Tải bản đầy đủ (.pdf) (178 trang)

Chính sách quản lý ngoại thương trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và vấn đề hoàn thiện pháp luật của việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.1 MB, 178 trang )


BỘ CÔNG THƯƠNG
_______________






ĐỀ TÀI NCKH


CHÍNH SÁCH QUẢN LÝ NGOẠI THƯƠNG TRONG
BỐI CẢNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ VÀ VẤN
ĐỀ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT CỦA VIỆT NAM


Chủ nhiệm đề tài:

Các thành viên:

Th.s Nguyễn Sinh Nhật Tân

Th.s Phạm Đình Thưởng
Th.s Nguyễn Việt Hùng
Th.s Bùi Bình Giang
Th.s Ngô Đức Minh
C.N Nguyễn Đức Hạnh
C.N Vũ Thị Vân Nga
C.N Trần Trung Hiếu
C.N Hoàng Thị Hải Hà


C.N Đào Thanh Dung
C.N Phạm Tuấn Long




7885
29/4/2010
MỤC LỤC

LỜI NÓI ĐẦU
1
1. Tính cấp thiết của Đề tài 1
2. Mục đích nghiên cứu 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3
4. Phương pháp nghiên cứu 3
5. Tổng quan nghiên cứu trong và ngoài nước 3
6. Đóng góp của Đề tài 5
Chương 1: NGHIÊN CỨU LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CHÍNH SÁCH NGOẠI THƯƠNG
VÀ CÁC CÔNG CỤ ĐƯỢC SỬ DỤNG TRONG NGOẠI THƯƠNG
6
1.1 Chính sách ngoại thương hiện đạ
i
6
1.1.1 Xu hướng chính sách ngoại thương được áp dụng trên thế giới 6
1.1.2 Khái niệm ngoại thương 9
1.1.3 Một số quan điểm về chính sách ngoại thương 10
1.2 Các công cụ thực hiện chính sách ngoại thương chủ yếu
13
1.2.1 Chính sách thuế quan 12

1.2.2 Chính sách phi thuế quan 15
1.2.3 Các biện pháp phòng vệ thương mại 24
1.2.4 Chính sách xúc tiến xuất khẩu 31
Chương 2: THỰC TRẠNG HỆ THỐNG CHÍNH SÁCH, PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ
NGOẠI THƯƠNG CỦA VI
ỆT NAM TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP KINH TẾ
QUỐC TẾ
34
2.1 Hệ thống chính sách, pháp luật về quản lý ngoại thương của Việt Nam hiện nay
34
2.1.1 Định hướng phát triển ngoại thương 34
2.1.2 Hệ thống chính sách, pháp luật về quản lý ngoại thương của Việt Nam 36
2.2 Những cam kết quốc tế liên quan đến ngoại thương
61
2.2.1 Hệ thống các cam kết quốc tế của Việt Nam 61
2.2.2 Các nội dung cam kết liên quan đến ngoại thương 62
2.2.3 Những đối xử đặc biệt và khác biệt trong các hiệp định dành cho Việt Nam 79
Chương 3: HỆ THỐNG PHÁP LUẬT VÀ THỂ CHẾ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
NGOẠI THƯƠNG CỦA MỘT SỐ NƯỚC VÀ BÀI HỌC CHO VIỆT NAM
94
3.1 Hệ thống pháp luật ngoại thương của một số nước trên thế giới
94
3.1.1 Hệ thống pháp luật quản lý hoạt động ngoại thương ở Hoa Kỳ 94
3.1.2 Các nước có luật ngoại thương 96
3.2 Mô hình các cơ quan quản lý nhà nước về ngoại thương của một số nước trên
thế giới
107
3.2.1. Mô hình của Thái Lan 107
3.2.2. Mô hình của Ấn Độ 109
3.2.3 Mô hình của Trung Quốc 111

3.2.4 Mô hình của Hoa Kỳ 112
Chương 4: NHỮNG KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN HỆ THỐNG PHÁP LUẬT VÀ THỂ
CHẾ ĐỂ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH NGOẠI THƯƠNG
114
4.1 Những tồn tại, hạn chế trong hệ thống quy phạm và quản lý nhà nước để thực
hiện chính sách ngoại thương của Việt Nam
114
4.1.1 Còn thiếu và bất cập trong nội dung các quy định pháp luật 114
4.1.2 Thiếu tính chiến lược trong việc sử dụng công cụ chính sách ngoại thương 118
4.1.3 Hệ thống pháp luật và cơ chế thực thi chưa cụ thể hóa được đường lối, chính
sách
121
4.2 Những vấn đề đặt ra nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật, thể chế để thực hiện
chính sách ngoại thương
122
4.2.1 Hệ thống pháp luật điều chỉnh ngoại thương còn tản mát và chồng chéo 123
4.2.2 Hệ thống pháp luật hiện hành chưa tạo được cơ sở pháp lý cơ bản để sử dụng
các công cụ quản lý ngoại thương
124
4.2.3 Năng lực sử dụng công cụ quản lý ngoại thương của cơ quan quản lý nhà nước
còn hạn chế
124
4.3 Những kiến nghị hoàn thiện pháp luật và nâng cao năng lực quản lý ngoại
thương
126
4.3.1 Yêu cầu hoàn thiện pháp luật và nâng cao năng lực quản lý ngoại thương 126
4.3.2 Kiến nghị hoàn thiện pháp luật 126
4.3.3 Kiến nghị nâng cao năng lực quản lý ngoại thương 128
KẾT LUẬN
131



Chính sách quản lý ngoại thương trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và vấn đề hoàn thiện pháp luật của Việt Nam


1
LỜI NÓI ĐẦU

Trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế,
cụ thể là suốt quá trình đàm phán gia nhập WTO từ năm 1995, Việt Nam đã liên tục
cải thiện chính sách, công cụ pháp luật để thực hiện quản lý các mặt của nền kinh tế
phù hợp với điều kiện hội nhập, nhất là chính sách ngoại thương.

Sau khi gia nhập WTO, Việt Nam vẫ
n đang nỗ lực hoàn thiện chính sách quản
lý nhà nước về thương mại, đặc biệt là thương mại quốc tế để tận dụng cơ hội hội
nhập đồng thời hạn chế những bất lợi về vị thế và năng lực cạnh tranh trong thương
mại quốc tế. Tuy nhiên, thực tiễn công tác quản lý nhà nước về thương mại cho thấy
Việt Nam ch
ưa có một hệ thống công cụ pháp luật hoàn chỉnh để điều hành xuất
khẩu, nhập khẩu, tận dụng những công cụ được WTO cho phép để tạo dựng các biện
pháp tự vệ thương mại và những hàng rào cần thiết để bảo vệ sản xuất trong nước,
chưa tận dụng được những đối xử khác biệt và đặc biệt mà WTO dành cho các nước
đang phát triển. Sau khi Lu
ật Thương mại 2005 ra đời, công tác điều hành xuất nhập
khẩu đã có những bước cải tiến rõ rệt, minh bạch hơn và tạo thuận lợi cho thương
mại hơn, song vẫn còn nhiều văn bản quy phạm tản mạn, rải rác ở nhiều khâu, nhiều
lĩnh vực rời rạc mà không nằm trong hệ thống chung.

Sự thiếu sót của các công cụ pháp luật để thực hi

ện chính sách ngoại thương
một cách có hiệu quả, điều đó thể hiện trong thời gian kể từ sau gia nhập WTO, công
tác điều hành xuất khẩu, nhập khẩu cũng đã gặp những khó khăn nhất định, như
không thúc đẩy được xuất khẩu ở những thời điểm có lợi nhất, không hạn chế được
hàng nhập khẩu kém chất lượng tràn lan vào thị trườ
ng Việt Nam.v.v.

Chính vì vậy, việc hoàn thiện các công cụ pháp luật để thực hiện chính sách
ngoại thương là hết sức cần thiết, cần phải được kiến nghị dựa trên những nghiên cứu
cụ thể về hệ thống hiện hành, về pháp luật và kinh nghiệm các nước, về khuôn khổ
pháp lý của WTO.
1. Tính cấp thiết của Đề tài
Trong những năm qua, mặc dù Chính phủ và các Bộ, ngành đ
ã có những nỗ
lực trong việc hoàn hệ thống pháp luật và đổi mới cơ chế, chính sách để phát triển
nền kinh tế thị trường và hội nhập. Luật Thương mại năm 2005 đã thực hiện pháp
điển hóa các quy định về thương mại và sau đó đã có nhiều văn bản dưới luật này
quy định chi tiết về hoạt động xuất, nhập khẩu và các hoạt độ
ng liên quan nhằm đảm
bảo khung pháp lý cho hoạt động ngoại thương. Tuy vậy, trong quản lý ngoại thương
vẫn còn những bất cập, cụ thể như sau:
- Về xuất khẩu hàng hóa, việc quản lý và điều hành xuất khẩu một số mặt
hàng chủ lực chưa phù hợp với thị trường (chẳng hạn mặt hàng gạo); chính sách xúc
tiến xuất khẩu chưa được thực hiệ
n một cách lâu dài trên cơ sở đánh giá hiệu quả và
có căn cứ cụ thể về lợi thế so sánh của hàng hóa sản xuất trong nước; chưa có công
cụ rõ ràng để thực hiện chuyển dịch cơ cấu xuât khẩu (tỷ trọng xuất khẩu hàng thô,
gia công vẫn chiếm đa số); chưa xác định được các biện pháp liên kết nhằm hỗ trợ
Chính sách quản lý ngoại thương trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và vấn đề hoàn thiện pháp luật của Việt Nam



2
sản xuất trong nước (kể cả về kỹ thuật, công nghệ) để khuyến khích xuất khẩu theo
hướng tăng sức cạnh tranh (ví dụ các địa phương đề xuất hỗ trợ giống lúa, giống mía,
công nghệ sau thu hoạch… nhưng chưa có… cơ chế).
- Về nhập khẩu hàng hóa, chúng ta chưa kiểm soát được tình trạng hàng nhập
khẩu, thể hiện ở ba điểm chính. Một là, chưa ki
ểm soát được kim ngạch nhập khẩu,
bao gồm kim ngạch nhập khẩu chung một cách cập nhật và kim ngạch nhập khẩu
theo từng mặt hàng có khả năng ảnh hưởng đến ngành công nghiệp trong nước. Hai
là, chưa kiểm soát được chất lượng hàng nhập khẩu, nhất là hàng có xuất xứ từ Trung
Quốc. Ba là, chưa kiểm soát được khả năng bán phá giá hoặc trợ cấp của hàng nhập
khẩu vào thị tr
ường Việt Nam. Do vậy, chúng ta đặt ra các sắc thuế nhập khẩu đa số
dựa trên thực hiện cam kết mà không phải dựa trên tính toán kinh tế và cũng chưa sử
dụng được các công cụ tự vệ thương mại. Hệ quả của những hạn chế này là không
kiểm soát được thâm hụt thương mại hàng hóa và thâm hụt cán cân vãng lai, dễ dẫn
đến lạm phát và khủng hoảng, nhân dân phải tiêu dùng sản phẩm độc h
ại, doanh
nghiệp phải chịu cạnh tranh không lành mạnh với nước ngòai ngay trên thị trường
nội địa.
- Về thương mại dịch vụ: Ngoài các quy định trong các ngành dịch vụ kinh
doanh có điều kiện, hiện chúng ta chưa có các quy định nhằm thực hiện quản lý xuất,
nhập khẩu dịch vụ, nhất là theo các mode 1 và 4.
- Bên cạnh đó, do không có một chiến lược quản lý ngoại thương thống nhất,
minh bạch, lâu dài nên các doanh nghi
ệp thường phải chịu những quyết định “bất
ngờ” của cơ quan quản lý nhà nước. Ví dụ, việc cấp phép tự động được thực hiện đối
với một số mặt hàng tiêu dùng nhưng được thực hiện gấp làm cho rất nhiều hàng hóa
về đến cảng nhưng không được khai báo hải quan, gây thiệt hại cho doanh nghiệp

nhập khẩu, cũng là thiệt hại chung cho nền kinh tế
vì tiền hàng đã thanh toán thì
không có giá trị làm giảm nhập siêu. Hoặc quy định tăng thuế suất thuế nhập khẩu
của một số mặt hàng (thép) nhưng được thực hiện có hiệu lực trở về trước làm cho
doanh nghiệp phải chịu truy thu mức thuế có thể dẫn đến phá sản. Trong hoạt động
xuất khẩu, do không có một chính sách ổn định cho xuất khẩu và sản xuất nên trong
nhiều nă
m liền người sản xuất hàng xuất khẩu luôn phải chạy theo sự thay đổi vốn
thất thường của thị trường. Ví dụ, khi giá café tăng thì nông dân thi nhau trồng,
nhưng giá xuống thì phá bỏ, và như vậy luôn làm hao phí nguồn lực lao động và tài
nguyên đất. Trong một số hoạt động cũng chưa có các quy định cho thương nhân
họat động, ví dụ thực hiện mua bán tại Sở giao dịch hàng hóa ở nước ngoài. Trong
thương mạ
i dịch vụ, hiện nay, nhiều thương nhân gặp phải các vấn đề kinh doanh
thực tiễn nhưng chưa có pháp luật điều chỉnh. Chẳng hạn làm đại lý trong một số
ngành dịch vụ cho thương nhân nước ngoài
Chính vì vậy, một nghiên cứu toàn diện về chính sách và hệ thống pháp luật
quản lý ngoại thương nhằm đưa ra giải pháp khắc phục các bất cập trên là một yêu
cầu cấp thi
ết.
2. Mục đích nghiên cứu
Chính sách quản lý ngoại thương trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và vấn đề hoàn thiện pháp luật của Việt Nam


3
Nghiên cứu này nhằm chỉ ra những bất cập của hệ thống chính sách và pháp
luật cũng như việc sử dụng các công cụ trong quản lý ngoại thương hiện nay nhằm
đề xuất các giải pháp khắc phục.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Về mặt lý thuyết, Đề tài nghiên cứu các lý thuyết hiện đại về chính sách ngoại

thương và nghiên cứu cơ bản các công cụ quản lý ngoại thươ
ng tạo cơ sở đánh giá
thực trạng của Việt Nam. Đề tài nghiên cứu và đánh giá thực trạng hệ thống chính
sách và pháp luật hiện hành liên quan đến quản lý ngoại thương để chỉ ra những tồn
tại, đồng thời nghiên cứu chính sách, pháp luật và hệ thống cơ quan quản lý nhà
nước về ngoại thương của một số nước để rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.
4.
Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở áp dụng những phương pháp nghiên cứu chung trong khoa học xã
hội, Nhóm nghiên cứu sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể sau đây:
• Phương pháp lịch sử

Đề tài nghiên cứu một lĩnh vực chính sách, pháp luật kinh tế được áp dụng
trong thực tiễn, do vậy cần thiết phải sử dụng phương pháp lịch sử để tổng hợp vấn
đề trong mộ
t khoảng thời gian dài. Sử dụng phương pháp này,

• Phương pháp điển cứu (nghiên cứu trường hợp)

Để rút ra bài học kinh nghiệm, Đề tài sử dụng phương pháp này để nghiên cứu
một số trường hợp đã xảy ra trong thực tiễn phản ánh những tồn tại, bất cập của các
quy định hiện hành.

• Phương pháp toán học

Để có thể đánh giá các số liệ
u nghiên cứu cũng như đánh giá về mặt lý thuyết
tính hiệu quả của chính sách, Đề tài sử dụng phương pháp toán học để phân tích và
đưa ra những đánh giá những công cụ được sử dụng trong quản lý ngoại thương.
5. Tổng quan nghiên cứu trong và ngoài nước

* Nghiên cứu ngoài nước:

Một số nghiên cứu ở nước ngoài có liên quan. Tuy nhiên không có đề tài nào
giải quyết mục tiêu mà nghiên cứu này đặt ra. Một số đề tài c
ụ thể, bao gồm:

- Tên : Developing country trade policy reform and the WTO
Tác giả: Razeen Sally – Giảng viên đại học London School of Economic and
Political Science 17/11/1999.

Chính sách quản lý ngoại thương trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và vấn đề hoàn thiện pháp luật của Việt Nam


4
Đề tài khoa học đề cập đến tiến trình cải cách các chính sách ngoại thương tại
các nước đang phát triển, từ khi các nước còn trong tiến trình cải cách trong nước, đề
ra các chính sách ngoại thương và tiến tới đồng bộ hóa với các quy định của WTO.
Đề tài đề cập đến 3 con đường mà các nước sử dụng để đồng bộ hóa các quy định
trong nước đó với các quy định của WTO.

- Tên : United States and EU trade policies and East Asia
Tác giả: Peter Drysdale and Christopher Findlay - Australian and Japan
Research Center. Pacific Economic Papers 2006.

Đề tài đề cập đến sự thiếu ăn khớp giữa các chính sách ngoại thương của Hoa
Kỳ và Liên Minh Châu âu ảnh hưởng rất lớn đến các động lực của các nước đang
phát triển hoàn thành các nghĩa vụ của WTO. Đề tài muốn giải quyết vấn đề liệu có
một giải pháp để gây sức ép lên Hoa Kỳ và EU từ các nước đang phát triển (nhất là ở
khu vực Đông Á) để tạ
o ra một sự ăn khớp trong các chính sách ngoại thương các

nước này.

- Tên : Trade policies and Economic Growth
Tác giả: Francisco Rodriguez (University of Maryland) and Dani Rodrik
(Kennedy School of Government – Havard University) 2000

Đề tài sử dụng các thước đo, tính toán kinh tế để đo đạc ảnh hưởng của các
chính sách ngoại thương lên tăng trưởng kinh tế. Cơ sở dữ liệu được tập hợp dựa trên
số liệu của hầu hết các quốc gia đã tham gia WTO và một số không tham gia WTO,
được chia thành các khu vực kinh t
ế tại cả 5 châu lục.
* Nghiên cứu trong nước:
Trong nước, đã có một số công trình nghiên cứu về các khía cạnh khác nhau
của chính sách kinh tế nói chung và chính sách ngoại thương nói riêng, tuy nhiên
chưa có nghiên cứu nào toàn diện về hệ thống pháp luật liên quan đến ngoại thương,
cụ thể có một số nghiên cứu sau:
- David O. Dapice: “Chính sách kinh tế của Việt Nam từ năm 2001” (2003):
đây là nghiên cứu nhiều mặt về chính sách kinh tế của Việt Nam tuy nhiên ở mức
độ
cơ bản và ngắn gọn. Đề cập đến chính sách ngoại thương, nghiên cứu này chỉ nêu ra
những khía cạnh cơ bản mà chưa có đề xuất cụ thể về cải cách pháp luật.
- Luận án Tiến sĩ Kinh tế cấp Nhà nước “Điều chỉnh chính sách thương mại
của các nước đang phát triển ở Châu Á trong mối quan hệ với công nghiệp hoá, hiện
đại hoá và hội nhập kinh tế
quốc tế - Bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam”. (NCS
Phạm Thị Hồng Yến) Ngày 15/9/2008.
Nghiên cứu tìm hiểu kinh nghiệm điều chỉnh chính sách thương mại của một
số nước đang phát triển ở châu Á trong quá trình CNH, HĐH và hội nhập KTQT và
rút ra những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam cũng như đề xuất phương hướng và
giải pháp vận dụng các kinh nghiệm đó vào điều chỉnh chính sách thươ

ng mại của
Chính sách quản lý ngoại thương trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và vấn đề hoàn thiện pháp luật của Việt Nam


5
Việt Nam nhằm thực hiện thành công sự nghiệp CNH, HĐH trong điều kiện chủ
động hội nhập KTQT.
- Luận án Tiến sỹ Kinh tế “Các biện pháp vượt rào cản phi thuế quan trong
thương mại quốc tế nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam”.
Người thực hiện: NCS Đào Thị Thu Giang (Ngày 02/10/2008)
Nghiên cứu này nghiên cứu các rào cản phi thuế quan trong thương mại quốc
tế nhằm cung cấ
p luận cứ khoa học cho việc đàm phán, yêu cầu đối tác mở cửa thị
trường và tìm ra các biện pháp thích hợp để vượt được các rào cản, qua đó đẩy mạnh
xuất khẩu.
- Đề tài “Một số giải pháp vượt rào cản kỹ thuật thương mại trong xu thế hội
nhập kinh tế quốc tế: áp dụng cho thành phố Hà Nội”, do PGS,TS Nguyễn Hữu Khải
làm chủ nhiệm đề tài, dự
kiến đề tài kết thúc tháng 12 năm 2008. Sau khi nghiệm thu
chính thức đề tài được xuất bản thành sách dùng làm tài liệu tham khảo cho Bộ Công
thương, Thành phố Hà Nội trong việc vượt qua các rào cản kỹ thuật thương mại
nhằm đẩy mạnh xuất khẩu, đáp ứng hội nhập kinh tế quốc tế; Các trường đại học
khối kinh tế, các cơ quan nghiên cứu.
6. Đóng góp của Đề tài
Đề tài có những
đóng góp sau đây:

- Tổng hợp và đánh giá các nghiên cứu lý thuyết kinh tế về ngoại thương;
- Nghiên cứu toàn diện các công cụ sử dụng trong quản lý ngoại thương;
- Đánh giá và rút ra bài học từ chính sách và pháp luật các nước về ngoại

thương;
- Chỉ ra những tồn tại, bất cập của pháp luật hiện hành về ngoại thương của
Việt Nam;
- Chỉ ra những nội dung cam kết và đối xử khác bi
ệt và đặc biệt dành cho Việt
Nam trong các cam kết quốc tế;
- Kiến nghị những giải pháp cụ thể để hoàn thiện hệ thống pháp luật làm công
cụ thực hiện chính sách ngoại thương.

Chính sách quản lý ngoại thương trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và vấn đề hoàn thiện pháp luật của Việt Nam


6
Chương 1
NGHIÊN CỨU LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CHÍNH SÁCH NGOẠI THƯƠNG VÀ
CÁC CÔNG CỤ ĐƯỢC SỬ DỤNG TRONG NGOẠI THƯƠNG

1.1 Chính sách ngoại thương hiện đại
1.1.1 Xu hướng chính sách ngoại thương được áp dụng trên thế giới
Xét trên khía cạnh lịch sử kinh tế, trong những thập kỷ gần đây, hầu hết các
quốc gia đang phát triển đều sử dụng một trong hai chính sách (chiến lược) ngoạ
i
thương chính, đó là (1) công nghiệp hóa thế nhập khẩu (import substituting
industrialization) và (2) công nghiệp hóa hướng xuất khẩu (export-oriented
industrialization).
1

Trên phương diện lý thuyết, các chiến lược này đòi hỏi các quốc gia thực hiện
các yêu cầu cụ thể khác nhau xuất phát từ những đặc điểm của từng chiến lược
(Bảng 1).

Bảng 1: Chính sách ngoại thương và hai chiến lược phát triển
Nội dung Thay thế nhập khẩu Định hướng xuất khẩu
Mục tiêu
Phát triển năng lực các ngành sản xuất
trong nước để thay thế hàng nhập khẩu.
Phát triển dựa trên lợi thế so
sanh của các ngành mạnh nhất:
Sự thịnh vượng có tác dụng lan
tỏa
Công cụ c/s
Rào cản thương mại, trợ cấp và chính
sách ngoại hối (gia tăng giá trị đồng nội
tệ) là cần thiết để bảo vệ các ngành công
nghiệp non trẻ trong nước: sự can thiệp
của nhà nước thay thế cho giá thị
trường.
Tự do hóa thương mại (mở
rộng các cam kết quốc tế, cởi
mở các cam kết có sẵn).
Áp dụng các biện pháp phá giá
để mở rộng th
ị trường.
Lợi ích
Rút ngắn khoảng cách công nghệ
Gia tăng khả năng điều phối vĩ mô và
sức mạnh tổng hợp của nền kinh tế.
Thu được nhiều ngoại tệ.
Lợi thế cạnh tranh nhiều mặt.
Chuyển giao công nghệ (nếu
có)

Tạo nhiều công ăn việc làm
Mặt trái
Hạn chế mức độ cạnh tranh
Thị trường các yếu tố đầu vào bị méo
mó, thiếu hụt.
Chi phí hành chính tăng cao.
Thâm hụt cán cân thương mại kéo dài
(do duy trì nhập khẩu trong nhiều năm).
Ảnh hưởng lớn của các nhóm lợi ích.
(Các ngành công nghiệp non trẻ từ chối
“trưởng thành”).
Thiếu thông tin nhiều mặt về
thị trường, đối tác
Gặp phải vấn đề tiếp cậ
n thị
trường (do các đối tác dựng rào
cản)
Khó khăn tạo sự lan tỏa lợi ích
trong nền kinh tế (khó để thuyết
phục các nhóm lợi ích về tự do
hóa thương mại)

1
Chang Ha Joon,(2002), “Kick away the development ladder”, Antchem Press London 2002.
Chính sách quản lý ngoại thương trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và vấn đề hoàn thiện pháp luật của Việt Nam


7
Phát triển sản xuất thay thế nhập khẩu là một hướng chiến lược chủ chốt của
các nước đang phát triển từ sau chiến tranh thế giới thứ hai đến những năm giữa thập

niên 80. Xuất phát từ những nghiên cứu gần như đồng thời của Singer (1949, phát
biểu tại Liên Hiệp Quốc) và Raúl Prebisch (1950) trong đó ý tưởng chủ đạo của các
tác giả là sự mất cân bằng v
ề sức mạnh giữa các ngành công nghiệp mới của các
nước đang phát triển và các nước công nghiệp phát triển hùng mạnh và rằng hầu hết
phát triển trong thời kỳ đầu công nghiệp hóa của mình đã áp dụng triệt để những
công cụ hạn chế nhập khẩu
2
, hầu hết các nước đang phát triển từ Châu Á (nhất là tại
các nước Nam Á), Châu Phi và nhất là các nước Mỹ La tinh đã áp dụng triệt để chiến
lược phát triển này nhằm bảo hộ nền công nghiệp trong nước. Với mục đích đó, các
nước này đã đặt các hàng rào thuế quan rất cao nhằm ngăn chặn dòng nhập khẩu từ
bên ngoài (Bảng 2).
Bảng 2: Hàng rào thuế quan thực tế tại m
ột số nước đang phát triển
Quốc gia Năm Thuế suất gộp đối với hàng nhập khẩu (%)
Mexico 1960 26
Philippines 1965 61
Brazil 1966 113
Chile 1961 182
Pakistan 1963 271
Nguồn: Balassa (1971) The structure of protection in developing countries.
Tuy nhiên, cho đến cuối thập niên 70 và đầu thập niên 80, các chính sách
ngoại thương này đã bộc lộ những yếu điểm, trên thực tế nó không hoàn toàn phù
hợp cho giai đoạn sau của công nghiệp hóa. Những năm đầu thập niên 80 của thế kỉ
trước chứng kiến hàng loạt những cuộc cải cách ngoại thương quy mô lớn và triệt để
tại các quốc gia mà ở đó chính sách phát triển sản xuất thay thế nh
ập khẩu đã từng
thượng tôn trong hàng thập kỷ. Hàng rào thuế quan được hạ xuống ở hầu hết các khu
vực trên thế giới (Biểu đồ 1).

Biểu đồ 1: Hàng rào thuế quan tại các nước đang phát triển 1980-1999

Nguồn: World Bank (2001)


2
Xem CHANG Ha Joon,(2002), « Kick away the development ladder », Antchem Press London 2002.
Chính sách quản lý ngoại thương trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và vấn đề hoàn thiện pháp luật của Việt Nam


8
Trên thực tế, hầu hết các quốc gia bám chặt lấy hệ thống chính sách phát triển
này đều đã thất bại. Từ những năm 1950 cho đến những năm của thập kỷ 70, người
dân Ấn Độ chỉ thấy thu nhập của họ tăng vài phần trăm (ví dụ của Ấn Độ phản ánh
tình trạng chung của các nước Nam Á). Các nước Châu Mỹ latin có nước ở trong
tình trạng cải thi
ện hơn chút ít (Braxin) nhưng cũng có nước trước đó được xếp hạng
là nước giàu phải chứng kiến thu nhập trên đầu người của họ sụt giảm(Áchentina)
cho đến khi những cải cách ngoại thương được áp dụng. Tại Châu Mỹ Latin
3
, chỉ có
duy nhất một nước đã vươn lên để trở nên giàu có hơn là Chilê do đã có một bước
chuyển hướng chiến lược vào giữa những năm 70: dưới sự độc tài của giới quân sự,
đặc biệt của tướng Pinôchê, đất nước Chilê gặp phải rất nhiều khó khăn do kinh tế
suy giảm nghiêm trọng (giá của nhôm – sản phẩm xuất khẩu duy nhất của Chilê đã
sụt gi
ảm nghiêm trọng). Tuy nhiên, dưới ảnh hưởng của một nhóm các nhà kinh tế
học theo trường phái Chicago, chính sách ngoại thương của Chilê đã sang một bước
hoàn toàn khác: các hàng rào thuế quan được hạ xuống triệt để, tỉ trọng xuất nhập
khẩu tăng cao. Kể từ sau các cuộc cải cách đó, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Chilê

đã vượt xa các nước láng giềng thuộc Châu Mỹ Latin và có thể sánh vai với các
“nước Châu Á tă
ng trưởng kinh tế cao” (HPAEs)
4
.
Bên cạnh những câu chuyện thành công của một số nước Châu Mỹ Latinh, sẽ
là một thiếu sót lớn nếu như không nhắc đến bài học thành công (thường được nhắc
đến như “những điều kỳ diệu”) của các nước ngay trong khu vực Đông Á. Trên thực
tế, chiến lược mà Chilê theo đuổi chính là chính sách phát triển hướng đến xuất khẩu
– chiến lược mà các quốc gia thuộc nhóm HPAEs đã theo đu
ổi từ những năm 50 của
thế kỉ trước. Có thể chia các nước này làm 3 nhóm: Nhóm đầu tiên chỉ có Nhật Bản –
nước đã áp dụng chiến lược này rất sớm và nay đã đạt mức thu nhập bình quân đầu
người ngang với các nước phát triển Tây Âu và Bắc Mỹ; nhóm thứ hai xuất phát
chậm hơn trong những năm 60 gồm có bốn nước và vùng lãnh thổ là Hàn Quốc, Đài
Loan, Hồng Kông, Singapore – tất cả các nước này
đều có thu nhập bình quân đầu
người xấp xỉ các nước phát triển theo tiêu chí của OECD; nhóm cuối cùng gồm
những nước có xuất phát sau cùng vào cuối những năm 70 nhưng có cùng một định
hướng chiến lược là Indonesia, Thái Lan, Malaixia và Trung Quốc. Các nước này
hầu hết đều có tốc độ tăng trưởng kinh tế 8-9 phần trăm một năm (trường hợp của
Trung Quốc còn trên 10%). Các nước này hầu hết đều có chung các đặc điể
m: đó là
độ mở của nền kinh tế tương đối lớn (tỉ trọng xuất nhập khẩu trên GDP), các hàng
rào thuế quan được hạ xuống thấp.
Tuy vậy, những thành công cũng như thất bại của các nước đang phát triển
trên thế giới không thể chỉ được kết luận bởi việc áp dụng chiến lược phát triển này
hay chiến lược phát triển kia. Các nhà kinh tế học hiện nay v
ẫn còn đang trăn trở với
câu hỏi: Liệu chiến lược sản xuất thay thế nhập khẩu có hoàn toàn sai lầm hay

không? Tự do hóa thương mại có phải là lời giải cho phát triển kinh tế thần kỳ hay
không? Các nghiên cứu thực nghiệm (empirical studies) đều cho các kết quả không
rõ ràng
5
: Hoặc là các nước HPAEs đều hạ hàng rào thuế quan nhưng không triệt tiêu

3
Rajagopal(2003),Institutional reforms and Trade competitiveness in Latin America, Institute of Technology
and Higher Education, Mehico.
4
High Performance Asian Economies.
5
Xem Krugman. P, Osfeld. M, International Economic. Theory and Policy. 7th Edition, Addison and Wesley
Publisher.
Chính sách quản lý ngoại thương trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và vấn đề hoàn thiện pháp luật của Việt Nam


9
hoàn toàn hoặc tất cả các nước đều sử dụng các biện pháp phi thuế quan (TBT, SPS)
khác để hạn chế ngoại thương (Biểu đồ 2):
Biểu đồ 2: Xu hướng tăng sử dụng hàng rào kỹ thuật/Xu hướng giảm thuế quan
tại các nước phát triển và đang phát triển

Ngoài ra, nhiều nghiên cứu cho rằng việc áp dụng rập khuôn các mô hình phát
triển chưa chắc đã mang lại hiệu quả tốt nhất cho nền kinh tế. Theo đó, việc tốt nhất
mà các nước đang phát triển có thể làm là áp dụng các công cụ chính sách ngoại
thương một cách tốt nhất trong hoàn cảnh của các nước đó thông qua các thể chế
hiện có. Một bước đột phá trong hiệu quả sử dụng các công cụ củ
a chính sách ngoại
thương chỉ có thể thông qua sự cải cách các thể chế hiện có (tăng cường năng lực, sự

phối hợp, trao quyền ) khiến chúng hoạt động hiệu quả hơn, tận dụng tốt hơn các
công cụ sẵn có.
6

1.1.2 Khái niệm ngoại thương
Một cách đơn giản, ngoại thương được hiểu là sự buôn bán, trao đổi xuyên
biên giới, với các nước, lãnh thổ bên ngoài bao gồm toàn bộ các giao dịch xuất nhập
khẩu hàng hóa và dịch vụ.
Mặc dù trên nguyên tắc, khái niệm ngoại thương là tương đối rõ ràng nhưng
vẫn có nhiều các ý kiến khác nhau khi xem xét nó dưới khía cạnh các chủ thể của
buôn bán xuyên biên giới, quốc tế. Nội hàm của khái niệm, trên thự
c tế cũng được
xem xét theo sự phát triển của thương mại thế giới. Trước đây, nói đến ngoại thương
là nói đến thương mại hàng hóa vượt ra khỏi biên giới. Sau này, thương mại dịch vụ
trở thành một lĩnh vực quan trọng của thương mại quốc tế (xét từ một quốc gia là
ngoại thương). Kim ngạch dịch vụ đã lên tới gần 2000 tỉ USD (tính trong năm 2005)
7

tức gần bằng 1/5 tổng kim ngạch thương mại toàn cầu (ước tính vào khoảng hơn

6
Marion Jansen, Hildegunn Kyvik Nordås
,
(2004),Institution, trade policy and trade flow, WTO Working
Papers ERSD-2004-02
.
7

Chính sách quản lý ngoại thương trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và vấn đề hoàn thiện pháp luật của Việt Nam



10
10.000 tỉ USD). Ngoài ra, việc đưa yếu tố dịch vụ vào khuôn khổ luật pháp thương
mại quốc tế - GATT (GATS) cũng là một bằng chứng cho thấy thương mại dịch vụ
là một phần không thể tách rời của ngoại thương
8
.
1.1.3 Một số quan điểm về chính sách ngoại thương
Các nghiên cứu về ngoại thương thường được thực hiện xung quanh ba khu
vực nghiên cứu chính: (a) lý thuyết về ngoại thương; (b) các nghiên cứu thực
nghiệm; (c) chính sách ngoại thương. Khu vực nghiên cứu đầu tiên nhằm mang đến
hiểu biết một cách sâu sắc, cơ bản về ngoại thương thông qua những mô hình được
cấu trúc chặt chẽ và những giả thuy
ết chuyên biệt. Khu vực nghiên cứu thứ hai nhằm
mục đích khảo nghiệm những tìm tòi do khu vực nghiên cứu thứ nhất đã tìm ra,
nghiên cứu các dòng thương mại toàn cầu hoặc tìm ra các mối quan hệ giữa các chỉ
số kinh tế quan trọng với vai trò của ngoại thương. Về khu vực thứ ba, nghiên cứu
chính sách ngoại thương – như mọi chính sách kinh tế khác của Chính phủ, nhằm
mục đích phân tích các can thiệp trực ti
ếp hay gián tiếp của Chính phủ vào môi
trường buôn bán hàng hóa, dịch vụ quốc tế. Những phân tích này thường đưa đến kết
luận về những nhóm được hưởng lợi (winners) và những nhóm chịu thiệt thòi
(losers) từ hoạt động ngoại thương sau khi có sự can thiệp của hệ thống chính sách
ngoại thương của Chính phủ. Nói như vậy, chính sách ngoại thương là một hệ thống
mở: chúng chịu ảnh hưở
ng của các lợi ích từ các nhóm khác nhau của nền kinh tế và
do vậy, phải phản ánh được những lợi ích của các nhóm này trong nội hàm của các
chính sách.
Hiện nay, cách hiểu về chính sách ngoại thương rất phong phú, phụ thuộc rất
lớn vào góc nhìn của các đối tượng nghiên cứu chúng. Tựu chung lại, có thể tập hợp

lại 2 dòng quan điểm chính: (1) Dòng thứ nhất, theo cách hiểu của hầu hết các nhà
nghiên cứu kinh tế học thuần túy, h
ướng đến nghiên cứu chính sách ngoại thương
như những công cụ kinh tế áp dụng tại biên giới (on the border lines) bao gồm (a)
hàng rào thuế quan xuất, nhập khẩu, (b) hạn chế định lượng xuất khẩu và các biện
pháp cấm, (c) trợ cấp xuất khẩu, (d) đàm phán các hiệp định thương mại. Các chính
sách liên quan đến dòng quan điểm này phải đáp ứng được các yêu cầu về tạo ra
những khuyến khích tạo động c
ơ tăng trưởng thông qua việc giảm các hàng rào thuế
quan, giảm các nhũng nhiễu hải quan, tạo thông thoáng cho dòng hàng hóa, dịch vụ
xuyên biên giới với chi phí giao dịch thấp. Dòng quan điểm này có thể được mở rộng
hơn bằng việc phân tích thêm các chính sách bổ trợ cho các các công cụ áp dụng tại
biên giới, gọi là các chính sách “đằng sau biên giới” (behind the border lines). Những
chính sách này có mục tiêu cụ thể nhằm đưa ra các quy chuẩn, tiêu chuẩn kĩ thuật
vừa phát triể
n công nghiệp nội địa vừa tạo ra các hàng rào kĩ thuật khi có nhu cầu
cấp thiết phải bảo hộ công nghiệp trong nước, các chính sách phát triển hỗ trợ công
nghiệp, đầu tư, xúc tiến thương mại Các nghiên cứu theo hướng này đã xuất hiện
rất sớm, khởi phát từ bình minh của thương mại quốc tế cho đến ngày nay. Tuy
nhiên, cùng với thời gian, các hướng nghiên cứu dựa trên quan điểm này đang gặp
phải những khó khăn nhất định. Quá trình tự do hóa thương mại được hỗ trợ mạnh
mẽ của các khuôn khổ quốc tế - các hiệp định thương mại quốc tế (song phương, đa

8
Manual of Statistics on international trade in services (2002) Department of economic and social affairs-
United Nations.
Chính sách quản lý ngoại thương trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và vấn đề hoàn thiện pháp luật của Việt Nam


11

phương) làm giảm hiệu quả quản lý rõ rệt, thậm chí “khai tử” nhiều công cụ chính
sách áp dụng tại biên giới; chính sách thương mại phải đối mặt với độ phức tạp gia
tăng với sự giao thoa chặt chẽ với các lĩnh vực chính sách khác như khoa học công
nghệ (an toàn thực phẩm, bảo vệ môi trường), với xu hướng tiêu dùng (bảo vệ súc
vật, lao động trẻ em), với văn hóa – xã hội (phát tri
ển bền vững, nhận dạng văn hóa,
các tiêu chuẩn lao động ). Và như là một kết quả tất yếu, chính sách ngoại thương
đã được mở rộng đến những câu hỏi tưởng chừng hoàn toàn nằm ngoài phạm vi
nghiên cứu như: Việc hạn chế buôn bán một số loài thủy sản thông qua áp đặt các
phương pháp đánh bắt có được lý giải hợp lý bởi sự bảo vệ các loài đó khỏi s
ự nguy
hiểm hay không? Việc yêu sách một số đối tác xuất khẩu (các nước đang phát triển)
phải đáp ứng các tiêu chuẩn về lao động (nhất là về lao động trẻ em, an toàn lao
động) của các nước phát triển là một biện pháp bảo vệ quyền con người hay là bảo
hộ trá hình không? Áp đặt yêu cầu về tiêu chuẩn môi trường của Châu Âu cho một
đối tác xuất khẩu đang phát triển của Châu Phi là hành động bảo vệ môi tr
ường hay
hành vi bảo hộ hàng hóa trong nước? v.v. Những câu hỏi như vậy là những chủ đề
tranh cãi của cả khoa học và ứng dụng chính sách.
Để trả lời cho các khó khăn mà các chính sách ngoại thương theo dòng quan
điểm thứ nhất gặp phải, (2) một dòng quan điểm mới được chấp nhận và cổ vũ bởi
các nhà hoạch định chính sách, bởi các tổ chức quốc tế (đặc biệt là WB) và bởi một
nhóm đang mở rộng các nhà kinh tế theo trường phái kinh tế học thể chế (the
institutionalists và neo-institutionalist): đó là chính là trường phái hướng chính sách
đến các vấn đề về thể chế (behind the border lines).
Trên thực tế, dòng quan điểm này không còn quá mới đối với kinh tế học mà
tổ chức quốc tế như Ngân hàng thế giới (WB), Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB)
hay các tổ chức hợp tác kinh tế như OECD (Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế)
đều đã bắ
t đầu triển khai các nghiên cứu theo hướng này từ giữa thập niên 80. Xuất

phát từ những nghiên cứu của giải Nobel kinh tế học D.North (1990) cho rằng sự
khác biệt về thu nhập trên thế giới nằm chủ yếu tại sự khác biệt về chất lượng thể
chế
9
, các nghiên cứu về “quản trị khu vực công” (public sector governance)
10
của
Ngân hàng thế giới với một sêri các nghiên cứu nền tảng của Daniel Kaufman và
đồng sự
11
hay các nghiên cứu về chất lượng thể chế tác động đến môi trường kinh
doanh thông qua sêri nghiên cứu hàng năm Doing Business (“Môi trường kinh
doanh”) được triển khai trên diện rộng và có tác động rất sâu rộng đến các nhà hoạch
định chính sách tại các nước đang phát triển. Từ những gợi ý theo hướng này, các
chương trình hợp tác, trợ giúp các quốc gia đang phát triển của các tổ chức quốc tế
song phương hoặc đa phương đã đi sâu tìm tòi chi tiết
đến từng ngành, lĩnh vực của
nền kinh tế cũng như theo từng khu vực chính sách của quản lý Nhà nước theo
hướng cải cách thể chế (institutional reforms) và xây dựng năng lực (capacity
building).

9
Douglass C. North,(1990), Institutions, Institutional Change, and Economic Performance, Cambrigde
University Press Edition.
10

11
Daniel Kaufmann, Aart Kraay and Massimo Mastruzzi, “Governance Matters I to VII”, The World Bank
Working Paper Series từ 1995-2009.
Chính sách quản lý ngoại thương trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và vấn đề hoàn thiện pháp luật của Việt Nam



12
Mặc dù là một lĩnh vực quan trọng, các nghiên cứu thể chế liên quan
đến chính sách ngoại thương dường như còn bị lép về so với các nghiên cứu
hướng đến môi trường kinh doanh, trợ giúp doanh nghiệp vừa và nhỏ hay
hoạch định chính sách kinh tế vĩ mô hướng. Bên cạnh đó, như đã trình bày ở
trên, nhiều nghiên cứu loại này lại hướng chủ yếu đến phân tích các công cụ,
tính đầy đủ và hiệu quả của các công c
ụ này thông qua các phân tích định
lượng sắc sảo nhưng không xây dựng nên được một nền tảng lý thuyết phân
tích các vấn đề thiết chế, cơ chế xoay quanh chính sách ngoại thương. Vấn
đề chủ yếu nằm ở chỗ hướng nghiên cứu đó chỉ hiểu theo cách hạn hẹp là
chính sách ngoại thương tương đương với việc áp dụng các công cụ chính
sách tại biên giới, thiết lập các công cụ bổ tr
ợ “đằng sau biên giới”. Ngược
lại, kinh tế học thể chế cho rằng chính sách ngoại thương phải được hiểu
theo một nghĩa rộng hơn: đó là phải được nhìn theo sự vận động của cả nền
kinh tế, trong đó các thiết chế hoạt động vốn riêng rẽ nay phải có các cơ chế
để đánh giá mức độ hiệu quả của các thiết chế này (các thiết ch
ế đã làm việc
hiểu quả, đã đáp ứng các yêu cầu chưa) cũng như giúp chúng làm việc với
nhau (khi nhiều thiết chế phải hoạt động) phục vụ cho một chiến lược ngoại
thương cụ thể, với các định hướng, mục tiêu rõ ràng (và nếu như các cơ chế
phối hợp này đã có sẵn thì điều gì khiến chúng không hiệu quả). Các thiết
chế trong dòng quan
điểm này có thể hiểu là các cơ quan chính phủ, các cơ
quan đại diện của xã hội dân sự, và thậm chí các tầng lớp nhân dân. Sự
thừa nhận chính sách ngoại thương theo nghĩa rộng có ý muốn nói rằng
chính phủ và xã hội dân sự phải có một mục tiêu rộng, tổng thể và phải xem

xét thực hiện các mục tiêu đó trong mối quan hệ tương hỗ giữa nhiều khu
vực chính sách khác nhau cũng như phải xem xét
đến tính hiệu quả của hệ
thống thể chế hiện hữu.
1.2 Các công cụ thực hiện chính sách ngoại thương chủ yếu
1.2.1 Chính sách thuế quan
a) Khái niệm
Thuế quan là các loại thuế áp dụng đối với hàng hóa được chuyên chở qua
biên giới quốc gia hoặc lãnh thổ hải quan. Thuế quan gồm thuế xuất khẩu và thuế
nhập khẩu. Thuế xuất khẩu thường được các nước đang phát tri
ển áp dụng đối với
một số mặt hàng nhằm tăng lợi ích quốc gia. Trái lại, ở nhiều nước phát triển người
ta không sử dụng thuế xuất khẩu do họ không đặt ra mục tiêu tăng nguồn thu ngân
sách từ thuế xuất khẩu. Vì vậy, ở những nước này, thuật ngữ thuế quan thường được
dùng để chỉ thuế nhập khẩu.
Thuế nhập khẩu là công c
ụ để bảo hộ sản xuất nội địa. Nó có tác dụng bảo hộ
cho các lĩnh vực sản xuất then chốt, bảo vệ các ngành công nghiệp non trẻ cho đến
khi chúng đủ vững mạnh để có thể cạnh tranh với hàng hóa nước ngoài. Do bị đánh
thuế, hàng nhập khẩu trở nên đắt hơn so với hàng nội địa có thể thay thế và điều này
làm giảm lượng nhập khẩu. Đồ
ng thời, thuế quan nhập khẩu có thể được áp dụng để
trả đũa các biện pháp hạn chế thương mại do các quốc gia khác tiến hành. Hiện nay
trên thế giới, thuế xuất khẩu ít được sử dụng hơn, chủ yếu đánh vào các mặt hàng mà
Chính sách quản lý ngoại thương trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và vấn đề hoàn thiện pháp luật của Việt Nam


13
nhà nước không khuyến khích xuất khẩu như các mặt hàng sử dụng các nguồn tài
nguyên khan hiếm đang bị cạn kiệt hay các mặt hàng mà tính chất quan trọng của nó

đối với sự an ninh lương thực hay an ninh quốc gia được đặt lên trên hết. Tuy nhiên,
cả thuế nhập khẩu và thuế xuất khẩu đều có tác dụng tăng nguồn thu cho ngân sách
nhà nước. Thực tế ở nhiều nước đang phát triển, nguồn thu từ thuế
chiếm một tỷ
trọng rất lớn trong ngân sách quốc gia.
WTO thừa nhận thuế quan nhập khẩu là công cụ hợp pháp duy nhất để bảo hộ
các ngành sản xuất trong nước. Các hàng rào bảo hộ phi thuế phải được bãi bỏ. Điều
này được đặt ra do thuế quan là biện pháp bảo hộ ít bóp méo thương mại nhất và
cũng là biện pháp mang tính minh bạch hơn cả. Thuế quan phải được áp dụng trên
nguyên t
ắc Tối huệ quốc (MFN) cho tất cả các thành viên WTO.
b) Phân loại
Thuế quan có thể được chia làm nhiều loại phụ thuộc vào các tiêu chí phân
loại khác nhau.
- Nếu dựa trên đối tượng chịu thuế, thuế quan gồm hai loại: thuế nhập khẩu,
thuế xuất khẩu.
- Nếu căn cứ vào phương thức tính thuế, thuế quan được chia thành ba loại:
thuế quan đặc định, thuế theo giá trị và thuế quan hỗn hợp.
Thuế quan đặc định (specific tariff) là loại thuế được tính theo giá trị cố định
bằng tiền trên một đơn vị hàng hóa (ví dụ: một tấn hàng hóa nhập khẩu sẽ phải chịu
một mức thuế là 25$). Khoản thuế do vậy sẽ phụ thuộc vào lượng hàng xuất, nhập
khẩu mà không phụ thuộc vào giá cả hay giá trị của hàng hóa. Ưu điểm của loại thuế
này là dễ thu, h
ạn chế việc khai man giá hàng hóa để trốn thuế. Tuy nhiên, cách thu
này khá cứng nhắc nên hiệu quả bảo hộ có thể không được đảm bảo. Ví dụ: nếu giá
cả của hàng hóa nhập khẩu là $5 và mức thuế quan là $1 trên một đơn vị sản phẩm,
mức thuế này tương đương với 20%. Tuy nhiên, nếu như lạm phát xảy ra và giá cả
của hàng hóa nhập khẩu tăng lên $10, thì mức thuế này bây giờ tương đương vớ
i chỉ
có 10% trên giá trị hàng hóa nhập khẩu. Hơn nữa, cách tính thuế này tỏ ra thiên vị

đối với loại hàng hóa đắt tiền, bởi vì khi chuyển mức thuế này thành mức thuế giá trị
tương đương thì các mặt hàng đắt tiền sẽ chịu mức thuế thấp hơn so với mức áp dụng
với các sản phẩm cùng loại rẻ tiền hơn.
Thuế quan tính theo giá trị hàng hóa (ad valorem tariff) được đánh theo một
tỷ lệ phần trăm cố định trên giá trị của một đơn vị hàng hóa. Nhược điểm của loại
thuế này là khó khăn trong việc áp dụng vì nhân viên hải quan cần có nghiệp vụ
chuyên môn để đánh giá đúng giá trị của hàng hóa để từ đó xác định đúng mức thuế.
Chẳng hạn, người ta phải làm rõ những gì được đưa vào giá trị hàng hóa: chi phí sản
xuất, bảo hiểm, chi phí v
ận chuyển… Tuy vậy, loại thuế này đã được sử dụng rộng
rãi trên thế giới. Nó có ưu điểm là luôn duy trì được mức bảo hộ đối với sản xuất
trong nước, bất chấp lạm phát biến động như thế nào.
Thuế quan hỗn hợp (conpound tariff) kết hợp hai cách tính thuế nói trên.
Chính sách quản lý ngoại thương trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và vấn đề hoàn thiện pháp luật của Việt Nam


14
Việc lựa chọn loại thuế nào còn phụ thuộc vào tính chất sản phẩm. Ví dụ, thuế
tính theo số lượng thường được áp dụng đối với sản phẩm tương đối đồng nhất về
chất lượng như các loại nông sản. Hiện nay, nói chung hải quan thực hiện tính thuế
nhập khẩu theo kiểu thuế theo giá trị hàng hóa là chủ yếu.
c) Thuế suất
Đối với cùng một m
ặt hàng có các mức thuế suất ưu đãi, thuế suất ưu đãi đặc
biệt và thuế suất thông thường:
- Thuế suất ưu đãi: Áp dụng đối với hàng hóa nhập khẩu có xuất xứ từ nước,
nhóm nước hoặc vùng lãnh thổ thực hiện quy chế tối huệ quốc (MFN) trong quan hệ
thương mại với quốc gia đó. Thuế suất ưu đãi thông thường đượ
c quy định cụ thể
cho từng mặt hàng trong biểu thuế nhập khẩu ưu đãi do cơ quan chức năng ban hành.

- Thuế suất ưu đãi đặc biệt: Áp dụng đối với hàng hóa nhập khẩu có xuất xứ
từ nước, nhóm nước hoặc vùng lãnh thổ thực hiện ưu đãi đặc biệt về thuế nhập khẩu
với quốc gia đó theo thể chế khu vực th
ương mại tự do, liên minh thuế quan hoặc để
tạo thuận lợi cho giao lưu thương mại biên giới và trường hợp ưu đãi đặc biệt khác.
- Thuế suất thông thường: Áp dụng đối với hàng hóa nhập khẩu có xuất xứ từ
nước, nhóm nước hoặc vùng lãnh thổ không thực hiện quy chế tối huệ quốc cũng
như không thực hiện ưu đãi đặc biệt về
thuế nhập khẩu với quốc gia đó. Thuế suất
thông thường luôn luôn cao hơn so với thuế suất ưu đãi và thuế suất ưu đãi đặc biệt
của cùng mặt hàng đó.
d) Tác động của thuế quan đến nền kinh tế
Tác động rõ nhất và trực tiếp nhất của thuế quan là tác động đối với mức giá
nội địa. Thuế quan chủ yếu là thuế nhậ
p khẩu, do đó chủ yếu tạo ra sự chênh lệch
giữa giá nội địa và giá thế giới của hàng hóa. Về mặt kinh tế, rõ ràng thuế nhập khẩu
gây thiệt hại cho người tiêu dùng, họ buộc phải trả nhiều tiền hơn, hoặc phải mua số
lượng hàng hoá ít hơn, hoặc cả hai. Ngược lại, nhờ thuế quan, các nhà sản xuất nội
địa thu được lợi thông qua gia tăng số lượ
ng cũng như giá bán các sản phẩm của họ.
Tuy nhiên, lợi ích nhà sản xuất thu được không bù đắp được thiệt hại người tiêu
dùng phải gánh chịu. Lí do rất đơn giản: các nhà sản xuất có lợi nhờ tăng giá chỉ với
lượng hàng nội địa, trong khi người tiêu dùng phải trả giá cao hơn cho cả hàng trong
nước và hàng nhập khẩu. Do đó, nếu chỉ tính đến nhà sản xuất và người tiêu dùng thì
thuế quan mang lại thiệ
t hại.
Song, ảnh hưởng của thuế quan lên nền kinh tế không chỉ là thay đổi thu nhập
của nhà sản xuất và người tiêu dùng, thuế quan còn mang thu nhập cho ngân sách
nhà nước.
Có sự khác nhau trong tác động của thuế quan nhập khẩu và xuất khẩu. Thuế

nhập khẩu làm tăng giá hàng nhập khẩu, làm giảm số lượng nhập và số dư của người
tiêu dùng, làm tăng số dư của người sản xuất nội
địa, làm di chuyển nguồn nhân lực
từ ngành xuất khẩu này sang ngành xuất khẩu cạnh tranh khác. Trong khi đó, thuế
Chính sách quản lý ngoại thương trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và vấn đề hoàn thiện pháp luật của Việt Nam


15
xuất khẩu làm giảm giá nội địa hàng hoá xuất khẩu, làm giảm khối lượng xuất khẩu
và số dư xuất khẩu, làm tăng số dư nguời tiêu dùng trong nước và thu ngân sách nhà
nước. Tuy nhiên, thuế quan luôn có mặt tác động tiêu cực là gây ra tổn thất ròng cho
nền kinh tế trong nước nói riêng và nền kinh tế thế giới nói chung.
1.2.2 Chính sách phi thuế quan
a) Khái niệm
Bên cạnh các hàng rào thương mại mang tính truyền thống, người ta vẫn
thường nhắc
đến khái niệm "các biện pháp phi thuế quan" (non-tarriff measures),
được định nghĩa là tất cả các biện pháp ngoài thuế quan, có thể được quy định cụ thể
hay thực tế tồn tại, có liên quan hoặc trực tiếp ảnh hưởng tới tự do thương mại.
Trước đây các biện pháp phi thuế quan thường được các nước sử dụng chủ
yếu với mục đích bảo hộ sản xuất trong nước. Tuy nhiên, cho tới nay, các bi
ện pháp
với mục đích này đang dần được xóa bỏ và được thay thế bằng các biện pháp thuế
quan. Trong khuôn khổ của WTO, bắt đầu từ vòng đàm phán Tokyo (1973-1979),
GATT đã đưa ra ý tưởng đặt các biện pháp phi thuế quan dưới sự ràng buộc của các
quy định nhằm dỡ bỏ dần tiến tới loại bỏ hoàn toàn các biện pháp phi thuế quan.
Các biện pháp phi thuế quan ngày càng có ý nghĩa quan trọng trong chính
sách thương mại của các quố
c gia với những hình thức ngày càng phong phú. Khi
hàng rào thuế quan giảm đi thì hàng rào phi thuế sẽ tăng lên. Hơn nữa, các biện pháp

phi thuế có tính chất kín đáo, không rõ ràng nên có tác dụng hạn chế nhập khẩu tốt
hơn so với các biện pháp thuế. Mục tiêu của một nước khi sử dụng các NTMs có thể
là:
- Bảo hộ sản xuất trong nước;
- Bảo vệ sức khỏe con người, bảo vệ động thực vậ
t, bảo vệ môi trường;
- Hạn chế tiêu dùng;
- Đảm bảo cân bằng cán cân thanh toán;
- Đảm bảo an ninh quốc gia
Các biện pháp thuế quan có tính chất minh bạch hơn, dễ định lượng và được
WTO cũng như các định chế thương mại khu vực thừa nhận là biện pháp bảo vệ hợp
pháp duy nhất. Đối với các biện pháp phi thuế quan, WTO không cho phép áp dụng
các biện pháp hạn chế định lượng (trừ ngoại l
ệ). Một số các NTM khác như TBT,
SPS vẫn được WTO cho phép áp dụng với điều kiện tuân thủ những quy định cụ
thể.
b) Một số biện pháp phi thuế quan
Chính sách quản lý ngoại thương trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và vấn đề hoàn thiện pháp luật của Việt Nam


16
Phần nội dung sau đây sẽ đề cập tới một số biện pháp phi thuế quan thường
gặp.
 Nhóm các biện pháp hạn chế định lượng (quantitative restrictions)
¾
Cấm xuất khẩu, nhập khẩu
Cấm xuất khẩu, nhập khẩu là biện pháp bảo hộ cao nhất, gây ra hạn chế lớn
nhất đối với thương mại quốc tế và nói chung không được phép sử dụng trong WTO.
Tuy nhiên, các thành viên có thể thi hành các biện pháp cấm xuất khẩu, nhập khẩu
trên cơ sở không phân biệt đối xử trong một số trường hợp sau:

- Cần thiết để đảm b
ảo an ninh quốc gia;
- Cần thiết để bảo vệ đạo đức xã hội;
- Cần thiết để bảo vệ con người, động vật và thực vật;
- Liên quan tới nhập khẩu hay xuất khẩu vàng và bạc;
- Cần thiết để bảo vệ các tài sản quốc gia về nghệ thuật, lịch sử hay khảo cổ;
- Cần thiết để bảo vệ các tài nguyên thiên nhiên khan hiếm, với đi
ều kiện là
các biện pháp này cần phải thực hiện kèm theo việc hạn chế sản xuất hay tiêu dùng
nội địa liên quan tới chúng;
- Được áp dụng một cách tạm thời để ngăn cản hay giảm bớt sự khan hiếm
lương thực, thực phẩm hay các sản phẩm thiết yếu khác;
- Cần thiết để áp dụng các tiêu chuẩn hay quy định để phân loại, xếp hạng hay
tiếp thị các sả
n phẩm trong thương mại quốc tế.
Án lệ Ác-hen-ti-na: Da sống và da thuộc là một minh họa cho việc sử dụng
biện pháp cấm xuất khẩu. Tháng 12 năm 1998, EC đã yêu cầu Ác hen ti na tham vấn
về việc xuất khẩu da sống và nhập khẩu da thuộc của nước này. EC cho rằng Ác hen
ti na trên thực tế đã áp dụng biện pháp cấm xuất khẩu đối với măt hàng da sống và sơ
chế và đã vi phạ
m quy định của GATT 1994. Tháng 5/1999, Ban Hội thẩm đã được
thành lập để xem xét vụ việc này. Ban Hội thẩm, và sau đó là Cơ quan phúc thẩm đã
có kết luận ủng hộ EC, và yêu cầu Ác hen ti na sửa đổi biện pháp của mình cho phù
hợp với quy định của WTO.
Một vụ việc nổi tiếng liên quan tới cấm nhập khẩu là vụ Mỹ - Cấm nhập khẩu
tôm và các sản phẩm tôm. Từ ngày 1/5/1996, Mỹ quy
định mọi kiện hàng tôm và các
sản phẩm tôm gửi lên tàu tại Mỹ phải kèm theo tờ khai của người xuất khẩu tôm
chứng nhận rằng tôm được đánh bắt theo các điều kiện không gây ảnh hưởng bất lợi
cho rùa biển và sẽ cấm nhập khẩu các loại sản phẩm này nếu không thỏa mãn yêu

cầu trên. Một loạt các nước: Ấn Độ, Malaysia, Pakistan và Thái Lan đã phản đối quy
định này của Mỹ
và đưa vụ việc ra giải quyết tại WTO.
Chính sách quản lý ngoại thương trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và vấn đề hoàn thiện pháp luật của Việt Nam


17
¾
Hạn ngạch:
Hạn ngạch hay hạn ngạch nhập khẩu là quy định của nhà nước để giới hạn về
khối lượng hoặc giá trị của một số các hàng hóa nhất định được nhập khẩu nói chung
hoặc nhập khẩu từ một thị trường nào đó, trong một thời hạn nhất định, thường là
1năm. Trên thực tế, các hạn ngạch về s
ố lượng được áp dụng nhiều hơn hạn ngạch về
giá trị, do việc quản lý các hạn ngạch về giá trị khó thực hiện hơn.
Một ví dụ cho việc sử dụng hạn ngạch nhập khẩu có thể kể đến trường hợp
Nhật Bản. Hệ thống hạn ngạch của Nhật bản được phân chia làm 4 nhóm: nhóm Hạn
ngạch nhập khẩu theo kế hoạ
ch, Hạn ngạch nhập khẩu hỗn hợp, Hạn ngạch đặc biệt
cho vùng Okinawa, và Các hạn ngạch vì mục đích đặc biệt. Các mặt hàng thuộc
phạm vi điều chỉnh của hệ thống hạn ngạch nhập khẩu của Nhật Bản bao gồm:
- Nhóm mặt hàng không được đưa vào tự do hóa theo quy định của WTO do
có khả năng gây tổn hại tới cộng đồng (vũ khí, súng cầm tay các lo
ại, thuốc phiện );
- Nhóm mặt hàng cần hạn chế nhập khẩu để bảo vệ sản xuất trong nước (chủ
yếu là sản phẩm nông sản, hải sản );
- Nhóm mặt hàng động thực vật thuộc danh sách cần bảo vệ theo Công ước
Washington.
Các mặt hàng thuộc danh mục cần hạn ngạch nhập khẩu ở Nhật Bản sẽ được
liệt kê trong bản "Thông báo nhập khẩ

u" (Import Notice) do Bộ Công Thương Nhật
Bản ban hành.
Nhật Bản đã từng bị nhiều nước thành viên yêu cầu tham vấn và đưa ra cơ
quan giải quyết tranh chấp của WTO về việc sử dụng hạn ngạch nhập khẩu. Có thể
kể đến vụ Nhật Bản - Hạn ngạch nhập khẩu đối với tảo biển sấy khô và tảo biển tẩm
gia vị. Tháng 2 năm 2005, Hàn Quố
c để nghị lập Ban Hội thẩm xem xét việc Nhật
Bản áp dụng biện pháp hạn ngạch nhập khẩu đối với mặt hàng tảo biển. Các bên thứ
ba tham gia trong vụ này có EC, Trung Quốc và Mỹ. Hàn Quốc đã cáo buộc Nhật
Bản sử dụng hạn ngạch nhập khẩu quá khắt khe, và trái với quy định của WTO đối
với mặt hàng nêu trên. Tuy nhiên, sau đó vụ việc này đã không được giải quyết t
ại cơ
quan giải quyết tranh chấp của WTO mà hai nước đã tự tham vấn và cùng đưa ra
được mức hạn ngạch hợp lý thỏa đáng cho cả hai bên.
Đối với WTO, tổ chức này không cho phép các thành viên sử dụng biện pháp
hạn ngạch trừ một số trường hợp đặc biệt được áp dụng trên cơ sở không phân biệt
đối xử như sau:
- Được áp dụng một cách tạm thời để ng
ăn cản hay giảm bớt sự khan hiếm
lương thực, thực phẩm hay các sản phẩm thiết yếu khác;
- Cần thiết để áp dụng các tiểu chuẩn hay quy định để phân loại, xếp hạng hay
tiếp thị các sản phẩm trong thương mại quốc tế;
Chính sách quản lý ngoại thương trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và vấn đề hoàn thiện pháp luật của Việt Nam


18
- Đối với nông sản và thủy sản: có thể hạn chế số lượng hay giá trị hàng nhập
khẩu để bảo vệ sự cân bằng cán cân thanh toán. Việc tạo ra, duy trì hay mở rộng hạn
chế số lượng vì mục đích này không được vượt quá mức cần thiết;
- Để ngăn ngừa sự đe doạ sắp xảy ra hay để ngăn chặn lại sự thiếu hụt nghiêm

tr
ọng dự trữ tiền tệ;
- Trong trường hợp một thành viên có dự trữ tiền tệ rất thấp, để đạt được một
mức tăng hợp lý dự trữ tiền tệ.
¾
Hạn chế xuất khẩu tự nguyện (VER)
Hạn chế xuất khẩu tự nguyện là thỏa thuận về thị trường, theo đó, một nước
đồng ý hạn chế xuất khẩu của mình sang nước khác đối với một măt hàng nhất định
một cách tự nguyện. Thực chất đây là yêu cầu của nước nhập khẩu và nước xuất
khẩu bắt bu
ộc phải chấp nhận nếu không muốn bị áp dụng các biện pháp trả đũa
quyết liệt.
Trong giai đoạn 1981-1984, dưới sức ép của Mỹ, Chính phủ Nhật đã tự
nguyện hạn chế xuất khẩu mặt hàng ô tô sang thị trường Mỹ. Hạn chế xuất khẩu này
đã giúp ngành công nghiệp ô tô của Mỹ loại bỏ bớt đối thủ cạnh tranh từ thị trưởng
bên ngoài.
¾
Cấp phép nhập khẩu
Thủ tục cấp phép nhập khẩu được xác định như các thủ tục hành chính đòi hỏi
doanh nghiệp phải đệ trình đơn và/hoặc các tài liệu khác (ngoài mục đích hải quan)
cho một cơ quan hành chính để được phép nhập khẩu hàng hóa.
Giấy phép nhập khẩu là một biện pháp thường được sử dụng ở những nước
gặp khó khăn trong điều hòa cán cân xuất nh
ập khẩu. Giấy phép này cũng được sử
dụng phổ biến để khống chế số lượng nhập khẩu một mặt hàng nhất định hoặc thu
thập dữ liệu thống kê về mặt hàng đó.
Giấy phép nhập khẩu có hai loại thường gặp: Giấy phép tự động và giấy phép
không tự động. Đối với giấy phép tự động: Người nhập khẩu xin phép nhậ
p khẩu thì
cấp ngay không điều kiện nào, và thường phục vụ mục đích thống kê. Đối với loại

giấy phép không tự động: người nhập khẩu bị ràng buộc bởi các hạn chế nhập khẩu.
Giấy phép nhập khẩu ngày nay ít được sử dụng hơn so với trước. Mặc dù vậy, hệ
thống giấy phép này vẫn cần để quản lý nhập khẩu một s
ố mặt hàng.
Hiệp định về Thủ tục cấp phép nhập khẩu của WTO quy định các thủ tục mà
các thành viên phải tuân thủ để giảm tối đa những công đoạn hành chính phiền phức
gây cản trở thương mại. Theo quy định của Hiệp định này, giấy phép không tự động
sẽ được cấp trong vòng 30 ngày theo nguyên tắc "đến trước - cấp trước". Nếu các
đơn xin phép được xử lý
đồng thời thì thời hạn cấp phép là trong vòng 60 ngày.
Chính sách quản lý ngoại thương trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và vấn đề hoàn thiện pháp luật của Việt Nam


19
Quay trở lại với ví dụ về Nhật Bản. Ở Nhật Bản, tuy hầu hết hàng nhập khẩu
không cần giấy phép nhập khẩu của Bộ Công Thương nhưng các mặt hàng sau vẫn
phải có giấy phép nhập khẩu:
- Hàng hoá nằm trong 66 mặt hàng liệt kê trong thông báo nhập khẩu thuộc
diện có hạn ngạch nhập khẩu;
- Hàng hoá sản xuất hay vận chuyển từ các quốc gia, khu vực quy định trong
thông báo nh
ập khẩu đòi hỏi phải có giấy phép nhập khẩu;
- Hàng hoá đòi hỏi phương thức thanh toán đặc biệt;
- Hàng hoá đòi hỏi sự xác nhận của hải quan về nhập khẩu hay sự xác nhận
của một số Bộ, các nhà nhập khẩu được toàn quyền ký hợp đồng với các nhà xuất
khẩu, nhưng việc đăng ký và thực hiện hợp đồng phụ thuộc vào sự cho phép hay xác
nh
ận của các Bộ phận liên quan.
 Nhóm các biện pháp tương đương thuế quan (Para-tarriff measures)
UNCTAD định nghĩa các biện pháp tương đương thuế quan là những biện

pháp làm tăng chi phí đối với hàng hóa nhập khẩu theo cách tương tự như các biện
pháp thuế quan, nghĩa là làm tăng thêm một tỷ lệ phần trăm nhất định hay một mức
nhất định, được tính theo giá trị và số lượng. Các biện pháp này đòi hỏi ngườ
i nhập
khẩu phải trả một khoản tiền nhất định làm tăng chi phí nhập khẩu, nhưng lại không
phải thuế quan, nên được gọi là tương tự thuế quan. UNCTAD cũng liệt kê 4 biện
pháp nằm trong nhóm này, bao gồm: phụ phí hải quan; các khoản phí và lệ phí bổ
sung; thuế và phí nội địa đánh vào hàng nhập khẩu và định giá hải quan theo quy
định.
¾
Phụ phí hải quan
Phụ phí hải quan, còn gọi là phí thu thêm hay thuế bổ sung, là một phương
tiện chính sách thương mại độc lập để tăng thu nhập tài chính hoặc bảo hộ sản xuất
trong nước.
¾
Các khoản phí và lệ phí bổ sung
Phí và lệ phí bổ sung bao gồm thuế và lệ phí khác nhau đặt ra đối với hàng
hóa nhập khẩu cùng với thuế và phụ phí hải quan. Điều VIII của GATT 1994 quy
định các khoản chi phí bổ sung ngoài thuế hải quan và các khoản thuế nội địa phải
được giới hạn trong chừng mực đủ bù các chi phí cung cấp dịch vụ và không mang
tính bảo hộ gián tiếp cho sản phẩm nội địa hay là thuế đánh vào xu
ất nhập khẩu với
mục đích thu ngân sách.
Các khoản phí bổ sung này có thể bao gồm:
- Thuế đối với các giao dịch chuyển đổi ngoại tệ
Chính sách quản lý ngoại thương trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và vấn đề hoàn thiện pháp luật của Việt Nam


20
- Thuế dán tem

- Lệ phí giấy phép nhập khẩu
- Lệ phí hóa đơn lãnh sự
- Thuế thống kê
- Thuế đối với các phương tiện giao thông
- Thuế và phụ phí đối với các hạng mục sản phẩm nhạy cảm

¾
Thuế và chi phí nội địa đánh vào nhập khẩu
Điều III GATT 1994 cho phép đánh thuế và chi phí nội địa đối với hàng nhập
khẩu với điều kiện biện pháp này không nhằm mục đích bảo hộ sản xuất trong nước.
Mức thuế này phải tương đương với mức thuế nội địa đối với tất cả, hay hầu hết các
sản phẩm tương t
ự có mặt trên thị trường. Có thể phân ra các loại thuế và chi phí nội
địa thường gặp như sau:
- Thuế hàng hóa chung: là thuế theo giá hàng tính trên tổng số hóa đơn bán
hàng thu từ những người giao dịch
- Thuế đánh vào doanh thu: là thuế đánh vào sản xuất và phân phối ở tất cả
các cấp dựa vào tổng số hóa đơn, và thuế thu được là thuế tích lũy
- Thuế giá trị gia tăng: đánh vào phần giá trị gia tăng thu được.
- Thuế tiêu thụ đặc biệt: đánh vào các sản phẩm nhập khẩu đặc biệt, thường là
hàng hóa xa xỉ hoặc không thiết yếu.
- Thuế và phí đối với các sản phẩm thuộc hạng mục nhạy cảm.
¾ Định giá hải quan theo quy định
Thuế hải quan và các chi phí khác đối với một số hàng hóa nhập khẩu có thể
sẽ được tính dựa trên cơ sở định giá hải quan theo quy định. Biện pháp này
đưa ra
như một phương tiện để tránh gian lận hoặc bảo vệ sản xuất trong nước. Biện pháp
này trên thực tế có thể làm biến đối thuế theo giá hàng thành một dạng thuế đặc biệt.
 Các biện pháp kỹ thuật (TBT)
Nhóm các biện pháp kỹ thuật là các biện pháp hạn chế nhập khẩu dựa vào

những tiêu chuẩn rõ ràng được thừa nhận chung. Mặc dù "rõ ràng" như vậy song việc
xác đị
nh các biện pháp kỹ thuật liệu có hình thành nên hàng rào kỹ thuật không lại
không hề dễ thực hiện.
Chính sách quản lý ngoại thương trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và vấn đề hoàn thiện pháp luật của Việt Nam


21
Quy chuẩn kỹ thuật và tiêu chuẩn kỹ thuật đặt ra các yêu cầu cụ thể về sản
phẩm. Đó có thể là:
- Các yêu cầu về đặc tính: kích thước, hình dáng, thiết kế, chức năng của sản
phẩm;
- Các quy định về phương pháp sản xuất, phương thức vận chuyển, bảo quản;
- Các yêu cầu về nhãn mác;
- Quy định về đóng gói, bao bì
Mục đích của các quy chuẩn và tiêu chuẩ
n này là để đảm bảo chất lượng hàng
hóa, bảo vệ đời sống, sức khỏe của con người và động thực vật, bảo vệ an ninh và
môi trường, ngăn chặn các hành vi lừa dối. Các quy chuẩn và tiêu chuẩn kỹ thuật
được coi là một trong những cản trở lớn đối với việc tiếp cận thị trường, đặc biệt là
tiếp cận các thị trường phát triển do các nước phát triể
n thường có những quy định
rất chặt chẽ mà các nước kém phát triển và đang phát triển thường không đủ điều
kiện để đảm bảo.
Có thể tham khảo nội dung này trong Hiệp định về rào cản kỹ thuật trong
thương mại của WTO (Hiệp định TBT). WTO quy định các nước thành viên khi áp
dụng các biện pháp kỹ thuật phải đảm bảo tuân thủ các nguyên tắc:
- Không phân biệt đối xử;
- Không cả
n trở thương mại;

- Minh bạch hóa;
- Có căn cứ khoa học;
- Hài hòa với tiêu chuẩn quốc tế;
- Đảm bảo tính tương đương;
- Thừa nhận lẫn nhau.
Quy trình đánh giá sự phù hợp: có thể là các thủ tục xét nghiệm, thẩm tra xác
thực, kiểm định chứng nhận, được sử dụng để đảm bảo rằng các sản phẩm đáp ứng
các yêu cầu kỹ thuật do các quy chuẩn và tiêu chu
ẩn kỹ thuật đặt ra.
Có thể quay lại vụ kiện cấm nhập khẩu tôm của Mỹ để minh họa cho biện
pháp này. Vụ việc này phát sinh từ việc chính phủ Mỹ ban hành các quy định liên
quan tới các thức đánh bắt tôm đối với các loại tôm nhâp khẩu vào nước này. Theo
đó, mọi chủ thể đánh bắt tôm bằng lưới của US phải sử dụng các dụng cụ loại trừ rùa
(TEDs). TED là mộ
t cửa sập (trap door) được lắp đặt bên trong một lưới rà được
thiết kế để cho phép tôm bơi qua đến mặt sau của lưới trong khi rùa biển và các loài
Chính sách quản lý ngoại thương trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và vấn đề hoàn thiện pháp luật của Việt Nam


22
lớn khác sẽ ở bên ngoài lưới. Mỹ đã yêu cầu các nước xuất khẩu tôm sang Mỹ phải
sử dụng TEDs, và nếu không đáp ứng được yêu cầu này thì hàng sẽ bị cấm nhập
khẩu vào Mỹ. Trong trường hợp này, Mỹ đã sử dụng biện pháp áp đặt quy chuẩn kỹ
thuật đối với hàng nhập khẩu vào nước mình.
 Các biện pháp vệ sinh dịch tễ (SPS)
Vệ sinh dị
ch tễ là khái niệm chung để chỉ các biện pháp nhằm đảm bảo vệ
sinh, an toàn thực phẩm. Đối tượng của các biện pháp này là hàng nông sản. Mục
đích của các biện pháp này là nhằm:
- Bảo vệ sức khỏe con người khỏi các nguy cơ phát sinh từ các chất phụ gia,

chất độc, chất ô nhiễm, sinh vật gây bệnh trong đồ ăn uống, các bệnh tật lan truyền từ
động thực vật;
- Bảo v
ệ các loài động thực vật khỏi nguy cơ từ việc xâm nhập, phát sinh hoặc
lan truyền các loài sinh vật gây bệnh và mang bệnh;
- Khoanh vùng, ngăn chặn việc xâm nhập, phát sinh hoặc lan truyền các loài
sâu bệnh.
Dưới góc độ của nước nhập khẩu, việc đưa ra các quy định chặt chẽ về kiểm
dịch là cần thiết để bảo vệ người tiêu dùng trong nước và bảo vệ nền kinh tế nông
nghiệp củ
a mình. Nhưng dưới góc độ nước xuất khẩu, những biện pháp kiểm dịch
mà nước nhập khẩu áp dụng có thể gây khó khăn, nhiều khi trở thành "rào cản" đối
với hàng xuất khẩu của họ. Những quy định về kiểm dịch quá mức cần thiết nhiều
khi sẽ bị quy kết là một biện pháp nhằm bảo hộ sản xuất trong nước.
Hiệp định về các bi
ện pháp vệ sinh dịch tễ của WTO (Hiệp định SPS) đã đưa
ra quy định:
- Các thành viên được phép áp dụng các biện pháp SPS dựa trên cơ sở khoa
học;
- Không được sử dụng các biện pháp này như một công cụ trá hình để hạn chế
thương mại quốc tế;
- Cần phải hài hòa các tiêu chuẩn;
- Cần công nhận tính tương đương của các biện pháp SPS của các thành viên
khác;
- Đảm bảo thông tin kịp thời thông qua đi
ểm hỏi đáp.
Có khá nhiều các vụ tranh chấp trong WTO liên quan tới vấn đề này. Chẳng
hạn như vụ EC-Hoóc môn.

×