Tải bản đầy đủ (.doc) (124 trang)

Hệ thống chính trị cấp xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số tỉnh Lào Cai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (532.72 KB, 124 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cơ sở xã, phường, thị trấn là nơi đại bộ phận nhân dân cư trú, sinh sống
và diễn ra mọi hoạt động của đời sống xã hội một cách sinh động. Hệ thống
chính trị cơ sở có vị trí, vai trò quan trọng trong hệ thống chính trị nước ta, là
cấp trực tiếp tổ chức, hướng dẫn, vận động nhân dân thực hiện đường lối,
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, củng cố và tăng cường khối đại
đoàn kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, huy động mọi
nguồn lực phát triển kinh tế- xã hội, tổ chức cuộc sống của cộng đồng dân cư.
Các xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số miền núi ở nước ta có những đặc
điểm riêng khác với ở phường, thị trấn và các xã vùng đồng bằng. Bởi vì, nơi
đây có vị trí chiến lược về an ninh - quốc phòng; trình độ phát triển kinh tế xã hội thấp; tính đa diện trong văn hóa tộc người; trình độ dân trí chưa cao; sự
phức tạp, nhạy cảm trong vấn đề dân tộc, tôn giáo…Chính những đặc điểm ấy
đã làm cho vị trí, vai trò của hệ thống chính trị cấp xã vùng đồng bào dân tộc
thiểu số miền núi trở nên đặc biệt quan trọng trong việc ổn định chính trị, phát
triển kinh tế, văn hóa, xã hội và an ninh quốc phòng của địa phương.
Thời gian qua, với sự quan tâm, lãnh chỉ đạo của Đảng và Nhà nước, hệ
thống chính trị cấp xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số miền núi ở nước ta đã
từng bước được kiện toàn, đạt hiệu quả cao trong tổ chức và hoạt động. Tuy
vậy, hệ thống chính trị vùng này vẫn còn những yếu kém và hạn chế cần khắc
phục như: chưa xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của các thành viên trong hệ
thống chính trị cấp xã; nội dung và phương thức hoạt động chưa đáp ứng yêu
cầu xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc miền núi; trình độ văn
hóa, quản lý và năng lực điều hành công việc thực tiễn của cán bộ cấp xã
vùng dân tộc thiểu số miền núi còn nhiều hạn chế…Điều này càng bộc lộ rõ
hơn trong giai đoạn dân chủ hóa hiện nay, nhất là từ khi thực hiện Quy chế


2
thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn (1998) và Pháp lệnh thực hiện dân


chủ ở xã, phường, thị trấn (2007).
Lào Cai là tỉnh vùng cao biên giới nằm phía Tây Bắc Việt Nam, đơn vị
hành chính của tỉnh bao gồm 1 thành phố Lào Cai và 8 huyện, với 164 xã,
phường, thị trấn, trong đó có 138 xã vùng sâu, vùng xa, biên giới. Địa bàn
tỉnh cũng là nơi sinh sống và cư trú của 13 dân tộc với 25 nhóm ngành khác
nhau, trong đó đồng bào dân tộc thiểu số chiếm 64,09 % dân số. Nhìn chung,
các dân tộc anh em cùng chung sống hoà thuận, đoàn kết, giúp đỡ nhau cùng
phát triển.
Đặc thù trên đòi hỏi các cấp ủy đảng và chính quyền của tỉnh cần đặc
biệt quan tâm đến chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của các xã vùng đồng
bào dân tộc thiểu số, nhất là các xã vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới. Mục
tiêu là tăng cường khai thác mọi tiềm năng, thế mạnh của các xã để đưa đồng
bào các dân tộc thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, từng bước nâng cao đời sống
vật chất và tinh thần cho nhân dân, đảm bảo an ninh quốc phòng, xây dựng
cuộc sống văn minh, góp phần vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của
đất nước.
Để thực hiện nhiệm vụ đó, giải pháp đầu tiên có ý nghĩa quyết định nhất
là cần phải kiện toàn và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị
cấp xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số trong tỉnh. Những năm qua, dưới sự
lãnh đạo của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Lào Cai, việc kiện toàn hệ
thống chính trị các cấp, đặc biệt là cấp xã đã đạt được nhiều chuyển biến
tích cực. Hệ thống chính trị cấp xã đã được kiện toàn theo hướng gần dân,
vì dân hơn; phương pháp công tác và phương thức lãnh đạo, chỉ đạo của
cấp uỷ xã được đổi mới. Năng lực chỉ đạo, điều hành và quản lý của
chính quyền cấp cấp xã có nhiều tiến bộ, hiệu lực, hiệu quả được nâng
lên; cải cách thủ tục hành chính bước đầu có chuyển biến tích cực. Hoạt
động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội tiếp tục được


3

đổi mới về nội dung và phương thức, bảo đảm thiết thực và hiệu quả
hơn. Nội bộ cấp uỷ đoàn kết, thống nhất, sự đồng thuận trong Đảng,
chính quyền và nhân dân ngày càng tăng.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu nói trên, hệ thống chính trị cấp xã
vùng đồng bào dân tộc thiểu số tỉnh Lào Cai vẫn đứng trước những khó khăn,
thách thức không nhỏ: Tình trạng quan liêu, tham nhũng, mất đoàn kết nội bộ
xảy ra ở nhiều nơi, có những nơi nghiêm trọng. Chức năng, nhiệm vụ của các
bộ phận trong hệ thống chính trị cơ sở chưa được xác định rành mạch, trách
nhiệm không rõ; nội dung và phương thức hoạt động chậm đổi mới; đội ngũ
cán bộ xã ít được đào tạo, bồi dưỡng… Trong khi đó, các thế lực thù địch tiếp
tục đẩy mạnh thực hiện chiến lược “Diễn biến hòa bình”, triệt để lợi dụng các
vấn đề dân tộc, tôn giáo, những khó khăn trong đời sống của đồng bào và
những hạn chế, yếu kém của hệ thống chính trị các cấp để nói xấu Đảng, Nhà
nước, hòng làm mất lòng tin của đồng bào vào đường lối chủ trương của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Chính vì vậy, việc tìm hiểu, nghiên cứu thực trạng và những vấn đề đặt
ra đối với hệ thống chính trị ở các xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số tỉnh Lào
Cai hiện nay là nhiệm vụ hết sức bức thiết. Với ý nghĩa đó, tác giả chọn đề
tài: “Hệ thống chính trị cấp xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số tỉnh Lào
Cai” làm chủ đề nghiên cứu cho luận văn Thạc sĩ Triết học, chuyên ngành
chủ nghĩa xã hội khoa học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Xuất phát từ vai trò, vị trí, chức năng của hệ thống chính trị trong đời
sống xã hội, việc nghiên cứu hệ thống chính trị nói chung, về hệ thống chính
trị cấp xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số nói riêng trên từng khu vực, vùng,
miền, địa phương và vai trò của chúng đã được nhiều tác giả quan tâm nghiên
cứu trên những bình diện khác nhau, qua đó hình thành nhiều ấn phẩm có giá
trị ở cả tầm lý luận và thực tiễn. Điển hình là:



4
Công trình “Hệ thống chính trị cấp cơ sở và dân chủ hóa đời sống xã hội,
nông thôn miền núi, vùng dân tộc thiểu số” do Nguyễn Quốc Phẩm chủ biên
(2000), đã phân tích thực trạng hệ thống chính trị cấp cơ sở vùng nông thôn
miền núi, vùng dân tộc thiểu số thuộc các tỉnh miền núi phía Bắc nước ta. Công
trình đã đánh giá các thành tựu, hạn chế và chỉ ra những nguyên nhân của nó;
đồng thời đề xuất những phương hướng, giải pháp nhằm đổi mới hệ thống chính
trị của khu vực này.
Bộ sách: "Cộng đồng làng xã Việt Nam hiện nay" (2001), "Thực hiện quy
chế dân chủ và xây dựng chính quyền cấp xã ở nước ta hiện nay" (2003), “Thể
chế dân chủ và phát triển nông thôn Việt Nam hiện nay” (2005) do TS. Nguyễn
Văn Sáu và GS. Hồ Văn Thông chủ biên. Các công trình này nhằm làm rõ về
nông thôn Việt Nam hiện nay; làm sáng tỏ những quan điểm, chủ trương, chính
sách, giải pháp của Đảng và Nhà nước ta về nông nghiệp, nông dân, nông
thôn; đồng thời cũng định hình được mối quan hệ biện chứng giữa vai trò của
hệ thống chính trị cấp cơ sở với quá trình thực hiện Quy chế dân chủ ở nông
thôn Việt Nam.
Công trình “Một số vấn đề về xây dựng hệ thống chính trị ở Tây
Nguyên”, do Phạm Hảo và Trương Minh Dục đồng chủ biên (2003), từ
nghiên cứu hoạt động của hệ thống chính trị các cấp ở Tây Nguyên (nhất là
cấp xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số), các tác giả đã đề ra một số phương
hướng và giải pháp kiện toàn hệ thống này, nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển
của khu vực trong giai đoạn thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Công trình “Hệ thống chính trị cơ sở nông thôn ở nước ta hiện nay” do
Hoàng Chí Bảo chủ biên (2004), đã làm rõ lịch sử và lý luận về làng xã và hệ
thống chính trị ở cơ sở nước ta; nêu rõ cơ cấu tổ chức và hoạt động của hệ
thống chính trị ở cơ sở hiện nay và đề ra một số phương hướng, giải pháp
nhằm tăng cường hoạt động của hệ thống này.



5
“Đổi mới hệ thống chính trị cấp cơ sở vùng dân tộc Chăm ở nước ta
hiện nay” của Nguyễn Đức Ngọc (Luận án tiến sĩ triết học 2009), qua nghiên
cứu hệ thống chính trị cấp cơ sở vùng dân tộc Chăm, tác giả đã chỉ ra những
thành tựu, hạn chế và yếu kém trong tổ chức và hoạt động của hệ thống này
cũng như nguyên nhân của nó. Từ đó, xác định quan điểm, phương hướng và
đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hệ thống chính trị cấp cơ
sở vùng dân tộc Chăm đáp ứng yêu cầu của thời kỳ mới.
“Đồng bào dân tộc thiểu số thực hiện xóa đói, giảm nghèo qua Chương
trình 135 giai đoạn II” của Giàng Seo Phử (Tạp chí Cộng sản, số 816/2010),
bài viết khái quát tình hình phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn
vùng đồng bào dân tộc và miền núi (giai đoạn 2006 - 2010) được thực hiện
trên địa bàn 50 tỉnh của đất nước. Từ những con số cụ thể, tác giả đã có
những đánh giá sát thực, đồng thời rút ra những bài học kinh nghiệm hết sức
quý giá nhằm tiếp tục thực hiện Chương trình xóa đói, giảm nghèo giai đoạn
II đạt kết quả cao hơn.
“Phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, hoàn thành tốt
các mục tiêu, kế hoạch đề ra” của Nguyễn Phú Trọng (Tạp chí Cộng sản, số
829/2011), bài viết đánh giá về tình hình kinh tế - xã hội đất nước, nguyên
nhân của những khó khăn, thách thức hiện nay và xu hướng phát triển trong
thời gian tới. Từ đó, định hướng các giải pháp chủ yếu mà cả hệ thống chính
trị phải đồng tâm hiệp lực lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện, tạo sự chuyển
biến thực sự trong việc đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế,
nâng cao chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh. Bên cạnh đó nhấn mạnh định
hướng chính sách, biện pháp bảo đảm an ninh lương thực gắn với bảo vệ môi
trường sinh thái, bảo đảm an ninh năng lượng và giữ vững ổn định chính trị,
an ninh, trật tự, an toàn xã hội.
Ngoài ra, một số công trình, luận văn, luận án, bài viết trên các tạp chí
khoa học chuyên ngành cũng bàn về vấn đề náy dưới nhiều hình thức và mức



6
độ khác nhau như: “Đổi mới tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân”
của Văn phòng Quốc hội (Nghiên cứu lập pháp, số 8/2001); “Hệ thống chính
trị cơ sở vùng sâu, vùng xa và những vấn đề đặt ra cần được giải quyết” của
Hồ Minh Dức (Dân vận, số 1 và 2/2002); “Vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam đối với việc thực hiện quyền làm chủ của nhân dân ở nước ta hiện nay”
của Nguyễn Thị Hiền Oanh (Nxb Lý luận chính trị, H.2005); “Tồn tại và
không nên tồn tại HĐND cấp nào?” của Trần Hữu Trí (Đại Đoàn kết, số
139/2007); “Giả pháp nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị
cấp xã, phường, thị trấn ở Đồng Nai hiện nay” của Nguyễn Khánh Mậu
(Khoa học Chính trị, số 2/2007); “Đổi mới hệ thống chính trị để phát huy dân
chủ” của Đoàn Minh Duệ (Triết học, số 9/2007)…
Như vậy, nghiên cứu về hệ thống chính trị cơ sở nói chung và hệ thống
chính trị cấp xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số nói riêng từng khu vực, vùng
dân tộc cụ thể đã được rất nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu, song chưa có
một công trình khoa học nào trực tiếp bàn về hệ thống chính trị cấp xã vùng
đồng bào dân tộc thiểu số tỉnh Lào Cai, trong khi đối tượng nghiên cứu này
đang đặt ra những vấn đề cần được giải quyết kể cả ở tầm lý luận và thực tiễn.
Vì vậy, chúng tôi mạnh dạn nghiên cứu vấn đề trên trong khuôn khổ một
Luận văn Thạc sỹ Triết học (chuyên ngành Chủ nghĩa xã hội khoa học) với hy
vọng góp phần nhất định vào việc luận giải cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc
đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị cấp xã nói
chung và hệ thống chính trị cấp xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số nói riêng
của tỉnh Lào Cai.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Mục đích
Từ việc nghiên cứu mặt mạnh, mặt yếu và những vấn đề đặt ra trong
hoạt động của hệ thống chính trị cấp xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở tỉnh
Lào Cai, luận văn đề xuất một số quan điểm và giải pháp nhằm nâng cao chất



7
lượng, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị đáp ứng yêu cầu phát triển
hiện nay.
Nhiệm vụ
- Hệ thống hoá quan niệm về hệ thống chính trị cấp xã vùng đồng bào
dân tộc thiểu số và vai trò của nó đối với sự phát triển.
- Phân tích thực trạng và những vấn đề đặt ra trong hoạt động của hệ thống
chính trị cấp xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở tỉnh Lào Cai hiện nay.
- Đề xuất một số quan điểm và giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu
quả hoạt động của hệ thống chính trị ở cấp xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số
tỉnh Lào Cai.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu thực trạng và những vấn
đề đặt ra đối với hệ thống chính trị ở cấp xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở
tỉnh Lào Cai.
- Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu hệ thống chính trị cấp xã
vùng đồng bào dân tộc thiểu số (không bao gồm: các phường, thị trấn) của
tỉnh Lào Cai trong những năm đầu thế kỷ XXI.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
- Cơ sở lý luận: Luận văn dựa trên những quan điểm cơ bản của chủ
nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng Cộng
sản Việt Nam, của tỉnh Lào Cai về những vấn đề liên quan đến đề tài.
- Phương pháp nghiên cứu: Quá trình giải quyết những nội dung trong
luận văn, tác giả sử dụng tổng hợp các phương pháp của phép biện chứng duy
vật (như phân tích và tổng hợp, lịch sử và lô gic, hệ thống và cấu trúc…), các
phương pháp so sánh, điều tra, thống kê, nghiên cứu văn bản…
6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
- Làm rõ thực trạng hệ thống chính trị cấp xã vùng đồng bào dân tộc thiểu

số trong mối quan hệ với sự phát triển của những vùng này ở tỉnh Lào Cai.


8
- Từ việc xác định rõ những vấn đề đang đặt ra trong hoạt động của hệ
thống chính trị cấp xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở tỉnh Lào Cai, luận văn
đề ra quan điểm và một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng, hiệu
quả hoạt động của hệ thống chính trị đáp ứng yêu cầu phát triển hiện nay.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm cơ sở cho các cấp lãnh
đạo, quản lý tỉnh Lào Cai tham khảo, vận dụng trong việc đề ra các chính sách
riêng, phù hợp và đạt hiệu quả cao hơn trong việc kiện toàn hệ thống chính trị
cấp xã vùng đồng bào dân tộc trong tỉnh.
- Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc giảng dạy,
nghiên cứu và học tập về hệ thống chính trị cấp xã ở trường chính trị tỉnh và
các trung tâm bồi dưỡng chính trị huyện.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo,
nội dung luận văn gồm 3 chương, 7 tiết.


9
Chương 1
ĐẶC ĐIỂM VÀ VAI TRÒ CỦA HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CẤP XÃ
VÙNG ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ
1.1. QUAN NIỆM VỀ HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CẤP XÃ VÙNG ĐỒNG BÀO
DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở NƯỚC TA

1.1.1. Khái niệm hệ thống chính trị cấp xã
Chính trị và hệ thống chính trị - với những quan hệ và hoạt động đặc thù

của chúng - là kết quả của sự phát triển của lực lượng sản xuất, là con đẻ của
giai đoạn lịch sử nhất định trong sự phát triển của nền văn minh loài người,
hay nói chính xác hơn là thời gian xuất hiện các giai cấp và mâu thuẫn đối
kháng giai cấp. Và như vậy, từ khi xuất hiện các giai cấp và đối kháng giai
cấp cho tới khi nào mức năng suất lao động của con người còn chưa đạt tới
ranh giới cho phép xóa bỏ những khác biệt giai cấp trong việc thừa hưởng
phúc lợi vật chất, chưa xóa bỏ sự khác biệt giai cấp thì chính trị, hệ thống
chính trị và tổ chức chính trị của xã hội, trước và sau này cũng vậy, vẫn sẽ là
những thuộc tính của đời sống xã hội.
Trong mọi xã hội có giai cấp, đối kháng giai cấp, quyền lực của giai cấp
cầm quyền được thực hiện bằng một hệ thống thiết chế và tổ chức chính trị
nhất định. Đó là hệ thống chính trị.
Hệ thống chính trị là một chỉnh thể các tổ chức trong xã hội bao gồm
các đảng chính trị, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội hợp pháp được
liên kết với nhau trong một hệ thống tổ chức nhằm tác động vào các quá trình
của đời sống xã hội, để củng cố, duy trì và phát triển chế độ đương thời phù
hợp với lợi ích của giai cấp cầm quyền.
Như vậy, hệ thống chính trị gắn liền với sự phân chia giai cấp trong xã
hội, nhưng giai cấp không phải là hiện tượng vĩnh hằng. Loài người đã và sẽ
trải qua các thời kỳ khác nhau của xã hội: xã hội chưa có giai cấp và đối


10
kháng giai cấp; xã hội có giai cấp và đối kháng giai cấp; và cuối cùng, lại trở
về xã hội không có giai cấp và đối kháng giai cấp, nhưng ở một trình độ cao
hơn. Từ một xã hội này chuyển sang một xã hội khác phải trải qua những thời
kỳ quá độ khác nhau và để chuyển từ một xã hội có giai cấp và đối kháng giai
cấp sang một xã hội không còn giai cấp và đối kháng giai cấp tất yếu phải trải
qua một thời kỳ quá độ chính trị lâu dài - thời kỳ chuyên chính cách mạng của
giai cấp vô sản, thời kỳ tồn tại hệ thống chính trị của giai cấp công nhân và nhân

dân lao động.
Ở nước ta, mặc dù khái niệm hệ thống chính trị mới chỉ được đề cập, sử
dụng trong các văn kiện chính trị và các tài liệu khoa học từ sau đổi mới
(1986). Song, trên thực tế, hệ thống chính trị nước ta đã được hình thành và
phát triển gần 70 năm, như một hệ thống quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Tại Hội
nghị lần thứ sáu, Ban Chấp hành Trung ương (khóa VI), tháng 3 năm 1989,
Đảng ta lần đầu tiên đã sử dụng khái niệm hệ thống chính trị trong thời kỳ quá
độ đi lên chủ nghĩa xã hội thay thế cho khái niệm hệ thống chuyên chính vô
sản được sử dụng trước đó. Theo đó, hệ thống chính trị trong thời kỳ quá độ
đi lên CNXH ở nước ta là một chỉnh thể bao gồm Đảng Cộng sản Việt Nam,
Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam cùng với các tổ chức chính trị - xã hội
hợp pháp, hoạt động theo một cơ chế nhất định nhằm từng bước hoàn thiện
nền dân chủ XHCN, bảo đảm mọi quyền lực thuộc về nhân dân và thực hiện
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Việc sử
dụng khái niệm HTCT trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH thay thế cho khái
niệm hệ thống chuyên chính vô sản vừa kế thừa tư tưởng của các nhà kinh
điển C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin, vừa phù hợp với xu thế của thời đại
và điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam, đồng thời đáp ứng được nhu
cầu đổi mới trên lĩnh vực chính trị của xã hội ta nói riêng, nhu cầu đổi mới
toàn diện đất nước ta nói chung.


11
Như vậy, khái niệm HTCT xã hội chủ nghĩa ở nước ta được hiểu là một
hệ thống tổ chức bộ máy, hệ thống các thiết chế chính trị - xã hội, bao gồm:
Đảng Cộng sản Việt Nam (vai trò lãnh đạo); Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của dân, do dân và vì dân (vai trò quản lý); Mặt trận tổ quốc Việt Nam
và các tổ chức chính trị - xã hội của nhân dân (Công đoàn, Hội Nông dân,
Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ, Hội Cựu chiến binh), có vai trò tập hợp lực
lượng, thực hiện chiến lược đại đoàn kết dân tộc, hiệp trương chính trị, hợp tác

và phát triển xã hội. Đây là các tổ chức hợp pháp theo quy định của Hiến pháp
và pháp luật, được nhà nước bảo trợ, hoạt động công khai, nhằm thực hiện và
phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
Theo chiều dọc, cấu trúc của hệ thống chính trị không chỉ là hệ thống các
tổ chức và các quan hệ về tổ chức mà còn là hệ thống các cấp độ và các quan
hệ về cấp độ nhìn theo hai chiều vận động từ dưới lên và từ trên xuống. Cấp
độ của từng tổ chức (Đảng, Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể) được quy
định theo từng cấp với vị trí, vai trò, chức trách, thẩm quyền khác nhau, thể hiện
mối quan hệ thứ bậc giữa cấp trên và cấp dưới trong phạm vi một tổ chức. Hệ
thống chính trị ở nước ta được cấu thành bởi các tổ chức nêu trên cũng có các cấp
độ này, biểu hiện thành quan hệ tác động qua lại giữa Trung ương với địa phương
và cơ sở, phản ánh sự phân cấp về quyền lực trong HTCT.
Theo chiều ngang, hệ thống chính trị được biểu hiện thông qua mối quan
hệ về vị trí, vai trò và quyền hạn giữa các tổ chức khác nhau trong tổng thể
của hệ thống, bao gồm: Đảng chính trị, Nhà nước, Mặt trận và các tổ chức
chính trị - xã hội. Nếu như ở cấp trung ương, đảng chính trị giữ vai trò lãnh
đạo chung, nhà nước giữ vai trò quản lý chung thông qua các hoạt động đặc
thù, Mặt trận và các tổ chức chính trị giữ vai trò tập hợp lực lượng, tạo lập
khối đại đoàn kết, hiệp thương chính trị...; thì, ở cấp địa phương, mỗi chân rết
của các tổ chức nói trên sẽ chịu trách nhiệm chính các nhiệm vụ tương ứng,
song trong một địa bàn và không gian cụ thể.


12
Cơ sở là khái niệm để chỉ một cấp trong hệ thống quản lý hành chính của
Nhà nước chứ không phải là tất cả mọi loại hình cơ sở nói chung, đó chính là
xã, phường, thị trấn. Ở nước ta hiện nay, do số lượng xã chiếm đa số, gắn với
sản xuất và dân cư nông nghiệp nên trong quản lý hành chính hiện hành gọi
chung xã, phường, thị trấn là cấp xã. Đây là cấp cuối cùng trong hệ thống
quản lý hành chính, là cấp gần và sát dân nhất nên còn được gọi là cấp cơ sở.

Hiện nay ở nước ta có 10.925 đơn vị cơ sở xã, phường, thị trấn, trong đó
có 9.098 xã, 597 thị trấn và 1.230 phường. Đây là địa bàn cư trú, làm ăn của
nhân dân lao động, nơi diễn ra mọi hoạt động của đời sống xã hội. Đó vừa là
nơi diễn ra các hoạt động sản xuất - kinh doanh của người lao động, của các
hộ gia đình, của các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế; vừa là nơi
diễn ra quá trình trao đổi, lưu thông hàng hóa, là đầu mối của thị trường, là
nơi hình thành các quan hệ kinh tế giữa các chủ thể sản xuất và tiêu dùng. Nói
đến cơ sở là nói tới nơi diễn ra các hoạt động của người dân và cuộc sống của
họ; là nói tới các hình thức tổ chức hoạt động sống của cộng đồng và các mối
quan hệ xã hội giữa cá nhân với cá nhân, giữa cá nhân cới cộng đồng. Mỗi cơ
sở là một cộng đồng xã hội, ở đó có các hoạt động kinh tế, văn hóa và đồng
thời tất yếu hình thành nên cộng đồng chính trị - xã hội. Tại đây, vai trò lãnh
đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước và hoạt động của các tổ chức chính
trị - xã hội đều hướng tới mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an
ninh, trật tự xã hội và tổ chức đời sống chính trị của công dân. Tổng hợp của
các tổ chức trên, đó chính là HTCT cấp cơ sở.
Như vậy, HTCT cấp cơ sở là hệ thống chỉnh thể các tổ chức đảng, chính
quyền và các tổ chức chính trị - xã hội ở xã, phường, thị trấn, được tổ chức
và hoạt động trong khuôn khổ của Hiến pháp và pháp luật, đặt dưới sự lãnh
đạo của Đảng nhằm thực hiện và phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong
phát triển mọi mặt đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội và chính trị trên địa bàn.


13
HTCT cấp cơ sở ở nước ta hiện nay bao gồm: Đảng bộ hay Chi bộ cơ sở;
chính quyền cơ sở (gồm Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân xã); Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam, Công đoàn, Hội nông dân, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ
Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ, Hội Cựu chiến binh ở cơ sở. Mỗi bộ phận
hợp thành HTCT cấp cơ sở có vị trí, vai trò và chức năng khác nhau nhưng có
mối quan hệ mật thiết với nhau. Cụ thể:

- Đảng bộ hay Chi bộ cơ sở, mà nòng cốt là Ban Chấp hành Đảng bộ là
hạt nhân chính trị, trực tiếp thực hiện vai trò lãnh đạo thông qua việc ra các
nghị quyết, chỉ thị định hướng cho chính quyền triển khai các hoạt động quản
lý, điều hành trên phạm vi địa bàn; bằng hoạt động của các đảng viên trong bộ
máy chính quyền và các tổ chức chính trị - xã hội ở cơ sở; bằng việc giới
thiệu đảng viên ưu tú tham gia giữ các chức vụ chủ chốt trong chính quyền và
các tổ chức chính trị - xã hội ở cơ sở; bằng công tác tuyên truyền, vận động
thuyết phục; bằng sự gương mẫu của đảng viên; bằng công tác kiểm tra, giám
sát việc thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, luật pháp, chính sách của
Nhà nước đối với cán bộ và đảng viên.
- Chính quyền là trụ cột của HTCT cấp cơ sở, có vai trò quản lý, điều
hành toàn bộ các hoạt động kinh tế - xã hội trên phạm vi địa bàn theo Hiến pháp
và pháp luật. Trong chính quyền cơ sở, HĐND là cơ quan quyền lực nhà nước ở
cơ sở, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân trên địa
bàn, thay mặt nhân dân quyết định những vấn đề quan trọng trên đại bàn theo
quy định của pháp luật. Ủy ban nhân dân là cơ quan chấp hành của Hội đồng
nhân dân, là cơ quan hành chính nhà nước ở cơ sở. Ủy ban nhân dân thực hiện
những nhiệm vụ theo nghị quyết của Hội đồng nhân dân, những nhiệm vụ do cơ
quan hành chính nhà nước cấp trên ủy quyền và chỉ đạo tổ chức thực hiện, đôn
đốc, kiểm tra việc thực hiện các nhiệm vụ tự quản của địa phương.
- Mặt trận tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội có chức năng tuyên
truyền, vận động quần chúng nhân dân ở cơ sở thực hiện đường lối, chủ


14
trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và các chủ trương của
chính quyền cơ sở; củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, thực
hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở; chăm lo lợi ích và bên vực quyền lợi chính
đáng của hội viên, đoàn viên; đồng thời thực hiện chức năng giám sát đối với
hoạt động của chính quyền, đối với cán bộ, công chức, đảng viên ở cơ sở và

tham gia một số công việc quản lý xã hội ở cơ sở và từng thôn xóm.
Bên cạnh đó, ở cấp cơ sở hiện nay còn rất nhiều tổ chức, hội đoàn do
nhân dân tự nguyện lập ra, hoạt động theo phương thức tự quản và tuân thủ
pháp luật, thỏa mãn nhu cầu giao tiếp, liên kết cộng đồng, cùng nhau tổ chức
đời sống trong cộng đồng, góp phần tạo ra sự đoàn kết, đồng thuận trong xã
hội. Những tổ chức này tuy không phải là bộ phận hợp thành HTCT cơ sở
nhưng có mối quan hệ mật thiết với hệ thống này. Vì vậy, nếu HTCT cấp cơ
sở biết cách tạo điều kiện, phát huy tác dụng của các tổ chức này thì sức
mạnh đoàn kết - hợp tác - sáng tạo của cộng đồng xã hội ở cơ sở sẽ được nhân
lên gấp bội. Điều đó sẽ làm cho nền tảng xã hội của Đảng, Nhà nước và của
cả chế độ được củng cố vững mạnh ngay từ cơ sở. Đó chính là sự kết hợp sức
mạnh giữa các thiết chế chính trị quan phương và phi quan phương, giữa tính
nhân dân và tính tự quản cộng đồng để tạo nên sự ổn định ở cơ sở, tạo sức bật
cho cơ sở phát triển.
1.1.2. Quan niệm về hệ thống chính trị cấp xã vùng đồng bào dân tộc
thiểu số ở nước ta hiện nay
Trong quá trình đổi mới, kiện toàn HTCT xã thời gian qua, dường như
chúng ta, cả ở cấp Trung ương lẫn địa phương, chưa chú ý đúng mức đến tính
đặc thù của từng loại hình cơ sở xã, phường, thị trấn. Từ việc ban hành các
văn bản pháp luật, các quy định về chức năng, nhiệm vụ của các tổ chức trong
HTCT cấp xã đến chế độ chính sách với đội ngũ cán bộ này vẫn còn trong
tình trạng cào bằng, rập khuôn giữa các loại hình xã khác nhau.


15
Các xã, phường, thị trấn ở nước ta hiện nay có độ chênh lệch rất lớn về
diện tích và dân số, về số lượng thôn. Xã ít dân nhất chỉ có vài trăm người; lại
có xã, phường, thị trấn có mấy chục nghìn người và cá biệt có phường lên đến
hơn 100.000 người (phường 12 - quận Gò Vấp - Thành phố Hồ Chí Minh có
đến 107.390 dân). Có xã chỉ có một vài thôn, lại có xã tới 15 - 20 thôn.

Các xã, phường, thị trấn lại có sự khác nhau về thành phần dân cư; về
tôn giáo, văn hóa; về kinh tế (nông nghiệp, thủ công, công nghiệp, thương
mại, dịch vụ...); khác nhau về mức độ đô thị hóa, kết cấu hạ tầng, trình độ dân
trí, mức sống, trình độ phát triển...
Thậm chí, ngay trong cùng một loại hình cơ sở như ở xã cũng có sự khác
nhau đáng kể. Các xã và cùng với nó là các thôn, bản, làng, ấp, buôn, phum sóc ở nước ta hết sức đa dạng, ở đồng bằng khác với ở trung du, miền núi, hải
đảo; ở miền Bắc khác với miền Trung và miền Nam; ở thành thị khác với
nông thôn; ở vùng đồng bào Kinh khác với vùng dân tộc thiểu số; ở vùng dân
tộc thiểu số này khác với vùng dân tộc thiểu số khác.
Các xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở nước ta hiện nay là nơi cư trú
và sinh sống của hầu hết các tộc người thiểu số (> 50%). Trong quá trình đổi
mới, phát triển kinh tế - xã hội trên cả nước đã cho chúng ta thấy, vùng đồng
bào dân tộc thiểu số là vùng có sự phát triển chậm nhất so với sự phát triển
chung của đất nước. Một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn tới tình
trạng trên là do sự yếu kém của HTCT cấp xã. Bởi vậy, nghiên cứu về HTCT
cấp xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở nước ta hiện nay là việc làm có ý
nghĩa hết sức quan trọng.
Nghiên cứu HTCT cấp xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số không có
nghĩa là tách biệt hệ thống này, mà ngược lại, cần được hiểu là một sự khu
biệt hóa nhằm làm rõ những đặc điểm, vai trò cụ thể của hệ thống này. Từ đó
cung cấp cho chúng ta những cơ sở lý luận, thực tiễn để xây dựng mô hình tổ
chức, đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của HTCT cấp xã, đồng


16
thời giải quyết các vấn đề trong công tác cán bộ cho phù hợp với đặc thù vùng
đồng bào dân tộc thiểu số.
HTCT cấp xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở Việt Nam hiện nay là
một bộ phận nằm trong HTCT cấp xã nói chung (xã, phường, thị trấn), do
vậy, theo quy định, hệ thống này cũng gồm ba bộ phận: Tổ chức đảng ở xã

(Đảng bộ hoặc chi bộ xã); chính quyền xã (Hội đồng nhân dân xã và Ủy ban
nhân dân xã); Mặt trận tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội tại xã.
Như vậy, HTCT cấp xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số là hệ thống các
tổ chức đảng, chính quyền và các tổ chức chính trị - xã hội ở các xã có đa số
đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống, được tổ chức và hoạt động trong khuôn
khổ Hiến pháp, pháp luật; đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng nhằm thực hiện và
phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong phát triển mọi mặt đời sống kinh
tế, văn hóa, xã hội và chính trị trên địa bàn xã vùng dân tộc thiểu số.
1.2. ĐẶC ĐIỂM VÀ VAI TRÒ CỦA HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CẤP XÃ VÙNG
ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

1.2.1. Đặc điểm của HTCT cấp xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở
nước ta hiện nay
Là một bộ phận của HTCT cấp xã nói chung, do đó, HTCT cấp xã vùng
đồng bào dân tộc thiểu số vừa mang những đặc điểm chung của HTCT cấp
xã, vừa có những đặc điểm riêng, đặc thù của nó. Cụ thể:
Một là, HTCT cấp xã là cấp thấp nhất trong HTCT ở Việt Nam, song lại
là cấp quan trọng, gần và sát dân nhất.
Theo Điều 118, Hiến pháp 1992, HTCT ở nước ta được phân ra 4 cấp:
cấp Trung ương; cấp tỉnh (bao gồm các tỉnh và thành phố trực thuộc Trung
ương); cấp huyện (bao gồm các huyện, quận, thị xã và thành phố thuộc tỉnh);
cấp xã (bao gồm các xã, phường và thị trấn). Như vậy, cấp xã nói chung và
cấp xã vùng đồng bào dân tộc nói riêng là cấp thấp nhất, là cấp cuối cùng gần
và sát dân nhất.


17
Mặc dù các tổ chức đảng, chính quyền và các tổ chức chính trị - xã hội
trong HTCT cấp xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số hiện nay đều mở rộng
chân rết xuống tận buôn, làng, bản, ấp, phum - sóc... thông qua các “cánh tay

nối dài’’ là đội ngũ trưởng thôn bản, song thôn, bản không phải là một cấp
hành chính độc lập; cấp thôn không có ngân sách, con dấu, không có tư cách
pháp nhân. Vì vậy, cấp xã vẫn là cấp cuối cùng trong hệ thống quản lý hành
chính nói riêng và trong HTCT Việt Nam nói chung.
Hai là, HTCT cấp xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số là thiết chế,
phương tiện căn bản nhất để thực hiện dân chủ, nâng cao quyền làm chủ của
nhân dân.
HTCT cấp xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số có mối quan hệ chặt chẽ
với đồng bào các dân tộc, cho nên nó vừa là phương tiện căn bản nhất để
đồng bào thực hiện quyền làm chủ của mình, vừa là yếu tố đóng vai trò quyết
định quá trình thực thi dân chủ. Điều này được quy định bởi:
- Đây là nơi trực tiếp tổ chức và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở. Quy
chế dân chủ ở cơ sở ra đời nhằm phát huy và bảo đảm quyền làm chủ của
nhân dân trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội. Quyền
làm chủ của đồng bào các dân tộc thiểu số trên những lĩnh vực này muốn
được thực hiện trong thực tiễn cuộc sống phải thông qua HTCT tại địa
phương.
- Là hệ thống quyền lực của nhân dân nói chung, của đồng bào các dân
tộc thiểu số ở các xã nói riêng, HTCT cấp xã là tổ chức hạt nhân, là thiết chế
tổ chức và thực hiện các quy định, các nguyên tắc theo mục tiêu dân chủ. Mọi
quy chế, chương trình, kế hoạch và hành động do HTCT cấp xã vùng đồng
bào dân tộc thiểu số xây dựng và thực hiện nên đều nhằm cụ thể hóa mục tiêu
dân chủ; đồng thời tạo nên những điều kiện thuận tiện và phương thức hoạt
động phù hợp để các dân tộc thiểu số thực hiện quyền làm chủ của mình tại
cơ sở.


18
- Đây là nơi trực tiếp giải quyết những vướng mắc của nhân dân các dân tộc,
củng cố niềm tin của đồng bào các dân tộc thiểu số đối với Đảng và Nhà nước.

Qua đó, khơi dậy và phát huy ý thức dân chủ trong đồng bào các dân tộc thiểu số nhân tố quan trọng để góp phần hiện thực hóa nền dân chủ XHCN.
Nhờ có HTCT cấp xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số mà nhân tài, vật
lực ở các địa phương được huy động để phát triển kinh tế, xây dựng kết cấu
hạ tầng, cải thiện đời sống vật chất và văn hóa tinh thần của đồng bào dân tộc
thiểu số, tạo nên những tiền đề cho dân chủ.
Một trong những nguyên nhân quan trọng khiến cho việc thực hiện dân
chủ và Quy chế dân chủ ở cơ sở trong những năm qua chưa đạt được kết quả
như mong muốn là do HTCT cấp cơ sở ở nước ta còn yếu kém, bất cập, đặc
biệt là HTCT cấp xã vùng dân tộc thiểu số. Vì vậy, quá trình thực hiện Quy
chế dân chủ, phát huy quyền làm chủ của nhân dân phải gắn liền với quá trình
đổi mới và nâng cao chất lượng của HTCT cấp cơ sở nói chung và HTCT cấp
xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở nước ta nói riêng.
Ba là, HTCT cấp xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số có bộ máy đơn giản
nhất và có đội ngũ cán bộ biến động nhất hiện nay.
Là cấp cuối cùng trong HTCT nước ta, bộ máy của HTCT cấp xã vùng
đồng bào dân tộc thiểu số đơn giản hơn so với HTCT cấp trên, với biên chế
hưởng lương từ ngân sách ít nhất. Theo khoản 1, điều 9, Luật Bầu cử đại biểu
HĐND năm 2003, HĐND cấp xã tối đa không quá 35 đại biểu và không có
các phòng, ban như HĐND cấp tỉnh, huyện. UBND cấp xã cũng chỉ có từ 3
đến 5 thành viên. Số lượng thành viên Ban Chấp hành của Đảng bộ (hay chi
bộ) và của các tổ chức chính trị - xã hội ở cấp xã cũng ít hơn nhiều so với cấp
tỉnh, huyện. Tổng số cán bộ chuyên trách và công chức trong HTCT cấp xã
theo quy định không quá 25 người/xã 1.

1

Xem: Điều 5 và khoản 3, Điều 122, Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003.


19

Cán bộ chuyên trách ở các xã là những người được bầu cử theo nhiệm kỳ
nên thường xuyên biến động, lại không được ổn định trong suốt nhiệm kỳ do
Đại hội Đảng bộ cấp cơ sở giữa nhiệm kỳ dẫn đến sự thay đổi cán bộ cơ sở
khoảng 30% - 40%, thậm chí có nơi là 50%.
Tính biến động, vị trí công tác, vấn đề đãi ngộ, lợi ích... không ổn định
nên khó khăn cho việc thu hút những người có học vấn cao ở lại hoặc về làm
cán bộ tại các xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Thực tế hiện nay phần lớn
đội ngũ cán bộ vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở nước ta là những người
trưởng thành từ các phong trào địa phương, số còn lại là những người đã trải
qua thời gian quân ngũ trở về địa phương tham gia công tác Đảng, chính
quyền và các tổ chức chính trị - xã hội. Họ không phải là những người được
đào tạo chính quy, chuyên nghiệp để trở thành những người làm công tác
quản lý, tổ chức và lãnh đạo. Đây là lý do giải thích tại sao trong đội ngũ cán
bộ cơ sở, đặc biệt là đội ngũ cán bộ các xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở
nước ta hiện nay vẫn còn cán bộ chưa biết chữ, số cán bộ có trình độ học vấn
tiểu học, trung học cơ sở chiếm tỷ lệ tương đối cao.
Bốn là, đây là nơi chịu sự tác động, ảnh hưởng rất lớn từ các thiết chế xã
hội cổ truyền cũng như phương thức tự quản của cộng đồng dân cư.
Đây là nét đặc thù do đặc điểm dân tộc và truyền thống lịch sử nước ta.
Ở vùng dân tộc thiểu số hiện nay, các thiết chế xã hội cổ truyền vẫn còn có
những ảnh hưởng và tác động rất lớn đến đời sống của cộng đồng dân cư nói
chung, đến tổ chức và hoạt động của HTCT cấp xã nói riêng.
Ở những vùng đồng bào dân tộc thiểu số, các thiết chế xã hội cổ truyền
tồn tại hết sức đa dạng, tùy thuộc vào lịch sử và trình độ phát triển kinh tế - xã
hội ở từng dân tộc khác nhau, đó là bản - mường - chiềng (ở các dân tộc thiểu
số miền núi phía Bắc), buôn - plei - bon (ở các dân tộc thiểu số Trường Sơn Tây Nguyên), phum - sóc (ở dân tộc Khmer Nam Bộ)...


20
Nói đến các thiết chế xã hội cổ truyền là nói đến những cộng đồng có

tính tự quản. Tính tự quản ở đồng bào dân tộc thiểu số được thực hiện thông
qua vai trò của các chủ làng, già làng, trưởng bản và sự tuân thủ một cách tự
giác của các thành viên trong buôn, làng, bản theo hệ thống luật tục, quy ước,
phong tục tập quán.
Vấn đề đặt ra là, làm thế nào để phát huy được những giá trị tích cực của
các thiết chế này trong quá trình xây dựng đời sống mới ở cộng đồng, trong
việc đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của HTCT cấp xã; đồng thời,
ngăn chặn, hạn chế được những mặt tiêu cực của nó. Các thiết chế này với
phương thức tự quản và hoạt động mang tính dân chủ thuần phác, nếu được
phát huy sẽ là những công cụ bổ trợ hữu ích cho các thiết chế quản lý chính
thống của Nhà nước. Xác lập vị trí, vai trò của các thiết chế quản lý chính
thống của Nhà nước trong đời sống cộng đồng là điều cần thiết. Nhưng bất cứ
một sự cưỡng, áp đặt nào cũng sẽ dẫn đến những đứt gẫy về văn hóa và sự
phản tác dụng mà lịch sử đã minh chứng. Ở trình độ dân trí hiện nay ở vùng
đồng bào dân tộc thiểu số thì sự kết hợp hài hòa giữa các thiết chế quản lý
chính thống với các thiết chế quản lý phi chính thống tích cực là một giải
pháp hữu hiệu nhất. Đó là sự kết hợp giữa truyền thống và hiện đại.
Năm là, hoạt động của HTCT cấp xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở
nước ta hiện nay hầu hết đều trong những điều kiện đặc thù cả về địa lý, dân
cư và văn hóa, xã hội.
Đồng bào các dân tộc thiểu số ở nước ta hiện nay phần lớn cư trú ở vùng
sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo trong các làng, bản, phum - sóc với những sắc
thái văn hóa đa dạng, đời sống người dân và cán bộ còn nhiều khó khăn, trình
độ dân trí thấp, nhiều xã xếp vào diện “đặc biệt khó khăn”. Tỷ lệ hộ đói nghèo
cao, điều kiện sản xuất không thuận lợi, tình trạng di cư tự do vẫn xảy ra v.v.
Những khó khăn trên đã hạn chế hiệu quả của công tác tuyên truyền các chỉ
thị, nghị quyết của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước đến với đồng


21

bào các dân tộc, đồng thời nó cũng là nhân tố quan trọng chi phối hoạt động
của HTCT các xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Mặt khác, do địa bàn rộng, cư dân ở phân tán, nên các tổ chức đoàn thể
chính trị - xã hội hoạt động hết sức khó khăn; phải tốn nhiều thời gian và công
sức hơn so với các xã vùng đồng bằng, vùng tộc người kinh, nếu xét cùng tiến
hành một công việc cụ thể.
1.2.2. Vai trò của HTCT cấp xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở
nước ta hiện nay
Trải qua gần 25 năm đổi mới đất nước, Đảng và nhân dân ta đã đạt được
những thành tựu có ý nghĩa lịch sử trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Tuy
nhiên, những kết quả đó không giống nhau giữa các vùng, tỉnh, giữa các dân
tộc. Đến nay, vùng đồng bào dân tộc thiểu số vẫn được coi là vùng chậm phát
triển nhất so với sự phát triển chung của cả nước. Tình trạng trên do nhiều
nguyên nhân khách quan và chủ quan, trong đó có một phần không nhỏ xuất
phát từ sự yếu kém của HTCT nơi đây. Điều này cho thấy, một mặt, Đảng và
Nhà nước cần tiếp tục quan tâm hơn nữa đến công tác củng cố, kiện toàn
HTCT cấp xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số; mặt khác, cũng cho thấy vai
trò đặc biệt quan trọng của HTCT cấp xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số hiện
nay. Đó là:
Thứ nhất: Đây là cấp trực tiếp đưa đường lối, chủ trương và chính sách
của Đảng, pháp luật của Nhà nước đến với đồng bào các dân tộc trong vùng.
HTCT cấp xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số có chức năng, nhiệm vụ
thông tin, tuyên truyền, giải thích đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật
của Nhà nước đến đồng bào các dân tộc trên địa bàn; làm cho người dân hiểu
rõ chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà
nước và từ đó có ý thức tự giác thực hiện.
Ngoài ra, HTCT cấp xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn là nơi cụ thể
hóa các Nghị quyết của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước thành các



22
chương trình, đề án phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội ở địa phương, đồng thời
tổ chức thực hiện thực tế, tạo những chuyển biến căn bản trong vùng đồng
bào dân tộc thiểu số về mọi mặt, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn đổi mới và
xây dựng đất nước. Mọi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp
luật của Nhà nước có trở thành hiện thực hay không đều tùy thuộc vào năng
lực tổ chức và thực hiện của HTCT cấp xã nói chung, vào hệ thống này nói
riêng ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Thứ hai: Là cấp trực tiếp lãnh chỉ đạo, tổ chức thực hiện việc phát triển
kinh tế - xã hội, phát huy mọi nguồn lực, giải quyết công ăn việc làm, nâng
cao đời sống của đồng bào các dân tộc.
HTCT cấp xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số chỉ chứng tỏ được tác dụng
và hiệu quả của mình nếu tập hợp được sức dân trong cộng đồng để phát triển
sản xuất, giúp dân làm kinh tế, mau chóng xóa đói, giảm nghèo, đem lại lợi
ích thiết thực cho nhân dân các dân tộc, để cộng đồng được ổn định, ai cũng
có cuộc sống ấm no, gìn giữ trật tự trị an và sự bình yên trên địa bàn. Đó
chính là an sinh và an ninh cho dân chúng. Được như vậy, nhân dân sẽ củng
cố lòng tin vào Đảng, vào chế độ và sẽ đem hết nhiệt tình, khả năng sáng tạo,
sáng kiến của mình vào thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hóa, xã
hội, ích nước lợi nhà.
Do đó, HTCT cấp xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số nếu biết dựa vào
dân, biết đem tài dân, sức dân để làm lợi cho dân, để mưu cầu hành phúc cho
dân, thì đó sẽ là HTCT thực sự của dân, làm đúng sự ủy quyền của dân, nhờ
đó thực hiện được dân chủ, tránh được quan liêu, tham nhũng. Đó là gốc rễ
bền chặt của sự ổn định và phát triển.
Thứ ba: Là nơi trực tiếp giải quyết các mối quan hệ trong nội bộ nhân
dân, phát huy truyền thống trong xây dựng tình đoàn kết, bình đẳng, tương trợ
giúp đỡ lẫn nhau giữa các dân tộc; tạo khí thế thi đua trong phát triển sản
xuất, xây dựng thôn bản và gia đình văn hóa, bài trừ hủ tục lạc hậu, đấu tranh
chống âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch.



23
Ở các xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số thường có ít nhất từ hai dân tộc
trở lên cùng chung sống. Sự cư trú đan xen giữa các dân tộc có thể dẫn đến
hai khuynh hướng đối lập nhau.
Một là, đoàn kết, đùm bọc, che chở lẫn nhau được hình thành do phải
chung sức chống chọi thiên tai, phát triển sản xuất, chống giặc ngoại xâm, bảo
vệ quê hương, làng bản. Vì vậy, đoàn kết là ý thức thường trực và là khuynh
hướng chủ đạo, mang tính phổ biến, xuyên suốt trong quan hệ giữa các dân
tộc ở nước ta.
Hai là, do các dân tộc sống đan xen nhau, có nhiều điểm khác nhau về
văn hóa, ngôn ngữ, phong tục, tập quán, tâm lý tộc người, về lợi ích cụ thể
nên xét ở khả năng nào đó, lại dễ đưa đến việc mất đoàn kết dân tộc. Đặc biệt,
trước sức ép về dân số ngày một tăng, đất canh tác giảm dần, những nguồn lợi
thu được từ tự nhiên bị thu hẹp và ngày càng cạn kiệt, thì mầm mống xung
đột dân tộc vẫn là yếu tố tiềm ẩn. Trong điều kiện nêu trên, nếu HTCT cấp xã
vùng đồng bào dân tộc thiểu số không vững mạnh, không kịp thời giải quyết
dứt điểm các vướng mắc trong nội bộ nhân dân thì tình trạng mâu thuẫn dân
tộc dễ nảy sinh, nhất là khi các thế lực thù địch trong và ngoài nước luôn lợi
dụng điều này nhằm kích động gây chia rẽ dân tộc. Đây là vấn đề đã từng xảy
ra ở một số xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số nước ta.
Do vậy, nếu HTCT cấp xã vùng đồng bào các dân tộc giải quyết tốt
những vấn đề trên ngay từ địa bàn của mình, sẽ góp phần củng cố mối quan
hệ vững chắc giữa quần chúng nhân dân với Đảng và chính quyền, tăng
cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tạo lập sự ổn định tích cực, vững chắc
để thúc đẩy sự nghiệp đổi mới và phát triển ở địa phương.
Thứ tư: Đây là cấp trực tiếp tuyên truyền, phổ biến và thực hiện Quy chế
dân chủ ở cơ sở, tạo điều kiện để đồng bào các dân tộc tham gia quản lý nhà
nước và xã hội.



24
Dưới sự lãnh đạo của HTCT cấp xã, việc thực hiện quy chế dân chủ ở
vùng đồng bào dân tộc thiểu số là điều kiện quan trọng nhất để mỗi thành
viên của cộng đồng phát huy được tính tích cực xã hội, thực hiện nghĩa vụ của
người công dân trực tiếp và rộng rãi nhất nhằm phát triển kinh tế, văn hóa, xã
hội, xây dựng cuộc sống văn minh, phát huy thuần phong mỹ tục của cộng
đồng, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Do đó, việc thực hiện quy chế dân chủ ở
xã được xem là khâu quan trọng nhất trong điều kiện hiện nay, nhằm phát huy
quyền làm chủ của nhân dân, gắn liền với xây dựng, kiện toàn HTCT cấp xã
trên phạm vi cả nước nói chung, vùng đồng bào dân tộc thiểu số nói riêng.
Thứ năm: Cung cấp những kinh nghiệm thực tiễn, phát hiện, kiến nghị
với Đảng và Nhà nước những điều bất hợp lý trong đường lối, cơ chế, chính
sách, pháp luật để kịp thời có những điều chỉnh, bổ sung, mang lại hiệu quả
cao hơn.
Hiện thực đời sống ở các xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số sẽ là thước
đo để đánh giá tính đúng đắn, mức độ phù hợp của những đường lối, chính
sách và pháp luật. Các tiêu chí cụ thể để đánh giá đó là: hiệu quả phát triển
kinh tế - xã hội; mức độ cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào
các dân tộc; sự ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội; niềm tin của đồng
bào đối với Đảng và chính quyền. Cũng chính từ đây, những gì chưa hợp lý,
những điều bất cập sẽ bộc lộ và nhiệm vụ của HTCT ở đây là phát hiện và
kiến nghị với cấp trên để kịp thời điều chỉnh, bổ sung làm cho đường lối, cơ
chế, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước ta ngày càng hoàn thiện
hơn.
Thứ sáu: Đây là môi trường rèn luyện cán bộ, làm cho cán bộ trưởng
thành, phát huy được phẩm chất và năng lực trong công tác thực tế, nhờ đó
làm tăng uy tín, ảnh hưởng của Đảng, Nhà nước trong quần chúng nhân dân.
Đồng thời cung cấp nguồn cán bộ đã được trải nghiệm qua thực tiễn cho

HTCT cấp trên.


25
HTCT cấp xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số là cấp tổ chức và quản lý
trên địa bàn có đa số đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống, mang tính đặc thù
cao. Thông qua công tác tổ chức thực tiễn, năng lực của cán bộ sẽ được lượng
hóa một cách cụ thể qua hiệu quả phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
Mặc dù công tác tại đây đội ngũ cán bộ sẽ gặp nhiều khó khăn, thử thách hơn
các vùng khác, song cũng chính nơi đây lại giúp cho cán bộ có thêm nhiều
kinh nghiệm thực tiễn, dần hoàn thiện năng lực và kỹ năng lãnh đạo, quản lý,
điều hành. Những kinh nghiệm từ thực tiễn hoạt động, từ sự góp ý, phản biện
của nhân dân sẽ giúp cho đội ngũ cán bộ ngày càng trưởng thành nhanh chóng
về mọi mặt.
Thứ bảy, HTCT cấp xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số có vai trò quan
trọng trong việc xây dựng nông thôn mới.
Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010
- 2020 là chương trình lớn và toàn diện lần đầu tiên được thực hiện tại nước ta
trên quy mô cả nước. Đây là bước cụ thể hóa Nghị quyết “tam nông” (Nông
nghiệp, nông dân, nông thôn) của Đảng trong tổng thể phát triển kinh tế - xã
hội, chính trị và quốc phòng - an ninh thông qua các chỉ tiêu phát triển cụ thể
cho từng lĩnh vực.
Theo tinh thần Nghị quyết 26-NQ/TW của Trung ương, phải xây dựng
nông thôn mới có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội từng bước hiện đại; cơ cấu
kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn nông nghiệp với phát
triển nhanh công nghiệp, dịch vụ; gắn phát triển nông thôn với đô thị theo quy
hoạch; xã hội nông thôn dân chủ, ổn định, giàu bản sắc văn hóa dân tộc; môi
trường sinh thái được bảo vệ; an ninh trật tự được giữ vững; đời sống vật chất
và tinh thần của người dân ngày càng được nâng cao; theo định hướng xã hội
chủ nghĩa.

Để thực hiện mục tiêu trên, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số
491/QĐ-TTg ngày 16/4/2009 ban hành Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới


×