Tải bản đầy đủ (.pdf) (54 trang)

tổng quan ngành thép

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (811.45 KB, 54 trang )

TỔNG QUAN VỀ NGHÀNH THÉP VIỆT NAM
-P1
VIỆT NAM đang đứng trước ngưỡng cửa ra nhập tổ chức thương
mại thế giới WTO có thể vào cuối năm nay . Đứng trước sân chơi lớn
này thiết nghĩ VIỆT NAM còn nhiều việc còn chưa được chuẩn bị một
cách kỹ lưỡng , các ngành công nghiệp của chúng ta nói chung và
nghành Luyện kim nói chung còn đang rất nhỏ bé và manh mún
khó có thể cạnh tranh được trên sân chơi lớn này .
Nghành luyện kim của chúng ta đang đứng trước rất nhiều vấn đề
cần giải quyết đó là thứ nhất cơ cấu các chủng loại thép trong nước
con mất cân đối nghiêm trọng Hiện nay hầu hết các nhà máy luyện
và cán thép của Việt Nam chỉ sản xuất thép thanh, thép cuộn, thép
hình cỡ nhỏ và vừa mà chưa thấy có một nhà máy tầm cỡ nào sản
xuất các mác thép chất lượng cao phục vụ cho các nghành cơ khí
trong nước mà cụ thể là chiến lược nội địa hoá linh kiện ôtô và xe
máy là một ví dụ. Trừ nhà máy thép cán nguội đầu tiên của Việt
Nam ở Phú Mỹ (Bà Rịa-Vũng Tàu) công suất 205.000 tấn/năm mới đi
vào sản xuất. Trong khi đó công suất cán thép các sản phẩm thép
dài của Việt Nam đã lên tới 6 triệu tấn, nghĩa là gần gấp đôi nhu
cầu. Trong khi công suất luyện phôi thép năm 2005 mới đạt 875.000
tấn. Tình hình dư thừa công suất so với nhu cầu cũng xảy ra với sản
xuất ống thép và thép lá mạ ở Việt Nam. Năm 2006 có thêm một số
nhà máy luyện thép lò điện đi vào sản xuất, nâng sản lượng phôi lên
1,5 triệu tấn/năm.
Dự báo, nhu cầu thép thanh và thép cuộn năm 2006 của Việt Nam là
3,8 triệu tấn, như vậy lượng phôi thép cần thiết cung cấp cho các
nhà máy thép ở Việt Nam vẫn phải nhập khẩu 2,5-2,6 triệu tấn/năm.
Vì lượng nhập khẩu phôi lớn như vậy, nên việc chủ động định giá sản
phẩm là khó khăn, phụ thuộc chính vào giá phôi thép thế giới đó là
một bất lợi vô cùng lớn cản trở chúng ta trên con đương cạnh tranh .
Ngay với nhà máy cán nguội, nguyên liệu là cuộn nóng cũng phải


nhập khẩu 100%, nên giá sản phẩm được quyết định tới 80% là giá
nguyên liệu đầu vào. Bên cạnh đó, quy mô nhà máy của Việt Nam là
nhỏ bé, chỉ có 3 cơ sở là gang thép Thái Nguyên, thép miền Nam,
Pomina có quy mô trên 0,5 triệu tấn/năm, còn hầu hết là 200-250
tấn/năm nên rất khó giảm giá thành do chi phí nguyên liệu, năng
lượng, chi phí quản lý, năng suất lao động đều thua kém các nhà
máy liên hợp công suất lớn (vài
triệu tới chục triệu tấn/năm). Trong bối cảnh hội nhập,
việc phấn đấu hạ giá thành, nâng cao tính cạnh tranh của
sản phẩm thép là rất khó khăn. Những nhà máy luyện và
cán thép xây dựng sau năm 2000 do nhập thiết bị và công
nghệ châu Âu (G7) nên có thể đạt các chỉ tiêu trung bình
tiên tiến của các nước. Sức ép cạnh tranh Sản phẩm luyện
cán thép của Việt Nam là sản phẩm thép xây dựng carbon
thông thường, là sản phẩm phổ thông, không có những
yêu cầu kỹ thuật đặc biệt. Vì vậy khi tham gia cạnh tranh
với sản phẩm nhập khẩu từ các nước, không thể dùng rào
cản kỹ thuật để bảo hộ sản xuất trong nước. Ngành thép
Việt Nam mới phát triển mạnh trong thời gian gần đây do
các công ty Nhà nước và công ty tư nhân tham gia đầu tư
vào ngành thép. Thời gian này, các công ty phải trả nợ các
khoản vay ngân hàng khi đầu tư. Trong cơ cấu giá thành
sản phẩm một tấn thép có 20-25 USD là tiền khấu hao để
trả nợ. Đây là điểm bất lợi cho các công ty thép Việt Nam
khi phải cạnh tranh với các nước đã sản xuất thép nhiều
năm và đã hết giai đoạn khấu hao. Với những khó khăn và
thách thức nêu trên, ngành thép Việt Nam muốn tồn tại và
phát triển trong bước đường hội nhập với các nước trong
khu vực và thế giới, chắc chắn sẽ phải có những nỗ lực
vượt bậc trong sản xuất kinh doanh của các công ty thép,

đồng thời cũng phải có sự định hướng phát triển chính xác
và sự chỉ đạo chặt chẽ của các cơ quan quản lý của Nhà
nước. Ngành thép Việt Nam có điều kiện thuận lợi hơn một
số nước trong khối ASEAN khi có nguồn quặng sắt, tuy trữ
lượng không lớn nhưng nếu được khai thác và xử lý thích
hợp chắc chắn sẽ thuận lợi hơn các nước phải nhập quặng
sắt. Chúng ta có trữ lượng than antraxit, nếu áp dụng các
công nghệ luyện kim thích hợp cũng tạo thế thuận lợi hơn
nhiều nước. Ngoài ra, ứng trong nước. Nguồn nhân lực của Việt
Nam dồi dào, giá nhân công thấp so với nhiều nước, lực lượng kỹ
thuật và công nhân luyện kim đủ sức đáp ứng cho sự phát triển của
ngành. Các công ty luyện kim Việt Nam cần có sự liên kết, hợp nhất
để khắc phục tình trạng nhỏ lẻ, phân tán và để có đủ sức đầu tư cho
các công nghệ hiện đại với quy mô kinh tế cạnh tranh với luyện kim
nước ngoài.
Ngoài ra, việc phấn đấu khắc phục những yếu kém trong công tác
quản lý sản xuất, giảm bớt lao động dư thừa để nâng cao năng suất
lao động ở các nhà máy cũ, áp dụng các biện pháp cải tiến kỹ thuật
để giảm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm vẫn là mục tiêu cụ
thể và cấp thiết nhất của các công ty luyện kim của Việt Nam trong
bối cảnh hiện nay.Ngoái ra chúng ta cũng phải từng bước đa dạng
hoá sản phẩm đặc biệt là tiến tới nấu luyện ra các mác thép chất
lượng cao để tạo tiền đề thúc đẩy nghành cơ khí chế tạo phát triển
các nguyên liệu phụ trợ trong luyện kim hoàn toàn có thể
tự đápứng trong nước. Nguồn nhân lực của Việt Nam dồi dào, giá
nhân công thấp so với nhiều nước, lực lượng kỹ thuật và công nhân
luyện kim đủ sức đáp ứng cho sự phát triển của ngành. Các công ty
luyện kim Việt Nam cần có sự liên kết, hợp nhất để khắc phục tình
trạng nhỏ lẻ, phân tán và để có đủ sức đầu tư cho các công nghệ
hiện đại với quy mô kinh tế cạnh tranh với luyện kim nước ngoài.

Ngoài ra, việc phấn đấu khắc phục những yếu kém trong công tác
quản lý sản xuất, giảm bớt lao động dư thừa để nâng cao năng suất
lao động ở các nhà máy cũ, áp dụng các biện pháp cải tiến kỹ thuật
để giảm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm vẫn là mục tiêu cụ
thể và cấp thiết nhất của các công ty luyện kim của Việt Nam trong
bối cảnh hiện nay.Ngoái ra chúng ta cũng phải từng bước đa dạng
hoá sản phẩm đặc biệt là tiến tới nấu luyện ra các mác thép chất
lượng cao để tạo tiền đề thúc đẩy nghành cơ khí chế tạo phát triển
TỔNG QUAN VỀ NGHÀNH THÉP VIỆT NAM
- P2
(10 votes)
20/09/2006
Quá trình phát triển ngành thép Việt Nam
Ngành thép Việt Nam bắt đầu được xây dựng từ đầu những năm 60.
Khu liên hợp gang thép Thái Nguyên do Trung Quốc giúp ta xây dựng,
cho ra mẻ gang đầu tiên vào năm 1963. Công suất thiết kế lúc đó của
cả khu gang thép là 100 ngàn tấn/năm.

Giai đoạn từ 1976 đến 1989: Ngành thép gặp rất nhiều khó khăn do
kinh tế đất nước lâm vào khủng hoảng, ngành thép không phát triển
được và chỉ duy trì mức sản lượng từ 40 ngàn đến 85 ngàn tấn
thép/năm.

Giai đoạn từ 1989 đến 1995: Thực hiện chủ trương đổi mới, mở cửa
của Đảng và Nhà nước, ngành thép bắt đầu có tăng trưởng, sản lượng
thép trong nước đã vượt mức trên 100 ngàn tấn/năm.

Thời kỳ 1996 - 2000: Ngành thép vẫn giữ được mức độ tăng trưởng
khá cao, tiếp tục được đầu tư đổi mới và đầu tư chiều sâu: Đã đưa vào
hoạt động 13 liên doanh, trong đó có 12 liên doanh cán thép và gia

công, chế biến sau cán. Sản lượng thép cán của cả nước đã đạt 1,57
triệu tấn, gấp 3 lần so với năm 1995 và gấp 14 lần so với năm 1990.
Đây là giai đoạn có tốc độ tăng trưởng cao nhất.Hiện nay, thành phần
tham gia sản xuất và gia công, chế biến thép ở trong nước rất đa dạng,
bao gồm nhiều thành phần kinh tế cùng tham gia. Ngoài Tổng công ty
Thép Việt Nam và các cơ sở quốc doanh thuộc địa phương và các
ngành, còn có các liên doanh, các công ty cổ phần, công ty 100% vốn
nước ngoài và các công ty tư nhân. Tính đến năm 2002, Việt Nam có
khoảng 50 doanh nghiệp sản xuất thép xây dựng (chỉ tính các cơ sở có
công suất lớn hơn 5.000 tấn/năm), trong đó có 12 dây chuyền cán,
công suất từ 100 ngàn đến 300 ngàn tấn/năm.Sau 10 năm đổi mới và
tăng trưởng, ngành thép Việt Nam đã đạt một số chỉ tiêu như sau:-
Luyện thép lò điện đạt 500 ngàn tấn/năm- Công suất cán thép đạt 2,6
triệu tấn/năm (kể cả các đơn vị ngoài Tổng công ty Thép Việt Nam)-
Riêng Tổng công ty Thép Việt Nam đã đạt công suất cao và giữ vai trò
quan trọng trong ngành thép Việt Nam, có công suất:- Luyện cán thép
đạt 470 ngàn tấn/năm:- Cán thép đạt 760 ngàn tấn/năm- Sản phẩm
thép thô (phôi và thỏi) huy động được 78% công suất thiết kế;- Thép
cán dài (thép tròn, thép thanh, thép hình nhỏ và vừa) đạt tỷ lệ huy
động 50% công suất;- Sản phẩm gia công sau cán (ống hàn, tôn mạ
các loại) huy động 90% công suất.Tuy nhiên, ngành thép Việt Nam
hiện vẫn trong tình trạng kém phát triển so với một số nước trong khu
vực và trình độ chung của thế giới. Sự yếu kém này thể hiện qua các
mặt sau:Năng lực sản xuất phôi thép (thép thô) quá nhỏ bé, chưa sử
dụng có hiệu quả các nguồn quặng sắt sẵn có trong nước để sản xuất
phôi. Do đó các nhà máy cán thép và các cơ sở gia công sau cán còn
phụ thuộc chủ yếu vào phôi thép nhập khẩu và bán thành phẩm gia
công khác, nên sản xuất thiếu ổn định. Chi phí sản xuất lớn, năng suất
lao động thấp, mức tiêu hao nguyên liệu, năng lượng cao, chất lượng
sản phẩm chưa ổn định. Điều đó dẫn tới khả năng cạnh tranh thấp, khả

năng xuất khẩu hạn chế. Hiệu quả sản xuất kinh doanh chưa cao, còn
dựa vào sự bảo hộ của Nhà nước.Trang thiết bị của Tổng công ty Thép
Việt Nam phần lớn thuộc thế hệ cũ, trình độ công nghệ ở mức độ thấp
hoặc trung bình, lại thiếu đồng bộ, hiện đại mức độ tự động hoá thấp,
quy mô sản xuất nhỏ. Chỉ có một số ít cơ sở mới xây dựng (chủ yếu các
cơ sở liên doanh hoặc 100% vốn nước ngoài) đạt trình độ trang bị và
công nghệ tương đối hiện đại.Cơ cấu mặt hàng mất cân đối, mới chỉ
tập trung sản xuất các sản phẩm dài (thanh và dây) phục vụ chủ yếu
cho xây dựng thông thường, chưa sản xuất được các sản phẩm dẹt
(tấm, lá) cán nóng, cán nguội. Sản phẩm gia công sau cán mới có ống
hàn đen, mạ kẽm, tôn mạ kẽm, mạ mầu. Hiện tại ngành thép chưa sản
xuất được thép hợp kim, thép đặc phục vụ cho cơ khí quốc
phòng.Nguồn nhân lực của ngành thép hiện chỉ chiếm 2,8% tổng lực
lượng lao động của ngành công nghiệp. Nói cách khác mới thu hút
được 0,8% lao động của cả nước.
Như vậy, nhìn chung ngành thép Việt Nam vẫn ở tình trạng sản xuất
nhỏ, phân tán, thiếu bền vững, phụ thuộc vào lượng phôi thép và bán
thành phẩm nhập khẩu. Chưa có các nhà máy hiện đại như khu liên
hợp luyện kim làm trụ cột, chủ động sản xuất phôi nên ngành thép Việt
Nam chưa đủ sức chi phối và điều tiết thị trường trong nước khi có
biến động lớn về giá phôi thép hoặc sản phẩm thép cán trên thị trường
khu vự và thế giới.

Quan điểm và mục tiêu chiến lược phát triển ngành thép Việt Nam tới
năm 2010, tầm nhìn tới 2020 :
Quan điểm phát triển ngành thép là từng bước đáp ứng nhu cầu thông
thường về thép xây dựng của Việt Nam để không bị phụ thuộc hoàn
toàn vào nước ngoài.Dự báo nhu cầu các sản phẩm thép các giai đoạn
như sau: I- Tăng trưởng GDP (%); II- Tăng trưởng công nghiệp (%); III-
Tăng trưởng sx thép (%); IV- Tăng tiêu thụ thép (%); V- Bình quân đầu

người (kg/người.năm)
Giai đoạn I II III IV V
1996-2000 6,94 13,57 27 9 37
2001-2005 7,5 14,08 14 10-11 78
2006-2010 7,5 10,38 10 10,6 123
2011-2015 7,0 8-9 9-9,5 9-9,5 170
2016-2020 6,5 7-8 8-8,5 8-8,5 240
Trong giai đoạn đầu sẽ phát triển các khâu hạ nguồn trước như sản
xuất thép cán tròn xây dựng, thép cán tấm nóng, cán tấm nguội đi từ
thép phôi, thép nhập khẩu và một phần thép phế liệu. Trong quá trình
phát triển sẽ tiếp tục đầu tư chiều sâu các cơ sở hiện có, nghiên cứu
phát triển khâu thượng nguồn có sử dụng quặng sắt trong nước và một
phần quặng sắt nhập khẩu phù hợp với trình độ công nghệ đã thuần
thục. Dưới đây là những quan điểm cụ thể:
1. Thép là vật tư chiến lược không thể thiếu của ngành công nghiệp,
xây dựng và quốc phòng, có vai trò hết sức quan trọng trong sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Ngành thép cần được xác định
là ngành công nghiệp được ưu tiên phát triển.

2. Trên cơ sở phát huy có hiệu quả nguồn tài nguyên khoáng sản sẳn
có trong nước, kết hợp với nhập khẩu một phần quặng và phôi của
nước ngoài, xây dựng khu liên hợp luyện kim công suất 4-5 triệu
tấn thép /năm để từng bước đáp ứng nhu cầu thép trong nước cả về
chủng loại và chất lượng. Trong giai đoạn đầu tập trung phát triển các
khâu hạ nguồn như cán thép xây dựng, thép cán tấm nóng, cán tấm
nguội, sau đó cần nghiên cứu phát triển khâu sản xuất thượng nguồn
để sử dụng có hiệu quả nguồn tài nguyên trong nước.
3. Kết hợp chặt chẽ giữa phát huy nội lực và tranh thủ tận dụng có hiệu
quả các nguồn vốn từ nước ngoài (trước hết về thiết bị và công nghệ).
Kết hợp hài hoà giữa yêu cầu giữ vứng độc lập tự chủ về kinh tế với xu

thế hội nhập, toàn cầu hoá; tự chủ nhưng không bỏ qua các cơ hội hợp
tác và phân công lao động quốc tế để đẩy nhanh tốc độ phát triển
ngành thép. Đa dạng hoá vốn đầu tư cho ngành thép. Vốn đầu tư của
nhà nước chủ yếu dành cho phát triển các nguồn quặng trong nước và
các công trình sản xuất thép tấm, thép lá;

4. Về công nghệ: Trong giai đoạn đến 2020 vẫn sử dụng công nghệ
truyền thống là sản xuất lò cao luyện thép. Đồng thời tích cực nghiên
cứu áp dụng các công nghệ mới, tiên tiến, hiện đại để phát triển ngành
thép. Đối với khu liên hợp luyện kim khép kín có vốn đầu tư lớn và thời
gian xây dựng kéo dài, có thể triển khai trước khâu sản xuất cán kéo.
Sau sẽ phát triển tiếp khâu sản xuất phôi cán từ quặng.

5. Nhà nước có chính sách hỗ trợ tích cực cho ngành thép trong khuôn
khổ cho phép của các cam kết thương mại và hội nhập quốc tế.

6. Tham gia AFTA đồng nghĩa với việc xoá bỏ hàng rào thuế quan,
ngành thép phải củng cố mở rộng từ khâu sản xuất đến lưu thông phân
phối với các ngành kinh tế khác để mở rộng thị trường và cạnh tranh
được ở thị trường trong nước và trên thế giới.

7. Đi đôi với việc đầu tư xây dựng các nhà máy hiện đại, phải hết sức
coi trọng đầu tư chiều sâu, đổi mới thiết bị công nghệ, hiện đại hoá các
cơ sở hiện có lên ngang bằng tiên tiến trong nước và khu vực.

8. Quan tâm công tác đào tạo nhân lực và phát triển khoa học công
nghệ phục vụ phát triển ngành Mục tiêu phát triển ngành thép đến
năm 2010, tầm nhìn đến 2020: Mục tiêu tổng quát: Phát triển ngành
thép Việt Nam nhanh chóng trở thành một ngành phát triển hoàn chỉnh
theo công nghệ truyền thống, sử dụng tối đa nguồn quặng sẳn có

trong nước, trên cơ sở xây dựng khu liên hợp luyện kim công suất 4-5
triệu tấn thép /năm, sử dụng tối đa và có hiệu quả nguồn nguyên liệu
khoáng trong nước, áp dụng các công nghệ mới hiện đại đang được sử
dụng trên thế giới, cố gắng thoả mãn tối đa nhu cầu trong nước về
thép cán (cả về số lượng, chủng loại, quy cách và chất lượng sản
phẩm). Từ thay thế nhập khẩu tiến tới xuất khẩu sản phẩm thép. Phấn
đấu đến 2020 sẽ có một ngành thép phát triển bền vững với tốc độ
tăng trưởng cao, bảo đảm tốt về chất lượng, đầy đủ về số lượng và
chủng loại sản phẩm thép, đáp ứng cho nhu cầu phát triển kinh tế xã
hội của đất nước. Như vậy nhu cầu thép vào năm 2005 sẽ là 6.480
ngàn tấn; năm 2010 là 10 triệu tấn; năm 2015 là 16 triệu tấn và năm
2020 là 20 triệu tấn. Trong đó sản xuất trong nước theo mốc năm
tương ứng chỉ đạt 51%; 61%; 62% và 70% vào năm 2020.

Một số giải pháp nhằm thực hiện chiến lược
1. Giải pháp về vốn đầu tư Nhằm tạo thuận lợi cho đầu tư phát triển
ngành thép nhà nước cần có chính sách ưu đãi lãi suất vay vốn đầu tư
ngành then chốt của nền kinh tế quốc dân; Nhà nước cho phép ngành
thép được huy động vốn bằng phát hành trái phiếu công trình, huy
động vốn cổ phần; Được phép vay tín dụng ưu đãi trong đầu tư thiết bị;
Được cấp 30% vốn để đặt cọc đối với dự án khu liên hợp luyện kim
công suất 4-4,5 triệu tấn thép/năm. - Đối với thiết bị của ngành ưu tiên
đấu thầu mua trong nước các thiết bị đã chế tạo được trong nước Có
thể nhập một số thiết bị đã qua sử dụng nhưng vẫn đảm bảo các chỉ
tiêu kinh tế kỹ thuật.

2. Giải pháp về nguồn nhân lực - Các doanh nghiệp ngành thép sẽ ký
kết các hợp đồng đào tạo nguồn nhân lực để đào tạo có địa chỉ- Tăng
cường cơ sở vật chất và đội ngũ giáo viên cho các trường đào tạo công
nhân đủ sức đáp ứng nhu cầu của ngành thép. Coi trọng hình thức đưa

công nhân đi đào tạo ở nước ngoài hoặc mời chuyên gia đào tạo, kèm
cặp bổ túc tại nhà máy.

3. Giải pháp về khoa học, công nghệ Đối với các nhà máy mới xây
dựng phải đạt được trình độ công nghệ tiến tiến, năng suất cao, giá
thành hạ, chất lượng tốt, có giá thành và giá bán tương đương với sản
phẩm cùng loại. Quản lý chất lượng cùng loại. Quản lý chất lượng sản
phẩm theo hệ thống ISO.

4. Giải pháp về cơ chế chính sách Nhà nước sớm ban hành các cơ chế
chính sách ưu tiên phát triển ngành thép: Coi đầu tư vào ngành thép
như là đầu tư vào hạ tầng cho đất nước.

Tuy nhiên đi đôi với việc bỏ vốn xây dựng các cụm gang thép công
suất lớn một mặt chúng ta cũng phải đề phòng việc các công ty tập
đoàn nước ngoài bỏ vôn đầu tư vào nước ta và đi cùng đó là một mức
giá rẻ bất ngờ 200 -500USD/tấn thép ,không thể vì muốn đi tắt đón đầu
mà chúng ta vội vàng bởi nếu không cẩn thận chúng ta sẽ mua phải
những công nghệ đã lạc hậu của nước ngoài mà nhưng công nghệ này
đã lạc hậu hao tốn nhiều năng lượng và có tác động xấu tới môi
trường , nhu cầu thép ở VIỆT NAM trong những năm tới sẽ có thêm nhu
cầu mạnh mẽ các sản phẩm phôi cán slab (phôi dẹt) phục vụ cho
nghành công nghiệp đóng tàu bởi đây hứa hẹn sẽ là một nghành công
nhiệp chủ lực của nước ta trong tương lai và nếu không có sự chuẩn bị
tốt về nguồn phôi thép ngay từ bây giờ sẽ không đáp ứng kịp nhu cầu
thép đóng tàu trong tương lai, thứ hai là nhu cầu về thép xây dựng
chất lượng cao nhất là loại thép HSLA (Hight Strength Low Alloy steel)
làm kết cấu sẽ có nhu cầu mạnh nhằm phục vụ cho các công trình cầu
dây văng , cầu vượt , nhà cao tầng , vvv… Dự báo đến 2010, nhu cầu
thép thành phẩm sẽ lên tới 10 triệu tấn/năm, trong đó nhu cầu thép

dẹt chiếm khoảng 5 triệu tấn. Trong khi cung ứng trong nước chỉ 1,8
triệu tấn/năm và nhập khẩu lên tới 3,2 triệu tấn/năm. Về dài hạn đến
2020, tổng nhu cầu thép dẹt vẫn còn tăng rất lớn và chủ yếu vẫn phải
nhập khẩu. Điều này cho thấy thị trường đang bỏ ngỏ một lổ hổng tiềm
năng rất lớn.

Trương Xuân Tiệp.
Tổng hợp
Hiện trạng và tương lai của ngành công
nghiệp thép việt nam

• 1
• 2
• 3
• 4
• 5
(7 votes)
31/03/2007
Mẻ gang đầu tiên ra đời năm 1963 nhưng mãi đến 1975
chúng ta mới có sản phẩm thép cán. Từ 1976 đến 1989 là thời kỳ phát
triển cầm chừng của ngành công nghiệp thép. Năm 2000 chúng ta đã
đạt sản lượng 1,57 triệu tấn thép. Bức tranh tổng thể về sự phát triển
của ngành thép, trình độ công nghệ, thiết bị trong thời gian qua và
hướng phát triển trong thời gian tới đã được tác giả phản ánh qua bài
viết. (bài viết trên tạp chí Tạp chí Hoạt động Khoa Học 12/2001)
I. Hiện trạng.
1. Quá trình phát triển.
Ngành thép Việt Nam được xây dựng từ đầu những năm 60 của thế kỷ
20. Khu liên hợp gang thép Thái Nguyên (Trung Quốc giúp) cho ra lò
mẻ gang đầu tiên vào năm 1963. Song do chiến tranh và khó khăn

nhiều mặt, 15 năm sau, Khu liên hợp gang thép Thái Nguyên mới có
sản phẩm thép cán. Năm 1975, Nhà máy luyện cán thép Gia Sàng do
Đức (trước đây) giúp đã đi vào sản xuất. Công suất thiết kế của cả Khu
liên hợp gang thép Thái Nguyên lên đến 10 vạn tấn/năm (T/n).
Năm 1976, Công ty luyện kim đen miền Nam được thành lập trên cơ sở
tiếp quản các nhà máy luyện, cán thép mini của chế độ cũ để lại ở
thành phố Hồ Chí Minh và Biên Hòa, với tổng công suất khoảng 80000
tấn thép cán/năm.
Từ 1976 đến 1989, ngành thép gặp rất nhiều khó khăn do kinh tế đất
nước lâm vào khủng hoảng. Mặt khác, nguồn thép nhập khẩu từ Liên
Xô (trước đây) và các nước XHCNvẫn còn dồi dào, vì vậy ngành thép
không phát triển được và chỉ duy trì mức sản lượng 40000 - 85000 T/n.
Từ năm 1989 đến 1995, thực hiện chủ trương đổi mới, mở cửa của
Đảng bvà Nhà nước, ngành thép bắt đầu có tăng trưởng, sản lượng
thép trong nước đã vượt ngưỡng 100 000 T/n
Năm 1990 Tổng công ty thép Việt Nam (thuộc Bộ công nghiệp nặng -
nay là Bộ công nghiệp) được thành lập, thống nhất quản lý ngành sản
xuất thép quốc doanh trong cả nước. Đây là thời kỳ phát triển sôi
động, nhiều dự án đầu tư chiều sâu và liên doanh với nước ngoài được
thực hiện. Các ngành cơ khí, xây dựng, quốc phòng và các thành phần
kinh tế khác đua nhau làm thép mini. Sản lượng thép cán năm 1995 đã
tăng gấp 4 lần so với năm 1990, đạt 450000 T/n và bằng mức Liên Xô
cung cấp cho nước ta hàng năm trước 1990.
Tháng 4 năm 1995, Tổng công ty thép Việt Nam được thành lập theo
mô hình Tổng công ty Nhà nước (Tổng công ty 91) trên cơ sở hợp nhất
Tổng công ty thép Việt Nam và Tổng công ty kim khí thuộc Bộ thương
mại.
Thời kỳ 1996-2000, ngành thép vẫn giữ được tốc độ tăng trưởng khá
cao, tiếp tục được đầu tư mới và đầu tư chiều sâu; đã xây dựng và đưa
vào hoạt động 13 dự án liên doanh, trong đó có 12 nhà máy liên

doanh cán thép và gia công chế biến sau cán. Sản lượng thép cán cả
nước năm 2000 đã đạt 1,57 triệu tấn, gấp hơn 3 lần năm 1995 và gấp
gần 14 lần năm 1990. Đây là thời kỳ có tốc độ tăng sản lượng mạnh
nhất. Hiện nay, lực lượng tham gia sản xuất và gia công chế biến thép
trong nước rất đa dạng, bao gồm nhiều thành phấn kinh tế, ngoài
Tổng công ty thép Việt Nam và các cơ sở quốc doanh thuộc các ngành,
địa phương khác còn có các liên doanh, các công ty cổ phần, công ty
100% vốn nước ngoài và các công ty tư nhân. Tính tới năm 2001, nước
ta có khoảng 50 doanh nghiệp sản xuất thép xây dựng (chỉ tính doanh
nghiệp công suất >5000 T/n) trong đó có 12 dây chuyền cán có công
suất từ 100000 đến 300000 T/n.
Đến nay, sau 10 năm đổi mới và tăng trưởng, ngành thép Việt Nam đã
có công suất luyện thép lò điện 500000 T/n, công suất cán thép kể cả
các đơn vị ngoài Tổng công ty thép Việt Nam tới 2,6 triệu tấn/năm và
gia công sau cán trên 500000 T/n.
Tổng công ty thép Việt Nam đã có công suất luyện thép 470000 T/n và
cán thép 760000 T/n, đang giữ vai trò quan trọng trong ngành thép
Việt Nam.
Trong thời gian từ 1990 đến1999 riêng Tổng công ty thép đã đầu tư
chiều sâu trên 650 tỷ đồng để cải tạo, nâng cấp đổi mới thiết bị các cơ
sở hiện có và góp vốn pháp định trị giá 30 triệu USD để đầu tư liên
doanh với nước ngoài 14 dự án (trong đó có 12 nhà máy cán thép gia
công sau cán với tổng vốn đầu tư 233 triệu USD).
2. Trình độ công nghệ, trang thiết bị.
Ngành thép Việt Nam hiện nay có năng lực sản xuất thực tế khoảng
2,6 triệu tấn thép cán/năm (thép xây dựng); 0,5 - 0,6 triệu tấn phôi
thép bằng lò điện (phôi thép vuông và cả thỏi đúc cỡ nhỏ). Về trình độ
công nghệ, trang thiết bị có thể chia ra 4 mức sau:
• Loại tương đối hiện đại: Gồm các dây chuyền cán liên tục của 2
Công ty liên doanh VINA KYOEI, VPS và một số dây chuyền cán

thép mới sẽ xây dựng sau năm 2000.
• Loại trung bình: Bao gồm các dây chuyền cán bán liên tục như
Vinausteel, NatSteelvina, Tây Đô, Nhà Bè, Biên Hòa, Thủ Đức
(SSC) Gia Sàng, Lưu Xá (TISCO) và các công ty cổ phần, công ty
tư nhân (Vinatafong, Nam Đô, Hải Phòng v.v ).
• Loại lạc hậu: Bao gồm các dây chuyền cán thủ công mini của
các nhà máy Nhà Bè, Thủ Đức, Tân Thuận, Thép Đà Nẵng, Thép
miền Trung và các cơ sở khác ngoài Tổng công ty thép Việt Nam.
• Loại rất lạc hậu: Gồm các dây chuyền cán mini có công suất nhỏ
(<20000T/n) và các máy cán của các hộ gia đình, làng nghề.
3. Chất lượng sản phẩm.
Chất lượng sản phẩm thép cán xây dựng của Tổng công ty thép Việt
Nam và khối liên doanh nhìn chung không thua kém sản phẩm nhập
khẩu. Sản phẩm của các cơ sở sản xuất nhỏ (<20000 T/n), đặc biệt là
các cơ sở có khâu luyện thép thủ công chất lượng kém, không đạt yêu
cầu.
4. Cơ cấu sản phẩm của ngành thép hiện nay.
Hiện nay ngành thép Việt Nam mới chỉ sản xuất được các loại thép
tròn trơn, tròn vằn ( 10 - 40mm, thép dây cuộn ( 6 - (10 và thép hình
cỡ nhỏ, cỡ vừa (gọi chung là sản phẩm dài) phục vụ cho xây dựng và
gia công, sản xuất ống hàn, tôn mạ, hình uốn nguội, cắt xẻ từ sản
phẩm dẹt nhập khẩu. Các sản phẩm dài sản xuất trong nước cũng
phần lớn được cán từ phôi thép nhập khẩu, khả năng tự sản xuất phôi
thép trong nước còn nhỏ bé, chỉ đáp ứng được khoảng 28%, còn lại
72% nhu cầu phôi thép cho các nhà máy cần phải nhập khẩu từ bên
ngoài.
Trong nước chưa có nhà máy cán các sản phẩm dẹt (tấm, lá cán nóng,
cán nguội). Chưa có cơ sở tập trung chuyên sản xuất thép đặc biệt
phục vụ chế tạo cơ khí. Hiện nay chỉ mới sản xuất 1 số chủng loại thép
đặc biệt với qui mô nhỏ ở một số nhà máy cơ khí và nhà máy thép của

Tổng công ty thép Việt Nam.
Nhìn chung trong 10 năm qua, do hạn chế về vốn đầu tư và do thị
trường tiêu thụ thép trong nước còn nhỏ bé, ngành thép Việt Nam mới
chỉ tập trung đầu tư vào sản xuất các sản phẩm thép dài để đáp ứng
nhu cầu cấp bách trong nước. Đây là các sản phẩm có thuận lợi về thị
trường, cần vốn đầu tư ít, thời gian xây dựng nhà máy ngắn, hiệu quả
đầu tư tương đối cao, thu hút được nhiều đối tác nước ngoài bỏ vốn
liên doanh. Đối với các sản phẩm thép dẹt do nhu cầu thị trường còn
thấp, trong khi để đảm bảo hiệu quả thì yêu cầu công suất nhà máy
phải đủ lớn, cần vốn đầu tư lớn, hiệu quả đầu tư chưa cao, ít hấp dẫn
các đối tác nước ngoài vào liên doanh, bản thân ngành thép chưa đủ
sức tự đầu tư và phải chờ thị trường phát triển. Do vậy cơ cấu sản xuất
của ngành thép hiện nay thiếu đồng bộ, mất cân đối giữa sản xuất
phôi với cán thép, giữa cơ cấu mặt hàng và cơ cấu chất lượng sản
phẩm.
5. Đánh giá.
Những năm qua, tuy ngành thép đã được đầu tư đáng kể và có bước
phát triển tương đối khá mạnh (cả quốc doanh và tư nhân), đạt được
tốc độ tăng trưởng khá cao, có tiềm lực tăng gấp hàng chục lần so với
năm 1990 và đạt sản lượng trên 1 triệu tấn/năm, song vẫn còn trong
tình trạng kém phát triển so với các nước trong khu vực và thế giới,
thể hiện ở các mặt:
- Trang thiết bị có qui mô nhỏ, phổ biến thuộc thế hệ cũ, lạc hậu, trình
độ công nghệ và mức độ tự động hóa thấp. Chất lượng sản phẩm còn
hạn chế (nhất là khu vực tư nhân), chỉ có 2 dây chuyền cán liên tục
tương đối hiện đại thuộc khối liên doanh.
- Cơ cấu mặt hàng sản xuất hẹp, đơn điệu (mới cán được các sản
phẩm dài, cỡ nhỏ và vừa với mác thép phổ biến là các bon thấp).
- Năng lực sản xuất phôi thép quá nhỏ bé, các nhà máy và cơ sở cán
thép còn phụ thuộc nhiều vào phôi thép nhập khẩu. Toàn bộ sản phẩm

cán dẹt trong nước chưa sản xuất được, phải nhập khẩu.
- Chi phí sản xuất còn cao, năng suất lao động thấp, số lượng lao động
quá đông, giá thành không ổn định (do lệ thuộc phôi thép nhập khẩu)
nên tính cạnh tranh chưa cao. Khả năng xuất khẩu sản phẩm thép còn
rất hạn chế.
Nhìn một cách tổng quát, ngành thép Việt Nam vẫn ở trong tình trạng
sản xuất nhỏ, phân tán, nặng về gia công chế biến từ phôi và bán
thành phẩm nhập khẩu. Trình độ công nghệ thấp, chưa có nhiều thiết
bị hiện đại tự động hóa cao, cần phải đầu tư cải tạo phát triển, thay
thế dần các thiết bị cũ, lạc hậu, mới có thể bảo đản tính cạnh tranh
trong thời gian tới.
II. Một số định hướng chính trong phát triển.
1. Quan điểm chung:
Ngành sản xuất thép phải tiếp tục duy trì được mức tăng trưởng ổn
định bền vững trên cơ sở đảm bảo tính hiệu quả để đáp ứng yêu cầu
của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, từng bước phát
triển thành một trong những ngành công nghiệp trụ cột của nền kinh
tế nước nhà. Cần kết hợp chặt chẽ phát huy nội lực và tranh thủ tận
dụng có hiệu quả nguồn ngoại lực (vốn, công nghệ ) chú ý tới xu
hướng hội nhập, không bỏ qua các cơ hội có được nhờ xu thế hợp tác
và phân công lao động quốc tế để đảy nhanh tốc độ phát triển ngành.
Phát triển cân đối giữa luyện thép và cán kéô gia công, giảm dần tỷ lệ
nhập phôi, tiến tới đáp ứng cơ bản nguồn phôi cho sản xuất thép cán
kéo. Kết hợp giữa đa dạng hóa chủng loại, quy cách sản phẩm để phục
vụ nhu cầu thị trường, phát triển có chọn lựa một số nhóm sản phẩm
chủ yếu.
Cần đàu tư phát triển để Tổng công ty thép Việt Nam trở thành tập
đoàn kinh tế đủ mạnh, giữ vai trò chủ đạo trong trong sản xuất thép
trong nước đồng thời khuyến khích và tạo điều kiện cho các thành
phần kinh tế khác đầu tư vào sản xuất thép. Kết hợp chặt chẽ, hài hòa

gữa mục tiêu phát triển sản xuất thép với việc khai thác và sử dụng
hợp lý, hiệu quả, tiết kiệm nguồn tài nguyên trong nước (trước hết là
nguồn quặng sắt).
Về bước đi: Trong khi khả năng huy động nguồn vốn đầu tư còn khó
khăn thì bước đi thích hợp để phát triển ngành thép trong 5-10 năm tới
là:
+ Kết hợp đầu tư chiều sâu hiện đại hóa đổi mới công nghệ, nâng cao
sông suất và năng lực cạnh tranh của các cơ sở hiện có với xây dựng
mới các nhà máy hiện đại, qui mô thích hợp, đạt trình độ công nghệ
quốc tế.
+ Tùy theo quy mô và điều kiện, kết thợp sử dụng các loại công nghệ
sản xuất khác nhau: Sản xuất bằng lò điện, các công nghệ luyện kim
phi kok trên cơ sở sử dụng nguyên liệu trong nước, công nghệ lò cao,
lò chuyển khép kín.
+ Tăng dần tỷ trọng thép chất lượng cao trong các nhà máy hiện có
nhằm tăng giá trị sản xuất nhờ tăng chất lượng, từng bước hình thành
ngành sản xuất thép hợp kim chất lượng cao ở Việt Nam khi nhu cầu
đủ lớn.
+ Trong giai đoạn 2001- 2005 cần tích cực tìm nguồn vốn để đầu tư
một số nhà máy thép tấm cán nóng, cán nguội nhằm đáp ứng nhu cầu
và chiếm lĩnh thị trường trong nước, từng bước tiến hành chuẩn bị đầu
tư xây dựng nhà máy thép liên hợp khép kín theo nhiều giai đoạn (1,5
triệu, 3 triệu, 4,5 triệu T/n) trên cơ sở nguồn quặng sắt trong nước và
nhập khẩu.
+ Nghiên cứu sớm khai thác mỏ sắt Quý Xa và tận dụng các mỏ nhỏ
phục vụ mở rộng gang thép Thái Nguyên .
Về vốn phải kết hợp huy động từ nhiều nguồn trong đó những năm
đầu, vốn vay từ nguồn tín dụng đầu tư của Nhà nước là chủ yếu, đồng
thời cố gắng tranh thủ các nguồn vốn vay nước ngoài có sự bảo lãnh
của Nhà nước.

Chú trọng công tác đào tạo nhân lực và phát triển khoa học và công
nghệ phục vụ phát triển ngành.
2. Những mục tiêu chính trong 5 năm đến 10 năm tới.
Sản xuất thép không thuộc loại ngành công nghiệp sinh lời cao, lại đòi
hỏi vốn đầu tư lớn, lâu thu hoofi vốn nên kém hấp dẫn đối với các nhà
đầu tư (cả trong nước và ngoài nước). Song một đất nước đã quyết
tâm trở thành nước công nghiệp thì không thể không phát triển ngành
thép. Điều đó đòi hỏi Nhà nước phải có sự quan tâm đặc biệt đối với
ngành công nghiệp thép.
Những mục tiêu phấn đấu của ngành thép đã tính đến cả những khó
khăn, thách thức mà ngành thép sẽ gặp (về vốn đầu tư, về cạnh
tranh ). Song đó là những mục tiêu cần phải phấn đấu để đạt được,
nếu không sẽ khó mà đảm bảo được những mục tiêu chiến lược lâu dài
về công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước.
Nguồn: "Tạp chí Hoạt động Khoa Học" 12/2001.
10h:36' - 2/4/2010
Ngành thép đối đầu nhiều khó khăn
(Toquoc)-Từ đầu tháng 3 đến nay hầu hết các doanh nghiệp và
đại lý thép đều tăng giá bán. Thép tăng giá nhưng khả năng
doanh nghiệp đạt lợi nhuận cao là hết sức khó khăn do công
nghệ sản xuất và khả năng cạnh tranh trong ngành thép rất hạn
chế.
Tuần đầu tiên sau khi tăng giá điện (từ 1/3), thép Hòa Phát đã thực
hiện 2 đợt tăng giá: lần đầu tiên thêm 200.000 đồng/tấn, lần sau
thêm 300.000 đồng/tấn. Các doanh nghiệp khác như Việt Ý, Vạn
Lợi cũng điều chỉnh tăng giá trong khoảng 400.000 - 600.000
đồng/tấn.
Trung tuần tháng 3, giá bán thép xây dựng tại nhà máy (chưa trừ
chiết khấu và thuế VAT) phổ biến ở mức từ 12-12,8 triệu đồng/tấn,
tăng 600.000đồng/tấn so với thời điểm đầu năm.

Hôm 24/3, hầu hết các đại lý phân phối thông báo đến các nhà thầu
giá thép tăng lên 14,6 triệu đồng/tấn thép cuộn và 14,7 triệu
đồng/tấn thép cây.
Việc tăng giá được các doanh nghiệp lý giải: Ngành công nghiệp
thép trong nước đang phụ thuộc phần lớn vào thị trường thế giới.
Dù phôi sản xuất trong nước chiếm 60% tổng lượng cho sản xuất
thép (40% phôi phải nhập khẩu) nhưng nguyên liệu cho sản xuất
phôi là thép phế liệu vẫn phải nhập khẩu tới 70%. Chính vì thế, khi
giá thép phế liệu, phôi và thép thành phẩm trên thế giới tăng đã kéo
giá thép trong nước tăng theo.
Hiệp hội Thép Việt Nam (VSA) cho biết, giá nguyên liệu trên thị
trường thế giới vẫn trong xu hướng tăng thêm 30-40% vào tháng 4
này. Cụ thể, giá phôi thép thế giới chào bán vào nước ta thời điểm
này tiếp tục tăng thêm 10-20USD/tấn so với đầu tháng 3, giữ mức
525-535USD/tấn đối với nguồn cung đến từ Thổ Nhĩ Kỳ, 550-
560USD/tấn đối với nguồn từ Malaysia, Thái Lan
Theo Trung tâm Thông tin công nghiệp và thương mại (Bộ Công
Thương), trong tuần từ ngày 8 đến 12/3, giá thép phế liệu Thổ Nhĩ
Kỳ sắp chạm mức 400USD/tấn: giá phôi Biển Đen trên 500USD/tấn.
Cũng trong tuần này, giá thép tại Trung Quốc đã tăng tuần đầu tiên
kể từ sau Tết Âm lịch. Thép xây dựng đạt trung bình 3.710-
3.730NDT/tấn (tương đương 543,6USD/tấn) tại Thượng Hải, tăng
2,5% so với tuần trước đó.
Bên cạnh việc tăng giá do nguyên liệu đầu vào tăng, việc tăng giá
thép còn bắt nguồn từ giá điện và xăng tăng, tỷ giá thay đổi.
Theo ông Đậu Văn Hùng, Tổng Giám đốc Tổng công ty Thép Việt
Nam (VNSteel), chi phí đầu vào của các doanh nghiệp thép đang
tăng mạnh, đó là việc điều chỉnh tỷ giá cuối năm 2009 đã làm tăng
thêm 350.000 đồng/tấn, tăng giá xăng dầu và điện làm chi phí đội
thêm 100.000đồng/tấn, cộng lại yếu tố trong nước làm tăng chi phí

thêm hơn 400.000đồng/tấn.
Loay hoay thừa, thiếu
Hiện nay, với hơn 30 dự án sản xuất thép trong nước và sự xuất
hiện của các tập đoàn thép lớn trên thế giới ở nước ta đã khiến sự
cạnh tranh giữa các doanh nghiệp ngày càng quyết liệt, nhất là
trong bối cảnh cung lớn hơn cầu.
Theo tính toán của Bộ Công Thương, năm nay nhu cầu thép thành
phẩm cả nước dự kiến đạt khoảng 10 - 11 triệu tấn; năm 2015
khoảng 15-16 triệu tấn; năm 2020 khoảng 20-21 triệu tấn và năm
2025 khoảng 24-25 triệu tấn.
Thế nhưng, nếu các dự án được cấp phép thời gian qua đi vào sản
xuất, tới năm 2015 công suất của toàn ngành thép có thể lên tới 28
triệu tấn. Như vậy từ năm 2015 thị trường thép nước ta cung sẽ lớn
hơn cầu, số thép dư thừa phải tìm đường xuất khẩu.
Thế nhưng có nghịch lý là từ nay đến năm 2015 ngành thép sản
xuất trong nước vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu về các chủng loại
thép trong nền kinh tế. Vì thế, ngày 11/3, VNSteel đã ký hợp đồng
chuyển nhượng 20% cổ phần từ VNSteel cho Tập đoàn Danieli
(chuyên cung cấp thiết bị cho nhà máy thép) trong dự án Nhà máy
Cán thép tấm nóng đầu tiên tại Việt Nam, công suất 2 triệu tấn/năm,
dự kiến cuối năm triển khai xây dựng.
Việc đầu tư liên doanh hơn 550 triệu USD trên cơ sở chìa khóa trao
tay sẽ bao gồm các công nghệ hiện đại nhất đang có hiện nay trong
ngành công nghiệp sản xuất thép. Khi nhà máy đi vào hoạt động sẽ
đáp ứng một phần nhu cầu hiện tại khoảng 8 triệu tấn/năm cho thị
trường trong nước.
Bên cạnh đó, tập đoàn sản xuất thép lớn nhất thế giới Posco của
Hàn Quốc có nhiều khả năng sẽ thực hiện dự án trị giá 200 triệu
USD mở rộng nhà máy thép tại Việt Nam, sau khi đàm phán mua lại
Công ty Thép Thainox Stainless của Thái Lan.

Theo ông Suh Youngsea, Phó Chủ tịch Posco, Đông Nam Á là thị
trường chiến lược của Posco, đồng thời cũng là thị trường nhập
khẩu thép lớn nhất thế giới với nhu cầu dự tính tăng 9,2%/năm. Vì
thế, Posco dự tính tăng công suất nhà máy tại Việt Nam mà công ty
đã mua lại năm ngoái lên 85.000 tấn/năm.
Năm 2009, ngành thép là một trong những ngành công nghiệp có
mức tăng trưởng cao nhất: sản xuất tăng 25% và tiêu thụ tăng 30%
so với năm 2008. Đạt được điều này do Chính phủ tháo gỡ khó
khăn cho doanh nghiệp, như tăng thuế nhập khẩu phôi thép từ 5%
lên 8%, thép thành phẩm từ 12% lên 15%, thép cán nguội từ 7%
đến 8%
Quan trọng hơn, gói kích cầu của Chính phủ tập trung phần lớn vào
đầu tư cơ sở hạ tầng đã làm nhu cầu tiêu thụ thép tăng cao.
Tuy nhiên, theo nhận định của các chuyên gia kinh tế, năm nay
những lợi thế trên sẽ không còn, ngành thép sẽ khó có được lợi
nhuận cao.
Tiết giảm chi phí, nâng cao công nghệ
Theo nhận định của ông Phạm Chí Cường, Chủ tịch VSA, năm
2010, dù tình hình kinh tế thế giới có chuyển biến thuận lợi hơn
nhưng ngành thép Việt Nam sẽ phải đối mặt với nhiều khó khăn do
giá nguyên liệu cơ bản như quặng sắt, than, dầu, phôi thép, thép
phế liệu, điện năng tăng.
Năm nay một số sản phầm thép theo lộ trình WTO sẽ không còn
được hưởng ưu đãi và bảo hộ cao về thuế nhập khẩu. Bên cạnh đó
việc một số nhà máy thép mới đi vào sản xuất cũng làm cho sự mất
cân đối giữa nguồn cung và cầu, khiến cạnh tranh ngày càng quyết
liệt.
Để tăng khả năng cạnh tranh, VSA khuyến cáo các doanh nghiệp
cần tiết giảm chi phi, thay đổi công nghệ, củng cố hệ thống phân
phối , mở rộng thị trường tiêu thụ Các doanh nghiệp sản xuất

thép, phôi thép, nhất là các nhà máy sử dụng công nghệ cũ, cần có
phương án đổi mới công nghệ, để giảm giá thành sản phẩm.
Trước đây, khi chưa tính những chi phí đầu vào tăng cao như hiện
nay, thép nội đã phải đương đầu với thép nhập ngoại giá rẻ, nhất là
thép cuộn. Nay giá thành cao hơn, sự cạnh tranh sẽ càng khốc liệt,
đặc biệt là nguy cơ bị cạnh tranh bởi thép nhập khẩu từ các nước
ASEAN có thuế suất nhập khẩu bằng 0 % và thép Trung Quồc có
giá thành rẻ hơn thép nội khoảng 500.000 đồng/tấn.
Theo ông Đậu Văn Hùng, một trong những giải pháp quan trọng của
VNSteel năm nay là tăng cường công tác dự báo, nghiên cứu, phân
tích thị trường thép thế giới và trong nước. Lấy đó làm cơ sở để dẫn
đạo điều hành sản xuất kinh doanh, tồn kho hợp lý nhằm giảm chi
phí tài chính.
Mặt khác, VNSteel cũng tăng cường công tác marketing, xúc tiến
thương mại, phát triền thương hiệu; tìm kiếm thị trường mới, đẩy
mạnh xuất khẩu nhằm giảm sức ép trên thị trường nội địa.
VNSteel cũng kiến nghị Chính phủ tiếp tục hỗ trợ kích cầu nội đia
tạo điều kiện cho thị trường thép hoạt động sôi động thông qua biện
pháp giải ngân cho các công trình; ổn định tỷ giá USD và cung ứng
kịp thời nhu cầu ngoại tệ với mục đích nhập khẩu nguyên liệu vật tư
để sản xuất.
Trước sức ép từ hàng nhập ngoài , VSA cho rằng cần có hàng rào
kỹ thuật và ban hành các chính sách để bảo vệ hàng sản xuất trong
nước nhằm ngăn chặn các chủng loại thép kém chất lượng bán phá
giá, làm mất thị phần các doanh nghiệp sản xuất trong nước.
HT
Bản để in Phiên bản PDF E-mail bài này Đưa vào Favorites
Làm sao giảm nhập siêu trong ngành thép?
06/04/2010 11:40
Năm 2009, Việt Nam nhập khẩu gần 6 triệu tấn thép, nhập cả những

sản phẩm trong nước tự sản xuất được và đã dư thừa như thép cán
nguội, thép cuộn.
Theo Hiệp hội Thép Việt Nam (VSA) nếu hạn chế nhập khẩu hai loại
thép này trong thời gian tới sẽ tiết kiệm được khoảng 700 triệu USD, góp
phần giảm nhập siêu và giảm bớt khó khăn cho các doanh nghiệp sản
xuất thép trong nước.
Ông Phạm Chí Cường, Chủ tịch Hiệp hội Thép Việt Nam cho biết VSA
đã đưa ra nhiều kiến nghị nhằm giảm nhập siêu trong ngành thép.
* Những năm qua, ngoài việc nhập khẩu thép phế, phôi thép là nguyên
liệu bắt buộc cho sản xuất thì tình trạng nhập khẩu nhiều sản phẩm
trong nước đã sản xuất được như thép xây dựng, tôn mạ, thép cán
nguội đang tạo nhiều bất lợi cho ngành thép nói riêng và nền kinh tế
nói chung. Ông có đồng tình với quan điểm này?
Đúng vậy, hiện nay ngành thép Việt Nam vẫn nhập siêu. Tỷ lệ xuất khẩu
không đáng kể so với nhập khẩu. Sau sự tăng đột biến về xuất khẩu vào
năm 2008 khi lượng thép xuất khẩu đạt hơn 1,7 triệu tấn, kim ngạch hơn
1,7 tỷ USD (chủ yếu là tái xuất nguyên liệu phôi thép và thép cán nóng)
thì xuất khẩu thép của Việt Nam trong
năm 2009 đã giảm sút đáng kể cả về
kim ngạch và số lượng.
Hiện nay, nhu cầu thép đa dạng để
phục vụ phát triển kinh tế - xã hội tăng
với tốc độ khá cao, trong khi sản xuất
thép trong nước mới đang ở giai đoạn
đầu, chủ yếu là sản xuất thép xây dựng
và chỉ tập trung cho các công đoạn sản
xuất ở hạ nguồn (nhập phôi để cán sản
phẩm). Vì vậy, lượng nguyên liệu và
sản phẩm thép nhập khẩu vào Việt Nam những năm gần đây tăng mạnh.
Ngành thép trở thành ngành kinh tế tiêu tốn lượng ngoại tệ lớn, tỷ lệ nhập

siêu cao.
Riêng năm 2009, Việt Nam đã nhập khẩu 391.989 tấn thép cuộn, 359.683
tấn thép mạ màu các loại, 68.000 tấn thép cuộn. Ba tháng đầu năm 2010,
đã có 57.000 tấn thép cuộn và 68.000 tấn thép mạ các loại được nhập về
trong tổng số 1,7 triệu tấn thép thành phẩm nhập vào Việt Nam. Điều này
đã tạo sức ép rất lớn lên các doanh nghiệp khiến họ gặp nhiều khó khăn
trong việc duy trì hoạt động sản xuất.
* Như vậy theo ông để giảm nhập siêu trong ngành thép thì cần đẩy
mạnh việc sử dụng nguyên liệu nội địa và hạn chế nhập khẩu?
Chủ tịch Hiệp hội Thép Việt Nam,
ông Phạm Chí Cường.
Tôi cho rằng, đây là việc làm cần thiết để tạo điều kiện cho sự phát triển
của công nghiệp thép trong nước, giảm nhập siêu.
Hiện nay, giá các nguyên liệu thép đang có xu hướng tăng nên việc đẩy
mạnh sử dụng nguyên liệu nội địa thay thế nguyên liệu nhập khẩu sẽ giúp
giảm phụ thuộc vào thị trường bên ngoài, đồng thời giảm bớt chi phí, đẩy
mạnh tiêu thụ trong nước.
Bộ Công Thương nên hạn chế tối đa việc nhập khẩu các mặt hàng trong
nước đã sản xuất được đủ cung ứng cho nhu cầu như thép xây dựng, tôn
mạ, thép cán nguội, ống thép hàn
Ngoài ra, Nhà nước nên cho phép sử dụng nhiều loại ngoại tệ thay thế
đồng USD trong thanh toán nhập khẩu. Trong thời gian qua, tỷ giá USD
biến động mạnh nên việc sử dụng các loại ngoại tệ khác thay thế sẽ giúp
doanh nghiệp linh hoạt và chủ động hơn trong nhập khẩu nguyên liệu cho
sản xuất.
Bên cạnh đó, nên triển khai các biện pháp hỗ trợ như: xúc tiến thương
mại tại các thị trường mới như châu Phi, Trung Đông; phát triển đội tàu
biển của Việt Nam để chủ động trong việc bán hàng theo giá CFR (giá
thành, cộng cước phí vận chuyển) cũng như mua hàng theo giá FOB (giao
hàng lên tàu).

* VSA có kiến nghị gì với các cơ quan chức năng nhằm tạo điều kiện
cho ngành thép trong nước phát triển, thưa ông?
Đề nghị Bộ Tài nguyên và Môi trường sớm ban hành Quy chế quản lý
phế liệu nhập khẩu tạo thuận lợi cho các đơn vị nhập khẩu thép phế về
cho sản xuất thép trong nước. Coi phế liệu là nguồn nguyên liệu quan
trọng trong sản xuất thép của Việt Nam để có những quy định phù hợp
vừa bảo vệ môi trường nhưng cũng không cản trở sản xuất thép.
Nhà nước ưu tiên nguồn tín dụng ngoại tệ cho nhập khẩu các nguyên liệu
cho sản xuất thượng nguồn (phôi thép) mà trong nước chưa đáp ứng đủ
nhu cầu như: thép phế, gang luyện thép, than mỡ, coke để bảo đảm đủ
nguyên liệu cho sản xuất thép, phục vụ nhu cầu thép trong nước, cũng
như nguyên liệu phục vụ sản xuất hàng cho xuất khẩu. Đồng thời, hạn chế
cấp tín dụng, ngoại tệ cho các đơn vị nhập khẩu các dòng sản phẩm mà
sản xuất trong nước đã đáp ứng đủ nhu cầu như thép xây dựng, thép cán
nguội, thép ống, thép mạ.

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×