Tải bản đầy đủ (.pdf) (375 trang)

Cơ sở khoa học để hoạch định chính sách thương mại hai chiều (cung ứng vật tư, hàng hóa và thu mua nông sản hàng hóa) ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số miền núi phía bắc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.89 MB, 375 trang )


Uỷ ban dân tộc











Đề tài cấp bộ năm 2010

cơ sở khoa học để hoạch định chính sách thơng mại
hai chiều( cung ứng vật t, hàng hoá và thu mua nông
sản hàng hoá) ở vùng đồng bào dân tộc
thiểu số miền núi phía Bắc
(Báo cáo tổng hợp)















8316





Hà Nội, tháng 12 năm 2010

Uỷ ban dân tộc








Đề tài cấp bộ năm 2010

cơ sở khoa học để hoạch định chính sách thơng mại
hai chiều (cung ứng vật t, hàng hoá và thu mua nông
sản hàng hoá) ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số
miền núi phía Bắc
(báo cáo tổng hợp)









Cơ quan quản lý đề tài: Uỷ ban Dân tộc
Đơn vị thực hiện đề tài: Trờng Cán bộ dân tộc
Chủ nhiệm đề tài: ThS NCS. Nguyễn Văn Dũng
Th ký Đề tài: ThS. Phạm Thị Kim Cơng









Hà Nội, tháng 12 năm 2010

1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết
. Những năm vừa qua, nhờ sự quan tâm của Đảng và Nhà nước với chính sách
cải cách, mở cửa và hội nhập, với sự cố gắng nỗ lực của đồng bào dân tộc thiểu số
,
kinh tế xã hội nói chung và thương mại, thị trường miền núi đã có nhiều khởi sắc,
giao lưu hàng hoá ngày một phát triển. Thế mạnh tiềm năng của đất rừng, tài
nguyên rừng đang từng bước đưa miền núi trở thành nền kinh tế hàng hoá gắn với

thị trường trong nước và thế giới, các loại hình dịch vụ gắn liền với lưu thông hàng
hoá cũng dần dần phát triển. Hàng hoá phong phú,
đa dạng về chủng loại đã đáp
ứng được cơ bản nhu cầu sản xuất, đời sống và góp phần ổn định giá cả thị trường.
Trên bình diện cả nước nói chung và các tỉnh vùng dân tộc và miền núi nói
riêng, tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng xã hội gia tăng với
tốc độ khá nhanh. Nhiều tỉnh miền núi đang hình thành những thị trấn, trung tâm
cụm xã như những đ
iểm giao lưu kinh tế - xã hội. Hệ thống chợ phát triển sôi động,
phong phú, cơ sở hạ tầng được nâng cấp, sửa chữa; đời sống văn hoá, tinh thần
được cải thiện, bộ mặt nông thôn miền núi đổi mới.
Để thực hiện chính sách có hiệu quả cho đồng bào dân tộc thiểu số phải kể
đến hệ thống thương nghiệp nhà nước trong việc cung ứng các mặt hàng chính sách
cho đồng bào miền núi, với hơn 75% cụm xã có điểm bán hàng của thương nghiệp
nhà nước. Trong những năm qua 1 số mặt hàng thiết yếu được nhà nước trợ giá, trợ
cước đã góp phần quan trọng bình ổn thị trường, cải thiện đời sống đồng bào các
dân tộc thiểu số. Thương nghiệp dân doanh phát triển nhanh và ngày càng chiếm tỷ
trọng cao trong bán lẻ, góp phần làm phong phú sôi động thị trường. Số li
ệu thống
kê cho thấy hiện có 1.859.218 cơ sở kinh doanh cá thể phi nông nghiệp đang hoạt
động ở các tỉnh miền núi vùng cao. Tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch
vụ tiêu dùng của các tỉnh vùng cao. miền núi trong 5 năm qua, trung bình đạt hơn
280.000 tỷ đồng (giá thực tế) tăng bình quân 19,35%/ năm. Những năm gần đây,
hoạt động xuất nhập khẩu của các tỉnh miền núi, vùng cao, nhất là các tỉnh có
chung biên giới với Trung Quốc, Lào, Campuchia phát tri
ển mạnh mẽ cả về hình
thức, kim ngạch và mặt hàng
Trong tổng số 43 cửa khẩu của cả nước có hơn 80% cửu khẩu nằm ở các tỉnh
miền núi, với 7/8 cửu khẩu quốc tế và 7/19 cửu khẩu quốc gia được áp dụng chính
sách ưu đãi

Hàng xuất khẩu có trên 100 mặt hàng, chủ yếu là nguyên liệu thô (chiếm
40%), nông sản, hải sản, lâm sản (chiếm 30%), hàng công nghiệp 30%. Hàng nhậ
p
khẩu gần 200 mặt hàng, trong đó nguyên liệu và thiết bị công nghiệp (chiếm 35%),
hàng tiêu dùng (chiếm 65%).

2
Bên cạnh các loại hình thương nghiệp, chợ được xem là bộ phận cấu thành
quan trọng của mạng lưới thương nghiệp xã hội ở mỗi vùng, địa phương, nhất là ở
các tỉnh miền núi vùng cao. Mặc dù hơn 60% cụm xã đã có chợ, song nhìn chung ở
các tỉnh miền núi, nhất là vùng cao, mạng lưới chợ còn rất thưa thớt, quy mô nhỏ,
cơ sở vật chất còn nghèo nàn.
Theo kết quả điề
u tra tính đến năm 2005, trên địa bàn cả nước có 7.719 chợ
các loại. chợ tập trung chủ yếu ở khu vực đồng bằng (chiếm 19,1%). Vùng Tây Bắc
Bộ (chiếm 3,1%), Tây Nguyên (chiếm 4,9%), số liệu cho thấy vùng dân tộc thiểu
số chiếm tỷ thấp hơn hẳn so với khu vực khác.
Chợ biên giới, cửa khẩu, chợ trong khu kinh tế cửa khẩu chiếm 1,9% tổng số
chợ trên phạm vi cả nướ
c. Khu vực có chợ biên giới, cửa khẩu, chợ trong khu kinh
tế cửa khẩu nhiều nhất là vùng Đông Bắc Bộ chiếm 45,6% của cả nước. Nhiều tỉnh
ở vùng Đông Bắc Bộ có đường biên giới rất dài với Trung Quốc, hơn nữa, hoạt
động biên mậu giữa Việt Nam và Trung Quốc đang ngày càng phát triển đã kéo
theo sự phát triển của các chợ tại các xã biên giới. Riêng tỉnh Hà Giang đã có 29
chợ
biên giới, cửa khẩu, khu kinh tế cửa khẩu, nhiều nhất trong cả nước.
Bên cạnh kết quả đạt được, việc cung ứng vật tư, hàng hoá thiết yếu cho
đồng bào các dân tộc thiểu số còn hạn chế nhất định; hệ thống chợ nông thôn còn
nhiều bất cập (mạng lưới, quy mô, phương thức hoạt động v.v…), những hạn chế,
bất cập đó là:

Những thành t
ựu của hoạt động thương mại và thị trường miền núi đạt được
trong thời kỳ mở cửa hội nhập mới chủ yếu diễn ra ở những thị trấn, huyện lỵ, thị
tứ, vùng có cây công nghiệp, tập trung, cụm xã, chợ nơi gần đường giao thông…
Vùng sâu, vùng xa nhìn chung vẫn còn nhiều khó khăn. Những thành tựu bước đầu
rất đáng trân trọng, song vẫn chưa th
ể rút ngắn được khoảng cách chênh lệch giữa
miền xuôi và miền ngược, vùng thấp và vùng cao, biên giới, hải đảo.
Hiệu quả kinh tế đạt được do phát triển giao lưu kinh tế đem lại chưa tương
xứng với điều kiện thuận lợi, thế mạnh và tiềm năng vốn có. Trong xuất nhập khẩu:
nhập siêu còn lớn, hàng xuất khẩu phần lớn là sản phẩm thô, dạ
ng nguyên liệu, giá
trị kinh tế không cao.
Hoạt động buôn lậu, vận chuyển hàng hoá trái phép qua biên giới, gian lận
trong thương mại vẫn diễn ra khá phức tạp gây thất thu lớn cho ngành và ảnh
hưởng xấu tới sản xuất trong nước.
Thương nghiệp nhà nước mới đảm nhiệm được chủ yếu 1 số mặt hàng chính
sách (muối Iốt, dầu hoả, giấy viết, cây, con giống…). Các mặt hàng khác cơ bản do
dân doanh tổ
chức. Khó khăn chung của thương nghiệp nhà nước là thiếu vốn. Hợp
tác xã mua bán hầu hết chỉ hoạt động cầm chừng, hoặc tan rã. Mức luôn chuyển
bình quân đầu người ở các tỉnh miền núi chỉ bằng 22-28% bình quân chung của cả

3
nước, ở vùng sâu vùng xa, chỉ bằng 38-45% mức bình quân chung của tỉnh. Sản vật
do bà con các dân tộc thiểu số sản xuất ra chủ yếu tự cung tự cấp, tỷ suất hàng hoá
nhiều nơi chỉ đạt 15-20%. Xuất khẩu còn bấp bênh, phân tán, bình quân đầu người
chỉ đạt 15- 22% mức chung của cả nước. Số dự án đầu tư nước ngoài cũng giảm
dần. Nông lâm sản vẫn khó tìm được đầ
u ra. Chính sách triển khai thường chậm và

chưa kịp thời tháo gỡ những khó khăn vướng mắc.
Công tác xây dựng chính sách thương mại cho miền núi còn nhiều bất cập,
chưa được quan tâm đúng mức: hơn 20 năm mới có được một Nghị định của Chính
phủ, một Thông tư hướng dẫn thi hành Nghị Định (Nghị định số 02/2002/NĐ-CP
ngày 03/1/2002 của Chính phủ sửa đổi Nghị định số
20/NĐ-CP về phát triển
thương mại miền núi, hải đảo và vùng đồng bào dân tộc; Thông tư liên tịch số
07/2002/TTLT/BTM-UBDTMN-BTC-BKHĐT ngày 12/8/2002 liên tịch giữa Bộ
Thương mại, Uỷ ban Dân tộc và Miền núi, Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư
về việc hướng dẫn thi hành Nghị định số 02/2002/NĐ-CP ngày 03/01/2002 và Nghị
định số 20/1998/NĐ-CP ngày 31/3/1998 của Chính phủ về phát triển thương mại
miền núi, hả
i đảo và vùng đồng bào dân tộc); thị trường miền núi, vùng cao nơi tập
trung sự yếu kém sơ khai của nền thương nghiệp nhỏ đang trong giai đoạn quá độ
đi lên sản xuất hàng hoá và vẫn được xem là bộ phận kém phát triển nhất của thị
trường cả nước.
Sự kết hợp 4 nhà: “Nhà nước, nhà khoa học, nhà doanh nghiệp, nhà nông”
còn chưa được chặt chẽ, thiếu tính lâu dài, bền vững, thiếu nh
ững cơ chế chính sách
kích hoạt cho sự phát triển dẫn đến hoạt động sản xuất kinh doanh chưa được cao.
Công tác dự báo nhu cầu thị trường chưa được quan tâm đúng mức. Cung cấp đầy
đủ thông tin về nhu cầu thị trường nông sản trên thể giới và trong nước giúp định
hướng cho đồng bào đầu tư sản xuất hàng hoá đáp ứng nhu cầu của thị trường,
tránh hiện tượng sả
n xuất vượt quá khả năng tiêu thụ của thị trường.
Từ sự phân tích trên, việc “cơ sở khoa học để hoạch định chính sách thương
mại 2 chiều (cung ứng vật tư, hàng hoá và thu mua nông sản hàng hoá) ở vùng
đồng bào dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc” là hết sức cấp bách và có nhiều giá trị
cả về lý luận lẫn thực tiễn trong thời kỳ hội nhập kinh tế hiện nay.
2. M

ục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu chung: trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn của chính sách
phát triển thương mại nông thôn miền núi trong thời kỳ hội nhập; đề xuất mục tiêu,
nội dung phát triển thương mại và giải pháp xây dựng chính sách, tổ chức thực hiện
chính sách phát triển thương mại ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi.
Mục tiêu cụ thể:
- Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thự
c tiễn của chính sách thương mại vùng
dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc, trong thời kỳ hội nhập kinh tế thế giới.

4
- Chỉ ra thực trạng chính sách phát triển thương mại nông thôn miền núi
đồng thời tìm ra nguyên nhân tồn tại hạn chế của thương mại miền núi trong điều
kiện hội nhập kinh tế.
- Phân tích kết quả đạt được thương mại nông thôn miền núi đồng thời tìm
nguyên nhân tồn tại hạn chế của thương mại miền núi trong điều kiện hội nhập kinh
tế thế giới.
- Đề xuất mục tiêu phát triển và giải pháp xây dựng chính sách, tổ chức thực
hiện chính sách phát triển thương mại ở vùng dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài:
chính sách thương mại hai chiều (cung
ứng vật tư hàng hóa, thu mua nông sản hàng hóa) ở vùng đồng bào dân
tộc thiểu số miền núi phía Bắc.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Cơ sở khoa học để hoạch định chính sách thương mại hai chiều (cung ứng vật
tư hàng hóa, thu mua nông sản hàng hóa) ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số miền
núi phía Bắc.
+ Không gian nghiên cứu: vùng đồng bào dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc.
4. Phương pháp nghiên cứu

- Phương pháp điền dã dân tộc học
Ngày 29/10/2010 nhóm tác giả đề tài tổ chức hội thảo khoa học về thương
m
ại miền núi tỉnh Cao Bằng, có 23 đại biểu tham dự và có 9 báo cáo tham luận
trình bày tại hội thảo. Nhóm tác giả đã thu thập được rất nhiều tài liệu phản ánh
thực trạng và các giải pháp về phát triển thương mại miền núi của tỉnh Cao Bằng,
bên cạnh việc tổ chức hội thảo ở Trung ương và địa phương, nhóm tác giả đã điều
tra thông qua phiếu phỏng vấn cán bộ làm công tác dân tộ
c ở Trung ương và địa
phương, các hộ gia đình nông dân tỉnh Cao Bằng.
- Phương pháp kế thừa:
Kế thừa các công trình nghiên cứu có nội dung liên quan đến đề tài đã công
bố ở trong và ngoài nước; ở Trung ương và địa phương; nhất là các kết quả điều
tra, các đề tài, dự án nghiên cứu do Uỷ ban Dân tộc, các Bộ ngành đã thực hiện
trong những năm gần đây.
- Phương pháp chuyên gia:
+ Ký hợp đồng vi
ết chuyên đề và các báo cáo khoa học với các nhà khoa học
và các nhà quản lý, các chuyên gia
+ Tổ chức các cuộc hội thảo, toạ đàm tranh thủ các ý tưởng của các nhà khoa
học phục vụ cho đề tài.
5. Nội dung nghiên cứu
Ngoài phần mở đầu và kết luận đề tài kết cấu gồm 3 phần chính:

5
Chương1: Một số vấn đề lý luận về thương mại và các chính sách thương mại của
Đảng và Nhà nước trong thời gian qua.
Chương2: Thực trạng thương mại vùng dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc.
Chương3: Giải pháp và kiến nghị về thương mại vùng dân tộc thiểu số miền núi
phía Bắc.


6
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THƯƠNG MẠI VÀ CÁC CHÍNH SÁCH
THƯƠNG MẠI CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC TRONG THỜI GIAN QUA

1.1. Một số vấn đề lý luận cơ bản về thương mại
1.1.1. Khái niệm về thương nghiệp và thương mại
Theo Đại từ điển tiếng Việt, thương nghiệp là ngành kinh tế quốc dân
chuyên mua, bán hàng hóa trên thị trường. Thương nghiệp là ngành kinh tế độ
c lập
chuyên về tổ chức lưu thông hàng hóa. Thương nghiệp là hình thức phát triển, là
kết quả của quá trình trao đổi hàng hóa, là sản phẩm xã hội loài người phát triển
đến một trình độ nhất định, là phạm trù lịch sử liên quan chặt chẽ với kinh tế hàng
hóa. Theo pháp luật của một số nước có nền kinh tế phát triển, thương mại có một
nội dung rộng hơn bao gồm tất cả các hoạt
động thương nghiệp thuần túy (mua và
bán hàng hóa) mà cả hoạt động sản xuất công nghiệp, hầu hết các dịch vụ trên thị
trường như dịch vụ hàng không, dịch vụ tài chính, dịch vụ ngân hàng, tín dụng, bảo
hiểm v.v Ở nước ta, quan điểm của nhiều nhà khoa học, nhiều nhà chuyên môn và
như Nghị quyết 12 của Bộ Chính trị khóa VII (13-1-1996) về “Tiếp tục đổi mới tổ
chức và hoạt
động thương nghiệp, phát triển thị trường theo định hướng xã hội chủ
nghĩa”, thì thương mại không chỉ là hoạt động mua bán thuần túy, mà gồm cả
những dịch vụ thương mại liên quan đến mua bán hàng hóa như đại diện thương
mại, môi giới thương mại, ủy thác mua bán hàng hóa, đại lý mua bán hàng hóa,
quảng cáo thương mại, gia công thương mại, vv Như vậy, khái niệm thương mại ở
đây được hiể
u rộng hơn khái niệm thương nghiệp.
Trước đó, khi nghiên cứu tư bản kinh doanh hàng hóa, C.Mác đã xuất phát từ

tính hai mặt của hàng hóa để xem xét chức năng thuần túy của thương nghiệp, đó là
mua và bán. Ngày nay các nhà kinh tế học hiện đại cũng coi thương mại hoạt động
với chức năng chủ yếu là mua và bán hàng hóa và các dịch vụ mua bán kèm theo.
Thương nhân là cá nhân, pháp nhân hoặc tổ chức kinh tế hoạt động th
ương
mại một cách độc lập và thường xuyên, nhằm mục tiêu là đạt được lợi nhuận.
Như vậy, thương mại là hình thức trao đổi hàng hóa giữa cá nhân và nhóm,
thông qua việc mua và bán (trong nước và quốc tế) và dịch vụ thương mại. Công
thức chung trao đổi hàng hóa của thương mại là: “T - H - T”. Thương mại ứng tiền
trước để mua, dự trữ trong lưu thông, bán hàng và các dịch vụ để thu tiền về (trong
đó có các lo
ại chi phí và lợi nhuận thu được từ bán hàng).
Thương mại là ngành độc lập trong nền kinh tế quốc dân, nó không trực tiếp
sản xuất ra của cải vật chất, nhưng lại phục vụ cho quá trình sản xuất và tái sản
xuất. Trong toàn bộ hoạt động của nền kinh tế quốc dân, người ta chia thành ba lĩnh
vực, đó là: sản xuất công nghiệp, sản xuất nông nghiệp cà các hoạt động dịch vụ
.

7
Theo nghĩa rộng thì toàn bộ các ngành nghề hoạt động trong lĩnh vực lưu thông
hàng hóa như: thương mại, ngân hàng, giao thông vận tải, thông tin liên lạc, đầu tư;
các hoạt động phục vụ cho đời sống nhân dân như y tế, giao dục, nghệ thuật, bảo
hiểm vv đều thuộc về lĩnh vực dịch vụ. Theo nghĩa hẹp thì dịch vụ là những hoạt
động phục vụ cho một ngành, một lĩ
nh vực cụ thể nào đấy, dịch vụ ngân hàng, dịch
vụ du lịch, dịch vụ đầu tư…Như vậy, thương mại là một ngành trong lĩnh vực dịch
vụ. Đối tượng của thương mại là hàng hóa. Hàng hóa được phân theo tính chất của
sản phẩm, theo tiêu thức này người ta chia hàng hóa ra làm hai loại, một vật tư –
hàng hóa phục vụ cho sản xuất và hai là, hàng hóa phục vụ cho tiêu dùng.
Vật tư, là những sả

n phẩm dùng cho sản xuất, đó là nguyên liệu, nhiên liệu,
điện lực, các loại bán thành phẩm, thiết bị máy móc, phụ tùng…Hàng tiêu dùng,
bao gồm các nông sản, thực phẩm, công nghệ phẩm, sản phẩm văn hóa, y tế…
Trong xã hội có sự phân công lao động đã tạo ra một khối lượng hàng hóa và
dịch vụ nhiều hơn, cho nên có sự trao đổi các sản phẩm hàng hóa với nhau. Nhưng
để các hình thức trao đổi trở thành thương mạ
i thì phải thỏa mãn những yêu cầu
chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, trao đổi (mua, bán, dịch vụ) phải bằng tiền, dù đó là tiền mặt hay
ngân phiếu, tín phiếu hoặc kim loại quý.
Thứ hai, hoạt động mua bán phải được thực hiện trên thị trường, theo những
quy luật của thị trường chứ không phải theo những quy định hành chính, những luật
lệ cứng nhắc. Ở đâu có bán là
ở đó có mua, có nghĩa là có “cầu” là có “cung”.
Thứ ba, mua bán theo giá cả thị trường. Đây là loại giá cả được hình thành
trên thị trường trong môi trường cạnh tranh do quan hệ cung - cầu quyết định.
Như vậy, thương mại là lĩnh vực trao đổi hàng hóa, dịch vụ trên thị trường
(trong nước và quốc tế) được thực hiện thông qua mua và bán bằng tiền mặt, mua
bán tự do và theo giá cả thị trường.
Từ giữa thế kỷ
XVIII, hai nhà kinh tế học người Anh là A. Smith và D.
Ricardo đã đưa ra lý thuyết về lợi thế tuyệt đối và lợi thế so sánh.
Lợi thế tuyệt đối đề cập đến một số lượng của một loại sản phẩm có thể được
sản xuất, khi sử dụng cùng một nguồn lực ở hai nước khác nhau.
Lợi thế so sánh hoặc còn gọi là lợi thế tương đối, là các quốc gia có th
ể sản
xuất ra các mặt hàng giống nhau, cùng sử dụng các nguồn lực như nhau nhưng với
chi phí khác nhau.
Từ đó sẽ xuất hiện lợi ích từ việc sản xuất và tham gia vào thương mại quốc
tế. Tuy nhiên, lợi thế tuyệt đối chỉ giải thích một phần nhỏ của thương mại quốc tế

trong một phạm vi hẹp.
Giữa những năm 30 của thế k
ỷ XX, hai nhà kinh tế người Thụy Điển là Eli
Heckscher và Bertil Ohlin dựa vào sự phong phú của nguồn lực từng quốc gia và

8
đưa ra kết luận: mỗi nước sẽ xuất khẩu loại hàng hóa, mà việc xuất khẩu nó cần sử
dụng nhiều yếu tố rẻ và tương đối sẵn có của nước đó; và ngược lại nhập khẩu hàng
hóa, mà việc sản xuất nó cần nhiều yếu tố đắt và khan hiếm ở nước đó. Có thể giải
thích bản chất cơ bản của học thuy
ết như sau: nếu nước giầu về vốn thì sản xuất và
xuất khẩu các sản phẩm cần nhiều vốn hơn, và ngược lại, nước có lao động với giá
nhân công rẻ thì sản xuất và xuất khẩu nhiều sản phẩm sử dụng nhiều lao động.
Ngày nay, một số nhà kinh tế học hiện đại như P.A. Samuelson, W.
Stolper…cũng rất đề cao vai trò của thương mại (đặc biệ
t là thương mại quốc tế),
gắn hoạt động thương mại với tăng trưởng và phát triển kinh tế của từng quốc gia,
gắn thương mại với phân phối thu nhập, gắn thương mại với bảo vệ môi trường…
Những lý thuyết ít nhiều đã giải thích được vai trò, lợi thế của các quốc gia.
Tuy nhiên, cho đến nay chưa có một lý thuyết nào giải thích đầy đủ và thấu
đáo về
khái niệm, bản chất của thương mại trong nước và thương mại quốc tế . Do đó, đây
là vấn đề cần được tiếp tục nghiên cứu và cần phải vận dụng vào những điều kiện
nhất định của từng quốc gia, đặc biệt là các nước đang phát triển. Nước ta chuyển
từ nền kinh tế hành chính quan liêu bao cấp sang kinh tế thị trườ
ng định hướng xã
hội chủ nghĩa, thì thương mại, nhất là thương mại quốc tế càng cần được nghiên
cứu và vận dụng đầy đủ hơn.
Sự tồn tại và phát triển của thương mại được xây dựng trên cơ sở sản xuất
hàng hóa và phân công lao động xã hội. Do đó, trình độ phát triển của sản xuất và

phân công lao động càng sâu sắc thì thương mại càng phát triển đa d
ạng phong phú
hơn.
Ngoại thương, là phạm trù kinh tế phản ánh sự trao đổi hàng hóa nước này
với nước khác thông qua hoạt động và nhập khẩu hàng hóa với nước ngoài. Hoạt
động xuất khẩu nhằm tăng thu ngoại tệ, khuyến khích phát triển sản xuất trong
nước, nâng cao mức tiêu dùng của dân cư.
Xuất khẩu, là khai thác lợi thế tuyệt đối và tương đối của từng nước tham gia
vào hoạt độ
ng thương mại quốc tế. Xuất khẩu để góp phần tăng tích lũy vốn (ngoại
tệ) nhằm mở rộng sản xuất, thay đổi cơ cấu ngành, tăng năng suất lao động xã hội
vv Xuất khẩu tạo điều kiện khôi phục và phát triển các ngành nghề truyền thống,
thúc đẩy tiêu dùng và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân.
Nhập khẩu, là hoạt động kinh tế
nhằm nhập những mặt hàng trong nước chưa
sản xuất được, hoặc sản xuất chưa đủ, hoặc giá thành cao. Nhập khẩu có tác động
trực tiếp đến sản xuất và kinh doanh thương mại. Đối với nước ta, hoạt động nhập
khẩu cung cấp cho nền kinh tế từ 60 đến 100% nguyên liệu chủ yếu (xăng, dầu, sắt
thép, phân bón, bông sơ chế cho công nghiệp dệt…). Nhập kh
ẩu tăng thêm nguồn
máy móc, thiết bị có trình độ công nghiệp hiện đại và một số hàng hóa tiêu dùng có
chất lượng cao. Cần có chính sách tốt để kết hợp giữa xuất khẩu và nhập khẩu, hạn

9
chế nhập siêu, kết hợp đa dạng các loại hình xuất khẩu, nhập khẩu sản phẩm thô,
sản xuất hàng hóa thay thế nhập khẩu và chính sách hướng ngoại. Vì vậy, cần tạo ra
các mặt hàng chủ lực để kết hợp xuất khẩu, giành thế chủ động trên thị trường thế
giới. Kết hợp xuất khẩu để phát triển và tạo nguồn hàng. Hoạt động ngoạ
i thương
phải đảm bảo nguyên tắc là lợi ích lâu dài và trước mắt.

Thương mại, tiếng Anh là Trade, vừa có ý nghĩa là kinh doanh, vừa có ý
nghĩa là trao đổi hàng hóa dịch vụ. Ngoài ra, tiếng Anh còn dùng một thuật ngữ
nữa là Business hoặc Commerce (tương đương với từ Business, Trade của tiếng
Anh) là sự buôn bán, mậu dịch hàng hóa dịch vụ. Tiếng La tinh, thương mại là
“Commercium” vừa có ý nghĩa mua bán hàng hóa, vừa có ý nghĩa hoạt động kinh
doanh. Theo từ đi
ển Nga-Việt xuất bản năm 1977 thì thương mại (TOPROBLR)
cũng được hiểu là mua bán kinh doanh hàng hóa. Như vậy, khái niệm thương mại
cần được hiểu cả nghĩa rộng và nghĩa hẹp.
Theo nghĩa rộng, thương mại là toàn bộ các loại hoạt động kinh doanh trên
thị trường. Thương mại đồng nghĩa với kinh doanh được hiểu như là các hoạt động
kinh tế nhằm mục tiêu sinh lợi của các ch
ủ thể kinh doanh trên thị trường. Theo
Pháp lệnh trọng tài thương mại, ngày 25/5/2002 thì hoạt động thương mại là việc
thực hiện một hay nhiều hành vi thương mại của cá nhân, tổ chức kinh doanh bao
gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ; phân phối; đại diện; đại lý thương mại;
ký gửi; thuê và cho thuê; thuê mua; xây dựng; tư vấn; kỹ thuật; li-xăng; đầu tư; tài
chính; ngân hàng; bảo hiểm; thăm dò khai thác; vận chuyển hàng hóa, hành khách
bằng
đường hàng không, đường biển, đường sắt, đường bộ và các hành vi thương
mại khác theo quy định của pháp luật.
Theo nghĩa hẹp, thương mại là quá trình mua bán hàng hóa dịch vụ trên thị
trường, là lĩnh vực phân phối và lưu thông hàng hóa. Nếu hoạt động trao đổi hàng
hóa (kinh doanh hàng hóa) vượt ra khỏi biên giới quốc gia thì người ta gọi là ngoại
thương (kinh doanh quốc tế). Với cách tiếp cận này, theo luật Thương mại-1998,
thì các hành vi thương mại bao gồm: mua bán hàng hóa; đạ
i diện cho thương nhân;
môi giới thương mại; ủy thác mua bán hàng hóa; đại lý mua bán hàng hóa; gia công
thương mại; đấu giá hàng hóa; đấu thầu hàng hóa; dịch vụ giám định hàng hóa;
khuyến mại; quảng cáo thương mại; trưng bày giới thiệu hàng hóa và hội chợ triển

lãm thương mại.
Trên thực tế, thương mại có thể được phân chia theo nhiều tiêu thức khác nhau:
- Theo phạm vi hoạt động, có thương mại nội địa (nội thương), thương mại
quốc tế (ngoại thương), thương mại khu vực, thương mại thành phố, nông thôn,
thương mại nội bộ nghành…

10
- Theo đặc điểm và tính chất của sản phẩm trong quá trình tái sản xuất xã
hội, có thương mại hàng hóa, thương mại dịch vụ, thương mại hàng tư liệu sản
xuất, thương mại hàng tiêu dùng…
- Theo các khâu của quá trình lưu thông, có thương mại bán buôn, thương
mại bán lẻ.
- Theo mức độ can thiệp của Nhà nước vào quá trình thương mại, có thương
mại tự do hay mậu dịch tự do và thương mại có sự b
ảo hộ.
- Theo kỹ thuật giao dịch, có thương mại truyền thống và thương mại điện tử.
Việc xem xét thương mại theo các góc độ như vậy tuy mang tính tương đối
nhưng có ý nghĩa rất lớn cả về mặt lý luận và thực tiễn, đặc biệt trong việc hình
thành các chính sách và biện pháp nhằm thúc đẩy sự phát triển toàn diện, bền vững
thương mại.
1.1.2. Khái niệm chính sách thương mạ
i và phân loại chính sách thương mại
Chính sách thương mại là hệ thống các quan điểm, chuẩn mực, thể chế, biện
pháp, thủ thuật, mà nhà nước sử dụng tác động vào thị trường để điều chỉnh các
hoạt động phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội trong từng giai đoạn nhất
định.
Chính sách thương mại có cấu trúc khá phức tạp bao gồm nhiều bộ phận,
nhiều loại, có thể phân loại theo các tiêu chí sau đây:
- Theo cơ cấu của hệ thống chính sách thương mại, có chính sách thương mại
nội địa; chính sách thương mại quốc tế.

- Theo đối tượng tác động của chính sách, có các chính sách khác nhau về
thương mại đối với từng thành phần kinh tế (kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh
tế tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nướ
c ngoài); các chính
sách thương mại đặc thù đối với một số sản phẩm hoặc những khu vực đặc biệt (ví
dụ chính sách thương mại đối với miền núi, hải đảo, vùng sâu, vùng xa)
- Theo cơ chế quản lý, có chính sách bảo hộ mậu dịch (ngăn sông cấm chợ);
chính sách tự do hóa thương mại.
- Theo các công cụ của chính sách thương mại, có các chính sách thuế quan,
phi thuế quan.
Đến lượt mình, các công cụ của chính sách thương mại th
ường được phân
loại thành các nhóm cụ thể khác.
Sự phân loại trên đây chỉ có tính chất tương đối bởi vì các đối tượng quản lý
khác nhau đều chịu tác động của chính sách thương mại chung, đồng thời chịu tác
động của các chính sách thương mại đặc thù. Đặc biệt, trong điều kiện toàn cầu hóa
kinh tế hiện nay, chính sách thương mại nội địa và chính sách thương mại quốc tế
có mối quan hệ ch
ặt chẽ, tác động qua lại với nhau, rất khó phân biệt một cách rạch
ròi. Chính sách thương mại có quan hệ chặt chẽ với các chính sách kinh tế vĩ mô

11
khác như chính sách đầu tư, chính sách tài chính…Chính sách thương mại quốc tế
nếu tách ra, gộp với chính sách đầu tư và hợp tác quốc tế sẽ thành nhóm chính sách
kinh tế đối ngoại của quốc gia. Còn chính sách thương mại nội địa nếu ghép với
các thể chế hoạt động của doanh nghiệp sẽ thành thể chế, chính sách quản lý của
doanh nghiệp.
Hơn nữa, bản thân chính sách thương mại là công cụ quản lý của nhà nướ
c
đối với hoạt động thương mại nhưng trong chính sách thương mại lại phải sử dụng

nhiều công cụ cụ thể khác.
1.1.3. Khái niệm hàng hóa nông sản và thị trường hàng hóa nông sản
- Hàng hóa nông sản là sản phẩm của sản xuất nông nghiệp do lao động của con
người tạo ra để bán. Sản xuất hàng hóa nông sản là sản xuất ra các nông sản để bán
cho người tiêu dùng. Khác với sản xuất tự cung tự cấ
p, ngay từ khi mới bắt đầu sản
xuất hàng hóa nông sản, người sản xuất đã phải xác định sản phẩm của họ để cho ai
tiêu dùng và được đưa ra tiêu thụ trên thị trường nào. Sản xuất hàng hóa nói chung
và sản xuất hàng hóa nông sản nói riêng ra đời và phát triển dựa trên cơ sở của sự
phát triển sản xuất, sự phát triển của phương thức sản xuất và sự phân công lao
động xã hội. Quan h
ệ giữa sản xuất hàng hóa và phân công lao động xã hội là mối
quan hệ nhân quả. Khi sản xuất hàng hóa càng phát triển, môi trường cho sự tự do
hóa thương mại càng cao thì chuyên môn hóa ngày càng cao và phân công lao động
xã hội càng sâu sắc và ngược lại. Khi mức sống càng cao thì nhu cầu tiêu dùng sản
phẩm và dịch vụ ngày càng cao và càng đa dạng. Trong khi đó người sản xuất
chuyên môn hóa chỉ sản xuất một hoặc một số sản phẩm nào đó, vì vậy nảy sinh
nhu c
ầu trao đổi mua bán hàng hóa ngày càng nhiều và sản xuất hàng hóa ngày
càng phát triển.
- Thị trường hàng hóa nông sản: Theo Đại từ điển kinh tế thị trường, Viện
nghiện cứu và phổ biến tri thức bách khoa xuất bản tại Hà Nội năm 1998, tr.114:
Thị trường là nơi trao đổi hàng hóa được sản xuất ra và hình thành trong quá trình
sản xuất và trao đổi hàng hóa cùng với mọi quan hệ kinh tế giữa người với người
liên kết với nhau thông qua trao đổ
i hàng hóa. Vì vậy, thị trường theo nghĩa rộng là
chỉ các hiện tượng kinh tế được phản ánh thông qua trao đổi và lưu thông hàng hóa,
cùng quan hệ kinh tế và mối quan hệ kinh tế giữa người với người, do đó mà liên
kết lại. Nghĩa hẹp của thị trường là chỉ khu vực và không gian trao đổi hàng hóa.
Thị trường phát triển cùng với sản xuất hàng hóa và trao đổi hàng hóa. sản xuất

hàng hóa và trao đổi hàng hóa phát triển đến trình độ nào thì thị trườ
ng cũng phát
triển theo trình độ đó.
Đối chiếu với những khái niệm này, có thể thấy trong nhiều năm trước đây, ở
miền núi luôn tồn tại nhận thức hàng hóa là những sản phẩm dùng không hết, được
đưa bán ở ngoài chợ, vì vậy nền nông nghiệp không thể thoát khỏi tình trạng manh

12
mún, kém hiệu quả và người dân miền núi chỉ có thể thỏa mãn được nhu cầu tối
thiểu ở trình độ thấp với mức nghèo hoặc thoát nghèo chứ không thể làm giàu trong
điều kiện hạn hẹp về nguồn lực. Mặc dù những năm gần đây, sản xuất nông nghiệp
ở miền núi nước ta có những biến chuyển tích cực theo tính chất nền kinh tế thị
trường, chuyển từ s
ản xuất mang tính tự cung tự cấp, hoặc sản xuất hàng hóa nhỏ
sang phát triển sản xuất hàng hóa với việc bước đầu hình thành vùng sản xuất tập
trung, chuyên canh lớn trên cơ sở khai thác lợi thế của từng vùng; Từ mở rộng sản
xuất theo số lượng sang từng bước coi trọng chất lượng phục vụ nhu cầu tiêu dùng
ngày càng cao; Từ tính toán chủ yếu bằng hiện vật sang tính toán giá trị, nâng cao
thu nh
ập, hiệu quả sử dụng đất đai. Những kết quả bước đầu ở một số vùng miền
núi đã gợi mở những cách thức làm ăn mới cho người dân miền núi trong cơ chế thị
trường và để giúp đỡ những người nông dân miền núi phát triển sản xuất hàng hóa,
một trong những vấn đề quan trọng cần phải tính đến trong quá trình phát triển sản
xuất hàng hóa ở
miền núi là thị trường tiêu thụ. Đây là vướng mắc lớn nhất lâu nay
chưa được giải quyết một cách căn bản. Nguyên lý cơ bản của nền kinh tế thị
trường là ‘‘ sản xuất và đưa ra thị trường cái mà thị trường cần, chứ không phải đưa
ra thị trường cái mà mình sẵn có’’. Trong thời gian qua, những khó khăn trong tiêu
thụ nhiều loại nông sản ở miền núi có nguyên nhân chủ yếu t
ừ chỗ sản xuất theo

khả năng, chưa tính đến hoặc tính chưa đầy đủ yêu cầu của thị trường tiêu thụ,
người sản xuất tự phát theo tín hiệu giá cả của thị trường hoặc theo phong trào. Vì
vậy, cả các cơ quan quản lý nhà nước, ngành và các doanh nghiệp, các nhà sản xuất
đều cần nắm vững những khái niệm cơ bản về thị trường hàng hóa nông sản với
nhữ
ng đặc trưng riêng của nhu cầu tiêu dùng cho sản xuất và nhu cầu tiêu dùng cá
nhân để quyết định việc lựa chọn và xây dựng chiến lược phát triển, thực thi kế
hoạch sản xuất, kinh doanh phù hợp cho từng vùng. Điều đó giúp cho nền nông
nghiệp ở miền núi sẽ phát triển năng động và bền vững trong cơ chế thị trường nhờ
thích ứng và định hướng theo nhu cầu thị trường.
Đồng thời, từ khái niệm cũng có thể thấy rõ, thị trường chỉ có thể phát triển
trên cơ sở phân công lao động xã hội và sản xuất hàng hóa, quy mô của thị trường
gắn chặt với trình độ chuyên môn hóa của lao động xã hội, vì vậy để phát triển thị
trường hàng hóa ở miền núi, cần trú trọng nâng cao trình độ chuyên môn hóa ở
từng vùng, đảm bảo nâng cao năng suất và chất lượng, giảm chi phí trong cả dây
chuyền tạo giá trị gia tăng của từng ngành sản phẩm. Điều này phụ thuộc rất lớn
vào không chỉ nhận thức của người sản xuất, kinh doanh để họ chủ động tham gia
vào quá trình chuyên môn hóa, mà còn phụ thuộc vào việc xây dựng và thực hiện
các chiến lược phát triển cho từng ngành và các chính sách của nhà nước để thúc
đẩy nhanh quá trình này.

13
Thị trường được hiểu là tổng hợp các điều kiện thực hiện sản phẩm xã hội
trong nền kinh tế sản xuất hàng hóa và phân công lao động xã hội, vì vậy để phát
triển thị trường hàng hóa nông sản ở miền núi, cũng cần phải đầu tư phát triển đồng
bộ các thị trường hàng hóa và dịch vụ khác, như thị trường nguyên liệu đầu vào,
công nghệ, tài chính, lao động, dịch v
ụ phát triển kinh doanh (thông tin thị trường,
nghiên cứu thị trường, tư vấn, bán buôn bán lẻ, vận chuyển, bao bì và bao gói, kho
dự trữ và bảo quản…). Hỗ trợ cho thị trường hàng nông sản miền núi phát triển

không thể xem nhẹ việc hỗ trợ tạo lập và phát triển các loại thị trường như trên.
Do vậy, có thể thấy để phát triển thị trường tiêu thụ hàng nông sản cho miền
núi một cách bền vững, c
ần phải quan tâm đồng bộ đến khía cạnh phát triển của
cung, cầu và môi trường kinh tế với những điều kiện thuận lợi cho quá trình sản
xuất, mua bán hàng hóa.
1.1.4. Mục tiêu, nội dung, công cụ của chính sách thương mại
* Mục tiêu chính sách thương mại
Mục tiêu tổng quát của chính sách thương mại là phát triển thị trường trong
nước gắn với mở rộng thị trường quốc tế, cuối cùng
để thúc đẩy sản xuất trong
nước phát triển, góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội của đất nước
trong từng giai đoạn.
Mục tiêu cụ thể của chính sách thương mại bao gồm:
- Phát triển hoạt động thương mại tương xứng với yêu cầu sản xuất và tiêu
dùng, mở rộng giao lưu quốc tế, cân bằng cán cân thanh toán quốc tế;
- Phát triển thị trường ngày càng vă
n minh, hiện đại, giảm dần các tiêu cực
của cơ chế thị trường;
- Bảo vệ lợi ích của các chủ thể tham gia thị trường bao gồm người sản xuất,
người buôn bán, người tiêu dùng, nhà nước, cộng đồng;
- Tăng quy mô và hiệu quả của hoạt động xuất nhập khẩu, mở rộng quan hệ
kinh tế đối ngoại.
Trong nền kinh tế thị trường, chính sách thương m
ại thường được coi là
phương cách, đường lối hoặc tiến trình dẫn dắt hành động trong khi phân bổ sử
dụng các nguồn lực của doanh nghiệp và nền kinh tế quốc dân. Nó được coi như là
phương tiện để đạt được các mục tiêu. Chính sách bao gồm: Những hướng dẫn, các
quy tắc, quy định và thủ tục được thiết lập để hậu thuẫn cho các nỗ lực hành động.
Như vậy, chính sách th

ương mại là một hệ thống các quy định, công cụ và
biện pháp thích hợp mà Nhà nước áp dụng để điều chỉnh các hoạt động thương mại
trong và ngoài nước ở những thời kỳ nhất định nhằm đạt được các mục tiêu đã đề
ra trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội.
Chính sách thương mại quy định các vấn đề thương nhân và hoạt động của
thương nhân, chính sách phát triển th
ương mại trong nước và quốc tế, chức trách

14
của các cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực thương mại, tổ chức lưu thông
hàng hóa, phát triển thương mại ở các vùng khó khăn, chính sách thuế quan và bảo
hộ, chính sách phi thuế quan, trách nhiệm và quyền hạn của các doanh nghiệp
thương mại khi kinh doanh thương mại trong nước hay với nước ngoài, hợp tác
quốc tế trong lĩnh vực thương mại.
Chính sách thương mại là một bộ phận của chính sách kinh tế-xã hội củ
a
Nhà nước, nó có quan hệ chặt chẽ và phục vụ cho sự phát triển kinh tế - xã hội của
đất nước. Nó tác động mạnh mẽ đến quá trình tái sản xuất, chuyển dịch cơ cấu kinh
tế của đất nước, đến quy mô và phương thức tham gia của nền kinh tế mỗi nước
vào phân công lao động quốc tế và thương mại quốc tế. Chính sách thương mại còn
có vai trò to lớn trong việc khai thác triệt để l
ợi thế so sánh của nền kinh tế trong
nước, phát triển các ngành sản xuất và dịch vụ đến quy mô tối ưu…Vì vậy, chính
sách thương mại có một vị trí đặc biệt quan trọng trong các chính sách của Nhà
nước. Vai trò chính sách thương mại còn thể hiện cụ thể trên các mặt sau:
Chính sách thương mại có tác động rất lớn đến việc mở rộng giao lưu hàng
hóa trong nước và xuất khẩu, mà tăng trưởng trong thương mại, nh
ất là thương mại
quốc tế là một động lực phát triển kinh tế quan trọng.
Chính sách thương mại tạo ra môi trường cạnh tranh giữa các ngành công

nghiệp sản xuất hàng thay thế nhập khẩu cho thị trường trong nước. cạnh tranh với
hàng nhập, bắt buộc các doanh nghiệp trong nước phải giảm phí, tăng năng suất và
nâng cao chất lượng sản phẩm và có sức cạnh tranh tốt hơn.
Chính sách thương mạ
i được coi là một trong các yếu tố cấu thành của một
chiến lược tổng hợp, nhằm khuyến khích xuất khẩu và phát triển công nghiệp.
Cùng với các chính sách khác có liên quan, chính sách thương mại tác động đồng
bộ đến việc tạo lập môi trường vĩ mô ổn định, cơ sở hạ tầng tốt, lực lượng lao động
có học vấn và được đào tạo ở trình độ cao, hệ thố
ng tài chính nhạy bén; Chính sách
thương mại khuyến khích việc tiếp nhận công nghệ mới và thúc đẩy cạnh tranh.
Như vậy, nhiệm vụ của chính sách thương mại có thể thay đổi qua mỗi thời
kỳ, nhưng đều có mục tiêu chung là điều chỉnh các hoạt động thương mại theo
hướng phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Mục tiêu chính
của chính sách thương mạ
i xuất phát từ mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội của Đảng và nhà nước và bảo đảm thực hiện thắng lợi các mục tiêu ấy.
* Nội dung chính sách thương mại ở Việt Nam
- Chính sách thương nhân
Đây là chính sách rất quan trọng của nhà nước trong lĩnh vực thương mại.
Chính sách này quy định các điều kiện, thủ tục đăng ký kinh doanh và phạm vi hoạt
động của thương nhân.

15
Chính sách thương nhân quy định việc đăng ký kinh doanh được thực hiện
tại các cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật. Theo
quy định của Chính phủ, cơ quan đăng ký kinh doanh được tổ chức ở tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương (gọi chung là cấp tỉnh) và huyện, quận, thị xã, thành phố
trực thuộc tỉnh (gọi chung là cấp huyện), bao gồm: phòng đăng ký kinh doanh
trong sở kế hoạ

ch và đầu tư và phòng đăng ký kinh doanh thuộc ủy ban nhân dân
huyện có con dấu riêng. Trình tự thành lập và đăng ký kinh doanh được quy định
cụ thể cho từng loại hình doanh nghiệp thương mại. Thẩm quyền của cơ quan đăng
ký kinh doanh được xác định cụ thể là:
Giải quyết việc đăng ký kinh doanh và cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh
doanh theo quy định của pháp luật.
Xây dựng, quản lý hệ thống thông tin về doanh nghiệp. Cung cấp thông tin
cho các cơ quan nhà nước, cho tổ chức và cá nhân có yêu cầu theo quy định của
pháp luật.
Yêu cầu doanh nghiệp báo cáo tình hình kinh doanh của mình khi xét thấy
cần thiết cho việc thực hiện nhiệm vụ theo quy định của pháp luật. Đôn đốc các
doanh nghiệp thực hiện chế độ báo cáo.
Trực tiếp kiểm tra hoặc đề nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền kiểm tra
doanh nghiệp theo những nội dung trong hồ sơ đăng ký kinh doanh.
Xử
lý vi phạm các quy định về đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp
luật. Thu hồi giấy phép đăng ký kinh doanh và yêu cầu doanh nghiệp giải thể theo
quy định.
Chính sách thương nhân quy định rõ quyền hạn và nghĩa vụ của thương
nhân. Với mỗi loại hình doanh nghiệp thương mại như doanh nghiệp thương mại
nhà nước, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn đều được quy định quyền
và nghĩa vụ cụ thể. Quy
ền cơ bản của các doanh nghiệp là tự do lựa chọn lĩnh vực
và ngành hàng kinh doanh, tự do tổ chức hoạt động kinh doanh, quản lý và sử dụng
có hiệu quả các nguồn lực, tuyển chọn và thuê mướn lao động, quyết định việc sử
dụng phần thu nhập còn lại sau khi hoàn thành nghĩa vụ với Nhà nước trong khuôn
khổ quy định của pháp luật.
Các doanh nghiệp có nghĩa vụ kinh doanh đúng pháp luật; bảo
đảm quyền
lợi của người lao động; chấp hành các quy định của Nhà nước; có trách nhiệm bảo

vệ môi trường, giữ gìn an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội nơi doanh nghiệp
hoạt động; thành lập quỹ dự trữ theo quy định của Nhà nước; thực hiện đầy đủ và
trung thực chế độ kế toán thống kê theo pháp lệnh kế toán thống kê của nhà nước.
Chính sách thương nhân còn quy định những lĩnh v
ực và ngành hàng thương nhân
không được kinh doanh.

16
Đối với thương nhân nước ngoài hoạt động thương mại tại Việt Nam phải
theo đúng pháp luật của Việt Nam đã quy định. Thương nhân nước ngoài có đủ
điều kiện theo quy định pháp luật Việt Nam được phép đặt văn phòng đại diện, chi
nhánh tại Việt Nam. Tổ chức và hoạt động của văn phòng đại diện, chi nhánh của
thương nhân nước ngoài tại Việt Nam được quy định tại Lu
ật Thương mại năm
2005 và các văn bản pháp luật của Chính phủ và Bộ Công Thương.
- Chính sách thị trường
Chính sách thị trường có tầm quan trọng đặc biệt cho sự phát triển của nền
kinh tế và dẫn dắt các doanh nghiệp hoạt động, hạn chế các rủi ro. Chính sách thị
trường của Nhà nước đặt ra những nhiệm vụ ở cấp Chính Phủ, cấp Bộ nhằm khai
thông những c
ản trở trên thị trường.
Đối với thị trường trong nước phải bảo đảm tập trung nguồn lực để thúc đẩy
sản xuất hàng hóa, quy hoạch và cơ cấu lại để có những vùng chuyên canh sản xuất
hàng hóa lớn; bảo đảm hệ thống lưu thông hàng hóa thông suốt giữa các vùng, các
địa phương. Chính sách thị trường trong nước phải bảo đảm cho sản xuất lưu thông
và tiêu dùng hàng hóa cân đối, tránh những khủ
ng hoảng, bất ổn trên thị trường.
Chính sách thị trường trong nước còn phải thúc đẩy để hình thành đồng bộ
các loại thị trường, thực hiện chính sách nhất quán, ổn định để các chủ thể kinh
doanh chủ động với các tình thế trên thị trường. Xây dựng thị trường thống nhất

trong phạm vi toàn quốc với nhiều cấp độ thị trường và chủ chương phát triển các
thị trườ
ng trọng điểm quốc gia, vùng lãnh thổ.
Chính sách thị trường ngoài nước hướng vào mục tiêu thúc đẩy xuất khẩu, đa
dạng hóa thị trường xuất khẩu. Trong những thập niên đầu thế kỉ XXI vẫn phải chú
trọng phát triển các thị trường truyền thống như thị trường Hoa Kỳ, thị trường Châu
Á Thái Bình Dương, thị trường EU, thị trường Nga. Đồng thời tiếp cận và phát
triể
n các thị trường mới và nhiều tiềm năng như thị trường Trung cận Đông, Châu
Phi và Mỹ La tinh, Tăng cường chính sách khuyến khích động viên tìm kiếm thị
trường xuất khẩu, đối tác nước ngoài của các doanh nghiệp.
Một nội dung quan trọng của chính sách thị trường là hoạt động nghiên cứu
thị trường và công tác thông tin về thị trường. Đổi mới và nâng cao hiệu quả công
tác nghiên cứu, dự báo thị trường trong nướ
c và thị trường quốc tế của các cơ quan
quản lý bảo đảm kênh thông tin thường xuyên, thông suốt, nhiều chiều giữa các bộ,
ngành với các doanh nghiệp, công bố rộng rãi các thông tin dự báo dài hạn về thị
trường trong nước và quốc tế. Kết hợp chặt chẽ mạng lưới thu nhập thông tin
chuyên ngành và đa ngành, mạng thông tin trong nước và mạng thông tin ngoài
nước. Đặc biệt, nâng cao trách nhiệm của các tham tán, tùy viên thương mại ở nước
ngoài trong vi
ệc cung cấp thông tin, tìm kiếm thị trường.
- Chính sách mặt hàng

17
Chính sách mặt hàng là nền tảng của chính sách thương mại. Trên cơ sở
chính sách mặt hàng để xác định đầu tư và cơ cấu lại sản xuất hàng hóa hợp lý.
Chính sách mặt hàng quốc gia còn giúp các doanh nghiệp định hướng chiến lược
sản phẩm của mình. Chính sách mặt hàng gồm một số nội dung chủ yếu sau đây:
Trước hết là chính sách mặt hàng cấp quốc gia. Đây là những mặt hàng quan

trọng đưa vào cân đố
i của nhà nước và do nhà nước quản lý tập trung. Danh mục
mặt hàng này bao gồm tư liệu sản xuất và mặt hàng tiêu dùng có ý nghĩa quyết định
đến an ninh quốc gia, những mặt hàng xuất khẩu mũi nhọn của đất nước, các mặt
hàng cạnh tranh cấp quốc gia. Các vùng, các địa phương, các bộ ngành cùng xây
dựng chính sách mặt hàng của cấp mình. Chính sách mặt hàng bao gồm nhiều tầng,
vừa bảo đảm tính đa dạng, phong phú về ch
ủng loại, vừa có mũi nhọn, chiều sâu ở
cấp quốc gia, cũng như các cấp, các đơn vị của nền kinh tế quốc dân. Chính sách
mặt hàng quốc gia phải bảo đảm được cơ cấu mặt hàng hợp lý. Cơ cấu mặt hàng
phải phù hợp với nhu cầu thị trường nội địa và xuất khẩu. Cơ cấu mặt hàng là quan
hệ tỷ lệ giữa các mặ
t hàng, nhóm hàng so với tổng số. Mặt hàng đi vào lưu thông
phải có chất lượng, mặt hàng qua chế biến phải chiếm tỷ trọng ngày càng cao.
Nội dung chủ yếu thứ hai của chính sách mặt hàng là chính sách thay thế mặt
hàng nhập khẩu. Đây là những mặt hàng mà sản xuất trong nước đã đáp ứng được
yêu cầu về số lượng, chất lượng và đủ sức cạnh tranh. Những mặt hàng này dựa
trên lợi thế về tài nguyên thiên nhiên, lao động và công nghệ sản xuất tiên tiến. Đây
cũng là những mặt hàng chiếm ưu thế trong cạnh tranh với hàng nhập khẩu trên thị
trường trong nước. Nhà nước có chính sách hợp lý để phát triển các mặt hàng thay
thế nhập khẩu và tiến tới xuất khẩu.
Chính sách mặt hàng còn quy định các mặt hàng lưu thông có điều kiện và mặt
hàng cấm lưu thông trên thị trường trong nước, cấ
m xuất khẩu, nhập khẩu. Danh
mục mặt hàng này do Chính phủ quy định. Đây là những mặt hàng có ảnh hưởng
lớn đến an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội. Các mặt hàng bị cấm buôn bán
theo quy định của công ước quốc tế mà Việt Nam tham gia…
- Chính sách đầu tư phát triển thương mại
Phát triển thị trường và thương mại từ nay đến năm 2015 và những năm tiếp
theo, cần có chính sách và giải pháp phát triển v

ốn đầu tư cho thương mại thích hợp
ở cả tầm vĩ mô và vi mô. Một mặt, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp kinh
doanh thương mại nâng cao khả năng cạnh tranh, mặt khác, bảo đảm nguồn vốn
cho đầu tư phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật thương mại, tạo điều kiện mở rộng
giao lưu hàng hóa và phát triển thị tr
ường.
Đầu tư cho thương mại có thể từ nhiều nguồn: nguồn vốn ngân sách, vốn đầu
tư nước ngoài, vốn vay của các tổ chức tín dụng trong và ngoài nước, vốn huy động
của các doanh nghiệp và tư nhân. Vì vậy, cần có chính sách và giải pháp thu hút, sử

18
dụng vốn thích hợp với từng nguồn vốn trong quá trình tổ chức thực hiện quy
hoạch, kế hoạch phát triển thương mại ở Việt Nam. Tập trung thúc đẩy nhanh quá
trình phát triển thị trường vốn dài hạn, trung hạn và ngắn hạn, thị trường chứng
khoán, hoàn thiện cơ chế tín dụng, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các doanh
nghiệp thương mại thuộc mọi thành ph
ần kinh tế đều tự do tham gia vào vòng luân
chuyển vốn của xã hội và huy động mọi tiềm năng về vốn trên thị trường theo quy
định của pháp luật.
Đối với các công trình và các dịch vụ hỗ trợ thương mại cần đầu tư vốn với
quy mô lớn như các trung tâm đầu mối giao dịch thương mại, trung tâm thương mại
nhập khẩu và phân phối hàng nhập khẩu, hệ thống tổ
ng kho ở các vùng sản xuất tập
trung hoặc bến cảng, các trung tâm giới thiệu và bán hàng Việt Nam; hoặc các công
trình ở các vùng khó khăn như đầu tư xây dựng chợ đầu nguồn ở các vùng nông
thôn, ở các trung tâm cụm xã miền núi; các cửa hàng của thương mại nhà nước và
hợp tác xã thương mại ở vùng cao, hải đảo, vùng sâu và vùng xa…cần được xem
như các cơ sở hạ tầng cho hoạt động thương mại của xã hộ
i.
Những năm gần đây, đầu tư cho thương mại thiếu sự tập trung. Vốn của doanh

nghiệp thương mại bình quân thấp. Do đó, đi đôi với tổ chức lại doanh nghiệp thương
mại nhà nước phải tập trung đầu tư vốn để hình thành các doanh nghiệp thương mại nhà
nước có quy mô lớn đủ sức cạnh tranh cả trên thị trường trong và ngoài nước, tăng
cườ
ng năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp thương mại.
Cần áp dụng tổng hợp các chính sách và giải pháp tạo vốn, sử dụng vốn, tăng
cường khả năng tài chính cho doanh nghiệp thương mại; tạo điều kiện tái đầu tư phát
triển kinh doanh; tăng cường phát triển hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ hoạt
động thương mại có hiệu quả
cũng là nhằm mục tiêu thúc đẩy sự hình thành và phát
triển các thị trường hàng hóa, tăng trưởng nhanh nền kinh tế đất nước.
- Công cụ chủ yếu của chính sách thương mại
+ Công cụ thuế:
Thuế là công cụ phổ biến nhất của chính sách thương mại. Thuế đánh vào
hàng hóa được chia ra thành hai loại – thuế nội địa và thuế quan.
Thuế nội địa: là thuế đánh vào hàng hóa được buôn bán trên thị trường nội
địa bao gồm cả hàng hóa sản xuất trong nước và nhập khẩu. Thuế nội địa mang tính
chất gián thu, có tác động ảnh hưởng làm tăng giá thị trường và làm hạn chế mức
tiêu dùng, qua đó điều tiết sản xuất và thương mại.
Thuế quan: là thuế đánh vào hàng hóa khi di chuyển qua biên giới giữa hai
nước. Nếu nhập khẩu phải chịu thuế thì được gọi là thuế nhập khẩu, khi xuất khẩ
u
hàng hóa phải chịu thuế thì được gọi là thuế xuất khẩu. Ngoài ra, hàng quá cảnh
phải chịu thuế quá cảnh. Mục đích của thuế quan có thể rất khác nhau; tăng thu
ngân sách nhà nước, bảo hộ thị trường nội địa, điều tiết cung cầu, giá cả trên thị

19
trường nội địa… Hiện nay, trong xu thế tự do hóa thương mại, công cụ thuế quan
được ưu tiên sử dụng nhưng thuế ngày càng giảm để khuyến khích xuất nhập khẩu.
+ Các công cụ không mang tính chất thuế quan (phi thuế quan)

Hạn ngạch xuất khẩu, nhập khẩu: là mức hạn chế về số lượng hay giá trị
xuất, nhập khẩu cao nhất của một loại hàng hóa nào đó do Chính phủ đặ
t ra trong
một thời kỳ nhất định. Tác động của hạn ngạch là nhằm bảo hộ sản xuất trong
nước, điều tiết cung cầu, trên thị trường nội đia nhưng người được hưởng lợi nhiều
nhất là các nhà xuất, nhập khẩu được cấp giấy phép chứ không phải là nhà nước.
Ngoài ra, hạn ngạch còn gây ra nhiều tiêu cực như đặc quyền, hối lộ, t
ự do tăng
giá… Tuy nhiên, hạn ngạch xuất, nhập khẩu cũng có tác dụng nhất định khi công
cụ thuế quan tỏ ra kém hiệu lực, khi cần bảo vệ tài nguyên, môi trường và bản sắc
văn hóa dân tộc…
Trong xu thế tự do hóa thương mại, công cụ hạn ngạch xuất, nhập khẩu ngày
càng bị hạn chế.
Trợ cấp xuất khẩu: là khoản chi trả của Chính phủ cho công ty hay cá nhân xuất
khẩu hàng ra n
ước ngoài, có thể theo khối lượng, hay theo giá trị xuất khẩu. Mục đích
của trợ cấp xuất khẩu là tăng sức cạnh tranh cho hàng xuất khẩu, giải quyết hàng loạt
ứ đọng vượt quá khả năng dự trữ của quốc gia, hỗ trợ cho nhà sản xuất khỏi bị phá sản
khi giá thế giới xuống quá thấp …Trợ cấp xuất khẩu có thể có nhiều hình thức: trự
c
tiếp hoặc gián tiếp. Ngày nay, trợ cấp gián tiếp thường được sử dụng phổ biến hơn.
Tuy nhiên, trợ cấp xuất khẩu cũng gây ra những tác động tiêu cực: Chính phủ mất một
khoản chi phí cho trợ cấp, xã hội chịu tổn thất do giá cả nội địa bị nâng lên. Ngoài ra,
trợ cấp xuất khẩu còn có thể bị coi là phá giá gây ra mâu thuẫn về kinh tế và chính trị
giữa các quốc gia cùng xuấ
t khẩu một loại hàng hóa.
Ngoài hai công cụ chính trên đây, các công cụ phi thuế quan còn có một số
công cụ khác như tự nguyện hạn chế xuất khẩu, ký quỹ nhập khẩu, trợ cấp tín dụng
xuất khẩu, mua sắm của Chính phủ, những quy định về tiêu chuẩn kỹ thuật, về vệ
sinh an toàn, về môi trường sinh thái, các quy định về thủ tục hải quan… nhằm hạn

chế hay khuyến khích xuấ
t nhập khẩu.
+ Tỷ giá hối đoái
Tỷ giá hối đoái là giá của một đơn vị tiền tệ nước này tính theo đồng tiền của
nước khác. Tỷ giá hối đoái tác động mạnh tới cán cân thanh toán quốc tế do nó có
tác động trực tiếp đến xuất, nhập khẩu và đến đầu tư của một quốc gia. Trong hoạt
động xuất, nhập khẩu, tỷ giá hối đoái tác
động trực tiếp tới sức cạnh tranh của hàng
hóa. Khi tỷ giá tăng sẽ khuyến khích xuất khẩu, tỷ giá giảm sẽ khuyến khích nhập
khẩu. Do đó, nhà nước có thể phá giá đồng nội tệ để khuyến khích xuất khẩu. Tuy
nhiên, sử dụng công cụ tỷ giá để điều tiết xuất, nhập khẩu có thể gây tác động tiêu

20
cực tới những cân đối vĩ mô khác của nền kinh tế nên chính phủ phải rất thận trọng
khi sử dụng.
1.1.5. Chức năng, nhiệm vụ của thương mại
- Chức năng của thương mại
Thương mại được tổ chức thành một ngành kinh tế có những chức năng cơ
bản sau đây:
+ Quá trình lưu thông hàng hóa, dịch vụ trong nước và với nước ngoài. Với
chức năng này, ngành thương mại phải nghiên cứu và nắm vững nhu cầu thị
trường hàng hóa, dịch vụ; huy động và sử dụng hợp lý các nguồn hàng nhằm thỏa
mãn tốt mọi nhu cầu của xã hội; thiết lập hợp lý các mối quan hệ kinh tế trong nền
kinh tế quốc dân và thực hiện có hiệu quả các hoạt động dịch vụ trong quá trình
kinh doanh. Để thực hiện chức năng này, ngành thương m
ại phải có đội ngũ lao
động chuyên nghiệp, có hệ thống quản lý kinh doanh và có tài sản cố định và tài
sản lưu động riêng.
+ Thông qua quá trình lưu thông hàng hóa, Chức năng của thương mại thực
hiện tiếp tục quá trình sản xuất trong khâu lưu thông. Thực hiện chức năng này,

Chức năng và nhiệm vụ của thương mại phải tổ chức công tác vận chuyển hàng
hóa, tiếp nhận, bảo quản, phân lo
ại, đóng gói và ghép đồng bộ hàng hóa…
+ Thông qua hoạt động trao đổi, mua bán hàng hóa trong và ngoài nước cũng
như thực hiện các dịch vụ, Chức năng của thương mại gắn sản xuất với thị trường
và gắn nền kinh tế nước ta với nền kinh tế thế giới, thực hiện chính sách mở cửa
nền kinh tế.
+ Chức năng thực hiện giá trị hàng hóa, dịch vụ, qua đ
ó Chức năng của
thương mại đáp ứng tốt mọi nhu cầu của sản xuất và đời sống, nâng cao mức hưởng
thụ của người tiêu dùng. Chuyển hóa hình thái giá trị của hàng hóa là chức năng
quan trọng của thương mại. Thực hiện chức năng này, thương mại tích cực phục vụ
và thúc đẩy sản xuất phát triển, bảo đảm lưu thông thông suốt, là thực hiện m
ục
tiêu của quá trình kinh doanh thương mại dịch vụ.
- Nhiệm vụ chủ yếu của thương mại
+ Nâng cao hiệu quả của hoạt động kinh doanh thương mại dịch vụ, thúc đẩy
quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
+ Phát triển thương mại dịch vụ, bảo đảm lưu thông hàng hóa thông suốt, dễ
dàng trong cả nước, đáp ứng tốt nhất mọi nhu cầu của đờ
i sống.
+ Góp phần giải quyết những vấn đề kinh tế xã hội quan trọng của đất nước:
vốn, việc làm, công nghệ, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực trong nền kinh tế
quốc dân nói chung và lĩnh vực thương mại dịch vụ nói riêng.
+ Chống trốn thuế, lậu thuế, lưu thông hàng giả, hàng kém phẩm chất, thực
hiện đầy đủ các nghĩa vụ đối vớ
i nhà nước, xã hội và người lao động.

21
+ Đảm bảo sự thống nhất giữa kinh tế và chính trị trong hoạt động thương

mại-dịch vụ, đặc biệt là trong lĩnh vực thương mại quốc tế.
1.1.6. Đặc điểm cơ bản của thương mại trong nền kinh tế thị trường ở nước ta
Thương mại là một lĩnh vực hoạt động kinh tế, trong đó các chủ thể thực
hi
ện việc mua bán, trao đổi hàng hóa bằng các phương thức khác nhau. Thương
mại ra đời cùng với nền kinh tế hàng hóa và ngày càng phát triển. Cho đến nay,
thương mại là một ngành kinh tế phát triển ở trình độ cao với quy mô rộng lớn
trong nền kinh tế quốc dân của các nước, chiếm tỷ trọng đáng kể trong cấu thành
khu vực dịch vụ.
Thương mại tuy không phải là một ngành sản xuất vật chất độc lập, nh
ưng
lại có quan hệ chặt chẽ và tác động qua lại với sản xuất, góp phần thúc đẩy sản xuất
và quá trình chuyên môn hóa, giải quyết vấn đề kinh tế - xã hội của đất nước.
Thương mại trong điều kiện hiện nay chịu ảnh hưởng của xu hướng toàn cầu
hóa kinh tế và phát triển nền kinh tế tri thức. Nó không chỉ đóng vai trò cung cấp
đầu vào và giải quyết đầu ra cho sản xuấ
t, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng về hàng
hóa của toàn xã hội mà còn đóng vai trò ngày càng quan trọng trong việc góp phần
khai thác tiềm năng và lợi thế so với từng vùng, từng địa phương, từng quốc gia;
phân bổ nguồn lực một cách hợp lý và có hiệu quả; thúc đẩy tiến bộ khoa học và
công nghệ để đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa; mở rộng quan hệ
kinh tế quốc tế
, hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Chính vì thế, hoạt
động thương mại ngày càng không hạn chế ở việc buôn bán các hàng hóa vật thể
truyền thống mà còn mở rộng sang các lĩnh vực mới như cả thương mại dịch vụ,
bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ… Ở nhiều nước phát triển,
thương mại thường được hiểu rộ
ng đến mức nhiều khi rất khó phân biệt gianh giới
hoạt động thương mại với các hoạt động khác.
Ở nước ta, Điều 5 Luật thương mại ban hành năm 1997 qui định: “Hoạt động

thương mại là việc thực hiện một hay nhiều hành vi thương mại của thương nhân,
bao gồm việc mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ thương mại và các hoạt động
xúc tiến thương mại nhằ
m mục đích lợi nhuận hoặc nhằm thực hiện các chính sách
kinh tế - xã hội”, trong đó thương mại được hiểu là tất cả các cá nhân, pháp nhân,
hộ gia đình có đăng ký kinh doanh hoạt động thương mại một cách độc lập, thường
xuyên.
Thương mại hàng hóa, dịch vụ phát triển dựa trên cơ sở nền kinh tế nhiều
thành phần (thương mại nhiều thành phần). Cơ sở khách quan của sự
tồn tại nhiều
thành phần đó là do còn nhiều hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất. Đại
hội Đảng IX đã khẳng định tiếp tục thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều
thành phần theo định hướng XHCN, tạo mọi điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp
và công dân đầu tư và phát triển sản xuất kinh doanh; tập trung sửa đổi bổ sung c
ơ

22
chế, chính sách, pháp luật, đổi mới công tác chỉ đạo thực hiện để đảm bảo các
thành phần kinh tế đều được khuyến khích phát triển lâu dài, hợp tác cạnh tranh
lành mạnh…đó là kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể và tiểu chủ, kinh
tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Nền
kinh tế nhiều thành phần trong sự v
ận động của cơ chế thị trường ở nước ta là
nguồn lực tổng hợp to lớn để phát triển nền kinh tế đưa thương mại phát triển trong
điều kiện hội nhập.
Ta thấy rằng, hoạt động thương mại trong giai đoạn hiện nay có vai trò to
lớn, có nội dung và phạm vi rộng lớn, có sự liên kết và đan xen giữa nhiều lĩnh vực,
nhiề
u lực lượng, giữa thương mại trong nước và thương mại quốc tế và đang có tác
động sâu sắc tới mọi mặt đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của các quốc

gia trên toàn thế giới.
1.1.7. Vai trò, chính sách của thương mại
- Vai trò của thương mại:
Là một ngành của nền kinh tế quốc dân, thương mại có vai trò quan trọng trong
nền kinh tế thị trường ở nước ta. Xác định rõ vai trò củ
a thương mại cho phép tác
động đúng hướng và tạo được những điều kiện cho thương mại phát triển. Vai trò
của thương mại được biểu hiện như sau:
Phát triển thương mại là điều kiện để thúc đẩy sản xuất hàng hóa phát triển.
Thông qua hoạt động thương mại trên thị trường, các chủ thể kinh doanh mua bán
được các hàng hóa, dịch vụ. Điều đó bảo đảm cho quá trình tái sả
n xuất được tiến
hành bình thường, lưu thông hàng hóa dịch vụ thông suốt. Vì vậy, không có hoạt
động thương mại phát triển thì sản xuất hàng hóa không thể phát triển.
Thông qua việc mua bán hàng hóa dịch vụ trên thị trường, thương mại có vai trò
quan trọng trong việc mở rộng khả năng tiêu dùng, nâng cao mức hưởng thụ của
các cá nhân và doanh nghiệp, góp phần thúc đẩy sản xuất và mở rộng phân công
lao động xã hội, thực hiện cách mạng khoa họ
c công nghệ trong các ngành của nền
kinh tế quốc dân.
Trong xu thế quốc tế hóa đời sống kinh tế diễn ra mạnh mẽ, thị trường trong
nước có mối liên hệ chặt chẽ với thị trường ngoài nước thông qua hoạt động thương
mại. Sự phát triển mạnh mẽ của ngoại thương sẽ bảo đảm mở rộng thị trường các
yếu tố đầu vào, đầ
u ra của thị trường trong nước và bảo đảm sự cân bằng giữa hai
thị trường đó. Vì vậy, thương mại có vai trò là cầu nối gắn kết nền kinh tế trong
nước với nền kinh tế thế giới, thực hiện chính sách mở cửa.
Thương mại tăng cường mối liên kết kinh tế trong nước và quốc tế, giữa thành
thị và nông thôn, giữa các vùng trong cả nước. Trong xu thế toàn cầu hóa, m
ở cửa

và hội nhập là một tất yếu, thì việc phát triển ngoại thương nhằm phát huy những
lợi thế so sánh của Việt Nam là vấn đề rất quan trọng và cấp bách. Do vậy, hoạt

23
động của thương mại là phải hướng về xuất khẩu những mặt hàng cạnh tranh, tìm
kiếm và mở rộng thị trường quốc tế. Xuất nhập khẩu phát triển sẽ thúc đẩy, mở
rộng, khai thác các nguồn lực của đất nước, tạo nhiều việc làm, thu nhập ổn định,
từ đó đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng nền kinh tế. Hiệu quả ho
ạt động ngoại thương
của một quốc gia được đánh giá qua “cán cân thanh toán xuất nhập khẩu”, hiệu quả
này có ảnh hưởng trực tiếp đến sự tăng hay giảm thu nhập của quốc gia đó.
Khi nói đến thương mại là nói đến sự cạnh tranh giữa các chủ thế kinh doanh
trên thị trường trong mua bán hàng hóa, dịch vụ. Quan hệ giữa các chủ thể kinh
doanh là quan hệ bình đẳng, thuận mua vừa bán. Nói cách khác là các quan hệ
đó
được tiền tệ hóa. Vì vậy, trong hoạt động thương mại đòi hỏi các doanh nghiệp tính
năng động sáng tạo trong sản xuất, kinh doanh, thúc đẩy cải tiến, phát huy sáng
kiến để nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hóa, dịch vụ trên thị trường. Điều
đó góp phần đẩy lực lượng sản xuất phát triển nhanh chóng, giúp các doanh nghiệp
tồn tại và phát triển trong môi trường cạnh tranh gay gắt hiện nay.
Th
ương mại tổ chức mua, bán và các dịch vụ sau khi mua và bán hàng hóa ở thị
trường nội địa và quốc tế. Thương mại góp phần nâng cao hiệu quả của nền kinh tế,
trong đó đặc biệt là hoạt động xuất nhập khẩu nhằm khai thác có hiệu quả lợi thế
của đất nước trên cơ sở phân công lao động quốc tế để năng cao năng suất lao
động, đa dạng hóa s
ản phẩm, mẫu mã, bao bì, chất lượng hàng hóa, hạ giá thành…
Thương mại là cầu nối giữa sản xuất và tiêu dùng, gắn sản xuất với thị trường,
giữa thị trường trong nước với thị trường quốc tế. Mua và bán những sản phẩm từ
sản xuất, vừa là điều kiện bắt buộc, vừa là kết quả của sản xuất hàng hóa. Thương

mại càng phát triể
n sẽ thúc đẩy sản xuất càng mở rộng, thương mại tạo điệu kiện
cho sản xuất sử dụng có hiệu quả lợi thế và tiềm năng của từng địa phương, từng
quốc gia. C.Mác quan niệm rằng: khi thị trường, nghĩa là lĩnh vực trao đổi mở rộng
ra, thì quy mô sản xuất cũng sẽ tăng lên, sự phân công trong sản xuất cũng trở nên
sâu s
ắc hơn.
Nước ta là một nước nông nghiệp, sản xuất nông nghiệp rất cần máy móc, phân
bón, thuốc trừ sâu của công nghiệp và ngược lại, công nghiệp phát triển rất cần
nguyên liệu, lương thực do nông nghiệp sản xuất ra. Như vậy, thương mại có chức
năng vô cùng quan trọng là cầu nối thúc đẩy sản xuất phát triển, đồng thời phục vụ
sản xuất. Ở đây, th
ương mại không chỉ bán tư liệu, nguyên liệu sản xuất, mà còn
làm nhiệm vụ môi giới để tiêu thụ sản phẩm của những người sản xuất hàng hóa,
góp phần thúc đẩy phát triển sản xuất hàng hóa, đáp ứng yêu cầu của thị trường.
Thương mại, ngoài vai trò phục vụ và thúc đẩy sản xuất phát triển, còn
hướng dẫn sản xuất làm cho sản xuất ngày càng đa dạng, phù hợp vớ
i nhu cầu và
thị hiếu ngày càng cao của người tiêu dùng. Thương mại (nội thương) tìm hiểu nhu

×