi
ũ
NQƯỜt
CUNO Klt

WVN HMVNO

NOƯŨI '
CUNO KHẨM

KHẢM

CIUNH«AC

PHỤC VI

Hình 2.6a: Cung Kiền (Càn), cung Khảm phối hợp cát hung


×