Tải bản đầy đủ (.doc) (6 trang)

Bien Phap Hoc Tot Tap Lam Van Lop 5 (Cô Lan).Doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (115.83 KB, 6 trang )

MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH LỚP 5 HỌC TỐT
PHÂN MÔN TẬP LÀM VĂN
I. LÝ DO CHỌN BIỆN PHÁP
Như chúng ta đã biết phân môn Tập làm văn là mơn rất quan
trọng trong chương trình dạy học ở Tiểu học, nó khơng chỉ giúp cho các
em hình thành các kĩ năng: Nghe, nói, đọc, viết mà cịn rèn cho các em
khả năng giao tiếp, quan sát, phân tích tổng hợp và đặc biệt cịn hình
thành cho các em những phẩm chất tốt đẹp của con người mới hiện đại
và năng động.
Qua nhiều năm giảng dạy lớp 5 tôi nhận thấy rằng đa số các em biết làm một bài
văn hồn chỉnh nhưng trong q trình làm bài văn các em chưa biết dùng biện pháp tu từ
so sánh, nhân hóa cả biện pháp liên tưởng vào các bài văn. Trong cách làm bài của các
em chưa sử dụng câu mở đoạn cho một đoạn văn mặc dù kiến thức này đã được học ở lớp
4. Các câu trong đoạn văn chưa có sự liên kết chặt chẽ, khơng theo một trình tự nhất
định. Chính vì vậy, bài văn của các em thường miêu tả lung tung, không theo một thể
thống nhất. Lúc này đây các em muốn đòi hỏi ở người thầy cái tâm, cái tài để truyền cho
các em niềm say mê, để động viên bồi dưỡng các em trở thành học sinh có năng khiếu,
những nhân tài có tâm hồn văn học. Chính vì những lý do trên tôi chọn và nghiên cứu:
“Một số giải pháp giúp học sinh lớp 5 học tốt phân môn Tập làm văn” để giúp các
em có thể học tốt phân mơn này.
II. NỘI DUNG BIỆN PHÁP
1. Thực trạng
a. Thuận lợi
- Sách giáo khoa Tiếng việt lớp 5 được biên soạn theo các quan điểm dạy giao
tiếp, quan điểm tích hợp, quan điểm tích cực hóa hoạt động của học sinh.
- Sách giáo viên khơng trình bày kiến thức bằng những kết quả cho sẵn mà xây
dựng hệ thống câu hỏi yêu cầu học sinh hoạt động nhằm chiếm lĩnh kiến thức.
- Hằng ngày, giáo viên được gần gũi và tiếp xúc trực tiếp với các em nên tìm hiểu
và nắm bắt được những khó khăn, sai sót của các em khi làm bài văn miêu tả.
- Đa số các em có khả năng tưởng tượng phong phú, biết nhìn nhận những hình
ảnh vào tri thức và nhớ có hệ thống, các em đã biết sử dụng dùng từ đặt câu, viết như thế


nào cho đầy đủ ý, các em lĩnh hội nhanh và biết sử dụng các biện pháp tu từ để đưa vào
bài tập làm văn của mình.
- Các em càng có điều kiện tiếp cận vẻ đẹp của con người, của thiên nhiên qua các
bài văn, đọan văn điển hình.
b. Khó khăn
-Một số học sinh cịn hiếu động ham chơi, lười học, thiếu tập trung trong giờ học,
trong số đó cịn nhiều em nói ngọng, nói lắp bấp, đánh vần chậm.
-Do ảnh hưởng của tình hình dịch bệnh Covid 19 nên các em thường bị hỏng kiến
thức.
-Một số gia đình phụ huynh thiếu quan tâm đến các em chỉ phó mặt cho nhà
trường, khả năng vốn từ vốn sống của các em con hạn chế.
Chất lượng khảo sát phân môn tập làm văn của lớp đầu năm như sau:

Lớp
5…
Đầu

Tổng
số HS

Số em viết đạt
điểm dưới 5
SL
%

Số em viết đạt
điểm 5 - 6
SL
%


Số em viết đạt
điểm 7 - 8
SL
%

Số em viết đạt
điểm 9 - 10
SL
%


năm

2. Nguyên nhân của những thực trạng.
2.1. Về phía giáo viên
- Một số giáo viên dạy còn áp đặt, chỉ hướng dẫn học sinh theo yêu cầu của sách
mà chưa chú ý đến việc khám phá cái hay, cái đẹp của bài văn.
- Một số giáo viên chỉ chú ý đến việc học ở lớp mà chưa chú ý đến việc luyện tập
ở nhà, chưa hướng dẫn cho các em tìm hiểu thêm sách, báo...
- Để đối phó với việc học sinh làm bài kém, để đảm bảo chất lượng kiểm tra một
số giáo viên cho học sinh chép bài mẫu.
- Những tiết trả bài viết giáo viên trả bài cho các em và nêu một
số lỗi, chữa bài qua loa, chưa quan tâm nhiều đến sửa câu, cách dùng
từ trong câu, dùng từ sai của học sinh.
2.2. Về phía học sinh
- Một số học sinh vẫn chưa có thói quen chuẩn bị bài chu đáo trước khi đến lớp,
thậm chí khi cần thiết chỉ chép lại bài của bạn.
- Năng lực cảm thụ văn bản cũng như những kĩ năng phân tích đề, làm bài văn cịn
nhiều hạn chế. Khơng ít học sinh tỏ ra thờ ơ, ít có nhu cầu được tự bộc lộ cảm nhận của
mình qua một tiết học hay một bài làm.

- Kĩ năng làm văn của các em còn hạn chế như: chưa biết quan sát, miêu tả còn
chung chung chưa thể hiện được đặc điểm nổi bật của từng đối tượng mình định tả ; chưa
biết sử dụng những từ gợi tả và các biện pháp nghệ thuật trong bài văn ; chưa biết thể
hiện cảm xúc của mình khi miêu tả.
- Vốn từ ngữ của các em còn hạn chế. Khi miêu tả, các em chưa biết chọn lọc
những nét tiêu biểu để tả nên đã biến bài văn miêu tả thành bài kể lan man.
- Các em còn thiếu sự trải nghiệm thực tế, một số học sinh còn đ ọc bài ch ậm nói
ngọng nên việc học phân mơn này gặp nhiều khó khăn.
3. Các biện pháp thực hiện.
Để giúp học sinh học tốt phân môn này tôi tập trung nghiên cứu và thực hiện các
biện pháp sau:
Biện pháp 1. Bồi dưỡng vốn sống cho học sinh.
Khi thấy học sinh ngồi trước một đề văn khoảng 15 – 20 phút chưa viết được, tôi
hiểu rằng nguyên nhân đầu tiên làm các em khơng có hứng thú viết là do các em đã
không tạo được một quan hệ thân thiết giữa mình với đối tượng miêu tả, kể, tranh luận,…
nghĩa là các em khơng có nội dung, khơng có gì để nói, để viết về cái đó. Ngun nhân
của tình trạng trên là việc thiếu hụt vốn sống, vốn cảm xúc.
Trước hết là vốn sống trực tiếp, tôi cho các em quan sát, trải nghiệm những gì sẽ
phải viết. Ví dụ tôi hướng dẫn các em quan sát con đường từ nhà đến trường hoặc một
dịng sơng hoặc một cánh đồng trước khi u cầu tả nó hoặc tơi tham mưu với lãnh đạo
nhà trường tổ chức cho các em tham quan một cảnh đẹp của địa phương trước khi yêu
cầu các em tường thuật một buổi tham quan. Tất nhiên, tôi cần làm cho vốn sống thực
này không cản trở trí tưởng tượng phong phú của các em. Nhưng trí tưởng tượng dù bay
bổng đến mấy vẫn phải có cơ sở, bắt nguồn từ đời sống thực. Khi các em tham quan hoặc
quan sát, tơi đóng vai trị dẫn dắt, gợi mở, tạo nguồn cảm hứng, khơi dậy suy nghĩ trong
các em. Sau khi các em đã quan sát, làm quen với đối tượng rồi thì cần phải viết những
bài cụ thể về những gì đã quan sát được, những gì đã được tham quan.
       Ngồi ra, trong đời sống thường ngày các em phải tiếp xúc với nhiều người khác nhau
và trong từng trường hợp cụ thể ấy các em cũng sẽ giữ những “vai” khác nhau. Chính



“vai”giao tiếp này buộc các em trau dồi thêm vốn sống lựa chọn chi tiết để nói, chọn ngơn
từ để thể hiện.
Biện pháp 2. Bồi dưỡng cảm thụ văn học
Cảm thụ văn học phụ thuộc rất nhiều vào vốn sống của các em. Trước hết tôi tạo
điều kiện để các em tiếp xúc với tác phẩm, tôn trọng những suy nghĩ cảm xúc thực, thơ
ngây của các em và nâng chúng lên ở chất lượng cao hơn. Sau đó tơi trang bị cho các em
một số kiến thức về văn học như hình ảnh, chi tiết, các đặc trưng nghệ thuật, một số biện
pháp tu từ, … Một trong những biện pháp có hiệu quả để bồi dưỡng cảm thụ văn học là
rèn luyện cách đọc diễn cảm có sáng tạo. Nó giúp các em nâng cao khả năng cảm xúc
thẩm mĩ, kích thích các em khám phá ra cái hay, cái đẹp của văn chương.
Ví dụ: Rèn kĩ năng cho học sinh cách nghe để cảm thụ cái hay của bài văn “Hồng
hơn trên sơng Hương” (Sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 5 tập 1, trang 11)
- Trước tiên tôi đọc bài văn thật hay.
.
- Cho một vài em đọc thật tốt đọc lại tồn bộ bài văn.
- Tơi lần lượt cho học sinh phân tích bài văn bằng hệ thống câu hỏi để khai thác
cái hay của bài.
.
* Tìm phần mở bài:
Đoạn 1: Từ “Cuối buổi chiều, ... yên tĩnh này”
- Câu mở bài diễn tả nhận xét gì của tác giả ?
- Tác quan sát cảnh vật ở vị trí nào ?
- Tác giả quan sát cảnh vật và tả vào thời điểm nào trong ngày ?
- Từ đó tơi kết luận: Câu mở bài phải giới thiệu được vị trí quan sát, giới thiệu vị
trí quan sát bằng cách thể hiện được cảm xúc người viết. Tác giả đã giới thiệu được nơi
mà mình định tả vào thời điểm nào đó trong ngày.
.
* Tìm phần thân bài:
:

- Xác định trong phần thân bài gồm có mấy đoạn, mỗi đoạn miêu tả những gì?
- Có 2 đoạn: Từ “Mùa thu,….chấm dứt”
+ Đoạn 2: Sự thay đổi màu sắc của sơng Hương từ lúc bắt đầu hồng hơn đến lúc tối
hẳn.
+ Đoạn 3: Tả hoạt động của con người bên bờ sơng, trên mặt sơng từ lúc hồng hơn đến
lúc thành phố lên đèn.
- Xác định câu mở đoạn của từng đoạn.
.
- Cho học sinh tìm hiểu sự liên kết giữa các câu trong đoạn văn, sự chuyển ý của
các câu, q trình miêu tả về khơng gian, thời gian trong bài văn.
.
* Tìm phần kết bài: “Huế thức dậy trong một nhịp chuyển động mới, đi vào cuộc
sống ban đầu của nó” : Sự thức dậy của Huế sau hồng hơn
Để làm được bài văn hay các em phải có năng lực cảm thụ văn học, kiên trì rèn
luyện từng bước, nhất định các em sẽ viết được những đoạn văn hay, bài văn hay để phát
hiện biết bao điều đáng quý trong văn học và trong cuộc sống của chúng ta.
Biện pháp 3. Cung cấp thêm một số vốn từ ngữ theo chủ đề.
Chương trình Tiếng Việt có các phân mơn Tập đọc, Chính tả, Luyện từ và câu, Kể
chuyện, Tập làm văn làm cơ sở để các em học tốt phân môn Tập làm văn. Tuy nhiên nội
dung sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 5 thường không đáp ứng được khi dạy một thể loại
Tập làm văn thì nội dung của phân môn Tập đọc và từ ngữ tương ứng nhằm cung cấp cho
học sinh vốn từ ngữ để học thể loại này là rất ít. Tất nhiên chúng ta đều biết rằng vốn từ
ngữ của các em được tích luỹ từ lứa tuổi nhà trẻ, mẫu giáo và cả suốt những năm đầu ở
bậc Tiểu học. Nhưng vốn từ ấy thực sự vẫn chưa đủ để các em làm tốt bài Tập làm văn


nếu không được cung cấp thêm các từ ngữ theo chủ đề. Chính vì vậy để hỗ trợ các em, tôi
đã soạn thêm vốn từ ngữ giúp các em tham khảo để làm văn.
Ví dụ 1: Khi dạy bài tập làm văn: Viết một đoạn miêu tả cảnh sông nước (Tiếng
Việt 5 Tập 1, trang 74).

Tôi giúp các em hệ thống hố các từ ngữ thuộc chủ đề sơng nước.
Chẳng hạn: lăn tăn, êm đềm, man mác, quanh co, xanh thẳm, lung linh, ầm ầm, ì
ầm, rì rào, ào ào, ì oạp, oàm oạp, lao xao, thì thầm, lửng lơ, trườn lên, bò lên, cuồn cuộn,
trào dâng, ào ạt, cuộn trào, điên cuồng, dữ dội, khủng khiếp, dềnh, đập nhẹ lên,...
Ví dụ 2: Từ thường dùng khi làm bài văn tả người:
TẢ HÌNH DÁNG
- Tả mái tóc: đen nhánh, đen mượt, đen mướt, nâu đen, hoa râm, muối tiêu, bạc
phơ, mượt mà, mượt như tơ, óng ả, óng mượt, lơ thơ, xơ xác, cứng như rễ tre, dày dặn,…
- Tả vóc người: Cao, lùn, gầy gị, ốm yếu, nho nhã, tầm thước, mảnh khảnh, dong
dỏng, thon thả, đẫy đà, yểu điệu, béo phệ, mập mạp, lực lưỡng, vạm vỡ, trẻ trung, cân
đối, gầy guộc, mảnh mai, cường tráng, tiều tuỵ, lụ khụ, uể oải, bụ bẫm, còm nhom, thanh
tú,…
- Tả khuôn mặt, diện mạo: Bầu bĩnh, trẻ măng, hồng hào, đen sạm, rám nắng, xanh
xao, tái mét, khơng cịn chút máu, vuông vắn, vuông chữ điền, trái xoan, hốc hác, vô tư,
đần độn, thông minh sáng sủa, khôi ngô, khả ái, xấu xí, rỗ như tổ ong, tươi tỉnh, niềm nở,
hớn hở, ủ rũ, cau có, bơ phờ, hung tợn, ngờ nghệch khờ khạo, lầm lì, là lạ, thơ ngây, nhăn
nheo, thờ thẫn, đăm chiêu, hiền hậu, dễ thương, phúc hậu,…
- Tả làn da: Nhăn nheo, xanh như tàu lá, bạch tạng, trắng nõn, trắng trẻo, nõn nà,
mịn màng, nứt nẻ, có nhiều vết xẹo, sần sùi, tái mét, xanh xao, xanh lét, hồng hào, đỏ
thắm, đen sạm, da bánh mật, ngăm ngăm, ngăm đen, đen đủi,…
- Tả đôi mắt: Đen huyền, đen láy, trong sáng, u buồn, thâm quầng, trắng đục, đỏ
ngầu, nâu đen, mù lồ, lồi, trịn vo, một mí, mất ốc bươu, trao tráo, ti hí, mắt bồ câu, hai
mí, linh hoạt, soi mói, láu lỉnh, sáng long lanh, trầm tư, trầm tĩnh, trầm lặng, hiền hậu, mơ
màng, tinh ranh, lanh lợi,…
- Tả cái nhìn của đơi mắt: Đăm đắm, đắm đuối, dáo dác, trìu mến, mơ màng, chăm
chú, ngơ ngác, hằn học,…
TẢ TÍNH TÌNH
- Diễn tả tính cách: Nóng nảy, khốc lác, ba hoa, nham hiểm, xảo quyệt, tham lam,
ích kỉ, ưa giễu cợt, cau có, gắt gỏng, hấp tấp, khắt khe, láu táu, ít nói, nhã nhặn, bạo dạn,
vị tha, hời hợt, lười nhác, lì lợm, trầm tính, đứng đắn, thật thà, ơn hồ, hiền hậu, vui vẻ,

nhút nhát, nghiêm nghị, dè dặt, siêng năng, thận trọng, lỗ mãng,…
- Diễn tả thái độ: Vui sướng, hớn hở, hân hoan, hả hê, thoả thích, sảng khối,
khối chí, vui nhộn, vui đáo để, vui mừng, đắc chí,…
Biện pháp 4. Khai thác sự sáng tạo, suy nghĩ trên cơ sở quan sát bằng hệ
thống câu hỏi mở.
         Ví dụ : Miêu tả ngôi trường (Tiếng Việt 5 Tập 1, trang 43).
Một số câu hỏi khai thác ý đòi hỏi sự quan sát: (Phần thân bài)
- Tả khu vực sân trường: Sân trường rộng hay hẹp ? Cây cối trồng trên sân đã cao
lớn chưa ? Có tán toả bóng mát cho các em trong giờ chơi chưa hay chỉ là khu đất nắng
chói chang ?
- Tả chậu kiễng: chậu kiễng được trồng ở trước các lớp học với nhiều loài hoa màu
sắc rực rỡ, nhiều cây xanh hay chỉ toàn những cây cỏ dại ?
- Lớp học: Lớp học có mấy tầng ? Có thống mát, rộng rãi, có đèn, điện, quạt ?
Cửa ra vào, cửa sổ như thế nào ? Bàn ghế được xếp như thế nào ?


- Có đầy đủ phịng chức năng khơng ? Được trang trí như thế nào ?
- Tả bảng thơng báo: Bảng thơng báo thường xun có những thơng tin mới hay
thường ngày chỉ là một mặt trắng xóa, im lìm ?
- Tả các bạn đang làm gì ? Thầy cơ đang làm gì ?
Biện pháp 5. Rèn luyện kĩ năng nói, kĩ năng viết
a. Rèn luyện kỹ năng nói.
Cùng với kĩ năng nghe, đọc, viết phân môn Tập làm văn ở lớp 5 dạy cho các em kĩ
năng nói trong các giờ học văn kể chuyện, miêu tả và một số loại văn khác. Thông qua
các bài tập thực hành luyện nói theo đề tài hoặc tình huống cho trước, tôi hướng dẫn các
em thực hiện tốt yêu cầu sau:
- Xác định rõ nội dung cần nói (nói về nội dung gì ? gồm những ý nào ? sắp xếp
các ý đó ra sao ?…).
- Lắng nghe ý kiến đóng góp của bạn bè, thầy cơ giáo để tự kiểm tra, đối chiếu văn
bản nói của bản thân với mục đích giao tiếp và yêu cầu diễn đạt ; biết sửa lỗi về nội dung,

hình thức diễn đạt.
          Tơi ln quan tâm rèn luyện kĩ năng nói cho các em theo yêu cầu trên, như vậy vừa
giúp các em nâng cao năng lực giao tiếp bằng ngôn ngữ, phát triển tư duy, vừa tạo điều
kiện cho kĩ năng viết phát triển tốt.
b. Rèn luyện kỹ năng viết.
           Dựa vào yêu cầu bài tập (hay đề bài) để viết một đoạn văn (hay bài văn), các em có
thời gian suy nghĩ, tìm cách diễn đạt (dùng từ, đặt câu, sử dụng các biện pháp so sánh, nhân
hoá,…) thuận lợi hơn làm văn nói. Tuy nhiên, các em cũng cần đạt được những yêu cầu
rèn luyện về kĩ năng sản sinh văn bản ở mức cao hơn, lời văn viết vừa cần rõ ý vừa cần
sinh động, bộc lộ được cảm xúc ; bố cục bài văn cần chặt chẽ, hợp lí ở từng đoạn và cả
bài. Kĩ năng viết của các em được rèn luyện chủ yếu qua các bài tập viết đoạn văn trước
khi viết một bài văn hoàn chỉnh. Do vậy, trong q trình rèn luyện kĩ năng viết, tơi giúp
học sinh thực hiện tốt những yêu cầu sau:
- Phân tích đề bài, xác định nội dung viết ; tìm dàn ý, sắp xếp ý để chuẩn bị thực
hiện yêu cầu viết theo loại văn, kiểu bài đã học.
- Tập viết đoạn văn đảm bảo sự liên kết chặt chẽ về ý: Viết các đoạn phần thân
bài, viết đoạn mở bài (trực tiếp, gián tiếp), viết đoạn kết bài (mở rộng, khơng mở rộng)
sao cho có sự liền mạch về ý, các ý trong đoạn được diễn tả theo một trình tự nhất định
nhằm minh hoạ, cụ thể hố ý chính.
- Viết bài văn có bố cục chặt chẽ, có lời văn phù hợp với yêu cầu nội dung và thể
hiện cụ thể: Các đoạn văn trong một bài phải liên kết với nhau thành một văn bản hoàn
chỉnh, bố cục chặt chẽ theo ba phần (Mở bài, thân bài, kết bài). Lời văn trong bài cần phù
hợp với yêu cầu nội dung và thể loại. Ví dụ:
          + Tả cảnh thường dùng nhiều từ ngữ gợi tả hình dạng, đặc điểm ; có thể so sánh,
nhân hố làm cho cảnh vật được miêu tả thêm sinh động ; cần bộc lộ cảm xúc trước sự
vật được miêu tả trong cảnh.
         + Tả người thường dùng nhiều từ ngữ gợi tả hình dáng, màu sắc ; từ ngữ chỉ hoạt
động, đặc điểm, trạng thái của người ; có thể sử dụng biện pháp liên tưởng, so sánh để
miêu tả cho sinh động và bộc lộ mối quan hệ tình cảm với người được tả.
          + Tả đồ vật thường dùng nhiều từ ngữ gợi rõ hình dạng, đặc điểm, so sánh, nhân

hoá làm cho đồ vật được miêu tả thêm sinh động.
          + Tả cây cối thường dùng nhiều từ ngữ gợi tả hình dáng, màu sắc, hương thơm,
mùi vị ; có thể sử dụng biện pháp liên tưởng, so sánh để gợi ra hình ảnh cây cối ở thời kì
phát triển hay mùa khác nhau.


           + Tả con vật thường dùng nhiều từ ngữ gợi rõ hình dáng, màu sắc, âm thanh ; từ
ngữ chỉ hoạt động, trạng thái của con vật ; có thể sử dụng biện pháp liên tưởng, so sánh,
nhân hoá để tả cho sinh động và bộc lộ mối quan hệ gần gũi với con người.
III. KẾT QUẢ ÁP DỤNG
Tuy thời gian không dài, với cách tổ chức dạy học theo các biện pháp nêu trên tôi
nhận thấy chất lượng giảng dạy phân mơn Tập làm văn của lớp đã có sự tiến bộ rõ rệt. Đa
số các em đã biết cách dùng từ, đặt câu trong miêu tả, các em biết sử dụng ngữ nghĩa
chính xác. Các bài tập làm văn của các em khơng cịn mang tính liệt kê, kể lể nữa.
Sau đây là bảng thực nghiệm chất lượng bài làm văn của lớp 5 theo từng thời điểm
như sau:
Kết quả thực nghiệm:

Lớp
5…

Tổng
số HS

Hoàn thành tốt
bài viết
SL
%

Hoàn thành bài

viết
SL
%

Chưa hoàn
thành bài viết
SL
%

Chưa viết được
bài
SL
%

Đầu
năm
GK1
HK1
GK2
HK2
Do vậy, từ nay đến cuối năm học tơi ln cố gắng phát huy, tìm tịi và vận dụng
phương pháp tốt nhất để học sinh lớp tôi đạt chất lượng tốt hơn.
IV. KẾT LUẬN
Mỗi phương pháp đều có những ưu điểm và hạn chế nhất định. Tuy nhiên vận
dụng có hiệu quả hay khơng cịn tùy thuộc vào khả năng truyền đạt của người giáo viên
và sự chăm chỉ học tập của học sinh. Để học sinh đạt được kết quả cao trong học tập,
ngoài kinh nghiệm giảng dạy, người giáo viên phải luôn luôn theo dõi những tiến bộ
trong học tập của học sinh, qua đó kịp thời cải tiến, điều chỉnh hoạt động dạy cho có hiệu
quả hơn. Điều quan trọng là với lương tâm và trách nhiệm, trí tuệ và tâm huyết, mỗi
người giáo viên cần biết tự rèn luyện, tự học tập, tự sáng tạo để trở thành tấm gương sáng

cho thế hệ trẻ phấn đấu và rèn luyện, xứng đáng với niềm tin của nhân dân, góp phần
trong sự nghiệp phát triển giáo dục và đào tạo.
Với kinh nghiệm ít ỏi tích lũy được trong thực tế giảng dạy của bản thân, tơi rất
mong nhận sự góp ý, giúp đỡ của đồng nghiệp để rút kinh nghiệm trong việc giảng dạy
nhằm nâng cao chất lượng dạy và học ngày càng đi lên.
………., ngày…..tháng …..năm 2022
Giáo viên thực hiện

………………………



×