TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG NGHIỆP HÀ NỘI
KHOA NÔNG HỌC
CHUYÊN ĐỀ THỰC TẬP TỐT NGHIỆP
Tên đề tài: “Nghiên cứu ảnh hưởng của một số loại phân bón qua lá đến
sinh trưởng và phát triển của cây mai vàng Yên Tử giai đoạn vườn ươm
tại Gia Lâm Hà Nội”
Người hướng dẫn 1 : ThS. Nguyễn Hữu Cường
Người hướng dẫn 2 : TS. Đặng Văn Đông
Người thực hiện : SV. Trần Thị Thúy
Lớp : LT KHCT 2
Hà Nội - 2011
Phần I: MỞ ĐẦU
1.Đặt vấn đề
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thế giới, nền kinh tế Việt Nam cũng
đã tiến những bước dài trong quá trình hội nhập. Thành tựu bước đầu đem lại
hứa hẹn nhiều triển vọng trong chuyển đổi sản xuất mà ưu tiên hàng đầu của
nước ta hiện nay là chuyển đổi cơ cấu cây trồng nông nghiệp và áp dụng
những tiến bộ khoa học kĩ thuật trong sản xuất nhằm tìm ra những hướng đi
mới.
Hoa, cây cảnh là cây trồng đang được quan tâm trong sản xuất nông nghiệp
hiện nay, khi mà nhu cầu trong và ngoài nước ngày một tăng đối với món ăn
tinh thần này. Bên cạnh việc giao lưu, học hỏi kinh nghiệm chúng ta đã kết
hợp với nghiên cứu trong điều kiện thực tế ở nước ta trên nhiều loại hoa, cây
cảnh như: Mai, Đào, Hồng môn, Lily, Địa lan… mà trong đó cây hoa mai là
giống cây đang rất được quan tâm trong chiến lược đẩy mạnh sản xuất các loài
hoa có gía trị kinh tế cao.
Mai vàng, một loài hoa cao quý, với màu vàng biểu hiện cho sự vinh hiển,
cao sang, may mắn, mỗi năm chỉ nở một lần vào đúng dịp xuân về. Với người
dân Việt phương Nam, từ nghìn năm trước, hoa mai đã trở thành “sứ giả’’
biểu tượng cho mùa xuân. Vào mỗi dịp Tết đến xuân về, hầu hết nhà nào cũng
có Mai để đón Tết, với hy vọng, một năm mới, an khang, hạnh phúc.
Những năm trước đây, vào dịp Tết Nguyên Đán, rất nhiều Mai vàng miền
Nam đã được chuyển ra miền Bắc, màu vàng của nó đã phần nào xua đi cái
lạnh nơi đây. Và ngoài hoa Đào truyền thống thì giờ người Bắc đã bắt đầu có
sự quan tâm đặc biệt tới hoa Mai vàng. Tuy nhiên, việc chuyển Mai vàng ra
Bắc gặp không ít khó khăn trong công tác quản lý và bảo quản hoa. Mặt khác,
chi phí vận chuyển lại không hề nhỏ,vì vậy mà giá thành tương đối cao, chưa
đáp ứng được nhu cầu của người chơi Mai (Báo Tuổi trẻ, 12/02/2007).
Khi phát hiện ra cây Mai vàng ở Yên Tử và các vùng lân cận, nhiều người
dân cũng đã tìm cách sưu tầm và nhân giống cây Mai vàng Yên Tử, như ông
Chu Linh Diễn (thôn Đồng Bống, phường Vàng Danh, thị xã Uông Bí, tỉnh
Quảng Ninh) và ông Nguyễn Đình Long (Phật tử thuần thành ở Yên Tử). Các
ông này đã thu mua rất nhiều các gốc Mai để trồng trong vườn nhà. Tuy nhiên
họ còn thiếu hiểu biết về chuyên môn và kinh nghiệm nên tỷ lệ cây chết là rất
cao và hoa thường nở không đúng dịp tết. Để khắc phục hiện tượng này việc
chăm sóc cây ở giai đoạn vườn ươm là hết sức quan trọng, một trong những
biện pháp nhằm thúc đẩy quá trình sinh trưởng, phát triển, tạo cho cây mai
vàng Yên Tử có bộ khung tán đẹp và góp phần điều khiển quá trình ra hoa đó
là sử dụng bổ sung phân bón qua lá
.
Do đó chúng tôi đã tiến hành thực hiện đề
tài: “Nghiên cứu ảnh hưởng của một số loại phân bón qua lá đến sinh
trưởng và phát triển của cây mai vàng Yên Tử giai đoạn vườn ươm tại Gia
Lâm - Hà Nội”
2. Mục đích, yêu cầu
2.1. Mục đích
Trên cơ sở nghiên cứu ảnh hưởng của một số loại phân bón qua lá đến quá
trình sinh trưởng và phát triển của cây mai vàng Yên Tử ở giai đoạn vườn
ươm nhằm đưa ra được loại phân bón qua lá tối ưu nhất giúp tăng quá trình
sinh trưởng và tạo được bộ khung tán đẹp.
2.2. Yêu cầu
+ Nêu được những ảnh hưởng của phân bón qua lá đến quá trình sinh
trưởng phát triển của cây mai vàng Yên Tử giai đoạn vườn ươm
+ Xác định được loại phân bón qua lá và tỷ lệ bón phù hợp giúp tăng sức
sinh trưởng và phát triển của cây mai vàng Yên Tử ở giai đoạn vườn ươm.
2.3. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của đề tài
2.3.1. Ý nghĩa khoa học
Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ cung cấp những dẫn liệu khoa học về ảnh
hưởng của phân bón qua lá đến quá trình sinh trưởng, phát triển của cây mai
vàng Yên Tử ở giai đoạn vườn ươm tại Gia Lâm – Hà Nội
2.3.2Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ góp phần bổ sung hoàn thiện quy trình kỹ
thuật bón phân cho cây mai vàng Yên Tử
Phần II: TỔNG QUAN TÀI LIỆU
II.1. Nguồn gốc, phân bố, phân loại
II.1.1. Nguồn gốc, phân bố
Cây hoa Mai thuộc họ lão mai (Ohnaceae), có tên khoa học là Ochna
integerrima (Lour.) Merr, nguyên sản ở vùng núi Tây Nam Trung Quốc (Trần
Hợp, 1993; T.Tsukamot 2001 ) [1] [7]. Cách đây 5 thế kỷ, các nhà thực vật
học Trung Quốc đã phát hiện và đưa giống Mai vàng dùng để chơi làm cảnh.
Trên thế giới có ít nhất là 50 loài mai vàng phân bố rải rác ở các nước nhiệt
đới và cận nhiệt đới, song chủ yếu tập trung nhiều nhất ở Đông Nam Á và
châu PhiỞ Việt Nam, mai vàng là một loài cây cảnh rất phổ biến ở từ miền
Trung trở vào. Nó được trồng rộng rãi trong vườn nhà, làm cây cảnh trồng
chậu, bonsai. Nhưng sử dụng nhiều nhất vẫn là vào dịp Tết Nguyên Đán cổ
truyền vì đây là một loài hoa chưng tết chủ đạo .Tại Việt Nam loài mai vàng
phổ biến nhất là mai vàng năm cánh (danh pháp khoa học: Ochna
integerrima). Loài này phân bố nhiều nhất tại những khu rừng thuộc dãy
Trường Sơn và các tỉnh từ Quảng Nam, Đà Nẵng cho tới Khánh Hòa. Các
vùng núi ở đồng bằng sông Cửu Long cũng có nhiều loài hoa này, ở cao
nguyên cũng có, song số lượng ít hơn
II.1.2. Phân loại
Trong hệ thống phân loại thực vật, cây hoa Mai được xếp vào ngành hạt kín
(Angiospermae), thuộc lớp hai lá mầm (Dicotyledones), họ Ochnaceae , bộ
Ochnales, thuộc chi Ochna. Trên thế giới có rất nhiều loại mai khác nhau.
Riêng tại Việt Nam, có khoảng 8 loại, gồm: Bạch Mai, Hồng Mai, Hoàng
Mai, Nhất Chi Mai, Mai Tứ Quý, Mai Chiếu Thủy, Song Mai, Nam Mai Theo
phong thủy từng vùng, những cơn mưa phùn trên đất Bắc và xứ Huế, luôn
kèm theo những cơn gió bấc, nên các địa phương phía Bắc có các loại mai
như: song mai, mai mơ. Tại miền Nam, vì thuộc khí hậu nhiệt đới và gần
đường xích đạo hơn so với miền Bắc, ngày Tết luôn rơi vào lúc thời tiết nóng,
nên ta có thể tìm thấy các loại mai như: mai Chiếu Thủy, Nhất chi mai, mai
Tứ Quý, Bạch mai, Hoàng mai, Nam mai và một loại mới, đó là mai trắng
Miến Điện. Theo số lượng cánh hoa thì mai vàng được chia làm 2 loại chính
là:
II.1.2.1. Mai vàng 5 cánh
Mai vàng 5 cánh là cây mai đại diện cho tất cả các loài mai, vì khi nghe
nói đến mai, là đa số chúng ta nghĩ đến cây mai vàng 5 cánh cổ truyền này.
Mai vàng 5 cánh còn chia ra:
Mai sẻ: Là cây mai vàng 5 cánh nhỏ, nên gọi là mai sẻ. Nhưng đặc biệt là
cây mai này có hoa chùm, rất sai hoa, màu vàng tươi.
Mai châu: Còn gọi nôm na là mai “trâu” vì hoa to và rất phổ biến, mọc
khắp nơi ở miền Nam, có nơi mọc thàng rừng, cả núi như Mai Lĩnh, nhưng
không sai hoa bằng mai sẻ, hoa có 5 cánh màu vàng tươi.
Mai liễu: Là cây mai vàng 5 cánh thường, nhưng cành nhánh mềm mại, rũ
xuống như vây liễu. Hoa nở đầy cành phất phơ theo chiều gió.
Mai chùm gởi: Là cây mai có thân cứng, ở đầu cành nổi lên những khối u
to, giống như chùm gởi. Ở chung quanh khối u, mọc chi chít đầy tược non,
đầy nụ hoa, khi nở thành một bó hoa to lớn trông thật đẹp. Có người còn gọi
là “mai vương” vua các loài mai, hoặc mai “tỳ bà”, được trồng các vườn mai.
Mai thơm, Mai hương: Cũng là cây mai 5 cánh thường, nhưng hoa có mùi
thơm nhẹ nhàng, phảng phất. Mai thơm Huế rất quí, mắt nhặt, sai bông, cánh
dày, lâu tàn. Đặc biệt là cây mai này có lá non màu xanh chứ không phải là
màu nâu đỏ hoặc hồng như các loài mai khác. Tết vào vườn mai luôn luôn
phảng phất có mùi hương thơm nhẹ.
Mai cánh nhọn: Mai cánh nhọn là cây mai vàng 5 cánh, có nụ hoa nhỏ và
dài, nên nở ra cánh nhọn như hình ngôi sao. Do cánh hở, nên không mấy đẹp,
ít được ưa chuộng, nhưng cũng rất sai hoa.
Mai cánh tròn: Là cây mai vàng 5 cánh to, tròn, kín, đẹp. Đa số đều thích
cây mai này, có người còn quí hơn cây mai nhiều cánh, nhiều màu, nhất là
người Trung Hoa, Tết đến tìm mua loại mai này về chưng trong nhà.
Mai cánh dún: Đây là cây mai vàng 5 cánh to, đẹp, dún lại như có ren
chung quanh, xem rất lạ mắt, được nhiều người ưa thích trồng để chơi hoa.
Mai rừng Cà Ná, Mai rừng Bình Châu: Đây là cây mai hoang dại, mọc tại
khu rừng Cà Ná, Bình Châu, cũng thuộc họ mai, cây thân nhỏ èo uột, cành rất
giòn, lá hình bầu dục, có răng cưa mịn, màu xanh bóng loáng, sờ thấy trơn
chứ không thấy nhám như lá mai thường. Hoa 5 cánh màu vàng nhạt, cuống
hơi dài và có màu tím.
Mai Vĩnh Hảo: Cây mai này do ông Kha Linh Vũ ( Quy Nhơn) giới thiệu,
cũng là cây mai hoang dại mọc ở vùng núi Vĩnh Hảo Đặc điểm cây mai này
rất nặng, có thể gấp rưỡi mai thường khác, nên gọi là “mai đá”. Thân thật
cứng, cành nhỏ, giòn, dễ gãy, lá nhỏ, lúc non màu xanh, trong như giấy. Hoa
to, cánh phẳng, từ 12 – 16 cánh màu vàng rất đẹp và lâu tàn.
Mai chuỷ Hốc Môn: Là cây mai rừng, thân màu nâu, cuống lá rụng để dấu
rất to, nên để tháp ghép với các loại mai khác. Lá to dài màu xanh bóng,
chung quanh có răng mịn. Hoa chùm dạng chủy như hoa điệp ta, màu vàng,
nên gọi là mai chủy.
Mai lá quắn: Mai quắn, do lá to xoáy quắn lại rất lạ, hoa 5 -7 cánh to, nở
xoè to nhưng 5 cánh cong cong trở lên như lòng thuyền, ngoài đầu hơi đo đỏ,
khá đẹp, nhụy cái to rất dài.
II.1.2.2. Các loại Mai vàng nhiều cánh
Mai 9 cánh: Mai 9 cánh rất quí, là cây mai có hai tầng cánh: một tầng 5
cánh và một tầng 4 cánh. Hoa nở to, xoè tròn, kín, đẹp hơn cây mai vàng 5
cánh.
Mai Giảo Thủ đức: Là loại mai mới phát hiện,có hai tầng, 12cánh to lớn,
hoa chùm, nở đầy cành rất đẹp. Loại này cũng còn đang nhân giống. Loại hoa
12 cánh này có thể nói là hoa to nhất trong các loại mai vàng. Mới đây còn có
mai Tai Tượng hoa rất to, rất đẹp .
Mai 18 cánh Bến Tre: Là cây mai có ba tầng cánh, màu vàng, tròn kín, rất
đẹp, nhưng hơi nhỏ, nên ít dược ưa chuộng so với các loại hoa nhiều cánh
khác.
Mai 12-14 cánh Tư Giỏi: Đây là cây mai có ba tầng cánh, cũng nở thẳng
tròn, kín, đẹp, nhưng so với các loại mai Giảo 12 cánh, mai Huỳnh Tỷ 24 cánh
thì nhỏ hơn.
Mai Cửu Long: Đây là cây mai gốc Mỹ Tho, hoa có ba tầng, 24 cánh, màu
vàng. Đặc biệt cánh nhỏ, dài và nhọn, trông cũng rất lạ, nhưng hoa cũng nhỏ.
II.1.2.3. Các loại Mai vàng khác:
Đây đúng là loại mai mới lạ, cũng là cây mai vàng, nhưng có thêm vài chi
tiết khác hơn so với mai vàng thường.
Mai vàng viền đỏ: Cây mai này là cây mai vàng thường có hoa từ 5-9
cánh. Nụ hoa mới hé nở, trên đầu nụ hoa có thấy màu đỏ, khi nở xòe ra thì
màu đỏ lật ra ngoài, nằm xuống mặt dưới , nên thấy hoa có màu vàng, nhưng
nhìn kỹ thì thấy viền đỏ nhỏ ở chung quanh cánh hoa.
Mai vàng lá trắng: Đây là cây mai vàng thường, nhưng lá mới ra còn non
có màu trắng. Khi lớn, lá già lại có màu xanh. Nhưng để chỗ râm mát thì giữ
được lá màu trắng rất lâu.
Hồng diệp mai: Đây là loại mai có hoa màu vàng hay màu cam, nhưng khi
đâm chồi, nhảy tược, lá non có màu hồng rất đẹp nên gọi là Hồng diệp mai,
nhưng khi lá lớn vẫn trở lại màu xanh.
Mai Huỳnh Tỷ: Mai Huỳnh Tỷ do nghệ nhân Huỳnh Văn Tỷ có công lai
tạo, có 24 cánh, xếp thành 3 tầng theo đúng thứ lớp đều đặn rất khéo
Và một số loại khác như: Mai 24 cánh, 9 đợi; Mai 48 cánh Gò Đen; Mai 24
-32 cánh Ba Bi; Mai 12 cánh Bến Tre; Mai vàng nhiều cánh đột biến; Mai 14-
15 cánh; Mai 18-20 cánh…. (Việt Chương, KS. Nguyễn Việt Thái, 2005)
II.2. Đặc điểm thực vật học của cây mai vàng Yên Tử
II.2.1. Đặc điểm về thân, cành, lá của cây mai vàng Yêm Tử
Cây mai vàng Yên Tử là tiểu mộc hay đại mộc nhỏ, vỏ thân có màu xám
trắng, cành non có bì khổng rất rõ, có chồi búp vào mùa bất lợi. Lá có nhiều
phiến, hình bầu dục, dài, mọc thành chùm ở đầu cành, cuống dài 0,3 – 0,5 cm,
gân phụ rất rõ gồm 8 – 9 gân, mép lá có răng cưa (Đặng Văn Đông và Phùng
Tiến Dũng, 2009 ).
II.2.2. Đặc điểm về hoa của cây mai vàng Yên Tử:
Hoa của Mai vàng Yên Tử nở đúng vào dịp Lễ hội Yên Tử (Hội xuân Yên
Tử ), kéo dài từ giữa tháng 1 (âm lịch) đến đầu tháng 3 (âm lịch ), có khi kéo
dài đến cuối tháng 3 (âm lịch).
Cây mai vàng Yên Tử được xác định là mọc tự nhiên ( có thể được trồng khi
vua Trần Nhân Tông sáng lập Thiền Phái Trúc Lâm Yên Tử, cách đây chừng
800 năm ). Vì vậy, hoa của mai vàng Yên Tử không chịu ảnh hưởng nhiều bởi
con người, đặc điểm hình thái hoa Mai vàng Yên Tử có thể coi là đặc điểm tự
nhiên. Hoa có màu vàng, đường kính của các hoa trung bình là 4,5 cm, hoa
nhỏ nhất có đường kính 4,3 cm.
So với mai vàng miền Nam được bán làm cảnh chơi Tết, đường kính hoa
của mai vàng Yên Tử chỉ đạt mức trung bình và độ biến động về đường kính
cũng không lớn. Nguyên nhân là do mai vàng Yên Tử mọc trong điều kiện tự
nhiên, chúng luôn luôn phải tự bảo vệ để sinh tồn và sự tác động của tự nhiên
tới chúng cũng như nhau. Vì vậy, chúng không có sự biến đổi quá nhiều về
mặt hình thái. Về đài hoa, đài hoa của tất cả các hoa quan sát đều có màu xanh
và không có sự biến động về số lượng đài, trên mỗi bông hoa là 5 cánh đài.
Cánh đài có hình thon dài và cứng hơn so với cánh hoa, chiều dài cánh đài dao
động trong khoảng 1,4 – 1,9 cm, trung bình đạt 1,5 cm, chiều rộng cánh đài
dao động trong khoảng 0,6 – 1,0 cm, trung bình đạt 0,7 cm. Về cánh hoa, số
lượng cánh hoa của mai vàng Yên Tử không có sự biến đổi, hoa có màu vàng
và có 5 cánh hoa. Cánh hoa có hình thuôn dài, hơi to ở phần đầu cánh. Cánh
hoa khá mềm và nhanh héo sau khi ngắt hoa khỏi cành (chỉ khoảng 2 giờ).
Cánh hoa có chiều dài trung bình 2,3 cm, lớn nhất 2,6 cm, nhỏ nhất 2,2 cm.
Nhị hoa có sự biến đổi về số lượng giữa các hoa. Trung bình số lượng nhị của
các hoa nghiên cứu là 36, hoa có số lượng nhị lớn nhất là 45, nhỏ nhất là 28.
Nguyên nhân ở đây được giải thích là tại các vị trí khác nhau của các hoa trên
cây hoặc trên các cây khác nhau thì điều kiện dinh dưỡng và nước là khác
nhau. Chính điều này sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới sự hình thành và phát triển
của các hoa. Vì vậy, các bộ phận của các hoa cũng bị tác động dẫn đến khác
nhau. Nhụy hoa có hình ống, có 10 lá noãn. Chiều dài trung bình của các nhụy
là 1,4 cm, lớn nhất là 1,6 cm và nhỏ nhất là 1,1 cm (Đặng Văn Đông và Phùng
Tiến Dũng, 2009).
II.2.3. Đặc điểm về quả và hạt cây mai vàng Yên Tử
Quả mai vàng Yên Tử là quả kép, bao gồm nhiều phân quả đơn bế. Quả
kép mai vàng có từ 7 – 10 quả đơn, được sắp xếp thành một vòng tròn trên đế
quả. Các quả đơn có màu nâu đen, vỏ quả bóng, căng và mọng. Quả có hình
giống hình bầu dục một đầu to và môt đầu nhỏ, kích thước trung bình các
chiều dài là 8 mm, 6 mm, 4 mm. Chiều dài lớn nhất của quả là 10 mm, nhỏ
nhất là 7 mm, chiều rộng lớn nhất là 7 mm, nhỏ nhất là 5 mm, chiều dày lớn
nhất là 5 mm, nhỏ nhất là 4 mm.
Mỗi quả đơn chỉ có một hạt. Hạt mai có vỏ nhăn nheo, mỗi hạt có 2 lá mầm.
Kích thước trung bình của các chiều là 7 mm, 5 mm, 3 mm. Chiều dài của hạt
lớn nhất là 9 mm, hạt nhỏ nhất là 6 mm, chiều rộng của hạt lón nhất là 6 mm,
nhỏ nhất là 4 mm, chiều dày của hạt lớn nhất là 4 mm, nhỏ nhất là 3 mm.
Tỷ lệ nảy mầm của hạt rất cao, đạt 80 – 95 %. Điều này đảm bảo cho sự duy
trì nòi giống trong tự nhiên của chúng. Trong chọn tạo và nhân giống cũng rất
có ý nghĩa. Sử dụng cây con từ hạt để làm gốc ghép cho hiệu suất nhân giống
cao (Đặng Văn Đông và Phùng Tiến Dũng, 2009 ).
II.3. Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước
II.3.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới
Cây hoa Mai thuộc họ lão mai (Ochnaceae) nguyên sản ở vùng núi Tây
Nam Trung Quốc, có hơn 300 loài Mai khác nhau . Những loại Mai trước kia
thường được dùng chơi cảnh là Mai Vàng, Mai Chiếu Thuỷ, Mai Tứ Quý, Mai
Hồng, Mai Rồng cuốn (Trần Hợp, 1993; T.Tsukamôt 2001) [1][7]. Cách đây
5 thế kỷ, các nhà thực vật học Trung Quốc đã phát hiện và đưa giống Mai
vàng dùng để chơi làm cảnh. Đặc điểm cơ bản của giống Mai vàng là nhị màu
nâu, nở hoa vào dịp tết Nguyên đán, rất phù hợp để trong nhà, trên bàn uống
nước chơi vào dịp tết. Ngoài ý nghĩa đón xuân, hoa Mai vàng còn có ý nghĩa
của sự khoẻ khoắn, may mắn nên rất được người Trung Quốc ưa chuộng. Mai
vàng còn có đặc tính quý khác là tỷ lệ đậu quả khá cao, quả chín hình thuôn
dài màu vàng rất đẹp, vì vậy không những dùng để chơi hoa mà còn có thể
dùng để chơi quả trong nhiều tháng (Hà Sinh Căn, Miếu Thường Hổ, 2000)
[8]. Cây Mai vàng có tên tiếng Anh là Vietnamese Mickey Mouse Plant. Mai
vàng là loại cây rụng lá hàng năm. Thân có chiều cao trung bình 2-7m, đường
kính thân 10-25cm. Cành thưa và có màu xám nâu. Lá Mai vàng có màu xanh,
lá đơn, mọc cách, mặt trên thường bóng. Kích thước lá 7-19 x 3-5,5cm. Hoa
màu vàng, có thể có mùi thơm. Đường kính hoa trung bình 3-4cm. Hoa có từ
5-7 cánh hình ô van, cánh hoa dài 1,3-2cm, chiều rộng 1-1,4cm. Hoa Mai
vàng có nhiều nhị, số lượng thay đổi, có chiều cao từ 0,9-1,2cm. Nhuỵ thường
cao hơn nhị, trung bình 1-1,4cm. Đài hoa màu xanh, số lượng thay đổi từ 4-6,
kích thước lá đài 10-12 x 6-7mm. Cây Mai vàng thích hợp trồng ở độ cao 300-
1400m so với mực nước biển. Hoa của cây Mai vàng để tươi có thể cất được
tinh dầu thơm, dùng để chữa vết bỏng nước và uống có thể chữa khỏi bệnh
ngứa trẻ con. Hoa phơi khô dùng để chữa ho, suyễn. (Jiang Qing Hai, 2006)
[9].
Ở Trung Quốc, các nhà làm vườn nhân giống mai vàng chủ yếu bằng 3
phương pháp là chiết cành, giâm cành, ghép cành. Trong đó, phương pháp
ghép cành được áp dụng rộng rãi hơn. Gốc ghép thường là gốc mai dại. Cây
ghép từ lúc trồng đến lúc ra hoa kéo dài ít nhất 2 năm. Cây mai vàng có thể
được trồng ngoài đất hay trồng trong chậu. Nếu trồng trong chậu thì dùng giá
thể có trộn xỉ than là tốt nhất. Các kết quả nghiên cứu ở Trung Quốc cho thấy,
cây mai vàng có thời gian rụng lá vào mùa đông, nhiệt độ thích hợp cho sinh
trưởng là 18 – 30
o
C, thích hợp lúc phân hóa mầm hoa từ 12 – 18
o
C. Điều này
rất phù hợp với khí hậu miền Nam Việt Nam nên có nhiều triển vọng phát
triển tốt (Hà Sinh Căn và Miếu Thường Thổ, 2000 ). Một nhược điểm của cây
Mai vàng là khi vận chuyển đi xa làm hoa tàn nhanh và mặc dù tỷ lệ đậu quả
cao nhưng số quả còn lại ít. Để khắc phục điều này, các nhà khoa học của
Viện Nghiên cứu Rau-Hoa Quảng Châu (Trung Quốc) đã sử dụng các loại
chất điều tiết sinh trưởng và phân bón dưỡng cây, kết quả cho thấy đã khắc
phục được những điểm yếu này. (Jiang Qing Hai, 2006)
Nhìn chung, các kết quả nghiên cứu về mai vàng tập trung nhiều ở Trung
Quốc, các nước khác hầu như ít có công trình nghiên cứu chuyên sâu về loại
cây này.
II.3.2. Tình hình nghiên cứu trong nước
Theo Giáo sư Trần Hợp, cây mai vàng còn gọi là Huỳnh mai có tên khoa học
là Ochna integerrima (Lour.) Merr., thuộc họ Lão mai (Ochnaceae). Cây hoang
dại trong rừng miền Trung và miền Nam, đôi khi gặp ở rừng miền Bắc, được gây
trồng làm cảnh ở các chậu lớn hay cắt cành, cắm lọ, bình như cắm đào. Cây gỗ
nhỡ cao 3 – 7m, cành nhánh thưa, dài, mảnh. Lá thưa, thường xanh, mọc cách
mầm, xanh nhạt, bóng, mép lá có răng cưa nhỏ. Cụm hoa hình thành chùm nhỏ
mọc ở nách lá. Hoa có cuống ngắn, cánh đài 5, màu xanh bóng, dày, không che
kín nụ. Cánh tràng 5 – 10, màu vàng tươi. Đĩa hoa dày có khía, nhị nhiều. Bầu có
3 – 10 múi, mỗi múi 1 noãn. Quả có nhiều hạch nhỏ, không cuống, xếp quanh đế
hoa. Mai vàng mọc hoang dại trong rừng thường có 5 cánh. Đây là loại Mai
mà “người xưa” trồng rất nhiều. Đặc điểm của chúng là sống lâu năm, sinh
trưởng mạnh, lại ít sâu bệnh tấn công hơn. Tuổi thọ của các loại Mai này có
thể sống được hơn một trăm năm tuổi. Những loại Mai này sống phù hợp trên
đất cao ráo, màu mỡ, nhất là không bị tán lá bên trên che rợp, … Gốc những
cây Mai này có độ lớn 3-4 chét tay người lớn, cây cao 4-5m. Những cây cổ
thụ thế này mà trổ hoa thì đẹp rực rỡ. Mai vàng 5 cánh lá xanh tốt suốt năm,
chỉ đến tháng cuối năm Âm lịch, tất cả lá trên cành mới trở nên vàng úa. Đó là
mùa thay lá của Mai đã đến. Và đây cũng là điềm vui báo cho mọi người hay
biết Mai sắp trổ hoa trùng vào dịp xuân về tết đến. (Việt Chương, KS. Nguyễn
Việt Thái, 2005) [3]. Gần đây, các nghệ nhân chơi hoa và trồng hoa còn chọn
tạo ra rất nhiều loại Mai vàng có kiểu dáng và số lượng hoa rất khác lạ, Xét về
kiểu dáng thì người ta chia ra rất nhiều thế khác nhau như thế “Trực quân tử”,
thế “Tùng lập”, thế “Nhân lễ nghĩa trí tín”, thế “Mai nữ”, thế “Mẫu tử”, thế
“Bạt phong hồi đầu”, thế “Quần thụ tam sơn”, thế “Hạc lập”, thế “Nhất trụ
kình thiên”, thế “Thất hiền”, thế “Ngũ phúc”, … Số lượng cánh hoa cũng biến
đổi theo từng loại hoa như Mai Sa Đéc 9 cánh, Mai Mỹ Tho 24 cánh, Mai Gò
Đen 48 cánh, Mai Bến Tre 120 cánh, … Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Thiện
Tịch (Hội hoa Lan Cây cảnh thành phố Hồ Chí Minh), Mai vàng (thuộc họ
Ochnaceae) phân bố chủ yếu ở vùng nhiệt đới. Hoa Mai vàng có nhiều nhị và
nhuỵ. Nhuỵ rời hẳn nhau ở bầu nhuỵ nhưng vòi và nướm lại dính nhau thành
một vòi duy nhất ở giữa hoa. Ở Miền Nam hầu như nhà vườn nào cũng có cây
Mai vàng. Mai có thể mọc dại trong vườn hay được trồng trước sân để nở đẹp
vào mùa xuân, cắt cành chưng trên bàn thờ những ngày Tết, cầu cho sự may
mắn. Hình ảnh của Mai vàng sẽ trở nên yểu điệu, thướt tha, vương vấn nếu
được trồng nơi không gian hài hoà của vùng sông nước đồng bằng. Mai được
xoè cành, khoe sắc trước một ngôi nhà mái ngói đỏ, Mai ẩn hiện dưới những
hàng cau xanh, hàng hoa dâm bụt trước sân nhà hay bên con mương nước ăm
ắp lớn, giữa nắng gió của ngày xuân, có đám trẻ tíu tít vui đùa nhặt những
cánh hoa Mai rụng. Và cả âm thanh vọng lại của tiếng chày quết bánh phồng
Tết trong những ngày nảy lá mai. Đó là hình ảnh muôn đời về cái Tết nơi
miền đất phương Nam (Việt Chương và Nguyễn Việt Thái, 2005).
Theo GS. Trần Văn Mão, nhân giống cây Mai hoa vàng có nhiều cách như:
gieo hạt, chiết cành, ghép và tách cây. Phương pháp gieo hạt thường không
giữ được tính ưu việt của loài nên ít dùng. Cần lựa các hạt già (hạt chín) gieo
xuống đất. Hạt chín là các hạt đã chuyển từ màu xanh sang màu đen sẫm, hạt
no tròn. Khi gieo cần giữ ẩm để hạt nảy mầm, cây con lên được 20 cm thì đem
trồng. Phương pháp ghép là phương pháp dùng phổ biến nhất. Thời gian ghép
vào tháng 3(Âm lịch), khi chồi lá vừa ra bằng hạt gạo. Gốc ghép phải sinh
trưởng phát triển khỏe, không sâu bệnh. Cành ghép phải được chọn trước khi
ghép là 1 tháng, thường là cành mọc 1 năm, to, dài và cắt bớt ngọn để tập
trung dinh dưỡng vào chồi ở giữa. Cành ghép dài 7 – 8 cm, có 1 – 2 đôi chồi.
Gốc ghép để cao 5 – 6 cm, cắt vát sang 1/3 đường kính và bổ tiếp sâu 4 – 5
cm, rồi nối cành ghép vào trong miệng cắt của gốc ghép, đối chuẩn tầng vỏ và
tượng tầng, sau ghép song dùng nilon buộc lại. Sau gần 1 tháng các mawts
trên cành ghép sẽ lên. Mai vàng cũng có thể dùng phương pháp tách cây, nếu
chỉ cần 1 số ít câ để trồng thì dùng cách này. Phương pháp này làm vào tháng
2 – 3 âm lịch khi chồi lá chưa mở.Dùng dao đã khử trùng tách cây con khỏi
cây mẹ đem đi trồng. Cây Mai vàng có khả năng kháng bệnh cao nên thường
rất ít khi nhiễm bệnh. Kẻ thù nguy hiểm của cây Mai vàng là các loại sâu như
sâu đục thân, sâu tơ, sâu nái, ốc sên, rầy bông, … Vì vậy, người trồng Mai cần
có các biện pháp phòng trừ sâu bệnh. Người ta đặc biệt chú ý tới các biện
pháp truyền thống mà “người xưa” thường dùng như cắt bỏ phần bị sâu bệnh
rồi đem đốt, nhặt bỏ và giết từng con nếu số lượng ít, dùng nước tro bếp, vôi
bột, tăng cường ánh sáng, nước cay trong ống điếu thuốc lào, … Không nên
sử dụng quá nhiều hoá chất bảo vệ thực vật để phun. (Việt Chương, 2000)
Gần đây, cây Mai vàng Yên Tử mới được phát hiện và chú ý tới. Có nhiều
nhận định cho rằng, rừng “Đại lão Mai vàng” ở Yên Tử có trên 800 năm tuổi
và rất có thể được hình thành khi vua Trần Nhân Tông sáng lập Thiền Phái
Trúc Lâm Yên Tử (1285-1288). Người ta thấy cây Mai vàng Yên Tử tập trung
nhiều ở khu vực Yên Tử của thị xã Uông Bí và một số vùng lân cận của tỉnh
Quảng Ninh như Đông Triều, Hoành Bồ, … Tuy nhiên, vẫn chưa có một
nghiên cứu chuyên sâu nào về sự phân bố và xuất xứ của Mai vàng Yên Tử.
Xung quanh vấn đề này cũng đã có nhiều ý kiến khác nhau. Họ cho rằng, có
thể cây Mai vàng Yên Tử và Mai vàng Miền Nam có chung nguồn gốc hay
nói đúng hơn là cùng loài (Ochna integerrima (Lour.) Merr.). Lại có những ý
kiến cho rằng, Mai vàng Yên Tử và Mai vàng Miền Nam không phải cùng
loài. Để có thể xác định chính xác nguồn gốc và xuất xứ cây Mai vàng Yên
Tử cần phải có những nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề này.
Theo các sư Thầy tại Yên Tử, cây Mai vàng Yên Tử đã có từ rất lâu và nó
đã gắn liền với nghiệp tu hành của họ. Các cán bộ của Trung tâm quản lý Di
tích – Danh thắng Yên Tử cho biết, tại Yên Tử có rất nhiều loại cây có giá trị
như cây Mai vàng, cây Trúc, cây hoa chuông, cây tùng, … Trong đó, cây Mai
vàng là cây vừa có giá trị lịch sử vừa có giá trị kinh tế lớn. Họ rất mong muốn
có một cơ quan nào đó đứng ra nghiên cứu để bảo tồn và phát triển cây Mai
vàng Yên Tử. Đó cũng sẽ là điểm nhấn để du khách khắp nơi về Yên Tử thăm
quan và lễ phật. Đặc biệt, vào dịp lễ hội Yên Tử (từ cuối tháng Chạp đến hết
tháng 3 Âm lịch) mà sắc vàng của hoa Mai rực rỡ khắp nơi sẽ làm cho non
thiêng Yên Tử trở nên bình yên và thiêng liêng hơn. Du khách thập phương đi
lễ hội sẽ gặp nhiều may mắn và hạnh phúc. Ngoài sự tự phát tìm kiếm và thu
thập những cây mai vàng của khách du lịch và một số người dân, đến nay chưa
có một nghiên cứu nào về cây mai Yên Tử, do vậy những nghiên cứu tới đây
phải kế thừa từ những nghiên cứu tương tự đối với các loại cây trồng có cùng
họ hoặc cùng đặc tính với giống mai này.
II.4. Các nghiên cứu chế phẩm dinh dưỡng cho hoa mai vàng
II.4.1. Cơ sở khoa học của việc phun chế phẩm dinh dưỡng qua lá
Bên cạnh quá trình hút chất dinh dưỡng bằng rễ là chính thì cây có thể lấy một
phần chất dinh dưỡng bằng lá thông qua khí khổng và tầng cutin.
Thực vật sống trên đất hút khí (CO
2
,
O
2
) từ khí quyển qua khí khổng, chất
dinh dưỡng ở dạng khí SO
2
, NH
3
và NO
3
cũng có thể đi vào lá qua khí khổng.
Điều này được chứng minh đối với khí SO
2
(
35
SO
2
) đã được đồng hoá rất
nhanh và có mặt trong các hợp chất hữu cơ (Weigl và Ziegler, 1962). Cũng thí
nghiệm tương tự với NH
3
, NH
3
cũng được đồng hoá nhanh và tạo thành các
hợp chất hữu cơ. Hàng ngày, sự hấp thụ NH
3
qua lá khoảng 100 – 450 g/ha
( Cowlinh và Lockyer, 1981). Ở các vùng công nghiệp sự sinh trưởng của cây
bị ức chế do cây hút SO
2
qua lá nhiều (có thể gây độc cho cây) và hút cả nitơ
ở dạng NO và N
2
O (Mohr, 1983). Trong trường hợp này ức chế các mối liên
kết với CO
2
do ảnh hưởng đến hoạt tính của Ribulosediphophat cacboxilase là
enzim chủ yếu tham gia khử CO
2
trong chu trinh calvin.
Sự hấp thụ chất hoà tan qua lá phụ thuộc vào cấu tạo của lá, lớp cutin, số
lượng và sự phân bố khí khổng tế bào lá cũng như tế bào rễ hấp thụ các chất
phụ thuộc vào nhiều nhân tố bên trong và ngoài – yếu tố bên ngoài như nồng
độ dung dịch và hoá trị, nhiệt độ; nhân tố bên trong như quá trình trao đổi
chất. Mức độ hấp thụ các nguyên tố khoáng qua lá thường giảm theo độ tuổi
( và đồng thời cũng giảm theo sự trao đổi chất). Ngược lại hấp thụ ion qua tế
bào rễ và ở tế bào lá xanh ánh sáng có tác dụng kích thích trực tiếp cho quá
trình hấp thụ (Hoàng Thị Hà, 1996).
Bón phân qua lá bằng cách phun các chế phẩm dinh dưỡng lên lá có ưu
điểm tiết kiệm được phân, tiết kiêm nhiên liêu, tiết kiệm được thời gian và sức
lao động. Thường nên phun vào lúc cây còn non khi lớp màng cutin chưa thật
phát triển hoặc lúc cây sắp đạt cường độ cực đại của quá trình trao đổi (Hoàng
Minh Tấn, Nguyễn Quang Thạch, Trần Văn Phẩm, 2005).
II.4.2. Tình hình nghiên cứu về chế phẩm dinh dưỡng
Theo Nguyễn Văn Uyển (1995) phân bón lá trên thị trường trong nước và
thế giới rất phong phú, thường sản xuất dưới dạng các chế phẩm dinh dưỡng
phun qua lá, có thể chia thành 3 nhóm như sau:
- Nhóm chỉ có các yếu tố dinh dưỡng đa lượng và vi lượng phối hợp hoặc
riêng rẽ.
- Nhóm có thêm các chất kích thích sinh trưởng nhằm thúc đẩy sinh trưởng
hoặc thúc đẩy ra hoa kết trái, giảm tỷ lệ rụng quả, thúc đẩy quá trình chín hoặc
mau ra rễ.
- Nhóm có các loại thuốc hoá học phòng trừ sâu bệnh hoặc phối trộn với tỷ lệ
thích hợp.
Việc phát hiện ra các chất kích thích sinh trưởng như Auxin (1880 –
Darwin, 1928 – Went, 1934 – Kogl), Gibberelin (1926 – Kurosawa, 1938 –
Yabuta), Xytokinin (1955 – Miller, Skoog), các chất ức chế sinh trưởng như
axit abxixic (1961 – Liu, Cam, 1963 – Ohkuma, Eddicott), Ethylen, các hợp
chất phenol và sử dụng các chất này làm phương tiện hoá học để điều chỉnh
quá trình sinh trưởng, phát triển của cây trồng, được coi như một bước tiến
đầu tiên sử dụng chế phẩm dinh dưỡng bón qua lá cho cây trồng (Cao Kỳ Sơn,
Nguyễn Văn Bộ, Bùi Đình Dinh, 1998).
Trong những năm gần đây nhiều nước trên thế giới như Mỹ, Nhật, Anh,
Đức, Thái Lan, Trung Quốc đã sản xuất nhiều chế phẩm dinh dưỡng bón qua
lá có tác dụng làm tăng năng suất, phẩm chất nông sản, nhưng không làm ô
nhiễm môi trường: YoGen, Atonik (Nhật Bản), Organic, Cheer (Thái Lan),
Bloom Plus, SoluSpray – N – Grow (Hoa Kì), Đặc đa thu, Diệp lục tố,
(Trung Quốc). Nhiều chế phẩm đã được khảo nghiệm và cho phép sử dụng
trong sản xuất nông nghiệp ở Việt Nam.
Ở Việt Nam cũng đã sản xuất được một số chế phẩm dinh dưỡng phun qua
lá đang được ưa chuộng như Thiên Nông, Đầu Trâu 502
Theo Đoàn Thị Thuỳ Vân (2006) bổ sung tổ hợp GA
3
và
α
-NAA nồng độ
50ppm hoặc hỗn hợp dinh dưỡng Komix 0,3% hoặc Atonik 0,2% định kỳ
phun một tuần một lần thì cây sẽ sinh trưởng phát triển tốt.
Phần III: NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng nghiên cứu
+ Giống mai vàng Yên Tử được trồng tại Viện Nghiên cứu Rau Quả - Trâu
Quỳ - Gia Lâm – Hà Nội
+ Các chế phẩm phân bón qua lá: Đầu trâu 502 (Đối chứng), Phân xanh Trung
Quốc, Seaweed – Rong biển 95%
3.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu
+ Địa điểm: Thí nghiệm được tiến hành tại vườn thực nghiệm của Bộ môn
Hoa Cây Cảnh – Viện nghiên cứu Rau Quả - Trâu Quỳ - Gia Lâm – Hà Nội
+ Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 01/2011 đến tháng 05/2011
3.3. Nội dung nghiên cứu
+ Ảnh hưởng của một số loại phân bón qua lá đến quá trình sinh trưởng và
phát triển của cây mai vàng Yên Tử ở giai đoạn vườn ươm.
+ Thí nghiệm gồm 3 công thức
CT 1: Phân xanh Trung Quốc
CT 2: Seaweed – Rong biển 95%
CT 3: Đầu trâu 502 (Đối chứng)
+ Liều lượng bón theo khuyến cáo của nhà sản xuất
3.4. Phương pháp thí nghiệm
3.4.1. Bố trí thí nghiệm
+ Thí nghiệm được bố trí theo khối ngẫu nhiên đầy đủ mỗi công thức 30 cây
3 lần nhắc lại
+ Ngoài các yếu tố thí nghiệm, tất cả các công thức đều được chăm sóc theo
quy trình của Viện Nghiên cứu Rau quả về tưới nước, bón phân, phòng trừ sâu
bệnh,…
3.4.2. Các chỉ tiêu và phương pháp theo dõi
+ Tỷ lệ sống của cây sau ghép
+ Động thái tăng trưởng chiều cao cây (cm). Theo dõi 10 ngày/lần, đo
bằng thước panme – chiều cao cây được tính từ gốc đến đỉnh sinh trưởng.
+ Động thái tăng trưởng đường kính thân (cm). Theo dõi 10 ngày/lần, đo
bằng thước panme – đường kính thân được tính ở vị trí lớn nhất của thân.
+ Động thái tăng trưởng số lá (lá/cây). Theo dõi 10 ngày/lần
+ Kích thước lá (dài, rộng- đo bằng thước pamme, đo khi lá đạt kích thước
tối đa)
+ Diện tích lá (đo bằng máy đo diện tích lá: CI – 202 Area meter, CID. Inc.
USA.).
+ Tình hình sâu bệnh hại trên cây.
Phần IV: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
Cùng với các yếu tố như: Đất, nước, điều kiện khí hậu, kĩ thuật canh tác
thì phân bón là một yếu tố rất quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến sinh trưởng
phát triển của cây. Với cây mai vàng Yên Tử cũng vậy, phân bón đầy đủ, cân
đối và hợp lý sẽ cung cấp lượng dinh dưỡng thiết yếu giúp cây trồng sinh
trưởng phát triển tốt. Phân bón là một trong những yếu tố rất quan trọng đối
với đời sống của cây trồng.
Nhưng để thu được những sản phẩm có chất lượng
thì việc bón phân còn phải đi kèm với nhiều yếu tố, một trong những yếu tố
đó chính là đối tượng bón. Với những đối tượng khác nhau thì đều có các loại
phân và phương pháp bón khác nhau, mai vàng là loại cây cảnh sống lâu năm
nhưng sinh trưởng chậm về cành và lá. Vì vậy việc bón phân cho mai vàng
chủ yếu là áp dụng phương pháp phun qua lá và có kết hợp với bón qua gốc
theo định kỳ. Ở mỗi giai đoạn sinh trưởng, cây yêu cầu cao với một loại dinh
dưỡng nhất định. Do vậy, việc cung cấp dinh dưỡng qua lá cho cây phải thay
đổi qua từng giai đoạn cho phù hợp với yêu cầu của cây. Giống mai vàng Yên
Tử trong thí nghiệm này đang ở giai đoạn sau ghép 6 tháng tuổi, đây là thời
kỳ cây bước vào giai đoạn sinh trưởng sinh dưỡng mạnh mẽ. Vì vậy, việc xác
định đúng loại phân, đúng hàm lượng dinh dưỡng trong giai đoạn này sẽ giúp
cho cây Mai vàng có chất lượng tốt, đạt tốc độ phát triển cao nhất góp phần
tạo nên giá trị cho cây sau này. Hiện nay trên thị trường có rất nhiều loại chế
phẩm dinh dưỡng phun qua lá. Mỗi loại thích hợp với từng loại cây trồng khác
nhau, và phù hợp với từng giai đoạn khác nhau. Trong thí nghiệm này chúng
tôi sử dụng 3 loại phân là: Đầu trâu 502 (Bình Điền_ Long An), : Seaweed –
Rong biển 95%, và Phân xanh Trung Quốc (20 – 20 – 20 ).
Kết quả thu được, được trình bày ở các phần sau.
1. Ảnh hưởng của chế phẩm dinh dưỡng đến khả năng bật mầm mới của
cây mai vàng Yên Tử.
Cây mai có đặc điểm là mỗi năm rụng lá một lần vào cuối mùa Đông
(tháng 1 - tháng 2 Dương lịch). Vì vậy, việc chăm sóc và bổ sung lượng dinh
dưỡng đầy đủ ngay từ thời gian này là động lực giúp cây tăng khả năng bật
mầm mới, sinh trưởng phát triển tốt ở các giai đoạn sau.
Để đánh giá ảnh hưởng của phân bón đến tốc độ bật mầm của giống Mai
vàng Yên Tử, chúng tôi tiến hành phun các loại chế phẩm dinh dưỡng khác
nhau trên những công thức khác nhau. Phun định kỳ một tuần một lần, kết hợp
với bón gốc một lần trong một tháng và tiến hành theo dõi sau phun định kỳ
10 ngày/ lần. Kết quả được trình bầy ở bảng 1.
Bảng 1: Ảnh hưởng của chế phẩm dinh dưỡng đến khả năng bật mầm
mới của cây mai vàng Yên Tử.
CT CT 1 CT 2 CT 3 TB
Chỉ tiêu
TG (ngày)
SL % SL % SL % %
10
4,7 15,7 4,7 15,7 4,3 14,3 15,2
20
16,3 54,3 15,3 51,0 13,0 43,3 49,5
30
25,7 85,7 23,7 79,0 22,3 74,3 79,7
40
30,0 100 28,3 94,3 26,7 89,0 94,4
50
30,0 100 30,0 100 30,0 100 100
60
30,0 100 30,0 100 30,0 100 100
Chú thích: CT: công thức TG: thời gian
Biểu đồ 1: Ảnh hưởng của chế phẩm dinh dưỡng đến khả năng bật mầm
mới của cây mai vàng Yên Tử.
Qua bảng số liệu và biểu đồ trên ta thấy số lượng mầm bật ở các công thức
khác nhau là khác nhau và tăng dần qua thời gian theo dõi. Ở CT1 sau 10
ngày số lượng cây bật mầm mới là 4,7 cây đạt 15,7%. Sau 20 ngày đạt 54,3%,
sau 30 ngày đạt 85,7% và sau 40 ngày đạt 100%. Ở CT2 sau 10 ngày theo dõi
số lượng và tỷ lệ cây bật mầm cũng giống như CT1( có 4,7 cây đạt 15,7%).
Nhưng ở các lần theo dõi sau thì đã có sự khác biệt, sau 20 ngày có 15,3 cây
nảy thêm mầm mới đạt 51,0%, sau 30 ngày đạt 79,0% và phải sau 50 ngày tỷ
lệ cây bật mầm đạt 100%.
Theo số liệu thu được ở CT3 thì sau 10 ngày số lượng cây bật mầm mới là
4,3 cây đạt 14,3%, sau 20 ngày đạt 43,3% thấp hơn so với CT2 là 8,7% và
thấp hơn so với CT1 là 11,0%. Sau 40 ngày có số lượng cây bật mầm là 26,7
cây đạt 89,0% thấp hơn so với cả CT1 (100%) và CT2 (94,3%). Cũng sau 50
ngày thì số cây nảy mấm mới đạt 100%.
Như vậy, ta thấy ở cả 3 công thức thì CT1 có số lượng và tỷ lệ cây bật
mầm là cao nhất, tiếp theo là ở CT2, và sau cùng là CT3.
2. Ảnh hưởng của phân bón qua lá đến tốc độ tăng trưởng chiều cao cây
của giống mai vàng Yên Tử
Mai vàng là loại cây trồng chịu tác động mạnh bởi điều kiện thời tiết, đặc
biệt là điều kiện nhiệt độ. Khi nhiệt độ dưới 10
o
C thì mai sinh trưởng kém. Vì
vậy, trong thời gian đầu của thí nghiệm trùng với thời điểm rét đậm, rét hại
nên cây sinh trưởng chậm, lộc mới vẫn chưa bật qua thời kì rụng lá của cuối
mùa đông. Đến đầu tháng 3 dương lịch, khi nhiệt độ tăng dần thì cây bắt đầu
bật lộc, chiều cao cây đã có sự biến động.
Sự sinh trưởng và phát triển của mai vàng Yên Tử được thể hiện qua nhiều
yếu tố, trong đó tốc độ tăng trưởng chiều cao cây phản ánh một cách sát thực
về tình hình sinh trưởng, phát triển của cây. Theo dõi chỉ tiêu tốc độ tăng
trưởng chiều cao cây, kết quả thu được được trình bày ở bảng 2.
Bảng 2. Tốc độ tăng trưởng chiều cao cây của cây mai vàng Yên Tử
Đơn vị: cm
TG
CT
10 ngày 20 ngày 30 ngày 40 ngày 50 ngày 60 ngày
CT 1 32,0 33,4 35,7 36,7 44,3 51,5
CT 2 31,7 33,0 35,3 35,8 43,4 49,8
CT 3 32,4 32,4 31,1 34,5 38,7 44,8
Chú thích: CT: công thức TG: thời gian
Biểu đồ 2. Tốc độ tăng trưởng chiều cao cây của cây mai vàng Yên Tử
Từ bảng 2 ta thấy tốc độ tăng trưởng chiều cao cây có sự thay đổi và tăng
dần sau thời gian theo dõi. Giữa các công thức khác nhau thì tốc độ tăng
trưởng chiều cao cây cũng khác nhau. Giai đoạn đầu chiều dài mầm bật tăng
chậm. Tăng nhanh nhất là ở CT1 (tăng 1,4 cm) sau đó là CT2 ( tăng1,3 cm )
và cuối cùng là CT3 (tăng 0,7 cm). Sau 30 ngày tốc độ tăng trưởng có nhanh
hơn, chiều cao cây ở CT1 đạt 35,7 cm, tăng 3,7 cm so với giai đoạn sau phun
20 ngày. Chiều cao cây tăng thấp nhất là ở CT3, tăng 2,1 cm so với giai đoạn
20 ngày sau phun, nhưng thấp hơn 1,6 cm cùng thời gian là sau 30 ngày.
Nhưng sau 40 ngày, mầm bắt đầu tăng nhanh. Ở giai đoạn này, cành ghép bắt
đầu đi vào ổn định, cành ghép và gốc ghép tiếp hợp tốt cộng với dinh dưỡng
đầy đủ nên mầm bật sinh trưởng nhanh hơn. Chiều cao cây thấp nhất vẫn là ở
CT3, chỉ tăng 2,5 cm, trong khi đó ở CT2 tăng 4,1 cm và CT1 tăng 4,7 cm.
Ở giai đoạn sau 50 ngày, chiều cao cây tăng đáng kể, từ 36,7 cm tăng lên 44,3
cm ở CT1 ( tăng thêm 7,6 cm ), từ 35,8 cm tăng lên 43,4 cm ở CT2 ( tăng
thêm 6,6 cm) và từ 34,5 cm lên 38,7 ở CT3 (tăng thêm 4,2 cm).
Sau 60 ngày theo dõi chiều cao cây ở các công thức vẫn tăng, tăng cao nhất
vẫn là ở CT1( đạt 7,2 cm), tiếp theo là CT2( đạt 6,4 cm), và cuối cùng vẫn là
CT3(đạt 6,0 cm).
Như vậy, qua theo dõi ta thấy ở CT1 chiều cao cây và tốc độ phát triển của
mầm là nhanh nhất, sau đó là ở CT2, và cuối cùng là ở CT3.
3. Ảnh hưởng của phân bón đến tốc độ ra lá của mai vàng Yên Tử
Mai vàng là cây chơi cảnh vì vậy lá ngoài nhiệm vụ quang hợp còn có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc tạo thế và tạo tán cho cây. Khả năng ra lá
của mai vàng là rất chậm, vì vậy tốc độ ra lá là chỉ tiêu rất quan trọng phản
ánh khả năng sinh trưởng và phát triển của mai vàng. Qua theo dõi ảnh hưởng
của phân bón qua lá đến chỉ tiêu này chúng tôi có kết quả trình bầy ở bảng 3.
Bảng 3. Tốc độ tăng trưởng số lá của cây mai vàng Yên Tử
Đơn vị: lá
TG
CT
10 ngày 20 ngày 30 ngày 40 ngày 50 ngày 60 ngày
CT 1 4,34 7,15 9,76 11,38 13,12 14,55
CT 2 3,91 6,45 8,68 10,56 12,93 13,59
CT 3 3,52 5,51 7,12 9,04 10,89 12,86
Chú thích: CT: công thức TG: thời gian
Biểu đồ 3. Tốc độ tăng trưởng số lá của cây mai vàng Yên Tử
Nhìn vào bảng số liệu trên ta thấy tốc độ tăng trưởng số lá ở các công
thức có sự khác biệt rất rõ. Ở CT1 sau 10 ngày cây đạt 4.34 lá, cao hơn so với
CT2 là 0.43 lá và cao hơn CT3 là 0.82 lá. Sau 20 ngày thì số lá của cây ở CT3
đạt 5.51 lá thấp hơn so với CT2 là 0.94 lá và thấp hơn so với CT1 là 1.64 lá.
Sau 40 ngày theo dõi ta thấy số lá ở CT2 đạt 10.56 lá thấp hơn so với CT1 là
0.82 lá và cao hơn so với CT3 là 1.52 lá. Sau 60 ngày thì số lá ở CT1 vẫn là
cao nhất, cao hơn CT2 là 0.96 lá và cao hơn so với CT3 laf1.69 lá.
Như vậy qua số liệu thu được ở trên ta thấy các cây ở CT1 có tốc độ lá
phát triển tốt nhất, sau đó là CT2, và cuối cùng là ở CT3.
4. Ảnh hưởng của phân bón qua lá đến tốc độ tăng diện tích lá của mai
vàng Yên Tử.
Lá là cơ quan sinh dưỡng với chức năng quan trọng là quang hợp, tổng
hợp các chất hữu cơ tạo ra năng lượng để nuôi cây, là cơ sở cho sự duy trì và
tích luỹ chất khô. Chỉ số diện tích lá cho biết mức độ che phủ của lá trên diện
tích đất mà cây trồng chiếm chỗ.
Mai vàng là cây chơi cảnh vì vậy lá ngoài nhiệm vụ quang hợp còn có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc tạo thế và tạo tán cho cây
Nhìn chung, cây có số lá và chỉ số diện tích lá càng cao thì khả năng
tạo sinh khối càng lớn, do đó số lá và chỉ số diện tích lá là những chỉ tiêu quan
trọng để đánh giá sự sinh trưởng của cây. Qua theo dõi ảnh hưởng của phân
bón đến chỉ tiêu này chúng tôi có kết quả trình bày ở bảng 4.
Bảng 4. Tốc độ tăng diện tích lá của mai vàng Yên Tử
Đơn vị: cm
TG
CT
10 ngày 20 ngày 30 ngày 40 ngày 50 ngày 60 ngày
CT 1 4,8 14,6 21,3 26,2 34,5 36,5
CT 2 4,8 12,2 17,9 23,8 32,1 34,1
CT 3 4,7 11,0 17,4 22,7 31,6 33,6
Chú thích: CT: công thức TG: thời gian
Biểu đồ 4. Tốc độ tăng diện tích lá của mai vàng Yên Tử
Từ bảng 4 và biểu đồ 4 cho thấy trong từng công thức, tốc độ phát triển
của diện tích lá ở các thời điểm là khác nhau. Qua theo dõi, tại thời điểm 10
ngày sau phun ta thấy chỉ số diện tích lá ở các công thức là tương đương nhau
(trong khoảng 4.7 – 4.8 cm
2
). Sau 20 ngày, chỉ số diện tích lá đã tăng mạnh và
có sự khác biệt giữa các công thức. CT1 đạt 14.6 cm
2
, tăng so với thời điểm
sau 10 ngày là 9.8 cm
2
. CT2 đạt 12.2 cm
2
, tăng 7.4 cm
2
. CT3 đạt 11.0 cm
2
, chỉ
tăng 6.3 cm
2
. Sau 40 ngày thì ở CT1 tăng cao nhất là 26.2 cm
2
, cao hơn so với
CT2 là 2.4 cm
2
và cao hơn so với CT3 là 3.5 cm
2
.
60 ngày sau phun là thời điểm cây có tốc độ tăng diện tích lá đạt kết quả
tốt nhất so với các thời điểm khác, các kết quả của thời điểm này lần lượt là:
CT1 đạt 36.5 cm
2
lá, CT2 đạt 34.1 cm
2
lá, CT3 đạt 33.6 cm
2
. Càng về sau tốc
độ tăng trưởng của chỉ tiêu này càng tăng nhanh, nguyên nhân là do cây sau
giai đoạn ổn định đã bắt đầu bước vào thời kì sinh trưởng sinh dưỡng mạnh do
đó thúc đẩy khả năng phát triển của thân lá.
Như vậy, phân bón qua lá có ảnh hưởng rất lớn đến tốc độ tăng diện
tích lá của cây. Diện tích lá của cây tỷ lệ thuận với số lá trên cây, vì vậy ở
những công thức có tốc độ ra lá nhanh cũng có tốc độ tăng diện tích lá nhanh
hơn. Kết quả cho thấy CT1 là công thức cho kết quả tốt nhất, tiếp đến là CT2,
còn CT3 thấp hơn so với 2 công thức trên.
Sự tăng trưởng vượt trội của các công thức phun chế phẩm dinh dưỡng
được thể hiện rõ nhất ở lần đo cuối (60 ngày sau phun), ở lần đo này chúng
tôi thấy tất cả các chỉ tiêu đều có sự chênh lệch nhiều so với lần đo thứ 1, 2,
3. Điều này chứng tỏ sử dụng phân bón phân xanh Trung Quốc là có kết quả
tốt với cây mai vàng . Bảng số liệu cho chúng ta thấy rõ ở lần đo 60 ngày sau
trồng thì CT1 có chiều dài lá, chiều rộng lá đạt cao nhất
5. Tình hình sâu bệnh hại
Dinh dưỡng cũng là một nhân tố ảnh hưởng tới sức đề kháng của cây mai
vàng trước sâu bện gây hại. Nếu cung cấp đầy đủ dinh dưỡng kết hợp sử dụng
các biện pháp phòng trừ sâu bệnh hiệu quả sẽ hạn chế được sự gây hại của
chúng. Chúng tôi đã tiến hành theo dõi diễn biến của sâu bệnh hại trên cây thí
nghiệm. Kết quả thu được ở bảng 5.
Bảng 5. Diễn biến sâu bệnh hại
Công
thức
Sâu ăn
lá
Sâu đục
thân
Nhện đỏ Rệp Bọ xít Nấm
nhung
Sử dụng x - x - - -