Tải bản đầy đủ (.pdf) (47 trang)

Sự độc lập của ngân hàng trung ương tác động đến việc thực hiện cơ chế lạm phát mục tiêu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.2 MB, 47 trang )

GVHD: TS Nguyễn Khắc Quốc Bảo

N5

1





Tiểu luận

Sự độc lập của ngân hàng trung
ương tác động đến việc thực hiện
cơ chế lạm phát mục tiêu*
GVHD: TS Nguyễn Khắc Quốc Bảo

N5

2



Mục Lục

Tóm tắt 4
1. Giới thiệu: 6
2. Ảnh hưởng của lạm phát mục tiêu và vai trò của CBI: 6
2.1 Dữ liệu 11
2.2 Tóm tắt thống kê: 11
3. Kết quả: 13


3.1 Chi tiết về lạm phát trong nền kinh tế đang nổi lên: 22
3.2 Kiểm tra mức độ chắc chắn: 23
4. Các kênh (Channel) 25
4.1 Các kênh tiềm năng khác: 28
5. Kết luận: 30
Tài liệu tham khảo 31
Bảng 1: 31
Bảng 2: 36
Bảng 3: 37
Bảng 4: 38
Bảng 5: 39
Bảng 6: 40
Bảng 7: 41
Bảng 8: 42
Bảng 9: 43
Bảng 10: 44
Bảng 11: 45
Bảng A1: 46
Bảng A2: 47

GVHD: TS Nguyễn Khắc Quốc Bảo

N5

3







Sự độc lập của ngân hàng trung
ương tác động đến việc thực hiện
cơ chế lạm phát mục tiêu*




Sami Alpanda
a
, Adam Honig
a
**
a
Amherst College, Amherst, MA 01002
Tháng 5 năm 2011
GVHD: TS Nguyễn Khắc Quốc Bảo

N5

4



Tóm tắt

Bài viết này xem xét lợi ích của lạm phát mục tiêu trong nền kinh tế phát triển và mới
nổi. Chúng tôi không tìm ra các ảnh hưởng đáng kể trong nền kinh tế phát triển và mới
nổi, đồng nhất với nghiên cứu trước đây. Tuy nhiên, khi chúng tôi phân biệt tác động
của lạm phát mục tiêu dựa trên mức độ độc lập của ngân hàng trung ương, chúng tôi

tìm thấy ảnh hưởng lớn trong nền kinh tế mới nổi với sự độc lập của ngân hàng trung
ương thấp. Do đó, kết quả của chúng tôi chỉ ra rằng mức độ độc lập của ngân hàng
trung ương không phải là điều kiện tiên quyết để thực hiện thành công lạm phát mục
tiêu. Ngoài ra, chúng tôi cung cấp bằng chứng là có một kênh nhờ vào lạm phát mục
tiêu làm thấp đi lạm phát nhiều hơn ở những nước có mức độ độc lập của ngân hàng
trung ương thấp đó là sự giảm của thâm hụt ngân sách tiếp theo sau sự chấp nhận một
mức lạm phát mục tiêu.
Nhóm JEL: E52; E58
Từ khóa: Lạm phát mục tiêu; Sự độc lập của ngân hàng trung ương.







* Chúng tôi rất biết ơn Ricardo D. Brito và Brianne Bystedt về việc cung cấp cho chúng
tôi với dữ liệu của họ.
** Thông tin tương ứng với tác giả: 315 Converse Hall, Amherst College, Amherst, MA
01002-5000. Phone: (413) 542-5032. Fax: (413) 542-2090. Email:

GVHD: TS Nguyễn Khắc Quốc Bảo

N5

5



Bản điện tử tại:

GVHD: TS Nguyễn Khắc Quốc Bảo

N5

6



1. Giới thiệu:

Ngày càng nhiều quốc gia quyết định chọn lạm phát mục tiêu (IT) như là chiến lược
chính sách tiền tệ. Xu hướng này bắt đầu vào đầu những năm 90 với một số ít các nền
kinh tế phát triển. Khoảng đầu những năm 1990, một số quốc gia công nghiệp nữa cũng
theo, cuối những năm 1990 và đầu những năm 2000, ngân hàng trung ương trong
những nền kinh tế mới nổi bắt đầu áp dụng lạm phát mục tiêu (IT). Hiện tại có 8 nước
thuộc nền kinh tế phát triển và 13 nước thuộc nền kinh tế mới nổi đang áp dụng chính
sách tiền tệ này. Ngân hàng trung ương - ngân hàng thực hiện khuôn khổ chính sách
tiền tệ mới này - đã làm vì nhận thức được lợi ích. Lợi ích đó bao gồm việc đạt được
lạm phát thấp hơn và sự biến đổi lạm phát, trong khi vẫn giữ đủ tính linh hoạt để phản
ứng với những cú sốc kinh tế vĩ mô và khả năng ổn định sản lượng đầu ra. Những quốc
gia có thị trường mới nổi đang tìm kiếm cái neo danh nghĩa mà không có sự bất ổn liên
quan với chế độ tỷ giá hối đoái cố định.

Vì số lượng các nước đã áp dụng lạm phát mục tiêu đang có xu hướng tăng lên, có tài
liệu để xác định thực nghiệm ảnh hưởng lạm phát mục tiêu đến lạm phát trung bình (
INFL), biến động lạm phát (sdINFL), tăng trưởng trung bình (GROWTH), và biến động
tăng trưởng (sd GROWTH) . Nghiên cứu ban đầu tập trung vào các nước công nghiệp
(c.f. Ball and Sheridan, 2005) và nhìn chung, chỉ tìm thấy bằng chứng yếu ớt mà lạm
phát mục tiêu cải thiện hiệu suất kinh tế vĩ mô. Nhiều nghiên cứu gần đây bao gồm các
nền kinh tế mới nổi và xu hướng tìm thấy bằng chứng mạnh mẽ hơn về tác động tác

động tích cực (Batini and Laxton, 2007; Gonçalves and Salles, 2008; Lin and Ye, 2009;
Mishkin and Schmidt - Hebbel, 2007). Tuy nhiên, Brito and Bystedt (2010), sử dụng hệ
thống ước lượng như đối xứng với sử dụng ước lượng khác biệt trong khác biệt thông
thường, Ball and Sheridan (2005) đạt được kết quả khác, họ tìm thấy sự hỗ trợ yếu hơn
về ảnh hưởng của lạm phát mục tiêu lên lạm phát trung bình, biến đổi lạm phát, và biến
đổi tăng trưởng và cung cấp bằng chứng mà tăng trưởng trung bình thấp hơn lạm phát
GVHD: TS Nguyễn Khắc Quốc Bảo

N5

7



mục tiêu. Khảo sát lý thuyết, Ball (2010) nói rằng bằng chứng về tác dụng có lợi của
lạm phát mục tiêu trong các nền kinh tế mới, trong khi mạnh mẽ hơn trong các nước
phát triển, không phải kết luận.

Trong bài này, chúng tôi cố gắng giải thích việc thiếu bằng chứng mạnh bằng cách lập
luận rằng tất cả các nền kinh tế mới nổi không giống nhau và rằng lạm phát mục tiêu
(IT) có thể hiệu quả hơn trong 1 vài nước khác. Đặc biệt, ngân hàng trung ương khác
nhau về mức độ độc lập và điều này có thể tương tác với chế độ lạm phát mục tiêu tạo
ra kết quả khác nhau về kinh tế vĩ mô. Có thể vậy do đó, khi sự phân biệt này không
được thực hiện, kết quả kết luận về tác dụng của lạm phát mục tiêu trong một tập con
của những nước bị suy yếu bởi các nước có lạm phát mục tiêu không có hiệu lực.

Có quan điểm đối nghịch rằng liệu sự độc lập của ngân hàng trung ương (CBI) làm cho
chế độ lạm phát mục tiêu hiệu quả nhiều hơn hoặc ít hơn. Một mặt, ngân hàng trung
ương tự chủ có thể là điều kiện tiên quyết cho lạm phát mục tiêu thành công (Mishkin,
2000; 2004; Eichengreen et al., 1999; Friedman and Ötker-Robe, 2010). Ví dụ như, lạm

phát mục tiêu có thể không hiệu quả để làm cho lạm phát thấp nếu ngân hàng trung
ương có thể bị áp lực về mặt chính trị để hạ tỉ lệ thất nghiệp hay tạo thêm tiền để giảm
thâm hụt tài chính. Tương tự như vậy, độc lập của ngân hàng trung ương thấp có thể
hàm ý rằng những điều kiện đầu mất đi là tốt. Điều này bao gồm ưu tiên về mục tiêu
lạm phát như mục tiêu của chính sách tiền tệ, hạn chế sự thống trị về tài khóa, hạn chế
đô la hoá, và thông tin ngân hàng trung ương hiệu quả, minh bạch và có trách nhiệm
(Batini and Laxton, 2007; Friedman and Ötker-Robe, 2010)[1]. Trong trường hợp này,
lạm phát mục tiêu (IT) sẽ có hiệu quả thấp trong môi trường ngân hàng trung ương độc
lập thấp (CBI). Chúng tôi gọi đây là “Hiệu ứng điều kiện tiên quyết”. Tuy nhiên, một số
quan điểm cho rằng trong thực tế đó có phải là điều kiện tiên quyết cho thành công của
IT hay không? Chắc chắn hầu hết sẽ đồng ý rằng những yếu tố này làm cho bất kỳ chế
độ tiền tệ nào thành công hơn.
GVHD: TS Nguyễn Khắc Quốc Bảo

N5

8



[1] Chúng tôi thảo luận các điều kiện tiên quyết khác sau đó – mà Sự độc lập của ngân
hàng trung ương (CBI) có thể được tương quan, nhưng ít có khả năng để có một ảnh
hưởng trên quan hệ nhân quả.

Hơn nữa, còn có 1 số tranh luận cho rằng lạm phát mục tiêu có thể thúc đẩy sự phát
triển của một số tính năng này. (Batini and Laxton, 2007; Friedman and Ötker-Robe,
2009; Mishkin, 1999). Do đó, lạm phát mục tiêu (IT) có thể thành công hơn so với các
chinh sách tiền tệ khác khi những yếu tố này đang thiếu và có nhiều cách để cải thiện.
Trong phạm vi những yếu tố này đang thiếu ở nước có CBI thấp, chúng ta có thể mong
đợi hiệu ứng lớn hơn của lạm phát mục tiêu tại nước có CBI thấp. Chúng tôi gọi đây là

"hiệu ứng nâng cao" CBI. Ngược lại, khi đã có các tính năng này thì có ít tác động
để lạm phát mục tiêu có thể nâng cao.

Một ví dụ khác của hiệu ứng này, CBI thấp có thể bao hàm sự tín nhiệm ngân
hàng trung ương yếu kém và không giữ được lạm phát kỳ vọng, cho thấy rằng lạm phát
mục tiêu có thể có một tác động lớn trong khi đó nếu một ngân hàng trung ương có uy
tín (Bernanke et al, 1999; Mishkin, 1999; Svensson năm 1997), không cần độ tin
cậy và neo đậu của những kỳ vọng lạm phát mà đi kèm lạm phát mục tiêu (Ball, 2010,
Goncalves và Salles, 2008). Một lần nữa, chúng tôi mong đợi xem hiệu
ứng mạnh mẽ của lạm phát mục tiêu ở các nước không có ngân hàng trung ương độc
lập.

Hiệu quả của CBI thấp do hiệu quả của lạm phát mục tiêu thì phụ thuộc vào sức mạnh
tương đối và những tác động khác, cải thiện bằng cách phân tích thực
nghiệm tác dụng của CBI về việc thực hiện chế độ, chúng tôi hy vọng làm sáng tỏ cuộc
tranh luận này. Theo kết quả, chúng tôi không tìm thấy bằng chứng về tác dụng có
lợi của lạm phát mục tiêu ở các nước tiên tiến hoặc các quốc gia đang nổi lên với CBI
cao. Tuy nhiên, chúng tôi phát hiện các lợi ích lớn ở các nước đang phát
triển với mức độ CBI thấp. Những kết quả nghi ngờ về quan điểm cho rằng CBI là
GVHD: TS Nguyễn Khắc Quốc Bảo

N5

9



một điều kiện cần thiết cho lạm phát mục tiêu có hiệu quả. Hoàn toàn trái ngược, lạm
phát mục tiêu chỉ có hiệu quả khi các ngân hàng trung ương không phải là độc lập, cho
thấy tác dụng cải thiện là quan trọng hơn hiệu ứng điều kiện tiên quyết. Do đó, hàm

ý của chính sách là các nền kinh tế mới nổi không nên chờ đợi cho CBI lớn
hơn trước khi áp dụng lạm phát mục tiêu như là một chiến lược chính sách tiền tệ.
Sau đó, chúng tôi điều tra các kênh có CBI thấp tại các nền kinh tế mới nổi và qua đó
hiệu quả của lạm phát mục tiêu tăng trong việc giảm lạm phát. Đặc biệt, chúng ta xem
xét một vài khía cạnh cùng các nước có CBI thấp có nhiều cải tiến so với các nước có
CBI cao sau khi áp dụng lạm phát mục tiêu. Ví dụ, thông qua lạm phát mục tiêu
có thể mang lại một hiệu quả lớn hơn trên thực tế hoặc tăng CBI cho các quốc
gia CBI thấp như các chính trị gia được giao trong cam kết của họ để làm cho lạm phát
thấp (Mishkin, 1999; Batini vàLaxton, 2007). Liên quan đến điều này, và có lẽ quan
trọng hơn, lạm phát mục tiêu có thể mang về kỷ luật tài chính lớn hơn và giảm thâm
hụt ngân sách quốc gia có CBI thấp, kể từ khi tiếp tục tài trợ thâm hụt ngân sách thông
qua việc tài trợ tiền sẽ gây nguy hiểm cho việc đạt được các lạm phát mục tiêu
(IMF, 2006). Lạm phát mục tiêu cũng có thể dẫn đến giảm đô la hóa, tăng cường hiệu
lực của chính sách tiền tệ và khả năng làm cho lạm phát thấp hơn (Mishkin, 2003).

Lạm phát mục tiêu cũng được kết hợp với những cải tiến nhanh chóng trong cơ
cấu thông qua các ngân hàng trung ương (Batini và Laxton, 2007) và thông tin liên
lạc tăng lên, minh bạch và trách nhiệm giải trình (Mishkin và Schmidt -Hebbel, 2001).

Mặc dù, chúng ta có thể không xác định riêng tất cả các kênh do hạn chế dữ liệu, chúng
tôi tìm thấy bằng chứng cho thấy sự suy giảm trong thâm hụt ngân sách như là một
kênh quan trọng. Đặc biệt, có một sự giảm đáng kể thâm hụt ngân sách ở các nước CIB
thấp sau khi áp dụng lạm phát mục tiêu, nhiều hơn so với các nước có CBI cao
và khi chúng tôi kiểm soát thâm hụt ngân sách trong hồi quy chuẩn, chúng
tôi không còn thấy rằng lạm phát mục tiêu có hiệu quả ở nước có CBI thấp.
GVHD: TS Nguyễn Khắc Quốc Bảo

N5

10




Ngược lại, chúng tôi không tìm thấy bằng chứng rằng đô la hóa và phát triển tài
chính được coi là kênh quan trọng mà qua đó CBI thấp cải thiện biểu hiện của lạm
phát. Phần còn lại của bài được tổ chức như sau:

 Phần 2: Giới thiệu các dữ liệu và phương trình hồi quy chuẩn để kiểm tra hiệu quả
của lạm phát mục tiêu vào kinh tế vĩ mô, hiệu suất và vai trò của CBI.
 Phần 3: Trình bày các kết quả và “robustest” kiểm tra.
 Phần 4: Phân tích các “channel” tiềm ẩn mà theo đó lạm phát mục tiêu tác động
đến biểu hiện của lạm phát
 Phần 5: Kết luận

2. Ảnh hưởng của lạm phát mục tiêu và vai trò của CBI:
Trong khía cạnh này, chúng tôi giới thiệu mô hình chuẩn và dữ liệu được sử dụng để
kiểm tra lại ảnh hưởng của IT trong kinh tế vĩ mô và vai trò của CBI. Chúng tôi xem
xét mô hình hồi quy của chỉ số đầu ra của kinh tế vĩ mô, Y, trên độ trễ của chính nó,
biến giả IT, IT và một số biến kiểm soát. Các yếu tố chuẩn được đưa ra như sau:

i: chỉ số quốc gia, t: chỉ số thời gian. Các biến kiểm soát bao gồm đo lường sự độc lập
của ngân hàng trung ương, CBI, tương tác của IT với CBI, các biến giả cho thấy lạm
phát cao, HIGHINFL. Mối liên hệ giữa IT*CBI cho thấy sự ảnh hưởng IT lên tình hình
kinh tế vĩ mô bị phụ thuộc vào CBI. Như đã thảo luận ở trên, CBI có thể làm cho IT có
hiệu quả phụ thuộc nhiều hơn hay ít hơn trên sức mạnh tương đối của các hiệu ứng tiên
quyết và dần được cải thiện, do đó, hệ số về thuật ngữ tương tác là mơ hồ, cuối cùng t
là yếu tố thời gian và tiêu chuẩn quốc gia cụ thể về sai số.
GVHD: TS Nguyễn Khắc Quốc Bảo

N5


11



Để tạo điều kiện so sánh với kết quả trước đây và để tách được các thông tin được cung
cấp bằng thước đo CBI, chúng tôi sử dụng cùng phương trình hồi quy (ngoại trừ CBI và
phần tương tác) và thủ tục ước tính tương tự như Brito anh Bystedt (2010). Vì vậy
chúng tôi dự định sử dụng mô hình ước tính hệ thống được phát triển bởi Arellano and
Bover (1995) và Blundell và Bond(1998).
2.1 Dữ liệu:
Dữ liệu từ năm 1980 đến 2006. Theo Brito và Bystedt (2010), chúng tôi tính trung bình
ba năm làm dữ liệu và kết quả trong mẫu với 9 kỳ. Điều này làm giảm đi số lượng sử
dụng, mà là bậc 2 trong T và cũng cung cấp “sự thỏa hiệp hợp lý giữa thời gian đủ cho
sự phản hồi chậm chạp của các biến vĩ mô và phân chia các kết quả xử lý IT từ kết quả
của các sự kiện xảy ra trong trạng thái gần nhất”. Mẫu bao gồm tất cả các nước rằng đã
đáp ứng IT trong suốt các kỳ mẫu tốt như là các nhóm không có mục tiêu. Thời kỳ
không mục tiêu và thời kỳ trước khi có mục tiêu được xem như là điều kiện. Chúng tôi
sử dụng tập hợp các nền kinh tế mới nổi bao gồm cả có mục tiêu và không có mục tiêu,
nhưng Brito và Bustedt (2010), họ đã sử dụng sự kết hợp mẫu của Batini và Laxton
(2007) và Goncalves và Salles (2008). Sự khác nhau duy nhất là 2 quốc gia không có
dữ liệu trên CBI và chúng tôi chỉ có 44 nền kinh té mới nổi đã đối lập với 46. Trong hồi
quy riêng, chúng tôi mở rộng mẫu và bao gồm các nền kinh tế phát triển. Nhóm 22 nền
kinh tế đã phát triển là từ Ball (2010). Các mẫu kết hợp trước đó nữa là gồm 66 nước.
Như các tiêu chuẩn nghiên cứu, chúng tôi xác định ảnh hưởng của IT lên 4 nhân tố của
kinh tế vĩ mô mục tiêu là lạm phát, sản lượng tăng trưởng, độ lệch chuẩn của lạm phát
và độ lệch chuẩn của sản lương tăng trưởng, Thước đo lạm phát và tăng trưởng sản
lượng được đo trong mối tương quan kết hợp CPI và GDP thực (nhân với 100). Với
phương pháp và độ lệch chuẩn sau đó được tính với mỗi thời kỳ 3 năm. Việc kết hợp
trên một phần làm giảm ảnh hưởng của giá trị biến ngoại lai.


GVHD: TS Nguyễn Khắc Quốc Bảo

N5

12



Thời kỳ áp dụng IT đối với các nước kinh tế phát triển được lấy từ nghiên cứu của Ball
(2010), thời kỳ áp dụng IT cho các nền kinh tế mới nổi được lấy từ nghiên cứu của
Brito anh Bystedt (2010), họ sử dụng dữ liệu của Batini và Laxton (2007).
Biến IT giả định một giá trị trong một khoảng thời gian ba năm, nếu một chế
độ IT diễn ra trong cả ba năm của thời kỳ này, nó được thiết lập bằng hai phần ba hoặc
một phần ba, nếu một chế độ IT được diễn ra cho chỉ hai năm hoặc một năm. Chúng ta
có thể làm sáng tỏ các hệ số của biến IT, như sau: IT quốc gia cộng hoặc trừ lạm
phát ít hơn không có mục tiêu (bỏ qua sự tác động qua lại) hay là tương đương nếu IT
quốc gia có thể giảm lạm phát trên trung bình %
Với phương pháp của CBI, chúng tôi xem xét các chỉ số CBI ở Cukierman et al (1992),
dựa trên các khía cạnh pháp lý độc lập (LEGAL) – số này càng cao thì mức độ độc lập
của ngân hàng trung ương càng cao và tỷ lệ thay đổi các thống đốc của ngân hàng trung
ương (TURNOVER) – số này càng cao thì mức độc lập của ngân hàng trung ương càng
thấp. Các chỉ số có sẵn cho đến năm 1989 của cả các nền kinh tế đang phát triển và đã
phát triển, giả định 1 giá trị cho một thâp kỷ. Họ đã đo từ 0 đến 1 với CBI cao hơn cho
chỉ số LEGAL và CBI thấp hơn cho chỉ số TURNOVER.
Chỉ số pháp lý được mở rộng đến năm 2002 cho 24 quốc gia Mỹ La Tinh và Caribbean
bởi Jacome và Vazquez (2005), họ cũng đã cộng thêm một vài quốc gia vào mẫu và đến
1999 đối với các nước phát triển bởi Siklos (2008). Chỉ số TURNOVER được bổ sung
thêm với dữ liệu sau 1990 từ Crowe và Meade (2007) và Dreher et al. (2008)
Có ba điểm đáng chú ý liên quan đến các chỉ số này.

Thứ nhất, như đã đề cập ở trên, không phải các quốc gia theo đuổi IT đều có một CBI
cao và có sự thay đổi đáng kể trong các biến của CBI, chúng có thể được khai thác để
xác định được vai trò của CBI.
Thứ hai, phương pháp này cung cấp thông tin bổ sung về CBI ngoài công cụ độc lập.
Như đã thảo luận trong Batini and Laxton (2007), hầu hết ngân hàng trung ương đã có
GVHD: TS Nguyễn Khắc Quốc Bảo

N5

13



ít nhất công cụ độc lập ngay thời điểm thông qua (IT) lạm phát mục tiêu.[7]. Tuy nhiên,
nhiều thứ bị thiếu trong những khía cạnh khác của (CBI) mà được phản ánh qua các
biện pháp pháp lý, bao gồm sự tự do về nghĩa vụ mua nợ chính phủ, tầm quan trọng của
lạm phát trong những mục tiêu khác, và mức độ cao về an ninh việc làm với thống đốc
ngân hàng trung ương (Batini and Laxton, 2007). Thêm vào đó, thước do “turnover”
cung cấp thông tin an ninh việc làm cho thống đốc. Thứ ba, vấn đề tiềm ẩn với biện
pháp luật pháp là những gì được viết ra trong luật có thể rất khác nhau với thực tế. Điều
này đúng với nền kinh tế mới nổi. Tương tự như thế, công cụ độc lập không bao hàm sự
độc lập trên thực tế. Tóm lại, Cukierman, et al. (1992) lập luận thước đo “turnover”
thích hợp cho nền kinh tế mới nổi hơn biện pháp pháp lý, trong khi đối với các nước
phát triển, biện pháp pháp lý biểu thị rõ về (CBI) sự độc lập của ngân hàng trung ương.
Những vấn đề này được thảo luận thêm trong phần 3 và 4.

Cuối cùng, theo lý thuyết chúng tôi bao gồm một biến giả HIGHINFL đã chỉ ra lạm
phát trung bình cao (>40%) trong thời gian kiểm soát biến động kinh tế vĩ mô mà có thể
khác nhau trong những nước có lạm phát cao (Brito and Bystedt, 2010; Batini and
Laxton, 2007; IMF, 2006). Chúng tôi cũng thử nghiệm với việc loại bỏ lạm phát cao

trong mục 3.1.
2.2 Tóm tắt thống kê:

Tổng hợp thống kê cho tất cả các quan sát, các nước có nền kinh tế phát triển và mới
nổi được cung cấp trong bảng 1. Thời gian mẫu 1980-2006, được chia thành giai đoạn 3
năm. Có 66 nước; 22 nước có nền kinh tế phát triển, và 44 nước nền kinh tế mới nổi.



[7] : Tính độc lập của công cụ tài chính xảy ra khi ngân hàng trung ương có toàn quyền thiết lâp ông cụ chính
sách, thường là lãi suất danh nghĩa trong ngắn hạn, để đạt được mục tiêu chính sách đề ra. Sự độc lập trong mục
tiêu mà ngân hàng trung ương thiết lập mục tiêu chính sách như lạm phát mục tiêu là điều không phổ biến, thậm
chí ở các nước phát triển.
(Debelle and Fischer, 1994).
GVHD: TS Nguyễn Khắc Quốc Bảo

N5

14



Các nước kinh tế phát triển chiếm 27% cuộc điều tra. Cả các nền kinh tế đã phát triển
và mới nổi có lạm phát mục tiêu khoảng 13%. Mặc dù hơi bất ngờ, các quốc gia mới
nổi có tỷ lệ thay đổi TURNOVER của từng thống đốc ngân hàng trung ương cao, cao
hơn mức trung bình của CBI. Điều nó nhấn mạnh rằng thước đo luật pháp không phản
ánh chính xác CBI ở các nền kinh tế mới nổi, như Cukierman, et al. (1992). Các nền
kinh tế mới nổi có tỷ lệ lạm phát và tỷ lệ tăng trưởng đầu ra cao. Họ cũng đã có kinh
nghiệm về thời kỳ siêu lạm phát như là tối đa hóa giá trị của lạm phát.


Bảng 2 trình bày tóm tắt thông tin thống kê được phân theo loại hình quốc gia (phát
triển và mới nổi), chế độ tiền tệ (có mục tiêu và không có mục tiêu, được xác định bằng
biến lạm phát mục tiêu), và sau đó là bằng thời gian (trước và trong lạm phát mục tiêu).
Đối với các quốc gia đã phát triển (mới nổi) không có mục tiêu, lạm phát mục tiêu trung
bình thông qua các nước đã phát triển (mới nổi), 1995 (1999), được sử dụng để chia
mẫu. Theo các nước phát triển, thời kỳ lạm phát mục tiêu được kết hợp với lạm phát
thấp, phát triển cao và lạm phát thấp, đầu ra không ổn định. Tuy nhiên, điều này cũng
thấy ở các nước không theo đuổi lạm phát mục tiêu mặc dù vậy sự chênh lệch là không
nhiều.

Mô hình tương tự cho nền kinh tế mới nổi, mặc dù thời gian được cải tiến cho mục tiêu
là đáng kể hơn so với không có mục tiêu. Theo ví dụ, kinh nghiệm của nền kinh tế mới
nổi có mục tiêu giảm so với lạm phát trung bình của 10%, trong khi không có mục tiêu
là ở điểm 4%. Điều này được gợi lại cho kết quả trước đây trong các tài liệu thu thập
được từ các tài liệu bằng cách ước tính khác nhau trong sự khác biệt. Tuy nhiên, theo
lạm phát trung bình trước và sau lạm phát mục tiêu có thể gây hiểu lầm và có thể phóng
đại các lợi ích của lạm phát mục tiêu. Như đã chỉ ra bởi Brito và Bystedt (2010), kinh
nghiệm mục tiêu có lạm phát trung bình cao hơn không có mục tiêu từ sau năm 1980
và đạt được giữa 1990. Trước lạm phát mục tiêu với lạm phát thấp hơn không có mục
tiêu. Mô hình lạm phát này có thể gây ra vấn đề ước tính khác nhau trong sự khác biệt
là được đặt trên sự khác nhau của lạm phát trước và sau lạm phát mục tiêu. Cuối cùng,
GVHD: TS Nguyễn Khắc Quốc Bảo

N5

15



bảng 2 chỉ ra rằng các nền kinh tế mới nổi bắt đầu bằng lạm phát trung bình cao và lạm

phát biến động, kinh nghiệm giảm mạnh hơn trong các biến hơn là kinh tế đã phát triển.

Trong bảng 3, chúng tôi giới hạn chú ý các nền kinh tế mới nổi và trình bày trên cơ sở
chế độ tiền tệ, thời kỳ, và mức độ của CBI là sử dụng tỷ lệ thay đổi TURNOVER như
là đại diện. Trong một khía cạnh nào đó, chúng tôi trình bày tóm tắt các thông tin thống
kê cho TURNOVER dưới và trên 0,26. Như đã mô tả ở phần kết quả TURNOVER là
0,26 phù hợp với mức độ chia cắt, ảnh hưởng đến lạm phát trung bình được xác định ở
mức 10%. Nó cũng có giá trị ý nghĩa cho TURNOVER (trung bình là 0,2). Với mục
tiêu là TURNOVER thấp/ CBI cao. Lạm phát trung bình rớt xuống mức 11 (8%) sau
lạm phát mục tiêu. Trong khi không có mục tiêu rớt xuống ở điểm 8 (4%). Theo mục
tiêu với TURNOVER >= 0,26. lạm phát trung bình rớt xuống mức 55 (20%), trong khi
không có mục tiêu rớt xuống mức 22 (5%). Do đó, các quốc gia có TURNOVER cao
/CBI thấp có sự sụt giảm lớn hơn trong lạm phát bất kể chế độ tiền tệ hơn các quốc gia
có CBI cao. Thứ hai, giữ CBI không đổi, Nước targeter thì tăng trưởng trong tương lai
hơn là Non-targeter. Thứ 3, sự khác nhau trong cải tiến giữa có mục tiêu và không có
mục tiêu lớn hơn cho các nước CBI thấp. Do đó, đối với lạm phát trung bình, bằng
chứng sơ bộ cho thấy rằng lạm phát mục tiêu thấp hơn lạm phát, liên quan đến chế độ
tiền tệ, trong các quốc gia CBI thấp.

Lưu ý rằng, một mô hình tương tự có thể cho thấy TURNOVER và ngân sách thâm hụt.
Đặc biệt, cả TURNOVER và thâm hụt ngân sách cũng không làm thay đổi sự gia tăng
nhiều hay ít của các quốc gia có CBI cao, bất kể rằng có lạm phát mục tiêu hay không,
Theo các quốc gia CBI thấp, nó làm giảm thâm hụt ngân sách cho cả có mục tiêu hay
không mục tiêu, nhưng giảm trung bình cho mục tiêu (từ thâm hụt 3,2% đến thặng dư
0,1%) lớn hơn đáng kể so với sự sụt giảm của không có mục tiêu ( từ 1,1% thâm hụt
thành 0,8% thặng dư). Điều này phù hợp với giả thuyết rằng lạm phát mục tiêu kéo
chinh phủ trong các quốc gia CBI thấp tăng kỷ luật tài khóa, làm giảm sự cần thiết cho
tài trợ của thâm hụt ngân sách thông qua việc tạo ra tiền, làm giảm tỷ lệ làm phát trung
GVHD: TS Nguyễn Khắc Quốc Bảo


N5

16



bình như trong kết luận. Ngoài ra, TURNOVER giảm trong các quốc gia CBI thấp theo
lạm phát mục tiêu nhưng gia tăng nhẹ trong các quốc gia CBI cao. Ở phần 4, chúng tôi
dự định làm giảm thâm hụt ngân sách và cải thiện mức đô của CBI như là kênh quan
trọng thông qua lạm phát mục tiêu là thành công trong việc giảm lạm phát của quốc gia
CBI thấp.

Đối với mục tiêu TURNOVER thấp/CBI cao, biến động lạm phát trung bình rớt xuống
3 (1%) sau lạm phát mục tiêu. Trong khi không có mục tiêu rớt xuống điểm 4 (2%).
Với mục tiêu TURNOVER >=0,26, biến động lạm phát trung bình rớt xuống điểm 19
(3%), trong khi không có mục tiêu rớt xuống điểm 7 (2%). Như với lạm phát trung
bình, kinh nghiệm của các quốc gia có TURNOVER cao/CBI thấp, giảm lớn hơn trong
biến động lạm phát bất kể chế độ tiền tệ hơn là có mục tiêu, trong khi các quốc gia có
TURNOVER cao, ngược lại là đúng. Vì vậy mục tiêu lạm phát tốt hơn, liên quan đến
chế độ tiền tệ khác trong các quốc gia CBI thấp.

Đối với mục tiêu TURNOVER thấp/CBI cao, sự tăng trưởng trung bình tăng ở điểm 1
(1,2%) sau lạm phát mục tiêu trong khi không có mục tiêu tăng 1,2 (1%). Với mục tiêu
TURNOVER >=0,26, tăng trưởng trung bình tăng ở điểm 0,6 (1,4%), trong khi không
có mục tiêu tăng ở điểm 0,4 (1,4%). Vì vậy kết quả chỉ ra rằng kinh nghiệm có mục tiêu
hay không có mục tiêu tăng tương tự trong tăng trưởng và cải thiện không đang kể với
mức CBI. Cuối cùng, mục tiêu TURNOVER thấp, CBI cao, biến động tăng trưởng
trung bình rớt xuống diểm 1,3 (8%), trong khi không có mục tiêu rớt xuống điểm 1,8
(1,1%).


Đối với mục tiêu TURNOVER cao, phát triển trung bình (điểm giữa) rơi không ổn định
xuống 1.2 (1.6) % điểm, trong khi đó đối với không mục tiêu thì rơi xuống 0.5 (0.65%)
điểm. Vì vậy, đối với các quốc gia có TURNOVER thấp hơn, không mục tiêu khẳng
định nhỉnh hơn qua thời gian so với mục tiêu, trong khi điều ngược lại thì đúng cho các
GVHD: TS Nguyễn Khắc Quốc Bảo

N5

17



quốc gia có doanh số cao. Các chứng cứ sơ bộ vì thế cho rằng lạm phát mục tiêu thể
hiện tốt hơn, cân đối với các chế độ khác, trong các quốc gia có CBI thấp.

Bảng 4 thể hiện sự tương quan của các mẫu cho mẫu chung, các nền kinh tế phát triển
và các nền kinh tế mới nổi. IT tương quan với lạm phát trung bình thấp hơn, biến động
lạm phát, và phát triển không ổn định cho cả hai nền kinh tế phát triển và nổi trội. Nó
tương quan với sự phát triển thấp hơn ở mẫu đầy đủ và các nền kinh tế mới nổi nhưng
lại tương quan sự phát triển cao hơn ở các nền kinh tế phát triển. Như mong đợi,
LEGAL và TURNOVER cho ra kết quả tương quan nghịch biến. Hơn nữa, lạm phát và
lạm phát không ổn định thể hiện sự tương quan nghịch biến với LEGAL cho cả hai
nhóm, trong khi chúng lại tương quan với TURNOVER cho nền kinh tế mới nổi, như
đã cho rằng như vậy. Tuy nhiên, đối với nền kinh tế phát triển, dấu hiệu của sự tương
quan giữa lạm phát và lạm phát không ổn định với TURNOVER cho ra kết quả tương
quan nghịch biến, không như mong đợi. Như đã thảo luận trong Cukierman (1992),
TURNOVER không phải là thước đo tốt cho CBI ở các nền kinh tế phát triển, trong khi
LEGAL không ngụ ý thể hiện CBI ở các nền kinh tế mới nổi. Chúng ta trở lại với phát
biểu này trong phần kết quả.


3. Kết quả:

Bảng 5 trình bày kết quả từ ước lượng của phương trình (1) mà không có chỉ số CBI
như là một so sánh với những phát hiện trước đó. Tuy nhiên,chúng tôi hạn chế các mẫu
cho các quốc gia có dữ liệu trên CBI.
8
Trong ước lượng điểm chuẩn GMM của chúng
tôi, chúng tôi xem cả biến IT và biến CBI cùng với các biến phụ thuộc trễ như là các
biến hồi quy được xác định trước (mặc dù không hoàn toàn ngoại sinh). Vì vậy, chúng
tôi giả định rằng lạm phát hiện nay không ảnh hưởng đến việc thực hiện IT mặc dù lạm
phát quá khứ có thể. Trong phần 3.2, chúng tôi thử nghiệm với việc xem các biến IT và
CBI là nội sinh.
9
Biến giả HIGHINF được xem như là một biến nội sinh trong tất cả các
phép hồi quy.
GVHD: TS Nguyễn Khắc Quốc Bảo

N5

18




Kết quả chỉ ra rằng IT liên quan đến chế độ tiền tệ khác,kéo lạm phát trung bình trong
mẫu tổng thể xuống 1.7%, 0.34% ở các nước tiên tiến (nhưng không đáng kể), và 2%
trong nền kinh tế đang nổi lên (p-value = 0.11 ). Kết quả cho cả nền kinh tế phát triển
và nền kinh tế đang nổi lên đều phù hợp với phần lớn các nghiên cứu trước đây. Trong
khi IT được mong đợi làm giảm biến động lạm phát (Cecchetti và Ehrmann, năm 2002),
cột 4 - 6 trong bảng phía trên cho thấy IT không có một tác động đáng kể. Kết quả này

cho các nền kinh tế mới nổi là phù hợp với Brito và Bystedt (2010) nhưng không phù
hợp Lin và Ye (2009) và Batini và Laxton (2007), những người tìm ra rằng IT làm giảm
biến động lạm phát. Các tác dụng không đáng kể đối với các nền kinh tế phát triểnlà
phù hợp Ball (2010).
Trong bảng dưới cùng, IT làm giảm tốc độ tăng trưởng trung bình trong mẫu đầy đủ
cho nền kinh tế mới nổi, nhưng tăng tăng trưởng cho nền kinh tế phát triển. Kết quả cho
nền kinh tế mới nổi là phù hợp Brito và Bystedt (2010), nhưng kết quả cho nền kinh tế
phát triển là trái ngược với Ball (2010), người tìm thấy nó không có ảnh hưởng trong
nền kinh tế phát triển. Cột 4 - 6 trong bảng dưới cùng chỉ ra rằng IT có tác động ngược
chiều nhưng không đáng kể về biến động tăng trưởng trong mẫu đầy đủ (p-value =
0.14) và cho nền kinh tế mới nổi (p-value = 0,24) nhưng hiệu quả cùng chiều và không
đáng kể đối với các nền kinh tế phát triển. Kết quả cho nền kinh tế mới nổi là tương tự
như Brito và Bystedt (2010), Batini và Laxton (2007), và Goncalves và Salles (2008),
những người tìm thấy một tác động ngược chiều và đáng kể. Kết quả cho nền kinh tế
phát triển là phù hợp với Ball (2010), người tìm thấy một hệ số cùng chiều nhưng
không đáng kể.
1

1

8
Ví dụ, các kết quả cho nền kinh tế mới nổi rất gần với cột 5 Bảng 3 và 4 trong Brito và Bystedt (2010). Sự khác
biệt duy nhất là hai quốc gia của họ đã không có dữ liệu về Turnover. Ngoài ra, các quốc gia với các dữ liệu về
Turnover không nhất thiết phải có dữ liệu cho tất cả các thời kỳ, kết quả trong một tổn thất hơn nữa của các quan
sát.
GVHD: TS Nguyễn Khắc Quốc Bảo

N5

19




Cuối cùng, HIGHINFL kết hợp cùng chiều với lạm phát trung bình, biến động lạm
phát, và sự biến động tăng trưởng cao hơn, nhưng tăng trưởng bình quân thấp hơn. Đối
với nền kinh tế phát triển, biến được bỏ qua do cộng tuyến vì chỉ có một quốc gia trải
qua một thời kỳ lạm phát cao.
Bảng 6 thể hiện kết quả ước tính từ phương trình (1) với lạm phát trung bình là biến
phụ thuộc mà chúng tôi bao gồm CBI và tương tác của nó với IT. Chúng tôi cung cấp
kết quả cho mẫu đầy đủ, các quốc gia phát triển và các nền kinh tế mới nổi sử dụng
hoặc LEGAL hoặc TURNOVER làm thước đo CBI. Để kiểm tra hiệu quả của IT,
chúng tôi sử dụng hệ số của IT và hệ số IT*CBI. Trong mẫu đầy đủ có định rõ (1) kết
quả đưa đến là IT không ảnh hưởng gì đến lạm phát, bất chấp sự độc lập luật pháp. Tuy
nhiên mẫu đầy đủ chỉ rõ (2), hệ số IT*TURNOVER lại phủ nhận và quan trọng, đưa
đến là IT hiệu quả hơn trong việc giảm lạm phát ở những quốc gia có mức
TURNOVER cao hơn. Cụ thể là, tác động của IT lên lạm phát là 36.3% điểm khác với
các quốc gia có mức TURNOVER cao nhất so với các quốc gia có mức thấp nhất, các
quốc gia khác bằng nhau.Tính toán xa hơn tiết lộ là tác động của IT là phủ định quan
trọng nhưng chỉ đối với các quốc gia TURNOVER lớn hơn hoặc bằng 0.26, cao hơn
chút ít so với mức trung bình của mẫu đầy đủ. Kích thước của ảnh hưởng dự đoán lên
lạm phát trung bình khi TURNOVER bằng 0.26 xấp xỉ -3% điểm. Ảnh hưởng này gia
tăng khi TURNOVER gia tăng đến tối đa là -29.9% điểm đối với quốc gia với
TURNOVER bằng với 1. Vì vậy tác động của IT lên lạm phát trung bình trong mẫu thử
đầy đủ phụ thuộc vào mức độ CBI. Tác động này là bằng chứng, tuy nhiên, chỉ khi
chúng tôi sử dụng TURNOVER làm thước đo CBI. Chúng tôi sẽ giải thích ngắn tại sao
tình hướng như vậy.

9
Các số liệu thống kê tóm tắt trong bảng 2 cho thấy rằng các nước đang lạm phát cao hơn có nhiều khả năng áp
dụng IT, cho thấy khả năng phản hồi, có lẽ với một độ trễ. Do đó, chúng tôi xem IT như là một biến được xác định

trước (hoặc như là một biến nội sinh như là một kiểm tra thực nghiệm) thay vì một biến ngoại sinh


GVHD: TS Nguyễn Khắc Quốc Bảo

N5

20



Đối với các nước tiên tiến, IT không có một tác động đáng kể cho tất cả các giá trị của
LEGAL trong cột (3) và TURNOVER trong cột (4). Đối với nền kinh tế đang nổi (5),
IT không có tác động đáng kể đến lạm phát đối với bất kỳ giá trị của quy phạm pháp
luật. Ngoài ra, hệ số IT*LEGAL là không đáng kể, ngụ ý rằng tất cả, pháp lý độc lập
không làm thay đổi tác động của IT đối với lạm phát. Kết quả đặc tả (6), tuy nhiên, hàm
ý rằng tác động của IT khác nhau 57% trong nước với mức TURNOVER cao nhất so
với mức thấp nhất, tất cả các khoản khác bằng nhau (chúng tôi thảo luận về các hệ số
này và sự hiện diện của tác động bên ngoài tại Mục 3.1). Cụ thể, hiệu quả của IT là có ý
nghĩa tích cực ở cấp độ 10% với TURNOVER ít hơn hoặc bằng 0,06 (4 quốc gia và 11
quan sát). Ngược lại, hiệu quả là đáng kể tiêu cực ở mức 10% khi TURNOVER lớn hơn
hoặc bằng 0,26 (25 quốc gia và 114 quan sát), mà là mức trung bình đối với các nền
kinh tế mới nổi. Đối với các quan sát với TURNOVER ở giữa 0,06 và 0,26 (34 quốc
gia, 175 quan sát), IT không có ảnh hưởng đáng kể. Điều này được mô tả trong Hình 1,
trong đó trình bày các hiệu ứng biên của IT trên lạm phát trong nền kinh tế mới nổi cho
các giá trị khác nhau của TURNOVER và sự tự tin 90% khoảng thời gian.

Để tóm tắt, kết quả đặc tả (6) có nghĩa là, IT không có ảnh hưởng đáng kể khi
TURNOVER ít hơn 0,26 nhưng đóng một vai trò quan trọng trong việc giảm lạm phát
liên quan đến chế độ tiền tệ cho số lượng lớn các nền kinh tế mới nổi với Turnover trên

0,26. Kích thước của các tác động dự đoán về lạm phát khi TURNOVER bằng 0,26 là -
4,6%. Hiệu ứng này phát triển như TURNOVER tăng đến tối đa là 46,6% khi Turnover
tương đương với 1.

Cuối cùng, các hệ số của quy phạm pháp luật, chính nó là không đáng kể trong cả ba
mẫu. Các hệ số Turnover, chính nó có dấu hiệu dự đoán tích cực và có ý nghĩa quan
trọng trong toàn mẫu và đối với các nền kinh tế đang nổi lên, ngụ ý rằng CBI thấp có
liên quan với lạm phát cao hơn. Chú ý, tuy nhiên, đối với mẫu đầy đủ và nền kinh tế
mới nổi, các hệ số của TURNOVER và IT*TURNOVER tương đương về độ lớn nhưng
GVHD: TS Nguyễn Khắc Quốc Bảo

N5

21



có dấu hiệu ngược lại. Điều này chỉ ra rằng IT là có thể trung hòa tác động của CBI
thấp lên lạm phát.

Như đã đề cập ở trên, chúng tôi tìm thấy bằng chứng cho thấy IT làm giảm lạm phát
tương đối so với các chế độ khác trong mẫu đầy đủ khi chúng ta sử dụng Turnover như
là một biến CBI, nhưng không đúng khi chúng ta sử dụng quy phạm pháp luật. Quy
phạm pháp luật không có tác dụng đối với các nước tiên tiến, mà dường như không
được hưởng lợi từ IT. Nó cũng không hiệu quả cho các nền kinh tế mới nổi, mặc dù có
nhiều lợi ích từ IT, có lẽ vì các biện pháp pháp lý độc lập không chính xác ở các nước
mới nổi (Cukierman, et al.1992). Trong khi đó, Turnover có tác dụng mạnh mẽ trong
nền kinh tế mới nổi, nhưng nhỏ hơn và có ý nghĩa thống kê yếu hơn (mặc dù vẫn còn
đáng kể) có hiệu lực trong mẫu đầy đủ. Sự sụt giảm trong độ lớn và ý nghĩa với đầy đủ
các mẫu có thể được giải thích bởi thực tế rằng một số các nước tiên tiến có tỷ lệ

Turnover cao hơn so với các nước đang phát triển, nhưng vẫn không chịu những tác
động mang lại lợi ích của IT. Cukierman, và cộng sự (1992) lập luận rằng biện pháp
này là ít chỉ dẫn của CBI cho các nước tiên tiến hơn so với các biện pháp pháp lý.
Trong các mẫu đầy đủ, hiệu quả của Turnover, mặc dù yếu hơn, vẫn còn đáng kể. Lý do
là các nước tiên tiến có tỷ lệ Turnover thấp hơn trên các tác động trung bình và nhỏ hơn
của IT so với các nền kinh tế mới nổi, trong khi các nền kinh tế đang nổi lên với tỷ lệ
Turnover cao cho thấy sự giảm lớn hơn trong lạm phát so với những nước với tỷ lệ
Turnover thấp.
(11)
Bảng 7 trình bày kết quả từ dự toán của phương trình (1) với biến động lạm phát là biến
phụ thuộc. Bất kể giá trị của pháp lý hay Turnover, hiệu quả của IT không có tác động
đáng kể trong mẫu đầy đủ và cho nền kinh tế mới nổi. Đối với nền kinh tế tiên tiến, tuy
nhiên, IT làm tăng đáng kể biến động lạm phát đối với pháp luật lớn hơn hoặc bằng
0,51 (trên trung bình của 0,42) (CBI cao). Kích thước của các tác động dự đoán biến

(11)
Lời giải thích này tương tự như trong Cukierman và cộng sự (1992): Tại sao Turnover là quan trọng trong
giải thích lạm phát trung bình cho các nước đang phát triển và tất cả các mẫu, mặc dù nó không phải là quan
trọng cho các nước công nghiệp.
GVHD: TS Nguyễn Khắc Quốc Bảo

N5

22



động lạm phát khoảng từ 0,9% (quy phạm pháp luật bằng 0,51) đến 3.7 (quy phạm pháp
luật bằng 1,0). Vì vậy IT trong các nền kinh tế tiên tiến có CBI dẫn đến một sự gia tăng
tương đối biến động lạm phát so với các nước có CBI thấp. Không có hiệu lực trong

nền kinh tế tiên tiến cho tất cả các giá trị của Turnover.
Bảng 8 trình bày các kết quả từ dự toán của phương trình (1) với tốc độ tăng trưởng
trung bình là biến phụ thuộc. Trong các mẫu đầy đủ, IT có liên quan với mức tăng
trưởng thấp hơn trong nước CBI thấp khi chúng tôi sử dụng Turnover là biện pháp của
CBI. Cụ thể, IT đã không có hiệu lực cho tất cả các giá trị của Quy phạm pháp luật
nhưng có một ảnh hưởng tiêu cực đáng kể cho Turnover lớn hơn 0,21. Ở các nền kinh
tế tiên tiến, hiệu quả của IT là tích cực và quan trọng đối với quy phạm pháp luật giữa
0,22 và 0,46, với sự gia tăng tăng trưởng từ 1,5 đến 1,0 %. Hiệu ứng này là không đáng
kể với tất cả các giá trị của Turnover. Đối với nền kinh tế đang nổi lên, ảnh hưởng của
IT là không đáng kể cho tất cả giá trị của quy phạm pháp luật. Tuy nhiên, hiệu quả là
tiêu cực đáng kể đối với Turnover lớn hơn hoặc tương đương với 0,13. Hiệu ứng này
dao động từ -0,9% khi Turnover bằng 0,13 - 4.3 % khi Turnover tương đương với 1. Vì
vậy một số lượng lớn nền kinh tế tiên tiến với CBI thấp được hưởng tăng trưởng cao
hơn với các chế độ khác như là kết quả của IT, trong khi một số lượng lớn của các nền
kinh tế mới nổi với CBI thấp tăng trưởng thấp hơn. Lưu ý rằng lạm phát danh nghĩa cao
vẫn được tính đến trong dự toán để so sánh dễ dàng hơn với các nghiên cứu trước đã
bao gồm biến này và bởi vì lạm phát cao có thể tác động đến tăng trưởng trong thực tế.
Bảng 9 trình bày các kết quả từ dự toán của phương trình (1) với sự biến động tăng
trưởng là biến phụ thuộc. Đối với mẫu đầy đủ, IT có một tác động nhỏ nhưng với ý
nghĩa tiêu cực cho giá trị rất thấp của Turnover. Đối với nền kinh tế phát triển, IT có
một tác động nhỏ với ý nghĩa tích cực đối với giá trị trung gian của quy phạm pháp luật.
Đối với các nền kinh tế mới nổi, không có tác dụng của luật pháp hay Turnover.
3.1 Chi tiết về lạm phát trong nền kinh tế đang nổi lên:

GVHD: TS Nguyễn Khắc Quốc Bảo

N5

23




Các hệ số lớn IT, TURNOVER và IT*TURNOVER trong cột (6) Bảng 6 cho thấy rằng
các quan sát lạm phát cao có thể có ảnh hưởng trong việc thúc đẩy các kết quả, mặc dù
bao gồm các lạm phát cao giả. Tiếp theo, chúng tôi giới hạn sự chú ý đến TURNOVER
như là một đơn vị đo lường của CBI bởi vì như đã thảo luận chúng tôi không tìm thấy
bằng chứng rằng IT ảnh hưởng đến lạm phát bằng cách sử dụng LEGAL, biến không
phản ánh chính xác CBI cho các nền kinh tế mới nổi. Trong bảng 10, chúng tôi trình
bày kết quả bỏ qua quan sát với lạm phát lớn hơn 100% hoặc 40%. Bỏ qua lạm phát lớn
hơn 100% (40%) làm mất đi 23 (56) mẫu quan sát. Kết quả là tương tự nhưng ít hơn
đáng kể hơn so với những báo cáo trong Bảng 5 và 6. Đặc biệt, trong cột (1), nơi chúng
tôi hạn chế lạm phát ít hơn 100%, hệ số IT* TURNOVER là không đáng kể, mặc dù
chúng tôi vẫn còn tìm thấy rằng tác động tổng thể của IT là tiêu cực và đáng kể khi
TURNOVER lớn hơn hoặc bằng 0.25. Dự đoán về kích thước của các tác động trên lạm
phát khi TURNOVER bằng 0,25 là -1,4%. Tác động này càng lớn lên cụ thể
TURNOVER tăng lên tối đa là -8,6% khi TURNOVER tương đương với một.
Khi chúng tôi hạn chế lạm phát dưới 40% trong cột (2), hệ số IT * TURNOVER lại là
tiêu cực nhưng không đáng kể. Hơn nữa, tác động của IT là nhỏ và không đáng kể cho
tất cả các giá trị của TURNOVER. Điều này cho thấy rằng quan sát lạm phát cao có ảnh
hưởng trong việc thúc đẩy kết quả. Điều này là không có gì đáng ngạc nhiên khi chúng
ta thấy trong hồi quy điểm chuẩn của chúng tôi thì ảnh hưởng mạnh nhất của IT trong
các nước có CBI thấp là tỷ lệ lạm phát cao hơn nhiều trước khi IT thông qua. Như đã
thảo luận sau đó, những tỷ lệ lạm phát cao có nhiều khả năng là kết quả của thâm hụt tài
chính, xảy ra trong môi trường CBI thấp. Loại bỏ những mẫu quan sát có IT hiệu quả
nhất.
3.2 Kiểm tra mức độ chắc chắn:

Chúng tôi tiến hành một số thử nghiệm nhằm kiểm tra mức độ chắc chắn của kết quả
đạt được. Trong bảng 6-10, chúng tôi xem như IT được định trước. Tuy nhiên vẫn xảy
GVHD: TS Nguyễn Khắc Quốc Bảo


N5

24



ra khả năng xuất hiện nguyên nhân trái chiều từ hiệu suất yếu kém của kinh tế vĩ mô
như lạm phát cao đối với IT điều chỉnh. Ngoài ra, một biến số bị bỏ sót có thể ảnh
hưởng đến cả hiệu suất kinh tế vĩ mô và IT điều chỉnh. Tương tự như vậy, hiệu suất
kinh tế vĩ mô có thể thay thế cho CBI, hoặc trường hợp thứ ba là biến bị bỏ sót có thể
ảnh hưởng đến cả hiệu suất kinh tế vĩ mô và CBI. Trong kiểm nghiệm đầu tiên để xác
định tính chắc chắn, chúng tôi ước tính lại mô hình trong đó xem IT và cả CBI và IT
như là biến nội sinh. Những bảng tính đã sẵn sàng theo như yêu cầu. Đối với lạm phát ở
mức độ trung bình, những kết quả đạt được gần như là đồng nhất được thể hiện ở bảng
số 6. Đối với biến động lạm phát, có một điểm khác biệt duy nhất đó là đối với những
quốc gia tiên tiến, IT không có tác động gì bất chấp giá trị của LEGAL. Đối với sự tăng
trưởng trung bình, những kết quả khác nhau ở chỗ IT có tác động tiêu cực cực kỳ lớn
đối với những giá trị thấp của LEGAL. Đối với sự tăng trưởng không ổn định, kết quả
gần như xác định được. Vì thế, hầu hết kết quả là tương tự nhau khi tính đến nội sinh có
thể của IT và cả IT và CBI.

Thứ hai, lạm phát chậm và TURNOVER là có tương quan dương với nhau. Mặc dù
chúng tôi kết luận rằng lạm phát chậm như là một biến hồi quy độc lập, chúng tôi bỏ
qua điều khoản tương tác IT*INFLt-1 trong hồi quy chuẩn. Điều này có thể dẫn đến
một sự chệch thấp đi đối với hệ số ước tính của IT*TURNOVER, bởi vì sự điều chỉnh
của IT có thể hiệu quả hơn trong trường hợp lạm phát hạ thấp dần khi mà tỷ lệ lạm phát
chậm cao (tức là hệ số của IT*INFLt-1 là âm). Vì thế chúng tôi tính đến IT*INFLt-1
như là một biến hồi quy độc lập thêm vào. Kết quả về biến hồi quy độc lập lạm phát là
không đổi.


Thứ ba, chúng tôi thay thế ngày bắt đầu cho sự điều chỉnh IT từ Goncalves và Salles
(2008) mà có một chút sự khác biệt Batini và Laxton (2007) phân hạng như một đất
nước có IT được điều chỉnh sau khi hoàn toàn lệ thuộc vào những mục đích khác đối
với mục tiêu lạm phát (Mishkin 2000). Những kết quả được xác định một cách thực sự.
GVHD: TS Nguyễn Khắc Quốc Bảo

N5

25



Cuối cùng, chúng tôi tìm ra những kết quả tương tự khi chúng tôi loại ra những biến giả
đối với trường hợp lạm phát cao.

4. Các kênh (Channel):

Trong phần này, chúng tôi sẽ đi vào nghiên cứu các “channel” mà theo đó ở những
nước mới trong giai đoạn hội nhập, sự độc lập của ngân hàng trung ương càng thấp sẽ
làm gia tăng hiệu quả của lạm phát mục tiêu so với các chế độ tiền tệ khác. Trong phần
này, chúng tôi sẽ tập trung nghiên cứu vào lạm phát bình quân. Chúng tôi lập luận rằng
sự độc lập của ngân hàng trung ương càng thấp có ẩn ý rằng có một số yếu tố nhất định
nào đó làm cho chính sách tiền tệ hiệu quả hơn đang dần mất đi. Bởi vì, việc chấp nhận
lạm phát mục tiêu có thể khuyến khích sự phát triển của một vài yếu tố khác, những yếu
tố làm cải thiện sự phụ thuộc của ngân hàng trung ương. Vì vậy, kết quả của hiệu ứng
“cải thiện” làm cho lạm phát mục tiêu có tác động lớn hơn khi sự độc lập của ngân hàng
trung ương thấp.

Đầu tiên, lạm phát mục tiêu tự nó có thể làm gia tăng thêm sự độc lập của ngân hàng

trung ương. Cụ thể, bằng việc nhấn mạnh vào khả năng mà ngân hàng trung ương kiểm
soát lạm phát trong một thời gian dài và khả năng mà ngân hàng trung ương không thể
tác động đến sự phát triển lâu dài trong tương lai, lạm phát mục tiêu có thể làm giảm đi
các áp lực chính trị lên ngân hàng trung ương để theo đuổi các chính sách mở rộng
(Mishkin, 1999). Tương tự như vậy, quyền tự trị hợp pháp được chấp thuận đồng thời
với sự thích nghi của lạm phát mục tiêu (Batini and Laxton, 2007). Ví dụ, một vài nước
theo đuổi lạm phát mục tiêu có thể thông qua các luật lệ nhằm cho phép ngân hàng
trung ương có quyền được điều chỉnh lãi suất (Freedman, and Ötker-Robe, 2010). Từ
đó, cho thấy rằng phạm vi điều chỉnh nhằm tăng sự độc lập của ngân hàng trung ương
sẽ lớn hơn khi mà lúc đầu sự độc lập này thấp. Sự độc lập của ngân hàng trung ương
thấp cho phép lạm phát mục tiêu có tác động lớn hơn lên hiệu quả của chính sách tiền
tệ. Thật vậy, theo bài báo cáo trong bảng 3, ở những nước có sự độc lập của ngân hàng

×