Tải bản đầy đủ (.pdf) (158 trang)

Tăng cường năng lực thanh tra ngành tư pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.27 MB, 158 trang )

bộ t pháp




báo cáo phúc trình




đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ

TĂNG CƯờNG NĂNG LựC THANH TRA TƯ PHáP



Chủ nhiệm đề tài: TS. Hà Kế VINH















7530
22/10/2009


Hà Nội 2009


1
MỤC LỤC
I. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG 4
1. Sự cần thiết phải tăng cường năng lực Thanh tra Tư pháp 4
1.1. Chủ trương, quan điểm của Đảng về tăng cường năng lực cho các cơ quan
Tư pháp 4
1.2. Hiệu quả hoạt động của Thanh tra Tư pháp hiện nay chưa cao 4
1.3. Yêu cầu xử lý công việc đối với thanh tra ngành Tư pháp hiện nay rất lớn
và phức tạp 5
1.4. Tình hình nghiên cứu 6
2. Quan điểm, nguyên tắc và mục tiêu tăng cường năng lực Thanh tra Tư pháp 6
2.1. Quan điểm, nguyên tắc về tăng cường năng lực Thanh tra Tư pháp 6
2.2. Mục tiêu tăng cường năng lực Thanh tra Tư pháp 7
3. Khái niệm, các yếu tố cấu thành năng lực Thanh tra Tư pháp 7
3.1. Khái niệm năng lực Thanh tra Tư pháp 7
3.1.1 Khái niệm năng l
ực 7
3.1.2 Khái niệm thanh tra 8
3.1.3 Khái niệm tư pháp 9
3.1.4 Khái niệm Thanh tra Tư pháp 10
3.2. Các yếu tố cấu thành năng lực Thanh tra Tư pháp 10
3.2.1. Quy định của pháp luật về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn 11
3.2.2. Tổ chức bộ máy 12

3.2.3. Đội ngũ cán bộ 13
3.2.4. Điều kiện cơ sở vật chất, phương tiệ
n làm việc 14
3.2.5. Cơ chế hoạt động và quan hệ phối hợp 14
4. Vị trí, vai trò và đặc trưng cơ bản của Thanh tra Tư pháp 14
4.1. Vị trí, vai trò của Thanh tra Tư pháp 14
4.2. Đặc trưng cơ bản của Thanh tra Tư pháp 18
II. THỰC TRẠNG VỀ NĂNG LỰC THANH TRA TƯ PHÁP 20
1. Thực trạng quy định của pháp luật về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạ
n của
Thanh tra Tư pháp 20
1.1. Quy định của pháp luật về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Thanh tra
Tư pháp 20
1.2. Các chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Thanh tra Tư pháp 20
1.2.1. Chức năng của Thanh tra Tư pháp 20
1.2.2. Nhiệm vụ, quyền hạn của Thanh tra Tư pháp 22
1.3. Phân tích, đánh giá quy định của pháp luật về chức năng, nhiệm v
ụ, quyền
hạn của Thanh tra Tư pháp 23
1.3.1. Ưu điểm 23
1.3.2. Hạn chế, bất cập và nguyên nhân 23

2
2.1. Quy định hiện hành của pháp luật về tổ chức bộ máy của Thanh tra Tư
pháp 24
2.2. Tình hình về tổ chức bộ máy của Thanh tra Bộ 24
2.3. Tình hình tổ chức bộ máy của Thanh tra Sở 25
2.4. Phân tích, đánh giá về tình hình tổ chức bộ máy Thanh tra Tư pháp 26
2.4.1. Ưu điểm 26
2.4.2. Hạn chế, bất cập và nguyên nhân 26

3. Thực trạng đội ngũ thanh tra ngành Tư pháp 27
3.1. Quy định hiện hành của pháp luật về đội ngũ cán bộ Thanh tra Tư pháp 27
3.2. Tình hình đội ngũ cán bộ, công chức Thanh tra Bộ 28
3.3. Tình hình đội ngũ cán bộ, công chức Thanh tra Sở 29
3.4. Phân tích, đánh giá về tình hình đội ngũ cán bộ Thanh tra Tư pháp 30
3.4.1. Ưu điểm 30
3.4.2. Hạn chế, bất cập và nguyên nhân 31
4. Thực trạng điều kiện cơ sở vật chất, phương tiện làm vi
ệc của Thanh tra Tư
pháp 33
4.1. Quy định hiện hành của pháp luật về cơ sở vật chất, phương tiện làm việc
của Thanh tra Tư pháp 33
4.2. Tình hình cơ sở vật chất, phương tiện làm việc của Thanh tra Bộ 33
4.3. Tình hình cơ sở vật chất, phương tiện làm việc của Thanh tra Sở 34
4.4. Phân tích, đánh giá về tình hình cơ sở vật chất, phương tiện làm vi
ệc của
Thanh tra Tư pháp 34
2.4.1. Những điểm đã đạt được 34
2.4.2. Tồn tại và nguyên nhân 34
5. Thực trạng về cơ chế hoạt động, quan hệ phối hợp 36
5.1. Tình hình cơ chế hoạt động của Thanh tra Tư pháp 36
5.1.1. Đối với Thanh tra Bộ Tư pháp 36
5.1.2. Đối với Thanh tra Sở Tư pháp 36
5.2. Tình hình quan hệ phối h
ợp công tác của Thanh tra Tư pháp 37
5.2.1. Quan hệ phối hợp của Thanh tra Tư pháp với các cơ quan thanh tra
theo cấp hành chính 37
5.2.2. Quan hệ phối hợp của Thanh tra Tư pháp với các đơn vị trong cùng cơ
quan 38
5.2.3. Quan hệ phối hợp của Thanh tra Tư pháp với các cơ quan hữu quan

khác 38
5.2.4. Quan hệ phối hợp của Thanh tra Bộ Tư pháp với Giám đốc Sở Tư pháp
và Thanh tra Sở Tư pháp 38
5.3. Phân tích, đánh giá về tình hình cơ chế hoạt động và quan hệ phối hợp của
Thanh tra Tư pháp 39
5.3.1. Ưu điểm 39

3
5.3.2. Hạn chế, bất cập và nguyên nhân 39
III. GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG NĂNG LỰC THANH TRA TƯ PHÁP 42
1.1. Về quy định của pháp luật về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn 42
1.2. Về tổ chức bộ máy 42
1.2.1. Đối với Thanh tra Bộ 42
1.2.2. Đối với Thanh tra Sở 44
1.3. Về đội ngũ cán bộ Thanh tra Tư pháp 45
1.4. Về điề
u kiện cơ sở vật chất, phương tiện làm việc 47
1.4.1. Đối với Thanh tra Bộ 47
1.4.2. Đối với Thanh tra Sở 47
1.5. Về cơ chế hoạt động, quan hệ phối hợp 47
IV. TỔ CHỨC THỰC HIỆN 49
1. Hoàn thiện thể chế (2008 - 2012) 49
1.1. Kiến nghị sửa đổi, bổ sung, ban hành mới các văn bản có liên quan đến tổ
chức, hoạt động của Thanh tra Tư pháp 49
1.2. Ban hành hoặc trình người có thẩm quyền ban hành các văn bản có liên
quan đến tổ chức, hoạt động Thanh tra Tư pháp như 49
2. Hoàn thiện cơ cấu tổ chức (2008 - 2012) 49
2.1. Đối với Thanh tra Bộ 49
2.2. Đối với Thanh tra Sở: 2008 - 2012 50
3. Tiêu chuẩn hoá đội ngũ cán bộ thanh tra (2008 - 2012) 50

4. Tăng cường cơ sở vật chất (2008 - 2012) 50



4
I. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1. Sự cần thiết phải tăng cường năng lực Thanh tra Tư pháp
1.1. Chủ trương, quan điểm của Đảng về tăng cường năng lực cho
các cơ quan Tư pháp
Thực hiện chủ trương xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, thời gian qua, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương xây dựng
và tăng cường năng lực cho ngành Tư pháp nói chung, trong đó có Thanh tra
T
ư pháp nói riêng. Chủ trương đó được thể hiện chủ yếu tập trung trong các
văn kiện, Nghị quyết quan trọng như: Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ X; Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 2/1/2002 của Bộ Chính trị về "một số
nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp thời gian tới"; Đặc biệt là Nghị quyết số
49/NQ-TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị về
Chiến lược cải cách tư pháp
đến năm 2020.
1.2. Hiệu quả hoạt động của Thanh tra Tư pháp hiện nay chưa cao
Nhìn lại lịch sử phát triển của Thanh tra Tư pháp cho thấy, sau khi Bộ
Tư pháp được tái thành lập vào năm 1981, ngày 15/11/1982, Bộ trưởng Tư
pháp đã ban hành quyết định số 247/QĐ-TC thành lập Ban thanh tra thuộc Bộ
Tư pháp. Đây cũng là cơ quan thanh tra đầu tiên của ngành Tư pháp. Pháp
lệnh Thanh tra ra đời năm 1990
đã khẳng định "Thanh tra là một chức năng
thiết yếu trong cơ quan quản lý Nhà nước". Pháp lệnh đổi tên Uỷ ban Thanh
tra Nhà nước thành Thanh tra Nhà nước. Thanh tra Nhà nước là cơ quan của
Hội đồng Bộ trưởng, có chức năng quản lý nhà nước về công tác thanh tra và

thực hiện quyền thanh tra trong phạm vi cả nước. Các cơ quan Bộ và ngang bộ
có tổ chức cơ quan thanh tra trực thuộc gọi là Thanh tra Bộ. Ở địa phương, các
sở
, ban ngành thành lập đơn vị thanh tra là Thanh tra Sở. Thanh tra Bộ và
Thanh tra Sở là tổ chức thanh tra nằm trong hệ thống Thanh tra Nhà nước. Do
đó, cũng giống như thanh tra của các ngành khác, Thanh tra Tư pháp hoạt
động theo cơ chế song trùng trực thuộc, một mặt chịu sự quản lý trực tiếp của
Thủ trưởng cùng cấp, một mặt chịu sự chỉ đạo điều hành của cơ quan Thanh
tra Nhà nước cấp trên. Riêng Thanh tra Sở Tư
pháp, ngoài chịu sự chỉ đạo của
Thanh tra Nhà nước tỉnh, còn phải chịu sự chỉ đạo của Thanh tra Bộ về nghiệp
vụ chuyên môn.
Thực tế cho thấy hiệu quả hoạt động của Thanh tra Tư pháp là chưa cao
và mang tính chất bị động. Sự nắm bắt, chỉ đạo, điều hành các hoạt động giữa
Thanh tra Bộ và Thanh tra Sở chỉ manh tính chất chiếu lệ. Hoạt độ
ng của
thanh tra các Sở Tư pháp như thế nào, kết quả ra sao? Thanh tra Bộ còn chưa
nắm được rõ. Hằng năm Thanh tra Bộ chỉ nhận được một số báo cáo từ thanh
tra các Sở Tư pháp. Trong các báo cáo của Thanh tra Sở hầu hết hoạt động chủ
yếu là công tác tiếp dân, giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân.
Một số Thanh tra Sở có tổ chức được một số cuộ
c thanh tra nhưng rất lẻ tẻ,
thiếu thống nhất, nơi thì thanh tra thi hành án, nơi thì thanh tra về công chứng,
nơi thì thanh tra về tài chính, kế toán

5
Thanh tra Bộ trong một số năm gần đây đã được quan tâm tăng cường
đến 22 người, nhưng mỗi năm cũng chỉ tổ chức được 8 đến 10 cuộc thanh tra
theo kế hoạch đối với khoảng 10 đơn vị, xét giải quyết khiếu nại, tố cáo
khoảng 10 vụ. Bộ Tư pháp quản lý đa lĩnh vực, nhiều đầu mối nhưng mỗi

năm Thanh tra Bộ
chỉ tiến hành thanh tra được từ 3 đến 4 lĩnh vực, còn lại các
lĩnh vực khác để ngỏ. Ngay cả khi đã tiến hành thanh tra, việc ra Kết luận
thanh tra còn vi phạm nhiều về thời hạn, chậm ra quyết định xử lý sau thanh
tra. Thanh tra Sở, mỗi năm, mỗi tổ chức cũng chỉ thực hiện thanh tra được 1-2
cuộc, thậm chí có tổ chức Thanh tra Sở có năm còn không thực hiện cuộc
thanh tra theo kế
hoạch nào mà chỉ chủ yếu tập trung xử lý đơn thư khiếu nại,
tố cáo. Như vậy, tính chất giáo dục, phòng ngừa đi đôi với tính chất răn đe và
động viên của Thanh tra Tư pháp dường như chỉ dừng lại ở phạm vi hình thức.
Sở dĩ như vậy là do những nguyên nhân chủ yếu sau đây:
- Thứ nhất, cơ sở pháp lý về chức năng, nhiệ
m vụ của Thanh tra Tư
pháp còn nhiều bất cập;
- Thứ hai, tổ chức bộ máy của Thanh tra Tư pháp còn chưa phù hợp,
chưa tương xứng với chức năng, nhiẹm vụ được giao;
- Thứ ba, đội ngũ cán bộ Thanh tra Tư pháp vừa thiếu lại vừa yếu;
- Thứ tư, điều kiện cơ sở vật chất, phương tiện kỹ thuật của Thanh tra
T
ư pháp còn nghèo nàn, lạc hậu, chưa đáp ứng được yêu cầu của công việc;
- Thứ năm, cơ chế hoạt động, quan hệ phối hợp của Thanh tra Tư pháp
còn nhiều vướng mắc, bất cập.
1.3. Yêu cầu xử lý công việc đối với thanh tra ngành Tư pháp hiện
nay rất lớn và phức tạp
Cùng với việc khẳng định vị trí, vai trò của ngành tư pháp trong việc
xây dựng nhà nước pháp quy
ền xã hội chủ nghĩa, chức năng, nhiệm vụ quản lý
Nhà nước của Bộ Tư pháp ngày càng được mở rộng. Điều đó đồng nghĩa với
yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra đối với công tác thanh tra tư pháp ngày càng lớn.
Hơn thế nữa, Bộ Tư pháp là Bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực, do đó, yêu cầu

đặt ra đối với công tác thanh tra cũng rất đa d
ạng và phức tạp. Có thể nói, hiện
nay, khối lượng công việc đặt ra cho công tác thanh tra tư pháp rất nhiều, tính
chất công việc có nhiều phức tạp. Trong đó, vấn đề phức tạp nhất hiện nay là
công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo, đặc biệt là khiếu nại, tố cáo trong lĩnh
vực thi hành án dân sự. Những khiếu nại, tố cáo này thường căng thẳng, bức
xúc, kéo dài và liên quan đến nhiều ngành, nhiều cấp, nhiều đối tượng.
Ngoài những yêu cầu cụ thể của ngành đặt ra đối với công tác thanh tra
tư pháp, hiện nay công tác thanh tra tư pháp còn phải đáp ứng một loạt các yêu
cầu mới của bộ máy nhà nước như:
- Yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế khi Việt Nam là thành viên của Tổ
chức thương mại thế giới (WTO);

6
- Yêu cầu cải cách hành chính đối với bộ máy nhà nước nói chung và
mỗi cơ quan hành chính nhà nước nói riêng, trong đó có yêu cầu về cải cách
hành chính trong lĩnh vực tư pháp;
Hơn nữa, trong thời gian gần đây, nhiệm vụ phòng chống tham nhũng
được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm. Là một công cụ không thể thiếu
trong hoạt động quản lý nhà nước, giữ vai trò quan trọng trong nỗ lực phòng,
chống tham nhũng ở nước ta hiện nay, ngành Thanh tra cầ
n phải là một mắt
xích thiết yếu trong quá trình thực hiện những nhiệm vụ nói trên.
1.4. Tình hình nghiên cứu
Những năm gần đây, nhiều công trình nghiên cứu về cơ sở lý luận và
thực tiễn để đổi mới tổ chức và hoạt động Tư pháp đã được thực hiện thành
công như: Đề tài khoa học cấp cơ sở “Nghiệp vụ Thanh tra Tư pháp: cơ sở lý
luậ
n và thực tiễn”, Đề tài khoa học cấp Bộ “Cơ sở lý luận và thực tiễn để đổi
mới tổ chức bộ máy và hoạt động của Thanh tra Tư pháp”. Đặc biệt hiện

nay, Thanh tra Bộ Tư pháp phối hợp với Nhà xuất bản Tư pháp đang chuẩn bị
xuất bản cuốn “Sổ tay nghiệp vụ Thanh tra Tư pháp”. Các công trình này sau
khi được Hội đồng khoa họ
c của Bộ Tư pháp nghiệm thu đã được ứng dụng
vào thực tế công tác, góp phần nâng cao nhận thức của quần chúng nhân dân
nói chung, của cán bộ công chức và đặc biệt là của cán bộ công chức ngành
Tư pháp nói riêng về khái niệm, vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ và quyền
hạn của Thanh tra Tư pháp. Những công trình nói trên đã đề cập đến những
vấn đề về lý luận và nghiệp vụ Thanh tra Tư
pháp, đồng thời cũng đưa ra một
số giải pháp và kiến nghị kiện toàn tổ chức và hoạt động của Thanh tra Tư
pháp. Tuy nhiên, vấn đề năng lực Thanh tra Tư pháp cũng như những yếu tố
cấu thành của năng lực Thanh tra Tư pháp chưa được đặt ra nghiên cứu một
cách toàn diện.
Trong bối cảnh như vậy, được sự ủng hộ của Lãnh đạo Bộ
Tư pháp và
trực tiếp là Viện Khoa học pháp lý và Vụ Tổ chức cán bộ, Thanh tra Bộ đã
chủ trì thực hiện đề án “Tăng cường năng lực Thanh tra Tư pháp” với mục
tiêu xây dựng cơ sở lý luận, thực tiễn, giải pháp và lộ trình cụ thể nhằm tăng
cường năng lực cho lực lượng thanh tra trong toàn ngành Tư pháp đáp ứng
yêu cầu thực tiễn, yêu cầu cải cách tư
pháp, cải cách hành chính và hội nhập
kinh tế quốc tế hiện nay.
2. Quan điểm, nguyên tắc và mục tiêu tăng cường năng lực
Thanh tra Tư pháp
2.1. Quan điểm, nguyên tắc về tăng cường năng lực Thanh tra Tư
pháp
Tăng cường năng lực Thanh tra Tư pháp phải gắn liền với sự đổi mới
của Đảng và Nhà nước về cải cách hành chính, cải cách hệ thống tổ chức
thanh tra nói chung và hệ thống thanh tra chuyên ngành nói riêng. Nghị quyết

Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ III khoá
VII đã chỉ
rõ: Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam trọng tâm là cải cách một bước nền hành chính Nhà

7
nước Trong đó có nhấn mạnh đến công tác thanh tra và xét khiếu kiện của
công dân. Đồng thời, tăng cường năng lực Thanh tra Tư pháp cũng phải gắn
liền với xu hướng phát triển chung của đất nước và của Ngành Tư pháp.
Từ những cơ sở trên, tăng cường năng lực Thanh tra Tư pháp cần phải
tuân theo quan điểm như sau: Coi nhiệm vụ cải cách hành chính Nhà nước là
nhiệm vụ xuyên su
ốt, đồng thời đảm bảo thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ thanh
tra trong toàn Ngành.
Với quan điểm như trên, Thanh tra Tư pháp tăng cường năng lực của
mình phải đảm bảo theo hướng tinh, gọn, không "rườm rà" về bộ máy nhưng
đồng thời phải có cơ sở để đảm bảo thực hiện tốt các nhiệm vụ thanh tra, phục
vụ nhiệm vụ quản lý nhà n
ước trong toàn ngành Tư pháp đạt hiệu quả cao
nhất. Tăng cường năng lực Thanh tra Tư pháp phải tuân theo các nguyên tắc
cơ bản sau đây:
- Xây dựng hệ thống tổ chức thanh tra Tư pháp từ Trung ương đến địa
phương, trong đó bao gồm có thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành.
- Xây dựng đội ngũ cán bộ thanh tra có trình độ về chuyên môn, nghiệp
vụ, ngoại ngữ, tin học, có phẩm chất đạo đức, chính trị cao để có thể
đảm
đương được nhiệm vụ của Ngành giao cho.
- Nâng cao hiệu quả hoạt động thanh tra toàn ngành Tư pháp, đảm bảo
phục vụ tốt nhiệm vụ quản lý nhà nước của Ngành.
- Xây dựng mối quan hệ chặt chẽ, thống nhất giữa Thanh tra Bộ Tư

pháp và Thanh tra Sở Tư pháp, tạo cơ sở củng cố về tổ chức, thống nhất trong
chỉ đạo về chuyên môn, nghiệp v
ụ.
- Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Thanh tra Tư pháp
trong từng lĩnh vực.
2.2. Mục tiêu tăng cường năng lực Thanh tra Tư pháp
Thiết kế các giải pháp và xây dựng lộ trình nâng cao năng lực một cách
toàn diện cho lực lượng Thanh tra Tư pháp nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ
trước mắt và lâu dài.
3. Khái niệm, các yếu tố cấu thành năng lực Thanh tra Tư
pháp
Liên quan đến đối tượng nghiên cứu của Đề án "Tăng cường năng lực
Thanh tra Tư pháp", theo chúng tôi cần phải có sự thống nhất trong việc hiểu
về khái niệm và các yếu tố cấu thành năng lực Thanh tra Tư pháp.
3.1. Khái niệm năng lực Thanh tra Tư pháp
Tìm hiểu khái niệm "năng lực Thanh tra Tư pháp" trước hết cần hiểu
một số khái niệm cơ bản như: "năng lự
c", "thanh tra", "tư pháp" và "Thanh tra
Tư pháp".
3.1.1 Khái niệm năng lực
- Theo Từ điển Tiếng Việt - Trung tâm Từ điển học của Nhà xuất bản
Đà Nẵng, năm 2007 khái niệm "năng lực" được hiểu là "khả năng, điều kiện

8
chủ quan hoặc tự nhiên sẵn có để thực hiện một hoạt động nào đó" (trang
1021- ).
- Theo Bjorn Jensen, năng lực được hiểu là: "khả năng của cá nhân và
tổ chức, hoặc các đơn vị tổ chức thực hiện các chức năng hiệu quả và bền
vững"1.
Từ những khái niệm và quan điểm trên có thể hiểu "năng lực" của một

cá nhân hoặc tổ
chức là: khả năng, điều kiện khách quan, chủ quan của cá
nhân, tổ chức đó để thực hiện các chức năng một cách có hiệu quả và bền
vững.
3.1.2 Khái niệm thanh tra
Khoa học về thanh tra cho thấy khái niệm thanh tra bắt nguồn từ tiếng
La tinh “ inspectare” nghĩa là nhìn vào bên trong; trong tiếng Anh, thanh tra
là “inspect” có nghĩa là kiểm tra, xem xét kỹ lưỡng một cái gì đó. Trên thực tế,
khái niệm Thanh tra cũng như phạm vi hoạ
t động ở mỗi nước rất khác nhau.
Có nước, Thanh tra nằm trong hệ thống cơ quan hành pháp (Cộng hoà Pháp);
có nước Thanh tra là cơ quan quốc nội (Thụy Điển, Canađa và các nước Bắc
Âu); có nước hoạt động thanh tra gắn liền với kiểm toán (Hàn Quốc ). Dù
được tổ chức dưới hình thức nào, Thanh tra cũng là một tổ chức hoạt động có
tính độc lập cao, là một trong những công cụ quản lý của cấp trên
đối với cấp
dưới để thực hiện nhiệm vụ được giao.
Theo Từ điển tiếng Việt thì “thanh tra” là: “ kiểm soát xem xét tại chỗ
việc làm của địa phương, cơ quan, xí nghiệp”. Với nghĩa này, thanh tra bao
hàm nghĩa kiểm soát nhằm: “xem xét và phát hiện, ngăn chặn những gì trái
quy định”. Thanh tra thường được đặt trong một phạm vi thẩm quyền nhất
định và đi kèm với m
ột chủ thể nhất định.
Quan niệm về thanh tra hiện nay cũng như trong lịch sử nước ta được
thể hiện qua mô hình các cơ quan nhà nước và các quy định của Hiến pháp,
pháp luật theo từng giác độ khác nhau:
Thời kỳ phong kiến, thuật ngữ thanh tra chưa được sử dụng nhưng trong
bộ máy nhà nước các triều đại Lý, Trần, Lê đã có một cơ quan gọi là “Ngự sử
đài” với ch
ức năng gần giống như cơ quan thanh tra chính phủ hiện nay và có

chức quan ngự sử đứng đầu Ngự sử đài. Ngự sử đài có nhiệm vụ giúp vua
trong việc theo dõi, xem xét các công việc hệ trọng của triều đình.
Thuật ngữ thanh tra lần đầu tiên được ghi nhận trong văn bản pháp luật
của nhà nước ta khi Hồ Chủ tịch ký Sắc lệnh số 64/SL thành lập Ban Thanh
tra đặc biệt vào ngày 23/11/1945. S
ắc lệnh quy định: “Chính phủ sẽ lập ngay
một Ban thanh tra đặc biệt, có uỷ nhiệm là đi giám sát tất cả các công việc và
các nhân viên của Uỷ ban nhân dân và các cơ quan của Chính phủ”. Từ đó
đến nay, trải qua các thời kỳ phát triển của đất nước, nội dung thuật ngữ thanh
tra đã lần lượt được thể hiện ngày càng rõ hơn trong những văn bản có giá trị

1 . Xem "Đánh giá phát triển năng lực" của Bjorn Jensen tại:
/>02-10-03/Final%20presentations/4%20Capacity%20Assessment%20Bjoern_VN.pdf


9
pháp lý cao nhất, đó là Hiến pháp 1980 và Hiến pháp 1992. Trên cơ sở Hiến
pháp 1980, Điều 1, Pháp lệnh Thanh tra năm 1990 xác định: “thanh tra là một
chức năng thiết yếu của cơ quan quản lý nhà nước; là phươg thức bảo đảm
pháp chế, tăng cường tính kỷ luật trong quản lý nhà nước, thực hiện quyền
dân chủ xã hội chủ nghĩa”. Tinh thần này lại tiếp tục được ghi nhận và khẳng
định trong Lu
ật Thanh tra được Quốc hội thông qua ngày 15/6/2004 và có
hiệu lực thi hành từ ngày 01/10/2004. Theo đó, có thể tóm tắt lại: thanh tra là
một khâu trong chu trình quản lý nhà nước, là yêu tố cấu thành trong hoạt
động quản lý nhà nước; là phương thức và nội dung quan trọng để nâng cao
hiệu quả quản lý nhà nước; là phương tiện phòng ngừa vi phạm pháp luật và
tội phạm. Hoạt động thanh tra góp phần bảo đảm việc tuân thủ pháp luật trong
quản lý và quản lý nhà nước phải tuân theo pháp lu
ật. Hoạt động thanh tra và

giải quyết khiếu nại, tố cáo là phương thức phát huy dân chủ, bảo vệ lợi ích
của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức góp
phần đẩy mạnh nền cải cách hành chính nhà nước, nâng cao hiệu quả công tác
phòng ngừa, đấu tranh chống tham nhũng.
Như vậy, thanh tra là phạm trù gắn liền với quản lý Nhà nước, mỗi cơ
quan thanh tra là công cụ quan trọng trong quả
n lý Nhà nước. Khi bàn về quản
lý Nhà nước, Lê Nin đã chỉ rõ: " Điều kiện tất yếu để công tác quản lý được
chính xác là việc kiểm tra tình hình chấp hành Chỉ thị và Nghị quyết. Kiểm tra
thường xuyên việc chấp hành là một trong những ưu điểm cơ bản nhất, tất yếu
nhất của phương thức quản lý "
Trong mối quan hệ giữa thanh tra và quản lý, thì quản lý là nhân tố có
trước, quy
ết định mục tiêu, yêu cầu, nội dung và phương thức tổ chức hoạt
động thanh tra. Ngược lại, hoạt động thanh tra cũng có tác động tích cực đối
với quản lý, làm cho quá trình quản lý diễn ra liên tục, thông suốt theo mục
tiêu đã định. Qua thực hiện tổ chức hoạt động của bộ máy Nhà nước ở nước ta
trong các thời kỳ và cũng như nghiên cứu kinh nghiệm tổ chức bộ máy nhà
nướ
c của một số nước cho thấy: mỗi lĩnh vực quản lý nhất định, trong điều
kiện một cơ chế quản lý nhất định đòi hỏi phải có cơ chế tổ chức, hoạt động
thanh tra tương ứng thích hợp.
3.1.3 Khái niệm tư pháp
Trong khoa học pháp lý Việt Nam, khái niệm tư pháp được giải thích
theo nhiều nghĩa khác nhau và việc xác định cơ quan nào là cơ quan tư pháp
c
ũng chưa thực sự có sự thống nhất tuyệt đối.
Theo tiếng Latinh cổ “tư pháp” – Justitia, còn theo tiếng Anh – Justice,
có nghĩa là “công lý”, “pháp chế”, tức là thuật ngữ bao hàm toàn bộ các cơ
quan tòa án và hoạt động thực hiện quyền xét xử của hệ thống các cơ quan đó.

Đây cũng chính là quan điểm của chủ thuyết tam quyền phân lập mà theo đó
cơ quan tư pháp là mộ
t trong ba phân nhánh độc lập của một chính thể.
Nếu hiểu theo nghĩa rộng, thì tư pháp dùng để chỉ hệ thống các cơ quan
Tòa án, hệ thống các cơ quan bảo vệ pháp luật như: các cơ quan Điều tra,
Viện kiểm sát, Bộ Tư pháp, Thanh tra, v.v… và hệ thống các cơ quan bổ trợ

10
tư pháp nói chung như: tổ chức Luật sư, các cơ quan Công chứng, Giám định,
Hộ tịch, v.v…
Nếu hiểu theo nghĩa hẹp thì ở Việt Nam hiện nay, về mặt học thuật
cũng như trong thực tiễn quan điểm phổ biến nhất về khái niệm tư pháp được
hiểu là hệ thống: các cơ quan xét xử (Toà án), cơ quan Viện kiểm sát - giữ
quyền công tố tại Toà án nhân dân, cơ
quan điều tra và cơ quan thi hành án.
Tuy nhiên, trong phạm vi chuyên đề này thuật ngữ "tư pháp" dùng để
chỉ hệ thống các cơ quan quản lý nhà nước thuộc khối các cơ quan hành pháp
bao gồm: Bộ Tư pháp, Sở Tư pháp và các cơ quan thuộc thẩm quyền quản lý
nhà nước của Bộ Tư pháp và Sở Tư pháp.
3.1.4 Khái niệm Thanh tra Tư pháp
Thuật ngữ "Thanh tra Tư pháp" vừa được dùng với ý nghĩa là hoạt động
thanh tra trong lĩnh vự
c quản lý nhà nước của ngành Tư pháp đồng thời cũng
lại là một khái niệm gọi tên các cơ quan thanh tra trong ngành Tư pháp.
Nội dung Điều 1 của Nghị định số 74/2006/NĐ-CP ngày 01/8/2006 của
Chính phủ quy định về tổ chức và hoạt động của Thanh tra Tư pháp (sau đây
gọi tắt là Nghị định số 74/2006/NĐ-CP) như sau:
“Thanh tra Tư pháp là tổ chức thanh tra thuộc ngành Tư pháp; ở Trung
ương có Thanh tra Bộ Tư
pháp (sau đây gọi tắt là Thanh tra Bộ); ở tỉnh, thành

phố trực thuộc Trung ương có Thanh tra Sở Tư pháp (sau đây gọi tắt là Thanh
tra Sở); thực hiện chức năng thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành
về tư pháp trong phạm vi quản lý nhà nước của ngành Tư pháp theo quy định
của pháp luật”. Ngoài ra, theo quy định của Luật Thanh tra và Nghị định số
74/2006/NĐ-CP thì Thanh tra Tư pháp còn thực hiện các chức năng như: giúp
Bộ trưởng Bộ Tư
pháp quản lý nhà nước về công tác thanh tra tư pháp; là đầu
mối giúp thủ trưởng cơ quan tư pháp cùng cấp quản lý nhà nước về công tác
tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo trog lĩnh vực tư pháp; phòng ngừa
và đấu tranh chống tham nhũng trong lĩnh vực tư pháp.
Từ những khái niệm về "năng lực", "thanh tra", "tư pháp" và "Thanh tra
Tư pháp" như đã phân tích ở trên, ta có thể hiểu "năng lực Thanh tra Tư pháp"
là: khả n
ăng, điều kiện khách quan và chủ quan của Thanh tra Bộ Tư pháp và
Thanh tra Sở Tư pháp để thực hiện các chức năng thanh tra hành chính, thanh
tra chuyên ngành về tư pháp và các chức năng khác trong phạm vi quản lý nhà
nước của ngành Tư pháp theo quy định của pháp luật một cách có hiệu quả và
bền vững.
3.2. Các yếu tố cấu thành năng lực Thanh tra Tư pháp
Như đã phân tích ở trên "năng lực Thanh tra Tư pháp" có thể được hiểu
là: kh
ả năng, điều kiện khách quan và chủ quan của các tổ chức Thanh tra Tư
pháp để thực hiện các chức năng của mình. Vậy, những khả năng, điều kiện
khách quan, chủ quan đó là những gì? và những yếu tố tạo nên khả năng, điều
kiện khách quan, chủ quan đó? Nói cách khác, làm thế nào và dựa vào đâu để
có thể đánh giá được năng lực Thanh tra Tư pháp, tức là nă
ng lực Thanh tra
Tư pháp được cấu thành bởi những yếu tố nào? Theo lý thuyết về “Khung

11

đánh giá năng lực” của UNDP và các tổ chức Liên hợp quốc thì năng lực của
một cơ quan, tổ chức được đánh giá theo 03 chiều: quy định của pháp luật về
chức năng, nhiệm vụ; quy định của pháp luật về thiết chế: tức là quy định cụ
thể về thủ tục và tổ chức bộ máy, nhân sự, mối quan hệ làm việc để thực hiệ
n
chức năng nhiệm vụ; và năng lực cá nhân, tài năng và kỹ năng của cá nhân
trong thiết chế. Vận dụng quan điểm trên của UNDP vào thực tiễn Thanh tra
Tư pháp, theo chúng tôi, cấu thành nên năng lực Thanh tra Tư pháp bao gồm
05 yếu tố chính sau:
- Quy định của pháp luật về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn;
- Tổ chức bộ máy;
- Đội ngũ cán bộ (yếu tố con người);
-
Điều kiện cơ sở vật chất;
- Cơ chế hoạt động và quan hệ phối hợp.
3.2.1. Quy định của pháp luật về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
Để xác định sự tồn tại và phân biệt với các cơ quan, tổ chức khác, mỗi
tổ chức đều có những chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn riêng. Chức năng của
mộ
t cơ quan, tổ chức được hiểu là những phương diện hay những mặt hoạt
động cơ bản nhất của cơ quan, tổ chức đó, như vậy, có thể hiểu chức năng của
Thanh tra Tư pháp chính là những mặt hoạt động cơ bản nhất của Thanh tra
Tư pháp. Vì vậy, vai trò của Thanh tra Tư pháp trước hết thể hiện ở chỗ Thanh
tra Tư pháp có những chứ
c năng gì và việc thực hiện các chức năng đó như
thế nào hay nói cách khác pháp luật quy định Thanh tra Tư pháp có những
chức năng gì và thực tiễn tổ chức thực hiện các chức năng của Thanh tra Tư
pháp có hiệu lực, hiệu quả không? Có bất cập, vướng mắc gì không?
Nhiệm vụ, quyền hạn là những quy định cụ thể về những việc cơ quan,
tổ chức phả

i làm và được làm để thực hiện chức năng của mình, như vậy, có
thể hiểu nhiệm vụ, quyền hạn của Thanh tra Tư pháp là những điều, những
việc cụ thể mà pháp luật quy định Thanh tra Tư pháp có trách nhiệm phải thực
hiện và những việc mà Thanh tra Tư pháp có quyền được thực hiện. Nói cách
khác Thanh tra Tư pháp chỉ được làm và cũng chỉ phải làm những gì pháp luật
quy định. Nhiệ
m vụ, quyền hạn của Thanh tra Tư pháp phải được quy định
phù hợp với chức năng của Thanh tra Tư pháp. Nếu nhiệm vụ, quyền hạn mà
được quy định quá nhiều, quá lớn thì dễ dẫn đến lạm quyền, còn nếu nhiệm vụ
quyền hạn mà được quy định không đủ mạnh, không rõ ràng thì rất khó thực
hiện được các chức năng của mình.
Một yếu tố quan trọng n
ữa khi nghiên cứu quy định của pháp luật về
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Thanh tra Tư pháp không thể không tính
đến đó là thực tiễn việc tổ chức thực hiện các chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
của Thanh tra Tư pháp như thế nào; Thanh tra Tư pháp ở cả hai cấp (cấp Bộ
và cấp Sở) đã làm tròn nhiệm vụ của mình, đã phát huy hết thẩm quy
ền của
mình để phục vụ có hiệu quả, hiệu lực công tác quản lý nhà nước của Ngành
chưa?

12
Nói tóm lại: Quy định của pháp luật về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
của Thanh tra Tư pháp cũng như thực tiễn thực hiện các quy định đó là yếu tố
đầu tiên và quan trọng nhất cấu thành nên năng lực của Thanh tra Tư pháp.
Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Thanh tra Tư pháp mà phù hợp và thực
tiễn tổ chức thực hiện các chức năng, nhiệ
m vụ đó tốt thì năng lực của Thanh
tra Tư pháp sẽ cao và ngược lại nếu chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của
Thanh tra Tư pháp mà không phù hợp và việc thực hiện các chức năng, nhiệm

vụ, quyền hạn đó mà không tốt thì chắc chắn năng lực Thanh tra Tư pháp sẽ
không cao.
3.2.2. Tổ chức bộ máy
Nếu như chức năng, nhiệm vụ, quyền h
ạn của một cơ quan, tổ chức
được coi là yếu tố đầu tiên, yếu tố quan trọng nhất quyết định đến năng lực
hoạt động của cơ quan, tổ chức đó thì cơ cấu, tổ chức bộ máy hợp lý có thể coi
là một điều kiện không thể thiếu để đảm bảo cho năng lực hoạt động của cơ
quan, tổ ch
ức đó đạt được hiệu quả cao. Yếu tố này trước hết bao gồm những
quy định cụ thể của pháp luật về tổ chức bộ máy của Thanh tra Tư pháp và
thực tiễn cơ cấu, tổ chức bộ máy của Thanh tra Tư pháp. Cơ cấu, tổ chức bộ
máy của Thanh tra Bộ Tư pháp và Thanh tra Sở Tư pháp phải đảm bảo tính
khoa học. Tính khoa học được thể
hiện qua các đặc tính:
- Khách quan: tính pháp lý của tổ chức bộ máy hay nói cách khác chính
là sự cần thiết phải có tổ chức Thanh tra Tư pháp; đồng thời, sự tồn tại của các
tổ chức Thanh tra Tư pháp phải được pháp luật ghi nhận.
- Hợp lý: cơ cấu tổ chức bộ máy của Thanh tra Tư pháp từ Trung ương
đến địa phương phải hợp lý.
- Đồng bộ: mối tương quan giữa yêu cầu chứ
c năng, nhiệm vụ của
Thanh tra Tư pháp với việc bố trí cán bộ, công chức phải đảm bảo tính đồng
bộ.
- Hiệu quả: Bộ máy Thanh tra Tư pháp phải hoạt động có hiệu quả.
Để đạt được những yêu cầu trên, một trong những yếu tố quan trọng là
phải xác định được chức năng, nhiệm vụ của tổ chức bộ máy, xác định số
phòng ban, biên chế
cần thiết đảm bảo hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao trên
cơ sở tiêu chuẩn hoá theo chức danh đối với cán bộ, công chức và Thanh tra

viên. Mỗi cán bộ, công chức và Thanh tra viên phải có trình độ chuyên môn,
lý luận chính trị, ngoại ngữ tương ứng để đảm nhận công việc mà bộ máy tổ
chức yêu cầu. Việc xác định chức danh cán bộ, công chức thực chất là phân
công cán bộ, công chức theo vị trí công tác trong bộ máy và xác định trách
nhi
ệm, thẩm quyền trước bộ máy và pháp luật. Tổ chức bộ máy khoa học phải
xuất phát từ chức năng, nhiệm vụ của mình mà xác định đúng biên chế cần
thiết cho bộ máy, sao để tính hợp lý giữa công việc và biên chế đảm bảo tối
ưu, mang lại hiệu quả cao.
Như vậy có thể khẳng định tổ chức bộ máy là một trong những yếu tố
quan trọ
ng hàng đầu cấu tạo nên năng lực Thanh tra Tư pháp.

13
3.2.3. Đội ngũ cán bộ
Tất cả mọi thứ, mọi vấn đề đều là sản phẩm của con người, nên pháp
luật, cơ chế chính sách, cơ sở vật chất, cơ chế hoạt động, quan hệ phối hợp
công tác cũng đều do con người tạo ra, vấn đề là ở chỗ con người đã tạo ra nó
như thế nào và sử dụng nó ra làm sao, có hiệu quả hay không. Do đó, đối v
ới
bất kỳ cơ quan, tổ chức nào yếu tố con người luôn là yếu tố then chốt, quyết
định đến sự tồn tại và hiệu quả hoạt động của chính tổ chức, cơ quan đó.
Trong thực tiễn ngành nào, tổ chức nào quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ
công chức có phẩm chất tốt, đủ năng lực hoạt động thì ngành đó, tổ chức đó
hoạ
t động hiệu quả và ngược lại nếu ngành nào, tổ chức nào không quan tâm,
không xây dựng được đội ngũ cán bộ có phẩm chất đạo đức tốt, không đủ
năng lực hoạt động thì ngành đó, tổ chức đó hoạt động sẽ không hiệu quả.
Chính vì vậy, nói đến công tác thanh tra là phải nói đến con người làm công
tác thanh tra, nói đến năng lực Thanh tra Tư pháp là phải nói đến vấn đề đội

ngũ
cán bộ, công chức Thanh tra Tư pháp.
Nội dung này bao gồm các quy định của pháp luật về những nội dung
cơ bản của công tác cán bộ như: biên chế, tiêu chuẩn tuyển dụng cán bộ, công
chức, bổ nhiệm công chức lãnh đạo, đào tạo, bồi dưỡng, chế độ đãi ngộ công
chức Thanh tra Tư pháp và thực tiễn thi hành, vận dụng các quy định đó. Nếu
pháp luật quy định và thực tiễn biên chế
được giao quá ít hoặc thiếu thì Thanh
tra Tư pháp sẽ không thể hoặc rất khó thực hiện tốt các chức năng, nhiệm vụ
quyền hạn của mình. Ngược lại, nếu biên chế lại nhiều hơn đòi hỏi của thực
tiễn sẽ dẫn đến tình trạng có dôi thừa, lãng phí vì không tận dụng hết khả năng
làm việc cán bộ công chức. Hơn nữa, như vậy sẽ phát sinh th
ực tế có những
cán bộ công chức không phát huy được hết khả năng, kiến thức, thời gian và
tâm huyết cho công việc, dần dần dễ dẫn đến tình trạng chán nản và như thế rõ
ràng năng lực hoạt động của Thanh tra Tư pháp sẽ bị ảnh hưởng. Bên cạnh đó,
kể cả trong trường hợp Thanh tra Tư pháp được giao và thực tiễn có biên chế
hợp lý nhưng nếu quá trình tuyển d
ụng không nghiêm túc, tuyển dụng những
người không có đủ phẩm chất, năng lực vào ngành, chế độ đãi ngộ không
xứng đáng cũng sẽ là một yếu tố ảnh hưởng đến năng lực Thanh tra Tư pháp.
Vấn đề bổ nhiệm công chức lãnh đạo cũng là một phần không thể không tính
đến khi nghiên cứu về yếu tố con người của lực lượng Thanh tra Tư pháp.
Người đượ
c bổ nhiệm có đủ đức, đủ tài, đủ uy tín và thủ tục, trình tự bổ nhiệm
công khai, minh bạch, nhanh chóng sẽ tạo ra môi trường lành mạnh, tạo động
lực để toàn thể cán bộ, công chức yên tâm công tác và không ngừng phấn đấu,
rèn luyện góp phần nâng cao năng lực Thanh tra Tư pháp. Đồng thời, việc đào
tạo, bồi dưỡng mà được thực hiện tốt sẽ góp phần không ngừng cập nhật, nâng
cao trình độ

chuyên môn cho lực lượng cán bộ công chức để đáp ứng được
những đòi hỏi mới ngày càng cao trong công việc của toàn ngành Thanh tra
Tư pháp; chế độ đãi ngộ mà được đảm bảo thì cán bộ, công chức Thanh tra Tư
pháp sẽ chuyên tâm hơn vào công việc, yên tâm phấn đấu, cống hiến cho sự
nghiệp phát triển của ngành Tư pháp, trong đó có lực lượng Thanh tra Tư
pháp.

14
3.2.4. Điều kiện cơ sở vật chất, phương tiện làm việc
Có thể nói rằng điều kiện về cơ sở vật chất, phương tiện làm việc là một
trong những yếu tố không thể thiếu được để tạo nên năng lực một cơ quan, tổ
chức, cho dù chức năng, nhiệm vụ quyền hạn của cơ quan, tổ chức đ
ó đã được
xác định đúng mức, tổ chức bộ máy có được cơ cấu phù hợp, tương ứng với
các chức năng, nhiệm vụ đó và cả yếu tố con người hoàn toàn có thể đáp ứng
được các đòi hỏi đặt ra mà yếu tố vật chất không được đảm bảo, hay nói cách
khác không đủ các phương tiện, vật chất cần thiết phục vụ cho hoạt độ
ng thì
chắc chắn hoạt động của cơ quan, tổ chức đó sẽ gặp nhiều khó khăn, thậm chí
là không đạt hiệu quả. Đối với Thanh tra Tư pháp, hoạt động của tổ chức này
chắc chắn sẽ không thể đảm bảo nếu không có hoặc thiếu phòng cho cán bộ,
công chức làm việc, không có phòng tiếp công dân, không có hoặc thiếu các
trang thiết bị cần thiết để phục công tác thanh tra và xét giải quy
ết khiếu nại,
tố cáo như máy tính, mạng internet, ô tô, xe máy, máy chụp ảnh, máy ghi âm,
kính lúp và các phương tiện khác
3.2.5. Cơ chế hoạt động và quan hệ phối hợp
Cơ chế hoạt động và quan hệ phối hợp cũng là một trong những yếu tố
chính, có tác động rất lớn đến năng lực của Thanh tra Tư pháp. Nếu coi toàn
ngành Thanh tra Tư pháp là một chiếc xe đang vận hành thì quy định của pháp

luật quy định v
ề chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy, cơ sở vật
chất, phương tiện kỹ thuật hiện đại được coi là những yếu tố quan trọng; yếu
tố con người được coi là then chốt, là cốt yếu như người cầm lái điều khiển
chiếc xe chạy nhanh hay chậm, nhanh chậm lúc nào và chọn con đường nào
nhanh nhất, hiệu quả nhất, thì cơ
chế hoạt động và quan hệ phối hợp công tác
được coi như là thứ dầu bôi trơn cho chiếc xe vận hành. Cơ chế hoạt động của
Thanh tra Tư pháp có thể được hiểu là cách thức hoạt động của Thanh tra Tư
pháp. Cách thức hoạt động này được pháp luật quy định như thế nào và thực tế
đang thực hiện ra làm sao? Có hiệu quả không? Còn vướng mắc gì? trong
quá trình hoạt động đó, các cơ quan Thanh tra Tư
pháp tất yếu phải có sự phối
hợp với các cơ quan, đơn vị khác trong và ngoài ngành tạo nên các quan hệ
phối hợp để hoàn thành nhiệm vụ của mình.
Cơ chế làm việc và cơ chế phối hợp công tác của Thanh tra Tư pháp với
các cá nhân, cơ quan, tổ chức, đơn vị trong và ngoài ngành mà tốt thì hoạt
động của Thanh tra Tư pháp sẽ thuận lợi, hiệu quả. Ngược lại, cơ chế hoạ
t
động, quan hệ phối hợp mà gò bó, cứng nhắc, có nhiều cản trở hoặc lại lỏng
lẻo, không có sự gắn kết cần thiết thì chắc chắn sẽ ảnh hưởng rất lớn đến hoạt
động của Thanh tra Tư pháp.
4. Vị trí, vai trò và đặc trưng cơ bản của Thanh tra Tư pháp
4.1. Vị trí, vai trò của Thanh tra Tư pháp
Cùng với sự phát triển của ngành Tư pháp và Thanh tra nhà nước, vị trí,
vai trò của Thanh tra Tư pháp ngày càng được ghi nhận, củng cố và phát triển,
thể hiện ở 04 nội dung chính sau đây:

15
Thứ nhất, Thanh tra Tư pháp là chức năng thiết yếu trong quản lý

nhà nước của ngành Tư pháp:
Trong khoa học quản lý nhà nước, theo các giai đoạn tác động, quản lý
nhà nước bao gồm có những chức năng cơ bản sau: chức năng điều chỉnh;
chức năng tổ chức; chức năng điều khiển và chức năng thanh tra, kiểm tra.
Thanh tra, kiểm tra là chức năng nhằm kịp thờ
i phát hiện ra những sai sót
trong quá trình hoạt động và các cơ hội đột biến trong hệ thống. Ở đây thanh
tra, kiểm tra được hiểu là hình thức tác động có mục đích quan sát cả hệ thống
để phát hiện những sai lệch so với yêu cầu đề ra, tìm ra nguyên nhân và từ đó
có những giải pháp, biện pháp xử lý phù hợp đảm bảo để hoạt động của đối
tượng bị quản lý đạt tới mục tiêu mà chủ thể quản lý đã xác định. Trong một
phạm vi, chừng mực nhất định hoạt động kiểm tra theo nghĩa thông thường có
thể đưa lại những thông tin cần thiết, đáp ứng yêu cầu tìm ra những giải pháp
phù hợp. Nhưng ở một chừng mực nào đó, hoạt động kiểm tra thông thường
chưa đáp ứng được yêu cầu quản lý, thì đòi hỏi phải thự
c hiện hình thức kiểm
tra đặc biệt hơn để tìm ra những nguyên nhân chủ quan, khách quan của sai
lệch và chỉ rõ trách nhiệm thuộc về ai, đưa ra những kiến nghị đề xuất. Để
đảm bảo hiệu quả, loại hình kiểm tra đặc biệt này cần phải được đảm bảo bằng
các chế định pháp luật, được áp dụng các phương pháp do pháp luật quy định
đó chính là hoạt động thanh tra hiện nay. Trong quá trình thự
c hiện chức năng
quản lý nhà nước các cơ quan quản lý nhà nước nhất thiết phải tiến hành hoạt
động thanh tra, kiểm tra việc thực hiện các quyết định mà mình đã ban hành.
Đó là một khâu không thể thiếu trong quá trình hoạt động quản lý nhà nước.
Chính vì vậy, thanh tra được xác định là chức năng thiết yếu của quản lý nhà
nước. Vai trò, vị trí này của thanh tra đã được Luật Thanh tra thể hiện rất rõ
thông qua các chế
định về: mục đích, phạm vi, nguyên tắc hoạt động thanh tra;
trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc tạo điều kiện cho

hoạt động thanh tra; mối quan hệ giữa thanh tra với thủ trưởng cơ quan quản
lý nhà nước; mối quan hệ giữa thanh tra với đối tượng thanh tra và cơ quan, tổ
chức, cá nhân có liên quan khác. Thanh tra Tư pháp luôn gắn liền với hoạt
động quản lý nhà nước của ngành Tư pháp. Trong quá trình thự
c hiện chức
năng quản lý nhà nước của mình, sau khi đã ban hành các quyết định quản lý
và tổ chức, thực hiện các quyết định quản lý, các chủ thể quản lý (Bộ Tư pháp,
Sở Tư pháp) luôn cần có sự kiểm tra, theo dõi việc thực hiện các quyết định
quản lý nhằm đảm bảo cho hoạt động quản lý đó tuân theo đúng pháp luật và
có hiệu quả. Hoạt động của Thanh tra Tư
pháp với tư cách là chức năng thiết
yếu của quản lý, khâu quan trọng trong chu trình quản lý, tiến hành thanh tra,
kiểm tra việc thực hiện chính sách, pháp luật của các cơ quan, tổ chức, cá nhân
là đối tượng quản lý, đương nhiên hoạt động thanh tra phải gắn liền với hoạt
động quản lý nhà nước của Ngành. Như vậy, xét về bản chất thì Thanh tra Tư
pháp là công cụ, phương tiện của chủ thể quản lý (B
ộ Tư pháp, sở Tư pháp)
trong việc thanh tra, kiểm tra việc chấp hành chính sách, pháp luật, nhiệm vụ
mà Bộ đã đề ra đối với các đối tượng quản lý.
Thứ hai, Thanh tra Tư pháp góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả
quản lý nhà nước của ngành Tư pháp:

16
Thực tiễn đã chỉ ra rằng trong các chức năng quản lý nhà nước của
Ngành Tư pháp thì hiệu quả quản lý phần lớn phụ thuộc vào nội dung, chất
lượng và biện pháp tổ chức thực hiện các quyết định, chính sách, pháp luật đã
được ban hành. Để các quyết định, chính sách, pháp luật trong phạm vi quản
lý nhà nước của ngành Tư pháp được các cơ quan, tổ chức, cá nhân tuân thủ
và chấp hành một cách chính xác, đầy
đủ, người quản lý phải đề ra quy trình

thực hiện các quyết định, chính sách, pháp luật đó. Trong quy trình đó không
thể thiếu hoạt động thanh tra, kiểm tra. Thanh tra, kiểm tra là để đánh giá,
nhận xét tình hình và kết quả thực hiện quyết định quản lý; để kiểm nghiệm lại
chính nội dung và chất lượng quản lý; khi cần thiết phải bổ sung, sửa đổi,
thậm chí phải huỷ bỏ một phần hay toàn b
ộ quyết định quản lý. Thanh tra tư
pháp cũng giúp chủ thể quản lý đánh giá đúng tình hình thực hiện những
nhiệm vụ thuộc phạm vi quản lý nhà nước của ngành Tư pháp. Trong trường
hợp quyết định quản lý được kiểm nghiệm là đúng, là phù hợp nhưng đối
tượng thi hành vẫn không tuân thủ và chấp hành nghiêm chỉnh thì khi đó hoạt
động thanh tra, kiểm tra phải làm rõ nguyên nhân, xác định rõ trách nhiệm để
chấn ch
ỉnh hoặc xử lý (nếu có vi phạm). Không chỉ giữ vai trò xem xét, đánh
giá một quyết định quản lý cụ thể, công tác thanh tra còn phải hướng đến việc
xem xét, kết luận, đánh giá kết quả thực hiện các mục tiêu, chương trình,
nhiệm vụ của chính cơ quan quản lý nhà nước. Trong mối quan hệ giữa chủ
thể quản lý (Bộ Tư pháp, Sở Tư pháp) với Thanh tra Tư pháp (Thanh tra Bộ,
Thanh tra Sở) thì chủ th
ể quản lý giữ vai trò chủ đạo, chi phối hoạt động thanh
tra như đề ra các chương trình, kế hoạch thanh tra, quy định phạm vi hoạt
động của thanh tra Ngược lại, hoạt động của Thanh tra tư pháp giữ vai trò
tích cực, tác động ngược trở lại đối với hoạt động quản lý nhà nước của Bộ, sở
Tư pháp xem xét, đánh giá kết quả, hiệu quả việc thực hiện các quyết
định
quản lý của Bộ, Sở Tư pháp phát hiện những mặt tích cực để phát huy, phát
hiện những sai phạm để đề xuất, kiến nghị với chủ thể quản lý sửa đổi cơ chế,
chính sách, xử lý các hành vi vi phạm. Nếu Thanh tra hoạt động có hiệu quả
thì có tác dụng thúc đẩy quá trình quản lý của Bộ, Sở Tư pháp. Ngược lại, nếu
Thanh tra Tư pháp hoạt động kém hiệu qu
ả thì sẽ một phần hạn chế hoạt động

quản lý nhà nước của ngành Tư pháp. Rõ ràng rằng, Thanh tra tư pháp đã góp
phần nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước của ngành Tư pháp.
Thứ ba, Thanh tra Tư pháp là phương thức bảo đảm sự tuân thủ
pháp luật trong quản lý của ngành Tư pháp và tăng cường pháp chế xã hội
chủ nghĩa:
Hoạt động thanh tra không chỉ là nhằm phát hiện ra những thiếu sót, sai
ph
ạm trong việc thực hiện chính sách pháp luật để kiến nghị, đưa ra các biện
pháp xử lý mang tính quyền lực nhà nước mà qua đó hoạt động thanh tra còn
nhằm uốn nắn, yêu cầu các đối tượng quản lý phải thực hiện đúng các quy
định của pháp luật. Hoạt động của thanh tra thể hiện như một tác động tích
cực nhằm thực hiện quyền lực nhà nước được pháp luật quy định
đối với đối
tượng thanh tra trong phạm vi quản lý nhà nước của của ngành Tư pháp. Tính
quyền lực trong hoạt động của thanh tra được thể hiện ở chỗ tiến hành các
cuộc thanh tra trên cơ sở thẩm quyền Bộ trưởng, Giám đốc sở, có những

17
quyền hạn và khả năng thực hiện những quyền hạn đó như ra các quyết định
bắt buộc thi hành đối với các đối tượng thanh tra trong việc sửa chữa những
thiếu sót đã bị thanh tra phát hiện; chuyển hồ sơ sang cơ quan điều tra những
hành vi vi phạm pháp luật; được áp dụng các biện pháp cưỡng chế nhà
nước. Qua đó, góp phần quan trọng cho việc tuân thủ pháp luật trong qu
ản lý
nhà nước.
Công tác thanh tra còn góp phần bảo đảm nguyên tắc Pháp chế xã hội
chủ nghĩa. Bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa tức là đảm bảo cho pháp luật
được tuân thủ một cách tuyệt đối, không có một thực thể nào đứng trên pháp
luật hay đứng ngoài pháp luật. Hoạt động thanh tra góp phần bảo đảm pháp
chế xã hội chủ nghĩa thể hiện ở những nội dung sau: hoạt độ

ng thanh tra đã
góp phần không nhỏ vào việc tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật, giúp
cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân hiểu đúng và từ đó chấp hành nghiêm chỉnh
các quy định của pháp luật. Thực tiễn, có không ít trường hợp vi phạm pháp
luật nhưng không phải là do không hiểu đúng các quy định của pháp luật.
Trong những trường hợp đó, nếu chỉ có giúp sửa chữa, khắc phục thì khó có
thể bảo đảm tình tr
ạng đó sẽ không tái phạm mà đòi hỏi thanh tra phải có biện
pháp cứng rắn hơn, hình thức xử lý nghiêm khắc hơn. Việc làm này không
những chỉ tác động đến đối tượng có sai phạm mà còn có tác dụng răn đe đối
với các đối tượng quản lý khác. Người này sửa chữa để người kia tránh và như
thế rõ ràng càng làm cho việc tuân thủ pháp luật được thực hiện một cách
nghiêm túc. Qua thanh tra còn phát hiện các văn bản pháp lý c
ấp dưới trái với
văn bản pháp luật cấp trên, các quy định pháp luật không phù hợp với thực tế
từ đó có kiến nghị sửa đổi hoặc bãi bỏ.
Thứ bốn, Thanh tra Tư pháp là một biện pháp ngăn ngừa, phát hiện
và xử lý hành vi vi phạm pháp luật, nâng cao hiệu quả đấu tranh, phòng
ngừa chống tham nhũng trong ngành Tư pháp:
Vai trò của công tác thanh tra không chỉ và không phải chủ yếu là phát
hiện các sai phạm, vi ph
ạm các quy định pháp luật và có các biện pháp xử lý
mà quan trọng hơn, thanh tra có tác dụng phòng ngừa hữu hiệu các hành vi vi
phạm pháp luật, nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng và chống tham nhũng.
Biện pháp phòng ngừa vi phạm pháp luật và đấu tranh phòng chống tham
nhũng là một trong những nhiệm vụ quan trọng trong hoạt động quản lý nhà
nước nói chung và quản lý nhà nước của ngành Tư pháp nói riêng. Tính phòng
ngừa các hành vi vi phạm pháp luật của thanh tra được thể ở những khía cạnh
sau
đây:

Một là, hoạt động thanh tra luôn luôn mang tính quyền lực nhà nước, là
hiện thân của kỷ cương pháp luật, có các biện pháp xử lý mạnh. Sự hiện diện
của thanh tra là sự nhắc nhở thường xuyên đối với tất cả các đối tượng thanh
tra, đối tượng chịu sự quản lý. Hoạt động thanh tra thường xuyên hay đột xuất
luôn tạo ra một yêu cầu thường trực cho các đối tượng chịu s
ự quản lý nếu vi
phạm pháp luật sẽ bị xử lý, do đó, luôn luôn phải cảnh giác tuân thủ pháp luật
và nhờ đó đã hạn chế các hành vi vi phạm pháp luật, góp phần phòng ngừa
tham nhũng.

18
Hai là, hoạt động thanh tra có tác dụng tìm hiểu, giúp đỡ, định hướng
cho các đối tượng thực hiện đúng các quy định của pháp luật.
Ba là, qua thanh tra tìm ra những quy định bất cập, những kẽ hở của
chính sách, pháp luật từ đó kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền chỉnh
sửa hoặc bãi bỏ để hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật nhằm ngăn ngừa
các hành vi đúng đắ
n lại bị cho là vi phạm pháp pháp luật.
Bốn là, trong nhiều trường hợp, qua thanh tra có thể dự báo được những
hành vi vi phạm pháp luật sẽ xảy trong tương lai nếu không được chấn chỉnh,
không có sự định hướng lại cho các đối tượng một cách kịp thời thì rất dễ có
các hành vi vi phạm xảy ra
4.2. Đặc trưng cơ bản của Thanh tra Tư pháp
Thanh tra Tư pháp cũng có những đặc điểm chung nh
ư những tổ chức
thanh tra của các ngành khác, đó là thực hiện chức năng thanh tra trong phạm
vi quản lý Nhà nước của ngành, giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền
quản lý Nhà nước của Thủ trưởng cùng cấp. Tuy nhiên, Ngành Tư pháp có
đặc điểm là quản lý đa lĩnh vực và theo nhiều chiều. Trong đó có lĩnh vực thì
quản lý cả về mặt tổ chức và chuyên môn nghiệp như

thi hành án dân sự; có
nhiều lĩnh vực thì chỉ chịu trách nhiệm về mặt chuyên môn như công chứng,
hộ tịch, quốc tịch, luật sư, tư vấn, bán đấu giá tài sản ; có tổ chức thuộc
Ngành Tư pháp như Đại học Luật Hà Nội, Báo Pháp luật Việt Nam, Nhà Xuất
bản Tư pháp…nhưng lại cũng chịu sự điều chỉnh về chuyên môn của Ngành
khác. Chính những đặc đ
iểm đó của Ngành Tư pháp đã quy định những đặc
thù của Thanh tra Tư pháp như sau:
Một là, Thanh tra chuyên ngành trên nhiều lĩnh vực: Bộ Tư pháp thực
hiện chức năng quản lý Nhà nước về nhiều lĩnh vực khác nhau nên đặc điểm
nổi bật nhất của Thanh tra Tư pháp là có trọng trách rất lớn trong việc thanh
tra về chuyên môn, nghiệp vụ của nhiều lĩnh vực đó. Các l
ĩnh vực mà ngành
Tư pháp quản lý là những lĩnh vực quan trọng có liên quan tới đời sống xã hội
như: thi hành án dân sự; công chứng, chứng thực; hộ tịch; nuôi con nuôi có
yếu tố nước ngoài; quốc tịch; lý lịch tư pháp; luật sư; tư vấn pháp luật; giám
định tư pháp; bán đấu giá tài sản; trọng tài thương mại; trợ giúp pháp lý; đăng
ký giao dịch bảo đảm; hợp tác với nước ngoài về pháp luật; kiể
m tra văn bản
quy phạm pháp luật; phổ biến, giáo dục pháp luật và công tác tư pháp khác.
Riêng về lĩnh vực thi hành án dân sự, ngành Tư pháp có khoảng 600 cơ quan
Thi hành án dân sự các cấp. Hiện nay, hầu hết các lĩnh vực chuyên ngành đã
có văn bản quy định về xử lý vi phạm hành chính để xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực đó. Do vậy, để phục vụ cho công tác quản lý của Ngành
đối với các đối tượng trên, Thanh tra tư
pháp còn phải có một lực lượng không
những nhiều về số lượng mà còn phải tinh thông về nghiệp vụ mới có thể đảm
đương được nhiệm vụ của mình.
Hai là, Thanh tra việc cấp và sử dụng kinh phí theo ngành dọc: Đặc
điểm này xuất phát từ việc Bộ Tư pháp có nhiệm vụ, quyền hạn cấp và quản lý

về tài chính đối với tất cả các cơ quan thi hành án dân sự trên toàn qu
ốc. Do
đó, công tác thanh tra, xét giải quyết khiếu nại, tố cáo của Thanh tra Tư pháp

19
phải có những hoạt động thanh tra, kiểm tra tương ứng với công tác cấp và sử
dụng kinh phí của 64 cơ quan Thi hành án dân sự cấp tỉnh và khoảng gần 600
các cơ quan Thi hành án dân sự cấp huyện trong phạm vi cả nước. Trong quản
lý kinh phí đối với các Cơ quan Thi hành án thì kinh phí được cấp thẳng từ Bộ
Tư pháp, không qua Sở Tư pháp, do đó, việc thanh tra, kiểm tra tài chính gặp
nhiều khó khăn nhất định. Cụ thể là, hàng nă
m, Thanh tra Bộ cũng chỉ tiến
hành được 2 đến 3 cuộc thanh tra sử dụng kinh phí của cơ quan thi hành án
dân sự và cũng chỉ tiến hành chủ yếu là đối với cấp tỉnh. Việc thanh tra sử
dụng kinh phí đối với cơ quan thi hành án cấp huyện là có mức độ. Còn Thanh
tra các Sở Tư pháp không có trách nhiệm hoặc ngại không thanh tra, kiểm tra
việc sử dụng kinh phí đó vì một số địa phương cho rằng kinh phí của các cơ

quan thi hành án là do Bộ tư pháp cấp trực tiếp, không qua Sở Tư pháp. Chính
vì vậy, việc thanh tra, kiểm tra đối với các cơ quan thi hành án cấp huyện
trong việc sử dụng kinh phí là chưa được đồng đều và rộng khắp.
Ba là, Thanh tra về mặt tổ chức theo cơ chế uỷ quyền: Tuy cũng có
phần giống như các ngành khác là có hoạt động quản lý về mặt tổ chức của
các đơn vị trự
c thuộc nhưng nội dung này ở ngành Tư pháp cũng lại có điểm
riêng. Đó là vấn đề quản lý về mặt tổ chức của các cơ quan Thi hành án dân sự
cấp tỉnh và cơ quan Thi hành án dân sự cấp huyện. Bộ Tư pháp được Chính
phủ giao nhiệm vụ, quyền hạn quản lý cả về mặt tổ chức và chuyên môn
nghiệp vụ của công tác thi hành án dân sự. Nhưng về mặt tổ ch
ức cơ quan Thi

hành án dân sự tỉnh, cơ quan Thi hành án dân sự huyện vẫn chịu sự quản lý
một phần của chính quyền địa phương. Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ban hành
Quyết định số 1148/2005/QĐ-BTP uỷ quyền cho Giám đốc các Sở Tư pháp
quản lý về mặt tổ chức các cơ quan thi hành án dân sự địa phương. Ngày
26/09/2008, Bộ Tư pháp đã ban hành Thông tư số 06/2008/TT-BTP về việc
hướ
ng dẫn một số nội dung về tổ chức cán bộ các cơ quan thi hành án dân sự
địa phương. Căn cứ pháp lý này dẫn đến đặc thù của Thanh tra Tư pháp là:
Thanh tra Bộ Tư pháp có thẩm quyền thanh tra về mặt công vụ, tổ chức, biên
chế; thanh tra giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực thi hành án dân sự
theo quy định của pháp luật và Thanh tra Sở Tư pháp cũng có nhiệm vụ giúp
Giám đốc các Sở Tư pháp thanh tra và xác minh giúp gi
ải quyết khiếu nại, tố
cáo trong lĩnh vực này.

20
II. THỰC TRẠNG VỀ NĂNG LỰC THANH TRA TƯ PHÁP
1. Thực trạng quy định của pháp luật về chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn của Thanh tra Tư pháp
1.1. Quy định của pháp luật về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của
Thanh tra Tư pháp
Thứ nhất, các văn bản quy phạm pháp luật quy định trực tiếp về chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan thanh tra nói chung, cơ quan Thanh
tra Tư pháp nói riêng, đó là: Luật Thanh tra 2004 và các văn bản hướng dẫn
thi hành; Nghị định số 74/2006/NĐ-CP và Quy chế tổ chức và hoạt động của
Thanh tra Bộ Tư pháp được ban hành kèm theo Quyết định số 764/QĐ-BTP
ngày 30/5/2007 Bộ trưởng Bộ Tư pháp.
Thứ hai, hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật quy định về chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn của ngành Tư pháp. Sở dĩ, coi các văn bản quy
phạm pháp luật quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của ngành Tư

pháp là một bộ
phận của quy định của pháp luật về chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn của Thanh tra Tư pháp là vì chức năng, nhiệm vụ quyền hạn của
ngành Tư pháp đến đâu thì chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Thanh tra Tư
pháp với ý nghĩa là khâu cuối cùng trong chu trình quản lý nhà nước của
ngành Tư pháp cũng được mở rộng tới đó. Hệ thống các văn b
ản này trước hết
phải kể đến Nghị định số 93/2008/NĐ-CP ngày 22 tháng 8 năm 2008 của
Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ
Tư pháp (sau đây gọi tắt là Nghị định số 93/2008/NĐ-CP) và những văn bản
quy phạm pháp luật quy định về nội dung lĩnh vực hoạt động của ngành Tư
pháp.
Thứ ba, các văn bản pháp luật khác có liên quan như Luật Khiếu nại, tố
cáo; Luật Phòng, chống tham nhũng và các văn bản pháp luật có liên quan
khác.
1.2. Các chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Thanh tra Tư pháp
1.2.1. Chức năng của Thanh tra Tư pháp
Thứ nhất, chức năng thanh tra hành chính: thanh tra hành chính là
hoạt động thanh tra của cơ quan quản lý nhà nước theo cấp hành chính đối với
việc thực hiện chính sách pháp luật, quy định chuyên ngành, nhi
ệm vụ của cơ
quản, tổ chức, cá nhân thuộc quyền quản lý trực tiếp.
Thanh tra Bộ Tư pháp thực hiện chức năng thanh tra hành chính đối với
các cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc quyền quản lý trực tiếp của Bộ trưởng Bộ
Tư pháp trong việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ được giao. Căn
cứ Nghị định 93/2008/NĐ-CP, Quyết định số 1727/Q
Đ-TTg ngày 28/11/2008
về các đơn vị sự nghiệp trực thuộc Bộ Tư phápthì Bộ trưởng Bộ tư pháp trực
tiếp quản lý các cán bộ, công chức, viên chức thuộc Bộ Tư pháp bao gồm các
đơn vị trực thuộc sau: Vụ Các vấn đề chung về xây dựng pháp luật; Vụ Pháp

luật hình sự - hành chính; Vụ Pháp luật dân sự - kinh tế; Vụ Pháp luật quốc tế;
Vụ Phổ biến, giáo dục pháp luật; Vụ Hành chính tư pháp; Vụ Bổ trợ tư pháp;
Vụ Hợp tác quốc tế; Vụ Kế hoạch - Tài chính; Vụ Tổ chức cán bộ; Vụ Thi đua

21
- Khen thưởng; Văn phòng; Cục Thi hành án dân sự; Cục Trợ giúp pháp lý;
Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật; Cục Đăng ký quốc gia giao dịch
bảo đảm; Cục Con nuôi; Cục Công nghệ thông tin; Cơ quan đại diện của Bộ
tại thành phố Hồ Chí Minh; Viện Khoa học pháp lý; Học viện Tư pháp; Tạp
chí Dân chủ và Pháp luật; Báo Pháp luật Việt Nam; Nhà xuất bản Tư pháp và
Trường Đại học luật Hà Nội.
Thanh tra các S
ở Tư pháp thực hiện chức năng thanh tra hành chính đối
với các cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc quyền quản lý trực tiếp của Sở Tư
pháp và thi hành án dân sự cấp huyện trong việc thực hiện chính sách, pháp
luật, nhiệm vụ được giao.
Thứ hai, chức năng thanh tra chuyên ngành: Thanh tra tư pháp thực
hiện hoạt động thanh tra chuyên ngành của Bộ trưởng, Giám đốc Sở đối với
các cơ quan, tổ chứ
c, cá nhân trong việc chấp hành pháp luật, những quy định
chuyên ngành, quy tắc quản lý chuyên ngành, lĩnh vực thuộc thẩm quyền quản
lý nhà nước của ngành Tư pháp. Thanh tra Bộ và Thanh tra các Sở Tư pháp
thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân
trong việc chấp hành pháp luật chuyên ngành thuộc phạm vi quản lý nhà nước
của Bộ Tư pháp theo quy định của pháp luật, bao gồm các lĩnh vực sau: kiểm
tra văn bản quy ph
ạm pháp luật; phổ biến, giáo dục pháp luật; thi hành án dân
sự; công chứng, chứng thực; hộ tịch; nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài; quốc
tịch; lý lịch tư pháp; luật sư; tư vấn pháp luật; giám định tư pháp; bán đấu giá
tài sản; trọng tài thương mại; trợ giúp pháp lý và công tác tư pháp khác. Ngoài

ra, Thanh tra Bộ còn thực hiện thanh tra chuyên ngành về đăng ký giao dịch
bảo đảm và hợp tác với nước ngoài về pháp luật.
Thứ ba, chứ
c năng giúp Bộ trưởng Bộ Tư pháp quản lý nhà nước về
công tác thanh tra tư pháp: Thanh tra Bộ Tư pháp giúp Bộ trưởng Bộ Tư
pháp quản lý thống nhất công tác thanh tra trong ngành Tư pháp. Thanh tra Bộ
là đầu mối chủ trì hoặc tham gia xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật
liên quan đến tổ chức và hoạt động của thanh tra tư pháp hoặc các văn bản
pháp luật khác liên quan đến lĩnh vực thanh tra khi được Bộ trưởng giao.
Thanh tra B
ộ thực hiện việc hướng dẫn, bồi dưỡng nghiệp vụ thanh tra chuyên
ngành đối với thanh tra sở, hướng dẫn kiểm tra các đơn vị thuộc Bộ Tư pháp
thực hiện các quy định của pháp luật về thanh tra và giải quyết khiếu nại, tố
cáo. Thanh tra Bộ thường xuyên tổng hợp, báo cáo kết quả về công tác thanh
tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, chống tham nhũng thuộc phạm vi quả
n lý nhà
nước của Bộ Tư pháp. Từ đó tổng kết kinh nghiệm và xây dựng nghiệp vụ về
thanh tra tư pháp để hướng dẫn chung cho toàn ngành, tham mưu cho Bộ
trưởng ban hành hoặc trình cơ quan có thẩm quyền ban hành các văn bản pháp
luật. Thanh tra Bộ Tư pháp xây dựng kế hoạch thanh tra, mục tiêu nhiệm vụ
thanh tra hàng năm để hướng dẫn Thanh tra các Sở Tư pháp xây dựng kế
hoạch thanh tra của mình phù hợp với nhi
ệm vụ trọng tâm chung của toàn
ngành Tư pháp. Ngoài ra, Thanh tra Bộ Tư pháp thường xuyên theo dõi về tổ
chức và hoạt động của Thanh tra Sở từ đó có kiến nghị Sở Tư pháp kiện toàn
tổ chức và hoạt động của Thanh tra Sở để đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ.

22
Thứ tư, chức năng là đầu mối giúp thủ trưởng cơ quan tư pháp cùng
cấp quản lý nhà nước về công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo

trong lĩnh vực tư pháp: Thanh tra Bộ Tư pháp đã thực hiện việc xây dựng
Quy chế tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo của cơ quan Bộ Tư pháp.
Các cơ quan Thanh tra Tư pháp là đơn vị trực tiếp tổ
chức việc tiếp công dân,
tiếp nhận các đơn thư khiếu nại, tố cáo gửi đến Cơ quan Tư pháp cùng cấp, ở
Trung ương là Bộ Tư pháp, ở địa phương là các Sở Tư pháp. Định kỳ hàng
tháng, Thanh tra Bộ Tư pháp thực hiện việc tổ chức để lãnh đạo Bộ trực tiếp
tiếp công dân. Là đầu mối tiếp nhận và xem xét các đơn thư khiếu nại, tố cáo
gửi đến Bộ Tư pháp và từ đó có các đề xuất, tham mưu giúp Bộ trưởng Bộ Tư
pháp giải quyết. Thanh tra Bộ Tư pháp có trách nhiệm thực hiện việc xem xét,
kết luận các vấn đề khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền giải quyết của Bộ
trưởng Bộ Tư pháp khi được giao.
Thứ năm, chức năng phòng ngừa và đấu tranh chống tham nhũng
trong lĩ
nh vực tư pháp: Phòng ngừa và đấu tranh chống tham nhũng là nhiệm
vụ cấp bách đặt ra cho các cơ quan nhà nước nói chung và ngành Tư pháp nói
riêng. Triển khai thực hiện Luật phòng, chống tham nhũng và Chương trình
hành động của Chính phủ thực hiện Luật phòng chống tham nhũng, Thanh tra
Bộ đã tham mưu cho để Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành Quyết định số
04/2006/QĐ-BTP ngày 12/6/2006 về chương trình hành động phòng, chống
tham nhũng của ngành T
ư pháp. Theo đó, Thanh tra Tư pháp giúp lãnh đạo Bộ
Tư pháp triển khai thực hiện việc phòng, chống tham nhũng trong phạm vi
quản lý nhà nước của Ngành. Thanh tra Bộ Tư pháp hành tháng phải tổng hợp
theo dõi báo cáo về phòng, chống tham nhũng của các đơn vị thuộc Bộ Tư
pháp và có báo cáo đến Cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Qua công tác thanh
tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, Thanh tra Tư pháp không những phát hiện các
sai phạm, kiến nghị các biện pháp xử
lý mà còn góp phần tích cực trong việc
uốn nắn, chỉnh sửa các sai phạm, kiến nghị sửa đổi, bãi bỏ các quy định không

phù hợp hoặc quy định mới chặt chẽ hơn để hạn chế điều kiện cho tham nhũng
xảy ra trong Ngành. Hơn nữa, việc thực hiện công khai, minh bạch trong hoạt
động thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo là một trong những giải pháp hữu
hiệu để th
ực hiện tốt việc đấu tranh và phòng ngừa tham nhũng.
1.2.2. Nhiệm vụ, quyền hạn của Thanh tra Tư pháp
Thanh tra Tư pháp cũng có nhiệm vụ, quyền hạn chung của các cơ quan
thanh tra nhà nước, bên cạnh đó có những nhiệm vụ, quyền hạn và đặc thù
riêng của ngành Tư pháp. Nhiệm vụ, quyền hạn của Thanh tra Bộ Tư pháp
được quy định tại Điều 7, Nghị định số 74/2006/NĐ-CP và nhiệ
m vụ, quyền
hạn của quy định Thanh tra Bộ có nhiệm vụ, quyền hạn của Thanh tra Sở Tư
pháp được quy định tại Điều 10 của Nghị định số 74/2006/NĐ-CP. Theo đó,
nhiệm vụ, quyền hạn của Thanh tra Bộ và Thanh tra Sở đều có điểm chung là:
thanh tra hành chính, thanh tra chuyên ngành, xử phạt vi phạm hành chính,
xác minh giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng ngừa và đấu tranh chống tham
nhũng, tổ
ng hợp, báo cáo kết quả về công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố

23
cáo, chống tham nhũng và một số nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy định
của pháp luật.
1.3. Phân tích, đánh giá quy định của pháp luật về chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn của Thanh tra Tư pháp
1.3.1. Ưu điểm
Kể từ khi ra đời cho đến nay, năng lực Thanh tra Tư pháp đã dần có
những bước phát triển về mọi mặt, đặc biệt là về quy định của pháp lu
ật về
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn. Năm 2004, Luật Thanh tra được ban hành
quy định rõ về tổ chức, hoạt động của các cơ quan thanh tra nhà nước. trên cơ

sở đó, ngày 01/8/2006, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 74/2006/NĐ-CP
quy định về tổ chức và hoạt động của Thanh tra Tư pháp. Theo đó, “Thanh tra
Tư pháp” là tổ chức thanh tra thuộc ngành Tư pháp; ở Trung ương có Thanh
tra Bộ Tư pháp; ở
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có Thanh tra Sở Tư
pháp; thực hiện chức năng thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành về
tư pháp trong phạm vi quản lý nhà nước của ngành Tư pháp theo quy định của
pháp luật. Phạm vi quản lý nhà nước của ngành Tư pháp là rất rộng, căn cứ
Nghị định 62/2003/NĐ-CP ngày 6/6/2003 của Chính phủ quy định chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ
Tư pháp (hiện nay đã được
thay thế bằng Nghị định số 93/2008/NĐ-CP) thì Chính phủ đã giao cho Bộ Tư
pháp thực hiện chức năng quản lý nhà nước về công tác xây dựng pháp luật,
thi hành pháp luật, kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật, phổ biến, giáo dục
pháp luật, thi hành án dân sự, hành chính tư pháp, bổ trợ tư pháp và công tác
tư pháp khác trong phạm vi cả nước; thực hiện quản lý nhà nước các dịch vụ

công thuộc phạm vi quản lý của Bộ theo quy định của pháp luật. Quy định chi
tiết về tổ chức và hoạt động của Thanh tra Bộ Tư pháp, ngày 30/5/2007, Bộ
trưởng Bộ Tư pháp đã ban hành Quyết định số 764/QĐ-BTP ban hành quy chế
tổ chức và hoạt động của Thanh tra Bộ Tư pháp. Thanh tra Bộ Tư pháp là đơn
vị thuộc Bộ Tư pháp có chức năng giúp Bộ trưởng quản lý nhà nướ
c về công
tác thanh tra, tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc quyền quản lý
nhà nước của Bộ Tư pháp; thực hiện thanh tra hành chính và thanh tra chuyên
ngành và phòng ngừa, đấu tranh chống tham nhũng theo thẩm quyền. Thanh
tra Bộ Tư pháp chịu sự quản lý, chỉ đạo trực tiếp của Bộ trưởng Bộ Tư pháp,
đồng thời chịu sự hướng dẫn của Tổng thanh tra về công tác tổ chức và nghiệ
p
vụ thanh tra.

1.3.2. Hạn chế, bất cập và nguyên nhân
Luật Thanh tra 2004 và Nghị định số 74/2006/NĐ-CP quy định về chức
năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Thanh tra Tư pháp và các văn bản pháp luật
có liên quan khác hiện nay còn có những điểm chưa phù hợp.
- Theo quy định của Luật Thanh tra và Nghị định số 74/2006/NĐ-CP thì
Thanh tra Sở Tư pháp là cơ quan thuộc Sở Tư pháp, Thanh tra Bộ là cơ quan
thuộc Bộ T
ư pháp nhưng sự gắn kết, tính hệ thống, vai trò chỉ đạo, hướng dẫn
của Thanh tra Bộ đối với Thanh tra các Sở Tư pháp còn chưa cao.

24
- Hiện nay, tồn tại khá nhiều bất cập, khó khăn trong việc áp dụng các
quy định của Luật Thanh tra và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật trong
hoạt động thanh tra chuyên ngành, nói chung, thanh tra chuyên ngành Tư pháp
nói riêng, cụ thể như: về thời hạn công bố quyết định thanh tra; thời hạn báo
cáo kết quả thanh tra và về trình tự, thủ tục kết luận một cuộc thanh tra chuyên
ngành.
- Bên cạnh đó, Luật Khiếu nại, tố
cáo và các văn bản hướng dẫn thi
hành còn có nhiều mâu thuẫn với các văn bản pháp luật trong các lĩnh vực do
ngành Tư pháp quản lý, ảnh hưởng trực tiếp đến năng lực hoạt động của thanh
tra ngành Tư pháp.
2. Thực trạng tổ chức bộ máy Thanh tra Tư pháp
2.1. Quy định hiện hành của pháp luật về tổ chức bộ máy của
Thanh tra Tư pháp
Theo quy định của Nghị định số 74/2006/N
Đ-CP, Thanh tra Tư pháp
được tổ chức ở Trung ương là Thanh tra Bộ và ở địa phương là Thanh tra Sở.
Thanh tra Tư pháp có con dấu và tài khoản riêng.
Thanh tra Bộ là cơ quan của Bộ Tư pháp, chịu sự chỉ đạo, lãnh đạo trực

tiếp của Bộ trưởng, có trách nhiệm giúp Bộ trưởng quản lý nhà nước về công
tác thanh tra tư pháp, thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn thanh tra hành chính và
thanh tra chuyên ngành trong các lĩnh vực thuộc phạm vi quả
n lý nhà nước
của Bộ Tư pháp. Thanh tra Bộ có Chánh Thanh tra, Phó Chánh Thanh tra và
Thanh tra viên. Việc bổ nhiệm, miễn nhiệm Chánh Thanh tra, Phó Chánh
Thanh tra và Thanh tra viên thực hiện theo quy định của pháp luật và có các
phòng chuyên môn để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Thanh tra Bộ. Quy
chế về tổ chức và hoạt động của Thanh tra Bộ đã được Bộ trưởng ban hành
kèm theo Quyết định số 764/QĐ-BTP ngày 30/5/2007 đã tạo cơ sở pháp lý
cho tổ chức và ho
ạt động của Thanh tra, qua đó góp phần nâng cao hiệu quả
hoạt động của Thanh tra Bộ.
Theo quy định của Nghị định 74/2006/NĐ-CP, Thanh tra Sở là cơ quan
của Sở Tư pháp, chịu sự chỉ đạo, lãnh đạo trực tiếp của Giám đốc Sở, giúp
Giám đốc Sở thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn thanh tra hành chính và thanh tra
chuyên ngành về tư pháp trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của Giám đố
c
Sở Tư pháp. Thanh tra Sở có Chánh Thanh tra, Phó Chánh Thanh tra và Thanh
tra viên.
2.2. Tình hình về tổ chức bộ máy của Thanh tra Bộ
Quy chế về tổ chức và hoạt động của Thanh tra Bộ đã được Bộ trưởng
ban hành kèm theo Quyết định số 764/QĐ-BTP đã tạo cơ sở pháp lý cho tổ
chức và hoạt động của Thanh tra, qua đó góp phần nâng cao hiệu quả hoạt
động của Thanh tra Bộ.
Căn cứ vào Quy chế, Thanh tra Bộ hi
ện nay được giao tổng số 21 biên
chế, gồm: 01 Quyền Chánh thanh tra, 02 Phó Chánh thanh tra và 03 phòng
nghiệp vụ: Phòng Hành chính, tổng hợp, tiếp công dân; Phòng Thanh tra hành

×