Tải bản đầy đủ (.pdf) (70 trang)

Kết hợp mô hình nhân quả, mô hình ARIMA, mô hình ARCH để dự báo VN - Index

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.38 MB, 70 trang )

1

Mục lục 1
CHƯƠNG 1:GIỚI THIỆU CHUNG 6
1.Mục đích nghiên cứu đề tài: 6
2. Đối tượng nghiên cứu: 6
3. Phương pháp nghiên cứu: 7
4.Bố cục: 7
CHƯƠNG 2:TỔNG QUAN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN 8
1.Khái quát thị trường chứng khoán: 8
1.1.Khái niệm: 8
1.2. Phân loại: 8
1.2.1.Chứng khoán cổ phần 8
1.2.2.Chứng khoán nợ 8
1.2.2.1.Trái phiếu 8
1.2.2.2.Chứng khoán dạng nợ 9
1.2.2.3.Công cụ thị trường tiền 9
1.2.2.4.Công cụ tài chính phái sinh 9
1.2.3.Chứng khoán lai 9
2.Thị trường chứng khoán: 9
2.1.Khái niệm chung về thị trường chứng khoán: 9
2.2.Chức năng của TTCK 10
2.3.Cơ cấu Thị trường Chứng khoán: 11
2.3.1.Căn cứ vào sự luân chuyển các nguồn vốn 11
2.3.2.Căn cứ vào phương thức hoạt động 11
2.3.3.Căn cứ vào hàng hoá trên thị trường: 12
2.4.Các nguyên tắc hoạt động của TTCK: 12
2.4.1. Nguyên tắc cạnh tranh: 12
2.4.2. Nguyên tắc công bằng: 12
2.4.3. Nguyên tắc công khai: 12
2.4.4. Nguyên tắc trung gian: 13


2.5.Các thành phần tham gia TTCK: 13
2.5.1. Nhà phát hành: 13
2

2.5.2. Nhà đầu tư: 13
2.5.3.Các công ty chứng khoán: 14
2.5.4. Các tổ chức có liên quan đến TTCK: 14
3.Chỉ số giá chứng khoán và phương pháp tính 14
3.1.Phương pháp tính 14
3.1.1.Phương pháp Passcher: 14
3.1.2.Phương pháp Laspeyres 15
3.1.3.Chỉ số giá bình quân Fisher 16
3.1.4.Phương pháp số bình quân giản đơn: 16
3.1.5.Phương pháp bình quân nhân giản đơn 17
3.2.Chọn rổ đại diện 17
3.3.Vấn đề trừ khử ảnh hưởng của các yếu tổ thay đổi về khối lượng và giá trị
trong quá trình tính toán chỉ số giá cổ phiếu 18

CHƯƠNG 3:PHÂN TÍCH XU HƯỚNG VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG THỊ
TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM 21
1.Tổng quan thị trường chứng khoán Việt Nam: 21
1.1.Lịch sử hình thành và phát triển: 21
1.2.Các giai đoạn phát triển của thị trường chứng khoán 22
1.3.Phương pháp tính chỉ số VN-Index 23
2. Các nhân tố ảnh hưởng đến thị trường chứng khoán: 23
2.1.Các yếu tố cơ bản 24
2.2.Các yếu tố kỹ thuật 24
2.2.1.Lạm phát 25
2.2.2.Triển vọng của ngành 25
2.2.3.Các loại tài sản đầu tư thay thế 25

2.2.4.Các giao dịch bất thường 25
2.2.5.Tính thanh khoản của một loại cổ phiếu 25
2.2.6.Xu thế giá 25
2.2.7.Nhân khẩu học 26
2.3.Trạng thái thị trường 26

3

CHƯƠNG 4:NHỮNG LÝ THUYẾT VỀ MÔ HÌNH DỰ BÁO 27
1.Mô hình hàm hồi quy tổng thể: 27
1.1.Mô hình: 27
1.2.Các giả định OLS 27
1.3.Giả định bổ sung của OLS cho mô hình hồi qui bội 27
1.4.Hàm hồi quy mẫu 27

2.Mô hình ARIMA: Phương pháp Box-Jenkins 28
2.1.Tính dừng: 28
2.2.Mô hình ARIMA 29
2.2.1.Mô hình tự hồi quy bậc p – AR(p) 29
2.2.2.Mô hình trung bình trượt bậc q – MA(q) 29
2.2.3.Mô hình tự hồi quy kết hợp trung bình trượt – ARIMA(p,d,q) 29
2.2.3.1.Nhận dạng mô hình 29
2.2.3.2.Ước lượng các thông số của mô hình ARIMA(p,d,q) 30
2.2.3.3.Kiểm tra chẩn đoán mô hình 30
2.2.3.4.Dự báo: 30
3.Mô hình ARCH: 31
3.1 Lý thuyết mô hình ARCH 31
3.2.Kiểm định tính ARCH 32
CHƯƠNG 5:ÁP DỤNG CÁC MÔ HÌNH DỰ BÁO CHO CHUỖI VNINDEX 34
1.Ứng dụng mô hình ARIMA và ARCH để dự báo chuỗi VNindex: 34

1.1.Nhận dạng mô hình: 34
1.2.Chuyển đổi chuỗi gốc VNINDEX thành chuỗi “dừng”. 35
1.3.Xác định mô hình ARIMA 36
1.4.Mô hình AR(1) 36
1.4.1.Ước lượng mô hình AR(1) 36
1.4.2.Kiểm định phần dư 37
1.4.3.Các chỉ tiêu dự báo và giá trị dự báo: 37
1.5.Mô hình AR(2) 39
1.5.1.Ước lượng mô hình AR(2) 39
4

1.5.2.Kiểm định phần dư 39
1.5.3.Các chỉ tiêu dự báo và giá trị dự báo: 40
1.6.Mô hình ARIMA(1,1,1) 41
1.7.Mô hình ARCH 42
1.7.1.Kiểm định ảnh hưởng của Arch với mô hình AR(2) 42
1.7.2.Ước lượng ARCH(1) 43
2.Kết hợp mô hình hồi quy,ARIMA,ARCH để dự báo Vnindex 43
2.1.Nhận dạng: 43
2.2.Ước lượng 44
2.3.Kiểm định t_test, F_test và kiểm định Wald 44
2.4.Kiểm định phần dư 45
2.4.1.Đồ thị phân phối chuẩn của phần dư 45
2.4.2.Kiểm định Kolmogorov-Smirnov: 46
2.5.Kết hợp ARIMA, ARCH vào mô hình hồi quy 47

CHƯƠNG 6:NHẬN ĐỊNH THỊ TRƯỜNG, KIẾN NGHỊ, NHỮNG MẶT CÒN HẠN
CHẾ VÀ HƯỚNG PHÁT TRIỂN CHO MÔ HÌNH 48
1.Nhận định thị trường: 48
2.Kiến nghị: 49

3.Những mặt hạn chế: 50
4.Hướng nghiên cứu phát triển từ mô hình: 50
PHỤ LỤC 51
PHỤ LỤC 1:DỮ LIỆU THEO TUẦN CỦA VNINDEX, DOWJONES, NASDAQ, DAX,
KOSPI, STRAINS_TIMES 51
PHỤ LỤC 2:KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU MÔ HÌNH ARIMA,ARCH ĐỐI VỚI CHỈ SỐ
DOWJONES 55
PHỤ LỤC 3:KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU MÔ HÌNH ARIMA,ARCH ĐỐI VỚI CHỈ SỐ
NASDAQ 58
PHỤ LỤC 4:KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU MÔ HÌNH ARIMA,ARCH ĐỐI VỚI CHỈ SỐ
KOSPI 61
5

PHỤ LỤC 5:KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU MÔ HÌNH ARIMA,ARCH ĐỐI VỚI CHỈ SỐ
DAX 64
PHỤ LỤC 6:KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU MÔ HÌNH ARIMA,ARCH ĐỐI VỚI CHỈ SỐ
TRAINS TIMES 67
TÀI LIỆU THAM KHẢO 70





















6

CHƯƠNG 1:
GIỚI THIỆU CHUNG
1.Mục đích nghiên cứu đề tài:
- Hệ thống tài chính luôn được xem là trung tâm của nền kinh tế. Nó bao gồm thị
trường tiền tệ và thị trường vốn. Trong quá trình hội nhập, việc phát triển thị trường vốn
là vấn đề được Đảng và Chính Phủ đặt mục tiêu phát triển lâu dài và bền vững. Do đó thị
trường vốn rất quan trọng và được thể hiện rõ nét qua thị trường chứng khoán. Tuy nhiên
thị trường chứng khoán rất phực tạp và việc phát triển nó vô cùng khó khăn
- Nên vấn đề đặt ra “làm sao nhận định chính xác được chiều hướng của thị
trường”. Chiều hướng này được thể hiện rõ qua chỉ số chứng khoán của Việt Nam: chỉ số
VNINDEX. Vì vậy chúng ta phải có tầm nhìn rõ nét hơn và có được các nhận định chính
xác hơn thông qua việc sử dụng các mô hình dự báo để có thể xác định được hướng phát
triển tốt nhất cho thị trường chứng khoán.


2. Đối tượng nghiên cứu:
Đề tài nghiên cứu sử dụng 147 quan sát của chỉ số VNINDEX, Dowjones,
Nasdaq, KOSPI, Dax,Trains Times theo tuần từ ngày 31/7/2006 đến 18/5/2009.
Mục tiêu:
-Xây dựng mô hình dự báo dài hạn về chỉ số VNINDEX tại thành phố Hồ Chí

Minh thông qua việc sử dụng số liệu theo tuần của VNINDEX.
-Xác định được chỉ số chứng khoán của nước nào tác động mạnh đến VNINDEX
-Xác định được phần nào các nhân tố ảnh hưởng đến VNINDEX
Vì vậy, đề tài nghiên cứu phải trả lởi được 2 câu hỏi sau:
-Mô hình nào phù hợp để dự báo VNINDEX
-Nhân tố nào thực sự tác động đến VNINDEX trong khoảng thời gian từ từ ngày
31/7/2006 đến 18/5/2009.


7

3. Phương pháp nghiên cứu:
Để tiện cho việc phân tích dữ liệu và dự báo VNINDEX tôi dùng 3 phương pháp
mà tôi cho là hiệu quả:
-Mô hình ARIMA (autoregressive Intergrated Moving Average)
-Mô hình ARCH (autoregressive Conditional Heteroskedasticiy)
-Mô hình nhân quả kết hợp ARIMA và ARCH
Và tài liệu tôi sử dụng được lấy từ nguồn của công ty
chứng khoán fpt và

4.Bố cục:
-CHƯƠNG 1:GIỚI THIỆU CHUNG
-CHƯƠNG 2:TỔNG QUAN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
-CHƯƠNG 3:PHÂN TÍCH XU HƯỚNG VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG THỊ
TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
-CHƯƠNG 4:NHỮNG LÝ THUYẾT VỀ MÔ HÌNH DỰ BÁO
-CHƯƠNG 5:ÁP DỤNG CÁC MÔ HÌNH DỰ BÁO CHO CHUỖI VNINDEX
-CHƯƠNG 6:NHẬN ĐỊNH THỊ TRƯỜNG, KIỀN NGHỊ NHỮNG MẶT CÒN HẠN
CHẾ VÀ HƯỚNG PHÁT TRIỂN CHO MÔ HÌNH











8

CHƯƠNG 2:
TỔNG QUAN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
1.Khái quát thị trường chứng khoán:
1.1.Khái niệm:
-Chứng khoán là một giá trị tài chính đại diện bằng lãi suất có thể thỏa thuận và
có thể thay thế. Nói chung, chứng khoán gồm hai loại là chứng khoán cổ phần (equity
securities) và chứng khoán nợ (debt securities). Ngoài ra còn có loại chứng khoán lai giữa
hai loại trên. Ở các nền kinh tế phát triển, loại chứng khoán nợ là thứ có tỷ trọng giao
dịch áp đảo trên các thị trường chứng khoán. Còn ở những nền kinh tế kém phát triển, nơi
mà thị trường chứng khoán mới được thành lập, thì loại chứng khoán cổ phần lại chiếm
tỷ trọng giao dịch lớn hơn. Điều này giải thích tại sao ở Việt Nam cuối thập niên 1990 và
đầu thập niên 2000, thị trường chứng khoán được nhiều người hiểu là nơi trao đổi các cổ
phiếu.
-Công ty hay tổ chức phát hành chứng khoán được gọi là đối tượng phát hành.
-Chứng khoán có thể được chứng nhận bằng một tờ chứng chỉ (certificate), bằng
một bút toán ghi sổ (book-entry) hoặc dữ liệu điện tử.
1.2. Phân loại:
1.2.1.Chứng khoán cổ phần
Chứng khoán cổ phần là những giấy tờ, bút toán ghi sổ hoặc dữ liệu điện tử, lưu

hành trên thị trường và chứng nhận quyền sở hữu tài sản của đối tượng nắm giữ giấy tờ.
1.2.2.Chứng khoán nợ
-Chứng khoán nợ là những giấy tờ, chứng chỉ điện tử hoặc bút toán ghi sổ có, lưu
hành trên thị trường, chứng nhận mối quan hệ chủ nợ của người nắm giữ giấy tờ, chứng
chỉ đó đối với người phát hành.
-Chứng khoán nợ thường tồn tại dưới nhiều dạng khác nhau, như trái phiếu
(bond), chứng khoán dạng nợ (debenture) và giấy tờ (note), các công cụ thị trường tiền
(money market instruments), các công cụ tài chính phái sinh (financial derivatives).
1.2.2.1.Trái phiếu
-Trái phiếu là dạng nợ do nhà nước (trung ương lẫn địa phương), công ty, thể chế
tài chính phát hành mà trên tờ phiếu có xác nhận việc người phát hành nợ người nắm giữ
9

trái phiếu và nghĩa vụ trả nợ cả gốc lẫn lãi vào một thời điểm sau khi phát hành và kỳ hạn
tới thời điểm đó.
-Và trái phiếu có 2 loại là trái phiếu chính phủ và trái phiếu tư nhân (có thể của tổ
chức, công ty ).

1.2.2.2.Chứng khoán dạng nợ
Chứng khoán nợ là dạng nợ dài hạn thường do nhà nước hoặc công ty lớn phát
hành để huy động ngân sách hoặc vốn. Nó cũng tương tự như trái phiếu, chỉ khác ở điều
kiện đảm bảo và các vấn đề liên quan.
1.2.2.3.Công cụ thị trường tiền
Công cụ thị trường tiền là những giấy tờ cho phép người nắm giữ chúng quyền
được hưởng vô điều kiện một lượng thu nhập cố định bằng tiền, được đảm bảo trong một
thời gian nhất định.
1.2.2.4.Công cụ tài chính phái sinh
Đây là những công cụ tiền tệ thứ cấp có giá trị thị trường, cho phép người nắm
giữ chúng quyền mua hoặc bán các chứng khoán gốc. Những công cụ tài chính phái sinh
cơ bản là kì hạn.quyền chọn, tương lai, hoán đổi, v.v.

1.2.3.Chứng khoán lai
Chứng khoán lai là dạng trung gian giữa chứng khoán cổ phần và chứng khoán
nợ.

2.Thị trường chứng khoán:
2.1.Khái niệm chung về thị trường chứng khoán:
-Thị trường chứng khoán: là một thị trường mà ở nơi đó người ta mua bán,
chuyển nhượng, trao đổi chứng khoán nhằm mục đích kiếm lời. Tuy nhiên, đó có thể là
TTCK tập trung hoặc phi tập trung.
-Tính tập trung ở đây là muốn nói đến việc các giao dịch được tổ chức tập trung
theo một địa điểm vật chất.Hình thái điển hình của TTCK tập trung là Sở giao dịch chứng
khoán ( Stock exchange). Tại Sở giao dịch chứng khoán (SGDCK), các giao dịch được
tập trung tại một địa điểm; các lệnh được chuyển tới sàn giao dịch và tham gia vào quá
trình ghép lệnh để hình thành nên giá giao dịch.
10

-TTCK phi tập trung còn gọi là thị trường OTC (over the counter). Trên thị
trường OTC, các giao dịch được tiến hành qua mạng lưới các công ty chứng khoán phân
tán trên khắp quốc gia và được nối với nhau bằng mạng điện tử. Giá trên thị trường này
được hình thành theo phương thức thoả thuận.

2.2.Chức năng của TTCK
2.2.1. Huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế:
Khi các nhà đầu tư mua chứng khoán do các công ty phát hành, số tiền nhàn rỗi
của họ được đưa vào hoạt động sản xuất kinh doanh và qua đó góp phần mở rộng sản
xuất xã hội. Thông qua TTCK, Chính phủ và chính quyền ở các địa phương cũng huy
động được các nguồn vốn cho mục đích sử dụng và đầu tư phát triển hạ tầng kinh tế,
phục vụ các nhu cầu chung của xã hội.
2.2.2. Cung cấp môi trường đầu tư cho công chúng:
TTCK cung cấp cho công chúng một môi trường đầu tư lành mạnh với các cơ hội

lựa chọn phong phú. Các loại chứng khoán trên thị trường rất khác nhau về tính chất, thời
hạn và độ rủi ro, cho phép các nhà đầu tư có thể lựa chọn loại hàng hoá phù hợp với khả
năng, mục tiêu và sở thích của mình.
2.2.3. Tạo tính thanh khoản cho các chứng khoán:
Nhờ có TTCK các nhà đầu tư có thể chuyển đổi các chứng khoán họ sở hữu thành
tiền mặt hoặc các loại chứng khoán khác khi họ muốn. Khả năng thanh khoản là một
trong những đặc tính hấp dẫn của chứng khoán đối với người đầu tư. Đây là yếu tố cho
thấy tính linh hoạt, an toàn của vốn đầu tư. TTCK hoạt động càng năng động và có hiệu
quả thì tính thanh khoản của các chứng khoán giao dịch trên thị trường càng cao.
2.2.4. Đánh giá hoạt động của doanh nghiệp:
Thông qua chứng khoán, hoạt động của các doanh nghiệp được phản ánh một
cách tổng hợp và chính xác, giúp cho việc đánh giá và so sánh hoạt động của doanh
nghiệp được nhanh chóng và thuận tiện, từ đó cũng tạo ra một môi trường cạnh tranh
lành mạnh nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, kích thích áp dụng công nghệ mới, cải
tiến sản phẩm.


11

2.2.5. Tạo môi trường giúp Chính phủ thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô:
Các chỉ báo của TTCK phản ánh động thái của nền kinh tế một cách nhạy bén và
chính xác. Giá các chứng khoán tăng lên cho thấy đầu tư đang mở rộng, nền kinh tế tăng
trưởng; ngược lại giá chứng khoán giảm sẽ cho thấy các dấu hiệu tiêu cực của nền kinh
tế. Vì thế, TTCK được gọi là phong vũ biểu của nền kinh tế và là một công cụ quan trọng
giúp Chính phủ thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô. Thông qua TTCK, Chính phủ có
thể mua và bán trái phiếu Chính phủ để tạo ra nguồn thu bù đắp thâm hụt ngân sách và
quản lý lạm phát. Ngoài ra, Chính phủ cũng có thể sử dụng một số chính sách, biện pháp
tác động vào TTCK nhằm định hướng đầu tư đảm bảo cho sự phát triển cân đối của nền
kinh tế.


2.3.Cơ cấu Thị trường Chứng khoán:
2.3.1.Căn cứ vào sự luân chuyển các nguồn vốn: thị trường chứng khoán được chia thành
thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp.
-Thị trường sơ cấp: nơi các chứng khoán được mua bán lần đầu tiên trên thị
trường.Trên thị trường sơ cấp chỉ diễn ra các giao dịch giữa công ty phát hành và các nhà
đầu tư mà không có sự trao đổi mua bán chứng khoán giữa các nhà đầu tư với nhau. Số
tiền mua được từ việc bán chứng khoán sẽ được công ty phát hành đưa vào sản xuất kinh
doanh.
-Thị trường thứ cấp: Thị trường thứ cấp là nơi giao dịch các chứng khoán đã được
phát hành trên thị trường sơ cấp, đảm bảo tính thanh khoản cho các chứng khoán đã phát
hành.
2.3.2.Căn cứ vào phương thức hoạt động của thị trường: thị trường chứng khoán được
chia thành:
-Thị trường giao dịch tập trung: Thị trường giao dịch tập trung là một địa điểm
xác định mà tại đó chứng khoán được tiến hành trao đổi, mua – bán. Hiện tại chỉ có các
loại chứng khoán được niêm yết tại TTGDCK TP.HCM mới được giao dịch tại thị trường
giao dịch tập trung.
-Thị trường phi tập trung (thị trường OTC): Thị trường phi tập trung là thị trường
mua bán chứng khoán dựa trên sự thoả thuận giữa các nhà đầu tư, thị trường này không
12

có địa điểm giao dịch chính thức như thị trường tập trung.Các chứng khoán chưa niêm
yết trên TTGDCK sẽ được trao đổi, mua – bán trên thị trường phi tập trung.
2.3.3.Căn cứ vào hàng hoá trên thị trường:
-Thị trường cổ phiếu: thị trường cổ phiếu là thị trường giao dịch và mua bán các
loại cổ phiếu, bao gồm cổ phiếu thường, cổ phiếu ưu đãi.
-Thị trường trái phiếu: thị trường trái phiếu là thị trường giao dịch và mua bán các
trái phiếu đã được phát hành, các trái phiếu này bao gồm các trái phiếu công ty, trái phiếu
đô thị và trái phiếu chính phủ.
-Thị trường các công cụ chứng khoán phái sinh: thị trường các chứng khoán phái

sinh là thị trường phát hành và mua đi bán lại các chứng từ tài chính khác như: quyền
mua cổ phiếu, chứng quyền, hợp đồng quyền chọn.
2.4.Các nguyên tắc hoạt động của TTCK:
2.4.1. Nguyên tắc cạnh tranh:
Theo nguyên tắc này, giá cả trên TTCK phản ánh quan hệ cung cầu về chứng
khoán và thể hiện tương quan cạnh tranh giữa các công ty. Trên thị trường sơ cấp, các
nhà phát hành cạnh tranh với nhau để bán chứng khoán của mình cho các nhà đầu tư, các
nhà đầu tư được tự do lựa chọn các chứng khoán theo các mục tiêu của mình. Trên thị
trường thứ cấp, các nhà đầu tư cũng cạnh tranh tự do để tìm kiếm cho mình một lợi nhuận
cao nhất, và giá cả được hình thành theo phương thức đấu giá.
2.4.2. Nguyên tắc công bằng:
Công bằng có nghĩa là mọi người tham gia thị trường đều phải tuân thủ những qui
định chung, được bình đẳng trong việc chia sẻ thông tin và trong việc gánh chịu các hình
thức xử phạt nếu vi phạm vào những qui định đó.
2.4.3. Nguyên tắc công khai:
Chứng khoán là loại hàng hoá trừu tượng nên TTCK phải được xây dựng trên cơ
sở hệ thống công bố thông tin tốt. Theo luật định, các tổ chức phát hành có nghĩa vụ phải
cung cấp thông tin đầy đủ theo chế độ thường xuyên và đột xuất thông qua các phương
tiện thông tin đại chúng, Sở giao dịch, các công ty chứng khoán và các tổ chức có liên
quan.


13

2.4.4. Nguyên tắc trung gian:
Nguyên tắc này có nghĩa là các giao dịch chứng khoán được thực hiện thông qua
tổ chức trung gian là các công ty chứng khoán. Trên thị trường sơ cấp, các nhà đầu tư
không mua trực tiếp của nhà phát hành mà mua từ các nhà bảo lãnh phát hành. Trên thị
trường thứ cấp, thông qua các nghiệp vụ môi giới, kinh doanh, các công ty chứng khoán
mua, bán chứng khoán giúp các khách hàng, hoặc kết nối các khách hàng với nhau qua

việc thực hiện các giao dịch mua bán chứng khoán trên tài khoản của mình.
2.4.5. Nguyên tắc tập trung:
Các giao dịch chứng khoán chỉ diễn ra trên sở giao dịch và trên thị trường OTC
dưới sự kiểm tra giám sát của cơ quan quản lý nhà nước và các tổ chức tự quản.

2.5.Các thành phần tham gia TTCK:
2.5.1. Nhà phát hành:
Nhà phát hành là các tổ chức thực hiện huy động vốn thông qua thị trường chứng
khoán. Nhà phát hành là người cung cấp các chứng khoán - hàng hoá của thị trường
chứng khoán.
-Chính phủ và chính quyền địa phương là nhà phát hành các trái phiếu Chính phủ
và trái phiếu địa phương.
-Công ty là nhà phát hành các cổ phiếu và trái phiếu công ty.
-Các tổ chức tài chính là nhà phát hành các công cụ tài chính như các trái phiếu,
chứng chỉ thụ hưởng… phục vụ cho hoạt động của họ.
2.5.2. Nhà đầu tư:
Là những người thực sự mua và bán chứng khoán trên TTCK. Nhà đầu tư có thể
được chia thành 2 loại:
-Nhà đầu tư cá nhân: là những người có vốn nhàn rỗi tạm thời, tham gia mua bán
trên TTCK với mục đích kiếm lời
-Nhà đầu tư có tổ chức: là các định chế đầu tư thường xuyên mua bán chứng
khoán với số lượng lớn trên thị trường.
-Các định chế này có thể tồn tại dưới các hình thức sau: công ty đầu tư, công ty
bảo hiểm, Quỹ lương hưu, công ty tài chính, ngân hàng thương mại và các công ty chứng
khoán.
14

2.5.3.Các công ty chứng khoán:
-Công ty chứng khoán
-Quỹ đầu tư chứng khoán

-Các trung gian tài chính
2.5.4. Các tổ chức có liên quan đến TTCK:
-Cơ quan quản lý Nhà nước
-Sở giao dịch chứng khoán
-Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán
-Tổ chức lưu ký và thanh toán bù trừ chứng khoán
-Công ty dịch vụ máy tính chứng khoán
-Các tổ chức tài trợ chứng khoán
-Công ty đánh giá hệ số tín nhiệm…

3.Chỉ số giá chứng khoán và phương pháp tính
-Mục tiêu cơ bản của việc xây dựng chỉ số giá là xây dựng hệ thống chỉ tiêu phản
ánh sự biến động giá theo thời gian.
-Để thực hiện mục tiêu và ý tưởng trên, có 3 vấn đề cần giải quyết trong quá trình
xây dựng chỉ số giá cổ phiếu:
+Chọn phương pháp
+Chọn rổ đại diện
+Vấn đề trừ khử ảnh hưởng của các yếu tổ thay đổi về khối lượng và giá trị trong
quá trình tính toán chỉ số giá cổ phiếu

3.1.Phương pháp tính

-Hiện nay các nước trên thế giới dùng 5 phương pháp để tính chỉ số giá cổ phiếu,
đó là:
3.1.1.Phương pháp Passcher:
-Đây là loại chỉ số giá cổ phiếu thông dụng nhất và nó là chỉ số giá bình quân gia
quyền giá trị với quyền số là số lượng chứng khoán niêm yết thời kỳ tính toán. Kết quả
tính sẽ phụ thuộc vào cơ cấu quyền số thời kỳ tính toán:
-Người ta dùng công thức sau để tính:
15



t t
p
t o
q p
I
q p

=


Trong đó:
p
I
: Là chỉ số giá Passcher
t
p
: Là giá thời kỳ t
o
p
: Là giá thời kỳ gốc
t
q
: Là khối lượng (quyền số) thời điểm tính toán ( t ) hoặc cơ cấu của khối lượng thời
điểm tính toán.
i: Là cổ phiếu i tham gia tính chỉ số giá
n: là số lượng cổ phiếu đưa vào tính chỉ số

-Chỉ số giá bình quân Passcher là chỉ số giá bình quân gia quyền giá trị lấy quyền

số là quyền số thời kỳ tính toán, vì vậy kết quả tính sẽ phụ thuộc vào cơ cấu quyền số (cơ
cấu chứng khoán niêm yết) thời tính toán.
-Các chỉ số KOSPI (Hàn Quốc); S&P500(Mỹ); FT-SE 100 (Anh) ; TOPIX (Nhật)
; CAC (Pháp); TSE (Đài Loan); Hangseng (Hong Kong); các chỉ số của Thuỵ Sĩ, và
Vn- Index của Việt Nam áp dụng phương pháp này.

3.1.2.Phương pháp Laspeyres
-Chỉ số giá bình quân Laspeyres là chỉ số giá bình quân gia quyền giá trị, lấy
quyền số là số cổ phiếu niêm yết thời kỳ gốc. Như vậy kết quả tính sẽ phụ thuộc vào cơ
cấu quyền số thời kỳ gốc:
o t
o o
q p
IL
q p

=


Trong đó:
IL
: Là chỉ số giá bình quân Laspeyres
t
p
: Là giá thời kỳ báo cáo
o
p
: Là giá thời kỳ gốc
o
q

: Là khối lượng (quyền số) thời kỳ gốc hoặc cơ cấu của khối lượng (số lượng cổ phiếu
niêm yết) thời kỳ gốc
16

i: Là cổ phiếu i tham gia tính chỉ số giá
n: là số lượng cổ phiếu đưa vào tính chỉ số

-Có ít nước áp dụng phương pháp này, đó là chỉ số FAZ, DAX của Đức.

3.1.3.Chỉ số giá bình quân Fisher
-Chỉ số giá bình quân Fisher là chỉ số giá bình quân nhân giữa chỉ số giá Passcher
và chỉ số giá Laspayres: Phương pháp này trung hoà được yếu điểm của hai phương pháp
trên, tức là giá trị chỉ số tính toán ra phụ thuộc vào quyền số của cả 2 thời kỳ: Kỳ gốc và
kỳ tính toán

F p L
I I I
= ×

Trong đó:
F
I
: Là chỉ số giá Fisher
p
I
: Là chỉ số giá Passcher
L
I
: Là chỉ số giá bình quân Laspeyres


-Về mặt lý luận có phương pháp này, nhưng trong thống kê không thấy nó áp
dụng ở bất kỳ một quốc giá nào.

3.1.4.Phương pháp số bình quân giản đơn:
-Ngoài các phương pháp trên, phương pháp tính giá bình quân giản đơn cũng
thường được áp dụng. Công thức đơn giản là lấy tổng thị giá của chứng khoán chia cho
số chứng khoán tham gia tính toán:

i
p
p
I
n

=

Trong đó:
p
I
: là chỉ số giá bình quân
i
p
: là giá chứng khoán i
n là số lượng cổ phiếu đưa vào tính toán

17

-Các chỉ số họ Dow Jone của Mỹ; Nikkei 225 của Nhật; MBI của Ý áp dụng
phương pháp này. Phương pháp này sẽ tốt khi mức giá của các cổ phiếu tham gia niêm
yết khá đồng đều, hay độ lệch chuẩn của nó thấp

( )
σ


3.1.5.Phương pháp bình quân nhân giản đơn
p i
I P
= ∏

-Chúng ta chỉ nên dùng loại chỉ số này khi độ lệch chuẩn khá cao. Các chỉ số:
Value line (Mỹ); FT-30 (Anh) áp dụng phương pháp bình quân nhân giản đơn này.
-Tuy nhiên về mặt lý luận, chúng ta có thể tính theo phương pháp bình quân cộng
hoặc bình quân nhân gia quyền với quyền số là số chứng khoán niêm yết.
-Quyền số thường được dùng trong tính toán chỉ số giá cổ phiếu là số chứng
khoán niêm yết. Riêng ở Đài Loan thì họ dùng số chứng khoán trong lưu thông làm
quyền số, bởi vì tỷ lệ đầu tư của công chúng rất cao ở đây (80 90%).

3.2.Chọn rổ đại diện
-Một nhiệm vụ thứ hai quan trọng trong việc xây dựng chỉ số giá chứng khoán là
việc chọn rổ đại diện.
-Ở Sở giao dịch chứng khoán New York có trên 3000 cổ phiếu niêm yết, nhưng
chỉ số tổng hợp Dow Jone chỉ bao gồm 65 cổ phiếu. Trong đó chỉ số Dow Jones công
nghiệp (DJIA) chỉ bao gồm 30 cổ phiếu, Dow Jones vận tải (DJTA) bao gồm 20 cổ
phiếu và Dow Jones dịch vụ (DJUA) bao gồm chỉ 15 cổ phiếu.
-Tuy chỉ bao gồm một số lượng cổ phiếu niêm yết rất nhỏ như vậy trong tổng thể
nhưng các chỉ số Dow Jones vẫn trường tồn qua năm tháng, vì nó phản ánh được xu thế,
động thái của quá trình vận động của giá cả. Rổ đại diện này là tiêu biểu, đại diện được
cho tổng thể vì họ thường xuyên thay những cổ phiếu không còn tiêu biểu nữa bằng cổ
phiếu tiêu biểu hơn. Ví dụ tháng 11-1999 họ đã thay 4 cổ phiếu trong rổ đại diện, công ty
IBM cũng có lúc phải loại khỏi rổ đại diện khi thị trường PC nói chung phát triển và lấn

át.
-Ba tiêu thức quan trọng để xác định sự tiêu biểu của cổ phiếu để chọn vào rổ đại
diện là số lượng cổ phiếu niêm yết, giá trị niêm yết và tỷ lệ giao dịch, mua bán chứng
khoán đó trên thị trường (khối lượng và giá trị giao dịch).
18


3.3.Vấn đề trừ khử ảnh hưởng của các yếu tổ thay đổi về khối lượng và giá trị trong
quá trình tính toán chỉ số giá cổ phiếu
-Trong quá trình tính toán một số nhân tố làm thay đổi về khổi lượng và giá trị
của các cổ phiếu trong rổ đại diện sẽ ảnh hưởng đến tính liên tục của chỉ số.
-Ví dụ như phạm vi, nội dung tính toán của ngày báo cáo không đồng nhất với
ngày trước đó và làm cho việc so sánh bị khập khiễng, chỉ số giá tính ra không phản ánh
đúng sự biến động của riêng giá.
-Các yếu tố đó là: Thêm, bớt cổ phiếu khỏi rổ đại diện, thay cổ phiếu trong rổ đại
diện; nhập, tách cổ phiếu; thưởng cổ phần, thưởng tiền, tăng vốn bằng cách phát hành cổ
phiếu mới; bán chứng quyền; cổ phiếu trong rổ đại diện bị giảm giá trong những ngày
giao dịch không có cổ tức
-Để trừ khử ảnh hưởng của các yếu tổ thay đổi về khối lượng và giá trị trong quá
trình tính toán chỉ số giá cổ phiếu, làm cho chỉ số giá cổ phiếu thực sự phản ánh đúng sự
biến động của riêng giá cổ phiếu mà thôi người ta dùng kỹ thuật điều chỉnh hệ số chia.
Đây là một đặc thù riêng của việc xây dựng chỉ số giá chứng khoán.
-Để hiểu bản chất của kỹ thuật này, chúng ta hãy xem xét một ví dụ đơn giản sau:
Chỉ số tính theo phương pháp bình quân giản đơn (phương pháp Dow Jones). Giá 3 cổ
phiếu hình thành như sau:
Cổ phiếu Giá ngày giao dịch
1
Giá ngày giao dịch 2 Giá ngày giao dịch
3
A

B
C
17
13
15

19
13
16
19
13
8
Tổng giá 45 48 30
DJA ngày 1 là 45/3 =15 (ngàn đồng, hay điểm)
DJA ngày 2 là 48/3 = 16 (ngàn đồng, hay điểm), tăng 1 điểm hay 6.7%
-Ngày thứ 3 cổ phiếu C tách làm hai và giá coi như không có gì thay đổi (cổ
phiếu C giảm còn 8 không coi là giảm giá, mà chỉ vì cổ phiếu tách đôi.
19

-Về nguyên tắc nếu giá không có gì thay đổi, thì chỉ số vẫn giữ nguyên. Ta không
thể lấy tổng mới chia cho 3: 30/3=10 để kết luận chỉ số giá đã giảm 5 ngàn (điểm) được.
Vì thực chất giá không hề thay đổi . Bởi vậy chỉ số giá mới tính ra phải bằng 15 như ngày
2. Đây là cốt lõi của kỹ thuật tính toán lại hệ số chia. Kỹ thuật hết sức đơn giản: áp dụng
quy tắc tam suất.
-Cụ thể là:
48 =======>Hệ số chia là 3 (Do)
30 =======> Hệ số chia là D1
-Từ đây suy ra D1 =(30 x 3)/48 = 1.875 và DJA ngày thứ 3 là 30/1.875 = 16
không có gì thay đổi. Chỉ số này phản ánh đúng động thái của giá (không đổi). Trong
thực tế giá thường có thay đổi nên chỉ số sẽ có giao động. Nhưng khi tính lại hệ số chia

người ta luôn giả định giá không đổi. Tức là hệ số chia của ngày giao dịch được xác định
trước khi xẩy ra giao dịch.
-Chúng ta cũng có thể tham khảo thêm ví dụ sau về phương pháp tính chỉ số giá
gia quyền giá trị Passcher mà nước ta đang áp dụng, công thức tính như sau:

t t t t
p
t o t
q p q p
I
q p D
∑ ∑
= =>


Chứng
khoán
Khối lượng
niêm yết
Giá đóng cửa
21/7
Giá đóng cửa
ngày 31/7
Giá đóng cửa
ngày 2/8
A
B
C
1000
2000

5000
10
15
12
16
18
13
17
20
-Chỉ số giá ngày giao dịch đầu tiên là 100% (điểm)
=

QoPo/Do= 100x(1000x10+2000x15)/(1000x10+2000x15) =100
- Phải nhân với 100 bởi vì chúng ta quy ước ngày đầu là 100 điểm
Do = 1000x10+2000x15 = 40000
- Chỉ số giá ngày 31/7 là 110 % (điểm) tăng 10% hay 10 điểm
=

P1 Q1/D1= 100x (1000x12 + 2000x16)/ (1000x10+2000x15) =110
-Trong trường hợp này Do =D1 = 40000 và ngày này cổ phiếu C chưa được tham
gia vào việc tính chỉ số giá (vì mới có giá ban đầu chưa có thay đổi). Do đó chỉ số giá của
ngày 31-7 chỉ là chỉ số giả tổng hợp của 2 cổ phiếu A và B mà thôi.
20

- Chỉ số giá ngày 2-8 là 120, 67 điểm tăng 10, 67 điểm, phương pháp tính như
sau:
=

P2Q2/D2 =100x(13x1000+17x2000+20x5000)/ D2 = 120, 67 tăng = 10, 67 điểm
-Tính D2 như sau:

( 12x1000 + 16x2000) ==> Hệ số chia là (10x1000+ 15x2000)
( 12x1000 + 16x2000 +18x5000) ==> Hệ số chia là D2
Từ đó:
2
(10 1000 15 2000)*(12 1000 16 2000 18 5000)
121818.1818
(12 1000 16 2000)
D
× + × × + × + ×
= =
× + ×

-Hệ số chia đã thay đổi từ 40 000 (Do và D1) thành 121 818,1818 (D2)
-Trong 2 phiên giao dịch ngày 21 và 31 hệ số chia không có gì thay đổi và đều
chia cho gốc, vì vậy chỉ số thực sự là tính theo % so với gốc và vì thế ở hai ngày này
chúng ta có thể gọi là điểm hay % cũng đúng. Đến phiên giao dịch 2-8 thì điều này không
đúng nữa, bởi vì ta đã đổi hệ số chia và vì vậy kết quả tính toán lần này chỉ có thể gọi là
điểm.











21



CHƯƠNG 3:
PHÂN TÍCH XU HƯỚNG VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH
HƯỞNG THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT
NAM

1.Tổng quan thị trường chứng khoán Việt Nam:

1.1.Lịch sử hình thành và phát triển:
-Nhằm mục đích xây dựng một kênh huy động vốn mới, trong những năm đầu
thập kỉ 90 (thế kỉ 20),Đảng và Chính phủ Việt Nam đã nghiên cứu, xây dựng đề án thành
lập TTCK.
-Ngày 6/11/1993 Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ra quyết định số
207/QD-TCCB về việc thành lập Ban Nghiên cứu xây dựng và phát triển thị trường vốn
thuộc Ngân hàng Nhà nước.
-Tháng 9/1994, Chính phủ quyết định thành lập Ban soan thảo Pháp luật về
chứng khoán và TTCK.
-28/11/1996 theo nghị định số 75/CP của Chính Phủ thành lập Ủy ban Chứng
Khoán Nhà nước (UBCKNN)
-28/7/2000 thị trường chứng khoán Việt Nam chính thức đi vào hoạt động với
phiên giao dịch đầu tiên. Mới đầu chỉ có 3 mã chứng khoán được niêm yết trên trung tâm
giao dịch chứng khoán Tp. Hồ Chí Minh (tiền thân của sở giao dịch chứng khoán Tp.Hồ
Chí Minh). Đến nay sau hơn 8 năm hoạt động trên 2 sàn HOSE và HASTC có gần 300
mã cổ phiếu được niêm yết.
-Theo quy định thì chỉ số chứng khoán của sàn giao dịch HOSE được lấy làm chi
số của thị trường chứng khoán Việt Nam (VNINDEX)
-Chỉ số VN-Index đã chứng minh sự tăng trưởng nhanh chóng của thị trường.

22


1.2.Các giai đoạn phát triển của thị trường chứng khoán
Nếu trong phiên giao dịch đầu tiên ngày 28/7/2000, VN-Index ở mức 100 điểm
thì vào ngày 28/2/2007, là 1136 điểm, tăng 11 lần so với ngày gốc. TTCKVN cho tới đầu
năm 2009 đã trải qua nhiều giai đoạn thăng trầm
-Giai đoạn đầu từ khi ra đời cho đến hết năm 2000, chỉ số chứng khoán VN-Index
đã tăng “phi mã” từ 100 điểm lên 571 điểm - gấp trên 5,7 lần trong vòng 6 tháng.
-Giai đoạn thứ hai bắt đầu từ năm 2001 đến giữa năm 2004, chỉ số VN-Index gần
như “rơi tự do” từ 571 điểm xuống còn trên 130 điểm.
-Giai đoạn thứ ba, từ nửa cuối năm 2004, chỉ số VN-Index “bò dần” lên trên 200
điểm và đến hết năm 2005, đã vượt qua mốc 300 điểm.
-Giai đoạn thứ tư, từ năm 2006 là giai đoạn sốt nóng, khi phiên giao dịch đầu năm
mới có 304 điểm, thì đến ngày 25/4 đã vọt lên đỉnh điểm 632,69 điểm, trong đó giá cổ
phiếu của bốn công ty niêm yết hàng đầu đã vượt mức 100 nghìn đồng/cổ phiếu, tức gấp
trên 10 lần mệnh giá.
-Giai đoạn thứ năm bắt đầu từ cuối tháng 5/2006, chỉ số VN-Index lại “lao
xuống” còn khoảng 500 điểm. Giá trị giao dịch chứng khoán trung bình một phiên tại
Trung tâm Giao dịch Chứng khoán TP HCM (nay là Sở Giao dịch Chứng khoán TP.
HCM), nếu tháng 3 mới đạt 92,4 tỷ đồng, thì tháng 4 đạt 156 tỷ đồng, nhưng tháng 5, lại
giảm xuống còn 104 tỷ đồng, tháng 6 chỉ còn 60 tỷ - trong đó tuần cuối tháng 6 còn 53,7
tỷ đồng, thậm chí một số phiên chỉ còn 30 - 40 tỷ đồng.
-Giai đoạn thứ sáu, TTCK 6 tháng đầu năm 2007 phát triển đi lên, VN-Index bứt
phá ngoạn mục, với đồ thị đi lên gần như thẳng đứng, từ đầu tháng 1 đến giữa tháng 3
năm 2007, VN-Index tăng đến trên 55% và đã đạt ở mức kỷ lục 1.174,22 điểm. Sau đó là
giai đoạn điều chỉnh mạnh từ giữa tháng 3 đến cuối tháng 4/2007, VN-Index tụt dốc đến
trên 20%; và phục hồi từ cuối tháng 4 đến cuối tháng 6/2007 với mức tăng trưởng khoảng
15%. Đến cuối tháng 7/2007, VN-Index dao động xung quanh ngưỡng 1.000 điểm (đến
giữa tháng 5/2007 đã lên 1.060 điểm), tăng hơn 10 lần so với năm 2000.
-Giai đoạn từ cuối năm 2007 đến nay, VN-Index sụt giảm liên tiếp và giảm còn
399.66 điểm vào ngày 4/6/2008. Chưa dừng ở đó ngày 5/12/2008 VN-Index chỉ còn

299.68,chính thức rớt dưới mức 300 điểm. Đến ngày 10/12/2008 VN-Index lại tiếp tục
rớt xuống còn 286.85. Đây là mức thấp điểm nhất kể từ ngày 14/10/2005. Đến đầu tháng
23

1/2009 VN-Index leo lên được mức 300 điểm và cứ dao động xung quanh mức
này.Nhưng đến tháng 5/2009 VN-Index đã vượt mốc 500 điểm và có xu hướng tăng dần

1.3.Phương pháp tính chỉ số VN-Index
-Đây là loại chỉ số giá cổ phiếu thông dụng nhất và nó là chỉ số giá bình quân gia
quyền giá trị với quyền số là số lượng chứng khoán niêm yết thời kỳ tính toán. Kết quả
tính sẽ phụ thuộc vào cơ cấu quyền số thời kỳ tính toán:
-Người ta dùng công thức sau để tính:

t t
p
t o
q p
I
q p

=


Trong đó:
p
I
: Là chỉ số giá Passcher
t
p
: Là giá thời kỳ t

o
p
: Là giá thời kỳ gốc
t
q
: Là khối lượng (quyền số) thời điểm tính toán ( t ) hoặc cơ cấu của khối lượng thời
điểm tính toán.
i: Là cổ phiếu i tham gia tính chỉ số giá
n: là số lượng cổ phiếu đưa vào tính chỉ số

-Chỉ số giá bình quân Passcher là chỉ số giá bình quân gia quyền giá trị lấy quyền
số là quyền số thời kỳ tính toán, vì vậy kết quả tính sẽ phụ thuộc vào cơ cấu quyền số (cơ
cấu chứng khoán niêm yết) thời tính toán.
-Các chỉ số KOSPI (Hàn Quốc); S&P500(Mỹ); FT-SE 100 (Anh) ; TOPIX (Nhật) ; CAC
(Pháp); TSE (Đài Loan); Hangseng (Hong Kong); các chỉ số của Thuỵ Sĩ,

2. Các nhân tố ảnh hưởng đến thị trường chứng khoán:
Liệu có một công thức chính xác để xác định khả năng thay đổi giá cổ phiếu trên
thị trường hay không? Câu trả lời là không. Có thể chia các yếu tố được xác định là có
thể tác động đến giá cổ phiếu thành 3 nhóm: cơ bản, kỹ thuật và trạng thái thị trường.

24

2.1.Các yếu tố cơ bản
-Trên thị trường, giá cổ phiếu được xác định dựa trên nền tảng các yếu tố cơ bản
là:
(1) tình hình lợi nhuận (ví dụ chỉ tiêu thu nhập trên mỗi cổ phiếu – EPS) và
(2) hệ số định giá (ví dụ hệ số giá trên thu nhập mỗi cổ phiếu – P/E). EPS là thước đo để
xác định phần lợi nhuận công ty tạo ra trên mỗi cổ phiếu.
-Vì vậy, khi mua một cổ phiếu nào đó nghĩa là bạn mua một phần tương ứng của

dòng lợi nhuận công ty có thể tạo ra trong tương lai. Đây chính là cơ sở cho việc xác định
P/E, hay P/E thể hiện mức giá bạn sẵn sàng trả cho một phần của dòng lợi nhuận được
hưởng trong tương lai từ việc đầu tư vào cổ phiếu đó. Một phần của dòng lợi nhuận được
tạo ra này sẽ được chia dưới dạng cổ tức hay cổ phiếu thưởng; phần còn lại sẽ được công
ty giữ lại để tái đầu tư mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh. Dòng lợi nhuận tương lai
là kết quả của mức lợi nhuận hiện tại và tỷ lệ tăng trưởng trong tương lai.
-Cần lưu ý rằng, EPS là một thước đo phổ biến, nhưng ngoài ra còn có những
thước đo kế toán khác cũng được sử dụng để đánh giá tình hình lợi nhuận, ví dụ như cổ
tức trên mỗi cổ phiếu hay dòng tiền trên mỗi cổ phiếu. Đồng thời, bản thân EPS cũng có
thể được điều chỉnh theo những nguyên tắc tài chính nhằm tạo ra những con số phản ánh
chính xác hơn về tình hình lợi nhuận của công ty.
-Đối với hệ số định giá như P/E, thước đo này được quyết định bởi tỷ lệ tăng
trưởng lợi nhuận trong tương lai và tỷ lệ chiết khấu được dùng để quy dòng lợi nhuận
trong tương lai về giá trị hiện tại. Nghĩa là một công ty có tỷ lệ tăng trưởng dự kiến cao
sẽ dẫn đến hệ số định giá cao, nhưng tỷ lệ chiết khấu cao sẽ khiến cho hệ số định giá
thấp.
-Tỷ lệ chiết khấu phụ thuộc vào mức độ rủi ro của loại cổ phiếu đó những yếu tố
vĩ mô như lạm phát hay lãi suất cơ bản trong nền kinh tế.

2.2.Các yếu tố kỹ thuật
-Trên thực tế, ngoài những yếu tố cơ bản (bên trong) kể trên, một số yếu tố kỹ
thuật (bên ngoài) cũng có những tác động đến tình hình cung-cầu của một loại cổ phiếu
trên thị trường.
-Một số yếu tố này ảnh hưởng một cách gián tiếp đến các yếu tố cơ bản.
25

2.2.1.Lạm phát
Ngoài tác động đến hệ số định giá đối với cổ phiếu đã đề cập trên đây, lạm phát
còn là một yếu tố kỹ thuật quan trọng. Kết quả nghiên cứu thực chứng cho thấy mức độ
lạm phát có mối quan hệ tỷ lệ nghịch với hệ số định giá cổ phiếu. Tình trạng giảm phát

trong nền kinh tế nhìn chung ảnh hưởng tiêu cực đến giá cổ phiếu.
2.2.2.Triển vọng của ngành
Giá cổ phiếu của một công ty thường gắn với triển vọng chung của nền kinh tế và
của ngành. Có một số nghiên cứu cho thấy rằng không phải kết quả hoạt động riêng lẻ
của một công ty, mà là sự kết hợp giữa tình trạng chung của nền kinh tế và triển vọng của
một ngành là yếu tố chính quyết định mức giá cổ phiếu của một công ty trong ngành đó.
2.2.3.Các loại tài sản đầu tư thay thế
Cổ phiếu công ty phải cạnh tranh thu hút nguồn vốn đầu tư với nhiều loại tài sản
đầu tư khác nhau trên thị trường, ví dụ như trái phiếu chính phủ, bất động sản, vàng hay
các loại ngoại tệ.
2.2.4.Các giao dịch bất thường
Là việc mua hay bán cổ phiếu xuất phát từ những lý do khác, không dựa trên cơ
sở giá trị nội tại của loại cổ phiếu đó. Những giao dịch này bao gồm giao dịch của các cổ
đông nội bộ trong công ty hay giao dịch cổ phiếu quỹ, thường theo kế hoạch được công
bố trước. Mặc dù những giao dịch này không phải là các dấu hiệu để khẳng định giá cổ
phiếu sẽ lên hay xuống nhưng trong một chừng mực nào đó có thể tác động đến cung-cầu
cổ phiếu, do đó tác động đến giá cổ phiếu.
2.2.5.Tính thanh khoản của một loại cổ phiếu
Phản ánh mức độ quan tâm của công chúng đầu tư. Khối lượng giao dịch thường
là một thước đo của tính thanh khoản.
2.2.6.Xu thế giá
Thông thường, giá cổ phiếu biến động theo những xu thế ngắn hạn. Khi giá một
loại cổ phiếu tăng sẽ hấp dẫn người đầu tư tham gia và tiếp tục tăng giá. Ngược lại, điều
tương tự cũng xảy ra với xu thế giảm giá. Điều đáng nói là những xu thế này chỉ trở nên
rõ ràng khi nhìn lại những gì đã qua, còn trên thực tế khó có thể xác định được những xu
thế đó.

×