Tải bản đầy đủ (.doc) (119 trang)

Tổ chức công tác phân tích tài chính tại công ty cổ phần chứng khoán FPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (877.65 KB, 119 trang )


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan bản luận văn là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của
tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và có nguồn gôc rõ
ràng.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
TRẦN THỊ THU HIỀN
1

MỤC LỤC
2

DANH MỤC CÁC BẢNG
2.1 Bảng phân tích quy mô, cơ cấu và tốc độ tăng trưởng của tài sản
2.2 Bảng phân tích quy mô, cơ cấu và tốc độ tăng trưởng nguồn vốn
2.3 Bảng phân tích mức độ độc lập tài chính
2.4 Bảng phân tích khả năng thanh toán
2.5 Bảng phân tích kết quả hoạt động kinh doanh
2.5.1 Bảng phân tích chi tiết chi phí
2.5.2 Bảng phân tích doanh thu chi tiết
2.6 Bảng phân tích hiệu quả sử dụng chi phí
2.7 Bảng phân tích khả năng sinh lời và hiệu quả quản lý
2.8 Bảng phân tích về định giá
2.9 Bảng phân tích hiệu quả sử dụng tài sản và vốn chủ sở hữu
3.1 Bảng phân tích tình hình lưu chuyển tiền tệ
3.2 Bảng phân tích dư nợ quá hạn theo nguyên nhân
3

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong xu thế tất yếu của sự hội nhập và toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới


ngày nay, kinh doanh đang trở nên không biên giới và dòng tiền cũng như các
sản phẩm dễ dàng vượt biên giới các quốc gia và khu vực thì vấn đề về thông
tin càng trở nên quan trọng. Với sự phát triển như vũ bão của nền kinh tế nói
chung và Việt Nam nói riêng thì vấn đề huy động vốn để phát triển sản xuất
ngày càng cần thiết. Với sự chỉ đạo của Đảng và Nhà nước “ hòa nhập nhưng
không hòa tan” Việt Nam đã gia nhập thị trường thế giới thông qua kênh huy
động vốn gián tiếp là thị trường chứng khoán. Thị trường chứng khoán là cầu
nối cho Việt Nam thu hút được các nguồn vốn một cách gián tiếp thông qua
việc đầu tư vào các công ty trên thị trường tập trung và phi tập trung là cầu
nối giữa doanh nghiệp với các nguồn vốn, các đối tác nước ngoài.
Trong điều kiện kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ở nước ta hiện nay
bên cạnh Nhà nước còn có rất nhiều các tổ chức cá nhân với nguồn tiền dư
thừa nhưng không biết đầu tư vào đâu có hiệu quả, không biết các công ty,
doanh nghiệp mình đầu tư vào có thật sự làm ăn có lãi hay không. Việc thông
tin minh bạch về báo cáo tài chính cũng như hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp trên thị trường chứng khoán sẽ đáp ứng được phần nào nhu cầu thông
tin của các tổ chức cá nhân trong và ngoài nước phục vụ cho các quyết định
đầu tư có hiệu quả nhất. Bởi bên cạnh việc dùng nguồn tiền nhàn rỗi của
mình vào việc gửi ngân hàng lấy lãi tiết kiệm hàng tháng hay mua vàng để
tích trữ đem lại sự an toàn về vốn, ít rủi ro nhưng không có hiệu quả nhiều thì
hiện nay mọi người có thể dùng tiền nhàn rỗi đó cho việc đầu tư chứng khoán
1

với lợi suất cao bởi có thể hưởng cả lợi tức khi doanh nghiệp làm ăn có lãi
vừa có thể hưởng sự chênh lệch về giá cả khi mức giá doanh nghiệp đó tăng
trên thị trường chứng khoán. Chính vì lẽ đó, các công ty chứng khoán được
sinh ra và phát triển với mục đích là cầu nối giữa doanh nghiệp với nhà đầu tư
và đồng thời cũng tìm kiếm cơ hội phát triển cho chính mình trên thị trường
chứng khoán.
Trong những năm qua, tình hình kinh tế thế giới và trong nước có những diễn

biến hết sức phức tạp và bất ổn. Đối với Việt Nam, do ảnh hưởng của các
nhân tố có tác động xấu làm ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng kinh tế, lạm
phát tăng cao, thị trường tài chính, tiền tệ, thị trường chứng khoán và thị
trường bất động sản có những diễn biến phức tạp. Một công ty chứng khoán
dù mạnh đến đâu thì bất kỳ một chấn động chính trị - kinh tế - xã hội nào
cũng ngay lập tức ảnh hưởng đến các hoạt động của nó và đòi hỏi phải có
điều chỉnh về cơ cấu. Thực tế này đòi hỏi các công ty chứng khoán phải chủ
động hội nhập và đổi mới đồng bộ các hoạt động trong đó có việc sử dụng
các công cụ quản lý. Một trong các công cụ đó là phân tích tài chính.
Tuy nhiên, hiện nay các công ty chứng khoán nói chung và Công ty Cổ phần
chứng khoán FPT nói riêng chưa thực sự nhận thức đầy đủ vai trò và ý nghĩa
của phân tích tài chính trong công tác quản trị điều hành, do đó chưa chú
trọng đến công tác tổ chức phân tích tình hình tài chính trong đơn vị mình.
Chính vì lý do này, tác giả đã lựa chọn đề tài “ Tổ chức công tác phân tích tài
chính tại Công ty Cổ phần chứng khoán FPT” cho luận văn tốt nghiệp của
mình.
2

2. Mục đích nghiên cứu:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về tổ chức phân tích tài chính
trong Công ty Chứng khoán
- Đánh giá thực trạng tổ chức phân tích tài chính tại Công ty Cổ phần chứng
khoán FPT
- Đề xuất giải pháp nhằm hoàn thiện tổ chức phân tích tài chính tại Công ty
Cổ phần chứng khoán FPT.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Với mục đích đã xác định, luận văn tốt nghiệp tập trung nghiên cứu, phân tích
những vấn đề lý luận và thực tiễn tổ chức công tác phân tích tài chính tại
Công ty Cổ phần Chứng khoán FPT.
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn đề tài:

- Ý nghĩa khoa học:
Cơ sở lý luận về tổ chức phân tích tài chính trong doanh nghiệp nói chung và
trong Công ty chứng khoán nói riêng còn nhiều quan điểm, đòi hỏi phải
nghiên cứu và hoàn thiện. Hiện tại có ít tài liệu đề cập chi tiết tới vấn đề tổ
chức và phân tích tài chính. Luận văn với đề tài tổ chức phân tích tài chính
nhằm góp phần sáng tỏ thêm cơ sở lý luận về phân tích tài chính và tổ chức
phân tích trong công ty chứng khoán.
- Ý nghĩa thực tiễn
Phân tích tài chính là một công cụ quản lý, có vai trò quan trọng và là một
kênh cung cấp thông tin cho việc ra quyết định của nhà quản trị doanh
nghiệp. Đề tài nghiên cứu nhằm góp phần giúp các công ty chứng khoán và
Công ty cổ phần chứng khoán FPT nói riêng nhận thức đúng về vai trò của
phân tích tài chính, vận dụng để tổ chức phân tích tài chính trong đơn vị
3

nhằm phát huy tác dụng của phân tích tài chính trong quản lý, điều hành hoạt
động công ty.
5. Kết cấu luận văn
Ngoài lời mở đầu và kết luận, luận văn được kết cấu thành 3 chương:
Chương I: Những vấn đề cơ bản về tổ chức phân tích tài chính trong công ty
chứng khoán
Chương II: Thực trạng tổ chức phân tích tài chính tại Công ty Cổ phần chứng
khoán FPT
Chương III: Giải pháp hoàn thiện tổ chức phân tích tài chính tại Công ty Cổ
phần chứng khoán FPT.
4

CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TỔ CHỨC PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH
TRONG CÔNG TY CHỨNG KHOÁN

1.1. KHÁI QUÁT VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN, CÔNG TY
CHỨNG KHOÁN VÀ Ý NGHĨA CỦA PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH TRONG
CÔNG TY CHỨNG KHOÁN
1.1.1. Tổng quan về thị trường và công ty chứng khoán:
1.1.1.1 Sự hình thành và phát triển của thị trường chứng khoán
Thị trường chứng khoán được xem là đặc trưng cơ bản, là biểu tượng của
nền kinh tế hiện đại. Người ta có thể đo lường và dự tính sự phát triển của nền
kinh tế qua diễn biến của thị trường chứng khoán. Là một bộ phận cấu thành của
thị trường tài chính, thị trường chứng khoán được hiểu một cách chung nhất, là
nơi diễn ra các giao dịch, mua bán trao đổi các chứng khoán- các hàng hóa và
dịch vụ tài chính giữa các chủ thể tham gia. Việc mua bán trao đổi hàng hóa này
được thực hiện theo những quy tắc ấn định trước.
Hình thức sơ khai của thị trường chứng khoán đã xuất hiện cách đây hàng
trăm năm. Vào khoảng thế kỷ 15, ở các thành phố trung tâm thương mại của các
nước phương Tây, trong các chợ phiên hay hội chợ, các thương gia thường tụ tập
tại các quán cà phê để thương lượng mua bán, trao đổi hàng hóa. Đặc điểm của
hoạt động này là các thương gia chỉ trao đổi bằng lời nói với nhau về các hợp
đồng mua bán mà không có sự xuất hiện bất kỳ của giấy tờ, hàng hóa nào. Đến
cuối thế kỷ 15, “ khu chợ riêng” đã trở thành thị trường hoạt động thường xuyên
với những quy tắc xác định cho các cuộc thương lượng. Những quy ước này dần
trở thành những quy tắc có tính chất bắt buộc đối với các thành viên tham gia.
5

Buổi họp đầu tiên diễn ra vào năm1453 tại một lữ quán của gia đình
Vanber tại thành phố Bruges (Vương quốc Bỉ). Trước lữ quán có một bảng hiệu
vẽ hình ba túi da và chữ Bourse. Ba túi tượng trưng cho ba nội dung của thị
trường: thị trường hàng hóa, thị trường ngoại tệ và thị trường chứng khoán động
sản; còn chữ Bourse có nghĩa là “ mậu dịch thị trường” hay còn gọi là “ nơi buôn
bán chứng khoán”.
Đến năm 1547, thị trường ở thành phố Bruges bị sụp đổ do cửa biển Evin-

nơi dẫn các tàu thuyền vào buôn bán tại thành phố bị cát biển lấp.
Tuy nhiên, vào năm 1531, thị trường này đã được dời tới thành phố cảng
Anvers (Bỉ), từ đó, thị trường này phát triển nhanh chóng. Một thị trường như
vậy cũng được thành lập ở Vương quốc Anh ( London) vào thế kỷ 18 và sau đó
là một loạt thị trường ở Pháp, Đức,Ý và một số nước Bắc Âu và Mỹ cũng được
thành lập. Sau một thời gian hoạt động, thị trường đã chứng tỏ khả năng không
đáp ứng được yêu cầu của cả ba giao dịch khác nhau.Vì thế, thị trường hàng hóa
được tách ra thành các khu thương mại, thị trường ngoại tệ được tách ra và phát
triển thành thị trường hối đoái, thị trường chứng khoán động sản thành thị trường
chứng khoán. Như vậy, thị trường chứng khoán được hình thành cùng với thị
trường hàng hóa và thị trường hối đoái.Quá trình phát triển của thị trường chứng
khoán đã trải qua nhiều bước thăng trầm. Lịch sử đã ghi nhận hai cuộc khủng
hoảng lớn, đó là khi các thị trường chứng khoán lớn ở Mỹ, Tâu Âu, Bắc Âu,
Nhật Bản bị sụp đổ chỉ trong vài giờ vào ngày 29/10/1929 và 19/10/1987. Song,
trải qua các cuộc khủng hoảng, cuối cùng thị trường chứng khoán lại được phục
hồi và tiếp tục phát triển, trở thành một thể chế tài chính không thể thiếu trong
nền kinh tế thị trường.
6

Hiện nay, do các biến động lớn trong nền kinh tế thế giới, do tác động của
tiến bộ khoa học kỹ thuật và với mong muốn của Chính phủ các nước trong việc
tang cường vai trò của thị trường chứng khoán đối với đời sống kinh tế, thị
trường chứng khoán đã được tạo mọi điều kiện phát triển. Các chính sách của
Chính phủ các nước đã góp phần hình thành và thúc đẩy sự phát triển của thị
trường chứng khoán.Thị trường chứng khoán đã trở thành một kênh dẫn vốn vô
cùng quan trọng, một thực thể không thể thiếu được trong nền kinh tế hiện đại.
Vậy thị trường chứng khoán là gì? Về bản chất, thị trường chứng khoán là
thể hiện mối quan hệ giữa cung và cầu của vốn đầu tư mà ở đó, giá cả của chứng
khoán chứa đựng thông tin về chi phí vốn hay giá cả của vốn đầu tư. Thị trường
chứng khoán là hình thức phát triển bậc cao của nền sản xuất và lưu thông hàng

hóa.
Theo hình thức tổ chức của thị trường, thị trường chứng khoán được tổ chức
theo hai cách sau:
- Thị trường chứng khoán được tổ chức thành các Sở giao dịch, tại đây
người mua và người bán gặp nhau tại một địa điểm nhất định để tiến hành giao
dịch và mua bán, trao đổi chứng khoán. Sở giao dịch chứng khoán được quản lý
chặt chẽ bởi Ủy ban chứng khoán Quốc gia, các giao dịch chịu sự điều tiết của
Luật chứng khoán và thị trường chứng khoán.
- Thị trường giao dịch qua quầy hay thị trường chứng khoán phi tập trung:
là thị trường của các nhà buôn, những người tạo thị trường. Các nhà buôn có một
danh mục chứng khoán và họ sẵn sang mua và bán với các nhà buôn khác cũng
như các nhà đầu tư khi những người này chấp nhận giá cả của họ. Thị trường này
không có địa điểm giao dịch chính thức mà có thể diễn ra tại tất cả các quầy, sàn
giao dịch của các thành viên thông qua điện thoại hay mạng máy tính diện rộng.
7

Ngoài hai loại thị trường trên, người ta còn nói đến thị trường thứ ba, thị
trường dành cho các chứng khoán không đủ tiêu chuẩn để giao dịch trên thị
trường OTC và thị trường tập trung.
1.1.1.2 Tổng quan về công ty chứng khoán
Để hình thành và phát triền của thị trường có hiệu quả, một yếu tố không
thể thiếu được là các chủ thể tham gia kinh doanh trên thị trường chứng khoán.
Là một chủ thể tham gia, công ty chứng khoán cũng có những điểm tương đồng
với tổ chức và hoạt động của công ty khác nói chung. Bởi khi một doanh nghiệp
muốn huy động vốn bằng cách phát hành chứng khoán, không phải họ tự đi bán
số chứng khoán mà họ định phát hành. Họ không thể làm tốt việc đó bởi họ
không có bộ máy chuyên môn, cần có những nhà chuyên nghiệp mua bán chứng
khoán cho họ. Đó là các công ty chứng khoán, với nghiệp vụ và chuyên môn,
kinh nghiệm nghề nghiệp và bộ máy tổ chức thích hợp, thực hiện vai trò trung
gian môi giới mua bán, phát hành chứng khoán, tư vấn đầu tư và thực hiện một

số giao dịch khác cho cả người đầu tư và người phát hành.
Công ty chứng khoán là tác nhân quan trọng thúc đẩy sự phát triển của nền
kinh tế nói chung và của thị trường chứng khoán nói riêng. Nhờ các công ty
chứng khoán mà chứng khoán được lưu thông từ nhà phát hành tới người đầu tư
và có tính thanh khoản, qua đó huy động vốn từ nơi nhàn rỗi để phân bổ vốn vào
những nơi sử dụng có hiệu quả.
Chức năng cơ bản của công ty chứng khoán
- Thông qua cơ chế phát hành và bảo lãnh phát hành, tạo ra cơ chế huy động
vốn linh hoạt
- Thông qua hệ thống khớp lệnh, cung cấp giá cho các giao dịch
8

- Tạo tính thanh khoản cho chứng khoán ( chuyển đổi từ chứng khoán thành
tiền và người lại)
- Thông qua hoạt động tự doanh và với vai trò người tạo lập thị trường,
công ty chứng khoán góp phần bình ổn và điều tiết thị trường
Hiện nay các công ty chứng khoán trên thế giới được chia làm 2 mô hình
công ty chứng khoán đó là công ty tổng hợp và công ty chuyên doanh.
- Khi quyết định sử dụng dịch vụ của một công ty chuyên doanh, các nhà
đầu tư chỉ nhận được 2 loại dịch vụ duy nhất là thực hiện lệnh và thanh toán khi
mua/bán của nhà đầu tư đã được khớp với 1 hoặc nhiều lệnh khác. Ưu điểm của
loại công ty này là phí hoa hồng thường sẽ thấp hơn từ ¼ đến 2/3 so với loại hình
công ty tổng hợp.
- Trong khi đó công ty tổng hợp ngoài việc cung cấp 2 loại dịch vụ kể trên,
còn phát hành nhiều loại dịch vụ khác như: Phát hành các bản nghiên cứu tình
hình đầu tư, cung cấp dịch vụ lưu ký, tư vấn đầu tư, giúp và lập dự toán tài chính
cho khách hàng, các hoạt động cầm cố, repo chứng khoán và tự doanh…Trong
loại hình công ty chứng khoán tổng hợp lại được chia làm nhiều loại khác nhau.
Mỗi mô hình công ty chứng khoán đều có những ưu nhược điểm. Hiệu quả
đạt được ổ chỗ các nhà đầu tư vận dụng các mô hình này như thế nào vào tình

hình thực tế của công ty mình. Mô hình công ty chứng khoán khác nhau cũng là
một yếu tố cần xác định để xây dựng tổ chức công tác phân tích tài chính của
công ty chứng khoán cho phù hợp.
1.1.2. Khái niệm và đặc điểm phân tích tài chính cho công ty chứng khoán
Phân tích tài chính là tổng thể các phương phát và công cụ cho phép xử lý
các thông tin về tài chính, kế toán nhằm đánh giá tình hình tài chính đã qua và
hiện tại của Công ty chứng khoán, từ đó giúp nhà quản lý đưa ra được các quyết
9

định chuẩn xác giúp các đối tượng quan tâm đến công ty có được những dự đoán
về mặt tài chính của công ty, qua đó có các quyết định phù hợp với lợi ích cùa
họ.
Với vai trò là một định chế tài chính đặc biệt với các nét đặc trưng riêng:
- Đa dạng về nghiệp vụ
- Nhu cầu về thông tin tài chính cao
- Hoạt động trong thị trường có tính rủi ro cao, rất nhạy cảm với sự biến
động của các thị trường khác
- Chịu sự chi phối bởi hệ thống luật Chứng khoán và hoạt động theo hai
nguyên tắc “ nguyên tắc đạo đức” và “ nguyên tắc tài chính”
- Mục tiêu phân tích bao gồm: phân tích báo cáo tài chính, phân tích hoạt
động tự doanh, phân tích phục vụ nhà đầu tư, đối tác.
Từ các đặc điểm trên, việc phân tích tài chính trong công ty chứng khoán
đòi hỏi phải thực hiện thường xuyên, tổ chức một cách khoa học, đảm bảo phục
vụ yêu cầu thông tin cho các đối tượng quan tâm.Khi lựa chọn mô hình tổ chức,
nội dung phân tích, các chỉ tiêu và phương pháp phân tích phải đảm bảo phù hợp
với tính chất ngành và đem lại hiệu quả cho người sử dụng thông tin.
1.1.3. Ý nghĩa của phân tích tài chính trong công ty chứng khoán.
Việc phân tích tài chính của công ty chứng khoán ở mức độ nào tùy thuộc
vào mối quan tâm của nhà quản lý. Tuy nhiên, trong tất cả các trường hợp cũng
đều cần có sự phân tích đúng đắn tình hình tài chính của công ty để đưa ra những

kết luận thỏa đáng và có những định hướng sang suốt, điều chỉnh cần thiết cho
các mới quan hệ của công ty.
Có rất nhiều đối tượng quan tâm và sự dụng thông tin kinh tế của công ty
chứng khoán. Mỗi đối tượng quan tâm theo giác độ và mục tiêu khác nhau. Do
10

nhu cầu về thông tin tài chính rất đa dạng, đòi hỏi phân tích tài chính phải được
tiến hành bằng nhiều phương phát khác nhau để đáp ứng nhu cầu của từng đối
tượng. Điều đó tạo điều kiện thuận lợi cho phân tích tài chính ra đời, ngày càng
hoàn thiện và phát triển, đồng thời cũng tạo ra sự phức tạp của phân tích tài
chính.
Đối tượng quan tâm tới tình hình tài chính của công ty chứng khoán chính
là lãnh đạo hay các nhà quản lý công ty chứng khoán. Phân tích đánh giá tài
chính công ty chứng khoán là cơ sở cho việc ra quyết định trong kinh doanh.
Quyết định là kết quả của quản lý, do đó bất kỳ nhà quản lý nào cũng phải đưa ra
các quyết định trong quá trình điều hành hoạt động của công ty. Vì thế nếu thiếu
các kết luận của phân tích hoạt động kinh doanh đặc biệt là kết luận của phân
tích tài chính thì mọi quyết định kinh doanh đều thiếu căn cứ khoa học và thực
tiễn, do đó khó có thể mang lại hiệu quả mong muốn. Hơn nữa phân tích tài
chính còn tạo ra những chu kỳ đều đặn để đánh giá hoạt động quản lý trong giai
đoạn đã qua, việc thực hiện cân bằng tài chính, khả năng sinh lời, khả năng thanh
toán…của công ty chứng khoán. Từ đó tạo ra công cụ kiểm tra, kiểm soát hoạt
động, quản lý trong công ty chứng khoán. Ngoài ra phân tích tài chính còn giúp
cho các nhà quản lý công ty có thể dự báo tình hình trong tương lai, từ đó đặt ra
những định hướng, mục tiêu trong hoạt động kinh doanh khả thi, phù hợp…
Đối tượng thứ hai quan tâm đến tình hình tài chính của công ty chứng khoán
là các nhà đầu tư, các khách hàng của công ty. Họ chính là những khách hàng
đầu tư mở tài khoản giao dịch tại công ty hoặc cũng có thể là những nhà đầu tư
mua đi bán lại cổ phiếu của chính công ty chứng khoán đó. Họ có thể được
hưởng lợi từ việc mua bán mã chứng khoán của công ty chứng khoán đó nhưng

đồng thời cũng chịu rủi ro nếu không dựa trên việc phân tích tài chính hoạt động
11

kết quả kinh doanh để đưa đến quyêt định. Do đó nhà đầu tư rất quan tâm đến
khả năng sinh lời của công ty chứng khoán cũng như các rủi ro mà công ty
chứng khoán có thể gặp phải để từ đó có quyết định đầu tư đúng đắn. Nhờ phân
tích tài chính mà nhà đầu tư có thể đánh giá được khả năng sinh lời cũng như sự
lành mạnh trong tình hình tài chính của công ty chứng khoán.
Với những người hưởng lương trong công ty chứng khoán, tình hình tài
chính của công ty cũng tác động không nhỏ. Bởi nó liên quan trực tiếp đến công
ăn việc làm, đến lương cũng như các chính sách khác của công ty. Do vậy phân
tích tài chính giúp họ định hướng việc làm ổn định và yên tâm dốc sức vào hoạt
động kinh doanh của công ty chứng khoán.
Ngoài ra từ các đặc điểm đã nêu trên từ 1.1.2, dưới góc độ của nhà quản trị,
phân tích tài chính càng có ý nghĩa quan trọng. Phân tích tài chính cho nhà quản
trị cho thấy được khả năng tài chính của công ty…cũng như các giới hạn an toàn
phải đảm bảo trong kinh doanh. Phân tích tài chính còn giúp phát hiện kịp thời
những thiếu sót, nhận định những điểm mạnh, yếu của công ty, trên cơ sở đó có
những biện phép thích hợp trong việc sử dụng nguồn vốn cũng như các yếu tố
đầu vào khác, góp phần hạn chế rủi ro, tăng lợi nhuận cho công ty chứng khoán.
Như vậy phân tích tài chính của công ty chứng khoán là sự cần thiết khách
quan, nó ra đời và phát triển từ đòi hỏi của đời sống kinh tế, từ yêu cầu quản lý
khoa học và có hiệu quả hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán. Để
công tác phân tích được hiệu quả thì việc tổ chức phân tích tài chính công ty
chứng khoán phải được thực hiện với một quy trình khoa học và hợp lý.
12

1.2. NỘI DUNG, HỆ THỐNG CHỈ TIÊU VÀ PHƯƠNG PHÁP PHÂN
TÍCH TÀI CHÍNH CÔNG TY CHỨNG KHOÁN.
1.2.1. Nội dung phân tích tài chính Công ty chứng khoán:

Công ty chứng khoán cũng là một doanh nghiệp, một doanh nghiệp cung ứng
dịch vụ đặc thù. Do đó các nội dung phân tích tình hình tài chính của công ty
cũng bao gốm các nội dung phân tích tài chính doanh doanh nghiệp sản xuất
kinh doanh, tuy nhiên có một số nét đặc thù. Khi phân tích tài chính của công ty
chứng khoán, chúng ta có thể phân tích đánh giá trên các nội dung sau:
• Đánh giá khái quát tính hình tài chính công ty chứng khoán:
Đánh giá khái quát tình hình tài chính là việc dựa trên những dữ liệu tài chính
trong quá khứ và hiện tại của công ty chứng khoán để tính toán và xác định các
chỉ tiêu phản ánh thực trạng tài chính và sức mạnh tài chính của công ty. Qua đó,
các nhà quản lý nắm được mức độ độc lập về mặt tài chính; về an ninh tài chính
cùng những khó khăn mà công ty đang phải đương đầu.
Với mục đích trên, khi đánh giá khái quát tình hình tài chính, chúng ta chỉ
dùng lại ở một số nội dung mang tính khái quát, tổng hợp, phản ánh những nét
chung nhất về thực trạng hoạt động tài chính và an ninh tài chính của công ty
như: tình hình huy động vốn, mực độ độc lập về tài chính, khả năng thanh
toán.
• Phân tích cấu trúc tài chính:
Phân tích cấu trúc tài chính là việc phân tích tình hình huy động, sử dụng vốn
và quan hệ giữa tình hình huy động vốn với tình hình sử dụng vốn của công ty.
Qua đó, giúp nhà quản lý nắm được tình hình tài chính phân bổ tài sản và các
nguồn tài trợ tài sản, biết được nguyên nhân cũng như dấu hiệu ảnh hưởng đến
cân bằng tài chính. Những thông tin này sẽ là căn cứ quan trọng để các nhà quản
13

lý ra các quyết định điều chỉnh chính sách huy động và sử dụng vốn của mình,
bảo đảm cho công ty chứng khoán có được cấu trúc tài chính lành mạnh, hiệu
quả và tránh được những rủi ro kinh doanh. Đồng thời, nội dung phân tích này
còn góp phần củng cố cho các nhận định đã rút ra khi đánh giá khái quát tình
hình tài chính.
Như vậy, về thực chất phân tích cấu trúc tài chính của doanh nghiệp bao gồm

các nội dung như : phân tích cơ cấu tài sản, phân tích cơ cấu nguồn vốn và
phân tích mối quan hệ giữa tài sản và nguồn vốn. Nội dung này gắn với việc
xem xét cấu trúc tài chính theo nghĩa rộng.
• Phân tích hiệu quả kinh doanh của công ty chứng khoán.
Hiệu quả kinh doanh là một chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh trình độ sử
dụng nguồn vật lực, tài chính của công ty để đạt hiệu quả cao nhất. Nâng cao
hiệu kinh doanh là một biện pháp cực kỳ quan trọng của công ty để thúc đẩy nền
kinh tế tăng trưởng một cách bền vững. Do vậy phân tích hiệu quả kinh doanh là
một nội dung cơ bản của phân tích tài chính nhằm góp phần cho công ty tồn tại
và phát triển không ngừng.
Nhiệm vụ phân tích hiệu quả kinh doanh được xem xét trên mọi góc độ như
phân tích hiệu quả sử dụng tài sản, hiệu quả sử dụng nguồn vốn, hiệu quả sư
dụng chi phí, ngoài ra các nhà phân tích còn tiền hành so sánh các chỉ tiêu giữa
kỳ gốc với thực tế trên báo cáo kết quả kinh doanh để thấy được sự biến động
của các chỉ tiêu kết quả kinh doanh.
Tùy theo mục tiêu các nhà quản trị kinh doanh có thể phân tích chi tiết, đánh
giá khái quát…Sau đó tổng hợp để đưa ra các nhận xét.
• Phân tích hiệu quả kinh doanh dành cho nhà đầu tư
14

Trong cơ chế thị trường, các doanh nghiệp là tế báo của nền kinh tế. Để thực
sự phát triển bền vững, các doanh nghiệp phải phát triển thực sự, Trong các loại
hình doanh nghiệp thì công ty cổ phần là một loại hình doanh nghiệp có nhiều ưu
thế cho sự phát triển. Công ty cổ phần đó là một tổ chức kinh tế mà vốn của nhà
đầu tư đóng góp để cùng tham gia hoạt động kinh doanh kiếm lời. Các nhà đầu
tư gọi chung là cổ đông có thể là cá nhân, pháp nhân và các đối tượng cho vay.
Các nhà đầu tư thường xem xét các chỉ tiêu tài chính liên quan trực tiếp đến
lợi ích của mình để từ đó đưa ra các quyết định mua cổ phiều hoặc đầu tư vào
lĩnh vực khác với mục đích thu lợi nhuận tối đa trong các hoạt động kinh doanh.
Do vậy khi đánh giá hiệu quả kinh doanh của các công ty, ngoài việc đánh giá

khái quát tình hình tài chính hay phân tích cấu trúc tài chính như trên (còn gọi là
phân tích cơ bản) họ còn quan tâm đến các chỉ số về cổ phiếu như: Thu nhập trên
mỗi cổ phiếu(EPS), giá trên thu nhập của cổ phiêu(P/E), Cổ tức trên thu
nhập(D/E), cổ tức trên thị giá, giá trị sổ sách của cổ phiếu phổ thông, hệ số thu
nhập trên đầu tư(ROI)…kết hợp với phân tích kỹ thuật để đưa ra quyết định đầu
tư đúng đắn.
• Phân tích luồng tiền của công ty chứng khoán.
Phân tích luồng tiền của công ty chứng khoán chủ yếu dự vào số liệu trên
báo cáo lưu chuyển tiền tệ. Đây là báo cáo cung cấp thông tin cho người sử dụng
đánh giá các thay đổi trong tài sản thuẩn, cơ cầu tài chính, khả năng chuyển đổi
thành tiền của tài sản, khả năng thanh toán và khả năng tào ra các luồng tiền trên
cơ sở xác định tỷ trọng dòng tiền thu của từng hoạt động trong tổng dòng thu
trong kỳ của công ty chứng khoán. Đặc biệt đối với công ty chứng khoán việc
xem xét dòng tiền thuần của từng hoạt động kinh doanh chứng khoán (hoạt động
tự doanh), hoạt đông kinh doanh nói chung(môi giới, lưu ký, cầm cố ) hoạt động
15

cho các tổ chức phát hành(bảo lãnh ) trong tổng dòng tiền thuần trong kỳ rất
được coi trọng.
1.2.2 Hệ thống chỉ tiêu phân tích tài chính Công ty chứng khoán
1.2.2.1 Các chỉ tiêu đánh giá khái quát tình hình tài chính
(1) Đánh giá khái quát tình hình huy động vốn của công ty chứng khoán:
Một trong nhưng chức năng quan trọng của hoạt động tài chính là xác định
nhu cầu, tạo lập, tìm kiếm, tổ chức và huy động vốn. Do vậy, sự biến động(tăng
hay giảm)của tổng nguồn vốn theo thời gian(giữa cuối kỳ so với đầu năm, giữa
năm này so với năm khác) là một chỉ tiêu được đánh giá khái quát khả năng tạo
lập, tìm kiểm, tổ chức và huy động vốn của doanh nghiệp nói chung và công ty
chứng khoán nói riêng. Bên cạnh chỉ tiêu ‘Tổng số nguồn’ vốn các nhà phân tích
còn kết hợp sử dụng chỉ tiêu “Tổng số phải trả” và chỉ tiêu “Tổng số vốn chủ sở
hữu”. Thông tin về chính sách huy động vốn của công ty chứng khoán sẽ cung

cấp cho nhà quản lý về quy mô, cơ cầu nguồn vốn, xu hướng biến động và đặc
biệt là mối quan hệ của nguồn vốn huy động gắn với mục tiêu sử dụng vốn của
công ty có đảm bảo an toàn, hiệu quả và cạnh tranh hay không…
Để đánh giá tình hình huy động vốn của công ty, các nhà phân tích sử
dụng phương pháp so sánh: so sánh biến động của tổng số nguồn vốn và so sánh
sự biến động của cơ cấu nguồn vốn theo thời gian cả về số lượng tuyệt đối và
tương đối. Qua việc so sánh sự biến động của tổng số nguồn vốn theo thời gian,
các nhà phân tích sẽ đánh giá được tình hình tạo lập và huy động về quy mô; còn
qua việc so sánh sự biến động của cơ cấu vốn theo thời gian, các nhà phân tích sẽ
đánh giá được tính hợp lý trong cơ cấu huy động và tổ chức nguồn vốn cũng như
xu hướng biến động của cơ cấu nguồn vốn huy động
16

(2) Đánh giá khái quát mức độ độc lập tài chính của công ty
Mức độ độc lập, tự chủ về mặt tài chính của công ty thể hiện qua nhiều chỉ
tiêu khác nhau và được xem xét trên khía cạnh khác nhau như mức độ tài trợ tài
sản bằng vốn chủ sở hữu, hệ số nợ so với tài sản, hệ số nợ so với vốn chủ sở
hữu…Tuy nhiên, để đánh giá khái quát mực độ độc lập về mặt tài chính, chỉ tiêu
thông dụng nhất là “hệ số tài trợ” và “hệ số tự tài trợ dài hạn”
• Hệ số tài trợ (hệ số vốn chủ sở hữu)
Chỉ tiêu này dùng để đo lường sự góp vốn của chủ sở hữu trong tổng nguồn
vốn của doanh nghiệp. Nó được xác định theo công thức sau:
Cách tính
Ý nghĩa: Là chỉ tiêu phản ánh khả năng tự đảm bảo về mặt tài chính và mức
độ độc lập về mặt tài chính của công ty. Chỉ tiêu này cho biết, trong tổng số
nguồn vốn của công ty, nguồn vốn chủ sở hưu chiếm mấy phần trăm. Trị số của
chỉ tiêu càng lớn, chứng tỏ khả năng tự đảm bảo về mặt tài chính càng cao, mức
độ độc lập về tài chính của công ty càng tăng và ngược lại, khi trị số của chỉ tiêu
càng nhỏ, khả năng tự đảm bảo về mặt tài chính của công ty càng thấp, mức độ
độc lập về tài chính của công ty càng giảm.

• Hệ số tự tài trợ dài hạn(hay hệ số vốn chủ sở hữu trên tài sản dài hạn)
Cách tính
17
Hệ số tài trợ =
Vốn chủ sở hữu
Tổng số nguồn vốn
Hệ số tự tài trợ tài sản dài hạn =
Vốn chủ sở hữu
Tài sản dài hạn

Ý nghĩa: Lên chỉ tiêu phản ánh mức độ đầu tư vốn chủ sở hữu vào tài sản dài
hạn. Do đặc điểm của tài sản dài hạn là thời gian luân chuyển dài( thường là
ngoài một năm hay ngoài chu kỳ kinh doanh) nên nếu vốn chủ sở hữu của công
ty không đủ tài trợ tài sản dài hạn của mình mà phải sử dụng đến các nguồn vốn
khác(kế cả vốn chiếm dụng dài hạn) thì khi các khoản nợ đáo hạn, công ty sẽ gặp
khó khăn trong thanh toán và ngược lại nếu vốn chủ sở hữu của công ty có đủ và
đảm bảo khả năng tài trợ tài sản dài hạn của công ty thì công ty sẽ ít gặp khó
khăn khi thanh toán nợ đáo hạn. Vì thế trị số của chi tiêu “Hệ số tự tài trợ tài sản
dài hạn” càng cao, chứng tỏ vốn chủ sở hữu được đầu tư vào tài sản dài hạn càng
lớn. Điều này giúp công ty từ bảo đảm về mặt tài chính nhưng hiệu quả kinh
doanh sẽ không cao do vốn đầu tư chủ yếu vào tài sản dài hạn, ít sử dụng vào
kinh doanh hay quay vòng để sinh lợi.
• Hệ số tự tài trợ tài sản cố định
Cách tính
Ý nghĩa: Tương tự ý nghĩa của hệ số tự tài trợ tài sản dài hạn
(3) Đánh giá khái quát khả năng thanh toán
Khả năng thanh toán của công ty chứng khoán là một nội dung cơ bản của
hoạt động tài chính nhằm cung cấp thông tin cho các cấp quản lý đưa ra các
quyết định đúng đắn cho doanh nghiệp. Các quyết định cho công ty vay bao
nhiêu tiền, thời hạn bao nhiêu, có nên bán hàng chịu cho công ty hay không Tất

cả các quyết định đó đều dựa vào khả năng thanh toán của công ty. Khả năng
thanh toán của công ty vừa phải khi đo sẽ đáp ứng nhu cầu thanh toán cho các
18
Hệ số tự tài trợ tài sản cố định =
Vốn chủ sở hữu
Tài sản cố định
đã và đang đầu tư

khoản công nợ, đồng thời nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, tiết kiệm chi phí. Khả
năng thanh toán của công ty quá cao có thể dẫn tới tiền mặt, hàng dự trữ quá
nhiều khi đó hiệu quả sử dụng vốn lại thấp. Khả năng thanh toán quá thấp kéo
dài có thể dẫn tới công ty bị giải thể hoặc phá sản. Đây là một tiêu chuẩn hoạt
động quan trọng của công ty chứng khoán, trực tiếp ảnh hưởng đến lòng tin của
khách hàng với công ty, tác động đến lợi nhuận cũng như uy tín của công ty.
a/ Đánh giá khái quát khả năng thanh toán chung của công ty, ta thường
xem xét các chỉ tiêu
• Hệ số khả năng thanh toán hiện tại
Ý nghĩa: Chỉ tiêu này cho biết tại mỗi thời điểm nghiên cứu, toàn bộ giá trị tài
sản thuẩn hiện có của công ty có đảm bảo khả năng thanh toán các khoản nợ của
công ty hay không. Chỉ tiêu này càng lớn khả năng thanh toán hiện tại càng cao,
đó là nhân tố tích cực góp phần ổn định tình hình tài chính của công ty. Chỉ tiêu
này càng thấp, khả năng thanh toán hiện tại càng kém, trường hợp kéo dài sẽ ảnh
hưởng đến uy tín và chất lượng kinh doanh của công ty.
• Hệ số nợ so với tổng tài sản
Ý nghĩa: Hệ số này là chỉ tiêu phản ánh khá rõ nét tình hình thanh toán của
công ty, chỉ tiêu này càng thấp khả năng thanh toán của công ty dồi dào sẽ tác
động tích cực đến kết quả kinh doanh. Hệ số này cho biết, công ty có 1 đồng tài
19
Hệ số khả năng thanh toán hiện tại =
Tổng giá trị tài sản hiện có

Tổng nợ phải trả
Hệ số nợ so với tổng tài sản =
Tổng nợ phải trả
Tổng tài sản

sản thì sẽ có bao nhiêu đồng được đầu tư từ các khoản công nợ, chỉ tiêu này càng
thấp thì chứng tỏ tính chủ động trong hoạt động kinh doanh càng cao và ngược
lại.
• Hệ số nợ so với tổng vốn chủ sở hữu
Ý nghĩa: Hệ số nợ so với tổng vốn chủ sở hữu cho biết mối quan hệ giữa
các nguồn vốn của công ty trong việc hình thành các tài sản, chỉ tiêu này càng
thấp, chứng tỏ các tài sản của công ty hầu như đầu tư từ vốn chủ sở hữu, tính chủ
động càng cao trong các quyết định kinh doanh. Chỉ tiêu này càng cao công ty
càng phải chịu trách nhiệm pháp lý đối với các nguồn hình thành nên các tài sản
phục vụ cho hoạt động kinh doanh.
b/Đánh giá khái quát khả năng thanh toán nợ ngắn hạn của công ty.
Năng lực duy trì khả năng thanh toán nợ ngắn hạn của công ty là yếu tố
quan trọng đối với tất cả những người sử dụng báo cáo tài chính khi phân tích để
đưa ra các quyết định kinh doanh.
Để phân tích khả năng thanh toán nợ ngắn hạn ta lần lượt xem xét các chỉ
tiêu tài chính sau:
*Hệ số khả năng thanh toán nhanh:
Ý nghĩa: Chỉ tiêu này cho biết khả năng thanh toán nhanh của công ty đối
với các khoản nợ ngắn hạn, chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ khả năng thanh toán
của công ty dồi dào, tuy nhiên chỉ tiêu này cao quá kéo dài có thể dẫn đến vốn
20
Hệ số nợ so với tổng vốn chủ sở hữu =
Tổng nợ phải trả
Tổng vốn chủ sở hữu
Hệ số khả năng thanh toán nhanh =

Tiền và các khoản tương đương tiền
Tổng nợ ngắn hạn

bằng tiền của công ty nhàn rỗi, ứ đọng, dẫn đến hiệu quả sử dụng vốn thấp. Chỉ
tiêu này thấp chứng tỏ ciing ty không có đủ khả năng thanh toán các khoản công
nợ. Trường hợp chỉ tiêu này thấp quá kéo dài ảnh hưởng đến uy tín công ty và có
thể dẫn đến công ty bị giải thể hoặc phá sản.
*Hệ số khả năng thanh toán nợ ngắn hạn:
Ý nghĩa: Chỉ tiêu này cho biết với tổng giá trị thuận của tài sản ngắn hạn
hiện có công ty có khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn hay không. Chỉ
tiêu này càng cao khả năng thanh toán nợ ngắn hạn của công ty càng tốt và
ngược lại.
*Hệ số khả năng chuyển đổi của tài sản ngắn hạn
Ý nghĩa: Chỉ tiêu này chi biết khả năng chuyển đổi thành tiền của các tài
sản ngắn hạn, chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ tốc độ chuyển đổi tài sản ngắn hạn
thành vốn bằng tiền, chứng khoán dễ thanh toán khoản càng nhanh, góp phần
nâng cáo khả năng thanh toán.
*Vốn hoạt động thuần ngắn hạn
Vốn hoạt đồng thuần = tổng giá trị thuần - tổng số
ngắn hạn của TSNH nợ ngắn hạn
Ý nghĩa: Vốn hoạt động thuần ngắn hạn là chỉ tiêu phản ánh chênh lệch
giữa tổng giá trị thuần của tài sản ngắn hạn so với tổng số nợ ngắn hạn. Muốn
21
Hệ số khả năng thanh toán nợ ngắn hạn =
Tổng giá trị thuần TSNH
Tổng số nợ ngắn hạn
Hệ số khả năng chuyển đổi
của tài sản ngắn hạn
Tiền và các khoản tương đương tiền
Tổng giá trị thuần của TSNH

=

cho hoạt động kinh doanh của công ty diễn ra một cách liên túc, cần thiết phải
duy trì một mức vốn hoạt động thuần ngắn hạn phù hợp để thỏa mãn các khoản
nợ ngắn hạn. Vốn hoạt động thuần càng lớn thì khả năng thanh toán của công ty
càng cao. Tuy nhiên nếu vốn hoạt động thuần quá cao có thể dẫn đến hiệu quả sử
dụng vốn thấp.
c/ Đánh giá khái quát khả năng thanh toán nợ dài hạn của công ty:
*Hệ số nợ dài hạn so với tổng phải trả:
Hệ số nợ dài hạn so với tổng nợ phải trả
=
tổng nợ dài hạn
tổng nợ phải trả
Chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ nhu cầu thanh toán ngay thấp
*Hệ số nợ dài hạn so với tổng tài sản
Hệ số nợ dài hạn so với tổng tài sản
=
tổng nợ dài hạn
tổng tài sản
Ý nghĩa: chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ các tài sản của công ty chủ yếu tài
trợ từ vốn vay dài hạn, một phần thể hiện sử ổn định trong các hoạt động kinh
doanh, một phần thể hiện trách nhiệm của công ty trong việc thanh toán các
khoản nợ dài hạn trong tương lai.
*Hệ số thanh toán bình thường
Hệ số thanh toán bình thường
=
tổng giá trị thuần
Tổng công nợ
Ý nghĩa: Chỉ tiêu này đánh giá khái quát khả năng thanh toán của công ty
đối với các khoản công nợ, chỉ tiêu này càng cao khả năng thanh toán của công

ty là tốt góp phần ổn định hoạt động tài chính thúc đẩy hoạt động kinh doanh
phát triển.
22

×