Tải bản đầy đủ (.pdf) (273 trang)

Nghiên cứu chính sách và giải pháp đảm bảo công bằng xã hội trong phân phối tiền lương và thu nhập trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường và hội nhập đối với các loại hình doanh nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.06 MB, 273 trang )


1

BỘ LAO ĐỘNG – THƯƠNG BINH VÀ XÃ HỘI





BÁO CÁO TỔNG HỢP
ĐỀ TÀI KHOA HỌC ĐỘC LẬP CẤP NHÀ NƯỚC:

“NGHIÊNCỨUCHÍNHSÁCHVÀGIẢIPHÁP ĐẢMBẢOCÔNG
BẰNGXÃHỘITRONGPHÂNPHỐITIỀNLƯƠNGVÀTHU
NHẬPTRONGCÁCLOẠIHÌNHDOANHNGHIỆP”

Mã số: ĐTĐL2007.G/50



Chủ nhiệm: Huỳnh Thị Nhân

7914

Hà Nội, 2009

2
MỤC LỤC
CHƯƠNG I. CƠ SỞ LÝ LUẬN, PHƯƠNG PHÁP LUẬN HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH
VÀ GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO CÔNG BẰNG XÃ HỘI TRONG PHÂN PHỐI TIỀN LƯƠNG
VÀ THU NHẬP TRONG CÁC LOẠI HÌNH DOANH NGHIỆP 4



I. PHÂN PHỐI TIỀN LƯƠNG VÀ THU NHẬP TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG 4
1. Quan hệ phân phối tiền lương và thu nhập trong kinh tế thị trường 4
2. Công bằng xã hội trong phân phối tiền lương và thu nhập trong kinh tế thị trường 8
II. QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ CÁC CHÍNH SÁCH VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM CÔNG BẰNG
XÃ HỘI TRONG PHÂN PHỐI TIỀN LƯƠNG VÀ THU NHẬP TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI 34
1. Quan niệm về công bằng xã hội trong kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta 34
2. Quá trình đổi mới tư duy, hình thành quan điểm của Đảng về chính sách và giải pháp bảo đảm công
bằng xã hội trong phân phối tiền lương và thu nhập từ khi đổi mới đến nay 39
III. VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC VỀ ĐẢM BẢO CÔNG BẰNG XÃ HỘI TRONG PHÂN PHỐI
TIỀN LƯƠNG VÀ THU NHẬP 42
1. Bản chất vai trò của Nhà nước và mối quan hệ của nó với thị trường 42
2. Vai trò cụ thể của Nhà nước trong quan hệ phân phối tiền lương và thu nhập trong các loại hình doanh
nghiệp 47
IV. HỆ THỐNG CHỈ TIÊU ĐÁNH GIÁ CÔNG BẰNG XÃ HỘI TRONG PHÂN PHỐI TIỀN
LƯƠNG VÀ THU NHẬP TRONG CÁC LOẠI HÌNH DOANH NGHIỆP 52

1. Xác định hệ thống chỉ tiêu đánh giá 52
2. Phương pháp đánh giá 63
IV. KINH NGHIỆM NƯỚC NGOÀI VÀ NHỮNG BÀI HỌC RÚT RA CHO VIỆT NAM ĐỂ BẢO
ĐẢM CÔNG BẰNG XÃ HỘI TRONG PHÂN PHỐI TIỀN LƯƠNG VÀ THU NHẬP TRONG CÁC
LOẠI HÌNH DOANH NGHIỆP 73

1. Kinh nghiệm của các nước phát triển 73
2. Kinh nghiệm của các nước đang phát triển và có nền kinh tế chuyển đổi 81
3. Các bài học rút ra cho Việt Nam 94
CHƯƠNG II. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG VỀ CHÍNH SÁCH VÀ GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO
CÔNG BẰNG XÃ HỘI TRONG PHÂN PHỐI TIỀN LƯƠNG VÀ THU NHẬP TRONG
CÁC LOẠI HÌNH DOANH NGHIỆP 100


I. ĐÁNH GIÁ KHÁI QUÁT CÁC CHÍNH SÁCH TIỀN LƯƠNG VÀ THU NHẬP CỦA NHÀ NƯỚC
THỜI GIAN QUA 100

1. Trong cải cách chính sách tiền lương năm 1993 101
2. Trong cải cách chính sách tiền lương năm 2003 104
II. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH TIỀN LƯƠNG VÀ THU NHẬP TRONG CÁC
LOẠI HÌNH DOANH NGHIỆP 108
1. Thực trạng thực hiện chính sách tiền lương và thu nhập theo ngành trong các loại hình doanh nghiệp
114

2. Thực trạng thực hiện chính sách tiền lương và thu nhập theo vùng trong các loại hình doanh nghiệp
132

III. THỰC TRẠNG CÔNG BẰNG XÃ HỘI TRONG PHÂN PHỐI TIỀN LƯƠNG VÀ THU NHẬP
TRONG CÁC LOẠI HÌNH DOANH NGHIỆP 144

1. Công bằng về tiền lương tối thiểu 145
2. Công bằng trong quan hệ tiền lương và thu nhập 153

3
3. Công bằng xã hội trong phân phối tiền lương và thu nhập xét từ góc độ năng suất lao động 162

4. Hệ số GINI về tiền lương trong các loại hình doanh nghiệp 176
III. NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CẦN GIẢI QUYẾT 180
1.Về quan hệ phân phối tiền lương và thu nhập trong các loại hình doanh nghiệp 180
2.Về công bằng xã hội trong phân phối tiền lương và thu nhập trong các loại hình doanh nghiệp (chính
sách và tổ chức thực hiện) 181

CHƯƠNG III. MỤC TIÊU, QUAN ĐIỂM, CHÍNH SÁCH VÀ CÁC GIẢI PHÁP TIẾP TỤC
ĐẢM BẢO CÔNG BẰNG XÃ HỘI TRONG PHÂN PHỐI TIỀN LƯƠMG VÀ THU NHẬP

TRONG CÁC LOẠI HÌNH DOANH NGHIỆP 183

I. DỰ BÁO XU HƯỚNG TÁC ĐỘNG CỦA CÁC YẾU TỐ ĐẾN CÔNG BẰNG XÃ HỘI TRONG
PHÂN PHỐI TIỀN LƯƠNG VÀ THU NHẬP TRONG CÁC LOẠI HÌNH DOANH NGHIỆP 183
1. Xu hướng phát triển doanh nghiệp, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tác động của nó đến thực hiện công
bằng xã hội trong phân phối tiền lương và thu nhập trong các loại hình doanh nghiệp 183

2. Xu hướng thay đổi thể chế, khung pháp lý và tác động của nó đến thực hiện công bằng xã hội trong
phân phối tiền lương và thu nhập trong các loại hình doanh nghiệp 190
3. Xu hướng tăng trưởng kinh tế và tác động của nó đến thực hiện công bằng xã hội trong phân phối tiền
lương và thu nhập trong các loại hình doanh nghiệp 197
II. KHUYẾN NGHỊ MỤC TIÊU, QUAN ĐIỂM, NGUYÊN TẮC, CHÍNH SÁCH BẢO ĐẢM CÔNG
BẰNG XÃ HỘI TRONG PHÂN PHỐI TIỀN LƯƠNG VÀ THU NHẬP TRONG CÁC LOẠI HÌNH
DOANH NGHIỆP 205

1. Hệ thống quan điểm 205
2. Nguyên tắc 208
3. Mục tiêu 209
4. Chính sách 210
III. KHUYẾN NGHỊ CÁC GIẢI PHÁP 230
1. Tiếp tục hoàn thiện thể chế phân phối tiền lương và thu nhập đảm bảo công bằng trong các loại hình
doanh nghiệp 230

2. Xác định lộ trình thống nhất tiền lương tối thiểu và cơ chế tiền lương trong các loại hình doanh nghiệp
236
3. Hoàn thiện cơ chế thỏa thuận về tiền lương trong doanh nghiệp 240
4. Thực hiện chính sách điều tiết thu nhập 246
5. Các giải pháp về chính sách an sinh xã hội 249
6. Tổ chức các hoạt động cung cấp dịch vụ công 253
7. Tăng cường thanh tra, kiểm tra, giám sát về phân phối tiền lương và thu nhập trong doanh nghiệp.254

KẾT LUẬN 255
TÀI LIỆU THAM KHẢO 259









4
CHƯƠNG I. CƠ SỞ LÝ LUẬN, PHƯƠNG PHÁP LUẬN HOÀN
THIỆN CHÍNH SÁCH VÀ GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO CÔNG BẰNG
XÃ HỘI TRONG PHÂN PHỐI TIỀN LƯƠNG VÀ THU NHẬP
TRONG CÁC LOẠI HÌNH DOANH NGHIỆP
I. PHÂN PHỐI TIỀN LƯƠNG VÀ THU NHẬP TRONG KINH TẾ THỊ
TRƯỜNG
1. Quan hệ phân phối tiền lương và thu nhập trong kinh tế thị trường
1.1. Bản chất quan hệ phân phối trong nền kinh tế thị trường
Trong kinh tế hàng hóa, mà đỉnh cao là kinh tế thị trường, sản xuất - phân
phối - trao đổi - tiêu dùng là những bộ phận cấu thành không thể tách rời của quá
trình tái sản xuất xã hội. Trong đó, sản xuất là điểm xu
ất phát, tiêu dùng là điểm
cuối cùng, phân phối và trao đổi là khâu trung gian. Giữa chúng có mối quan hệ,
tác động qua lại với nhau, nhưng sản xuất bao giờ cũng là gốc, là khâu quyết định.
Phân phối bao gồm phân phối các yếu tố sản xuất (các yếu tố đầu vào) và
phân phối kết quả của sản xuất (các kết quả đầu ra). Với quan niệm này, phân phối
có nội hàm rất rộng. Xét về mặt giá trị, các y
ếu tố đầu vào hình thành chi phí sản

xuất, trong đó có chi phí lao động (bao gồm chi phí tiền lương, tiền công và các
chi phí khác). Còn kết quả đầu ra thể hiện ở doanh thu, bao gồm cả tiền lương, tiền
công và thu nhập của người lao động. Trong quan hệ phân phối, với tư cách là
phân phối các yếu tố sản xuất thì tự bản thân nó đã thuộc về sản xuất để đảm bảo
cho quá trình sản xuất diễn ra bình th
ường. Còn phân phối, với tư cách là phân
phối kết quả của sản xuất (kết quả đầu ra), chính là sự phân chia kết quả đó theo
một tỷ lệ cho các chủ thể kinh tế tham gia đóng góp vào hình thành kết quả đó.
Phân phối trong kinh tế thị trường ở phạm vi quốc gia dựa trên cơ sở phân
chia hợp lý tổng sản phẩm quốc dân (GNP). Tuy nhiên, theo kinh tế học thị
trường, để ph
ản ánh đúng thực chất của quan hệ phân phối gắn với kết quả và hiệu
quả thực sự của sản xuất của một quốc gia, phân phối phải dựa trên cơ sở giá trị
tăng thêm (hay giá trị gia tăng) của quốc gia. Đó chính là tổng sản phẩm trong
nước (GDP) của quốc gia đó.
Vấn đề đặt ra ở đây là để có nguồn lực phân phố
i được nhiều hơn phải ưu

5
tiên cho tăng trưởng nhằm tăng quy mô GDP (làm cho cái bánh to ra) và phân
phối một cách công bằng cho các chủ thể đóng góp vào GDP theo một quan hệ tỷ
lệ hợp lý, hài hoà lợi ích giữa các bên (Nhà nước, người sở hữu vốn, người sở hữu
sức lao động…).
GDP được tạo ra dùng để phân phối cho những chủ thể đóng góp vào việc
tạo ra nó dưới dạng tiền công lao động, lãi tiền vay, thuế và các khoản phải đóng
góp, cổ tức, lợi nhuận giữ lại cho đơn vị kinh tế và khấu hao tài sản cố định. Như
vậy, quan hệ phân phối vĩ mô ở đây chủ yếu là quan hệ phân phối giữa các chủ
thể:
- Nhà nước: Trên cơ sở thu thuế và các khoản đóng góp khác hình thành
ngân sách Nhà nước dùng để chi tiêu công, bao gồm chi tiêu cho bộ máy quản lý

Nhà nước, đầu tư phát triển (phần từ ngân sách Nhà nước), chi cho chính sách xã
hội, an sinh xã h
ội, phúc lợi xã hội…
- Chủ sở hữu vốn: Được phân phối theo vốn (trả lãi tiền vay, cổ tức, lợi
nhuận giữ lại cho doanh nghiệp, khấu hao tài sản cố định…).
- Lao động: Được phân phối theo sự đóng góp của lao động (tiền lương, tiền
công và thu nhập…).
1.2. Quan hệ phân phối tiền lương và thu nhập trong doanh nghiệp
Khi bàn đến tiền lương, tiền công trong kinh tế thị
trường các nhà kinh tế
và quản lý thường đặt trọng tâm vào quan hệ phân phối trong khu vực sản xuất
kinh doanh, tức là quan hệ phân phối trong các loại hình doanh nghiệp.
Trong kinh tế thị trường, mục tiêu số một của doanh nghiệp là lợi nhuận.
Tuy nhiên, muốn có lợi nhuận, doanh nghiệp phải kết hợp tối ưu các yếu tố vốn,
lao động và thị trường Người chủ sử dụng lao động có vốn, ngườ
i lao động có
sức lao động. Quan hệ phân phối trong các doanh nghiệp (phân phối lần đầu) chủ
yếu là quan hệ giữa phân phối theo vốn và theo lao động. Tuy nhiên, quan hệ phân
phối này lại phụ thuộc vào kết quả cuối cùng của sản xuất kinh doanh. Đây là bài
toán rất phức tạp đặt ra trong thực tiễn, vì nó liên quan đến lợi ích giữa các bên
(các chủ thể) trong sản xuất kinh doanh (chủ sử dụng lao động và người lao động)
và v
ới Nhà nước. Trong quan hệ phân phối này, việc trả lương đúng đắn sẽ tạo
động lực to lớn thúc đẩy tăng năng suất lao động, tạo ra nhiều giá trị mới, nâng

6
cao hiệu quả sản xuất kinh doanh và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Trong
doanh nghiệp, tuy tiền lương là giá cả sức lao động, là yếu tố đầu vào của sản
xuất, tham gia vào hình thành chi phí sản xuất và được phân phối theo kết quả đầu
ra, nhưng việc xác định tiền lương trả cho người lao động lại được dựa trên cơ sở

thỏa thuận giữa các bên trong quan hệ lao động và không được phép trả th
ấp hơn
mức tiền lương tối thiểu do Nhà nước quy định. Khi nhấn mạnh tiền lương phụ
thuộc vào kết quả đầu ra của sản xuất kinh doanh là nói đến quan hệ phân phối
chung trong doanh nghiệp, nhưng việc trả lương cho cá nhân người lao động lại
phải căn cứ vào năng suất lao động cá nhân của từng người.
Tiền lương trong doanh nghiệp như là một bộ phận c
ấu thành của chi phí
sản xuất, do đó giữa chúng có mối quan hệ hữu cơ với nhau (V/(C+V)). Trong mối
quan hệ này chi phí tiền lương phải rất tiết kiệm, tức là chi phí tiền lương trên một
đơn vị sản phẩm (unit labour cost-ULC) phải càng nhỏ. Có như vậy mới đảm bảo
chi phí trong giá thành sản phẩm ngày càng giảm để cùng với nâng cao năng suất
lao động và chất lượng sản phẩm, khả năng cạ
nh tranh của sản phẩm mới được
nâng cao. Tuy nhiên, chi phí tiền lương trong doanh nghiệp lại là một bộ phận
quan trọng của chi phí lao động nói chung nên phải được tính đúng, tính đủ. Đó là
chi phí mà doanh nghiệp phải trả cho việc thuê mướn, sử dụng lao động, bao gồm:
tiền lương, BHXH và các khoản đóng góp khác, chi phí tuyển dụng, đào tạo, các
chi phí khác cho lao động,
Tiền lương trong chi phí sản xuất là một yếu tố quan trọng để nâng cao hi
ệu
quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Còn phân phối tiền lương lại phụ
thuộc vào hiệu quả sản xuất kinh doanh cuối cùng của doanh nghiệp. Trong mối
quan hệ này tiền lương được so với giá trị mới sáng tạo ra của doanh nghiệp (V/(V
+ m)). Tương quan chi phí tiền lương/giá trị gia tăng là tương quan rất quan trọng
trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nói chung, trong phân phối
tiền lương nói riêng, để
đảm bảo trả lương đúng đắn.
Tiền lương trong doanh nghiệp thuộc quan hệ lao động giữa một bên là
người sử dụng lao động và một bên là người lao động. Tiền lương phải trả đúng

giá trị lao động trên cơ sở tính đúng, tính đủ chi phí lao động; phụ thuộc vào quan
hệ cung - cầu lao động và được xác định thông qua cơ chế đối thoại, thương
lượng, thỏa thu
ận giữa các bên trong quan hệ lao động. Xét về mặt này, tiền

7
lương thuộc phạm trù phân phối.
Ở đây, người lao động đóng góp sức lao động của mình vào quá trình tạo ra
giá trị hàng hóa và dịch vụ thì được nhận một phần dưới hình thức tiền lương, tiền
công và thu nhập. Cơ cấu thu nhập ở đây chủ yếu là tiền lương, tiền công, cộng
với các khoản phụ cấp và tiền thưởng (chưa tính BHXH và các phúc lợi xã hội
thông qua tái phân phối). Từ
đó, yêu cầu thực tiễn của phân phối tiền lương ở
doanh nghiệp trong kinh tế thị trường là:
Thứ nhất, tiền lương, tiền công trả cho người lao động phải đảm bảo đủ
sống. Tức là đảm bảo tái sản xuất sức lao động của bản thân người lao động và gia
đình. Với yêu cầu này, vấn đề quan trọng nhất là, mặc dù tiền lương phụ thuộ
c vào
kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, song doanh nghiệp phải đảm bảo
trả lương cho người lao động đủ sống, tức là mức thấp nhất không được trả thấp
hơn mức lương tối thiểu đủ sống do Nhà nước quy định. Để thực hiện yêu cầu này,
Nhà nước khi công bố tiền lương tối thiểu phải xem xét đến nhu cầu mức sống tối
thiểu của người lao động phù hợp với trình độ phát triển của nền kinh tế để quy
định mức lương tối thiểu đủ sống làm căn cứ cho việc thỏa thuận, thương lượng
giữa các bên trong doanh nghiệp về tiền lương.
Thứ hai, phải đảm bảo nguyên tắc công bằng trong phân phối tiền lương và
thu nhập trong doanh nghiệp. Tiền lương và thu nhập của người lao độ
ng phụ
thuộc vào mức độ đóng góp của lao động và kết quả đầu ra của sản xuất kinh
doanh. Song phải coi lao động là yếu tố quyết định của sản xuất kinh doanh, và do

đó phân phối tiền lương, tiền công cho người lao động được coi là công bằng khi
nó được trả tương xứng với sự đóng góp của lao động, tức là trả đúng giá trị của
lao động. Theo yêu cầu này, phải xóa b
ỏ phân phối bình quân, cào bằng.
Thứ ba, phân phối tiền lương và thu nhập trong doanh nghiệp phải đảm
bảo mối quan hệ hài hòa lợi ích giữa Nhà nước, người sử dụng lao động và người
lao động, giữa ngắn hạn (trước mắt) và dài hạn (lâu dài). Theo yêu cầu này phải
đặt lợi ích Nhà nước lên trên, doanh nghiệp phải có nghĩa vụ đóng góp cho Nhà
nước (chủ yếu thông qua thuế), đồng thời cũng phải chú ý đến m
ục tiêu phát triển
lâu dài của doanh nghiệp. Người lao động được trả lương, trả công thỏa đáng,
song cũng phải trong tổng thể phát triển của doanh nghiệp và nhiều khi người lao
động cũng phải chia sẻ với doanh nghiệp để ưu tiên cho mục tiêu đầu tư phát triển

8
để có việc làm ổn định và thu nhập cao trong tương lai. Đây thực chất là mối quan
hệ giữa tiền lương(V) và giá trị thặng dư( m ) trong phân phối lần đầu giá trị gia
tăng. Tức là mối quan hệ giữa tiêu dùng và tích lũy của doanh nghiệp.
Thứ tư, phân phối tiền lương liên quan đến quyền và lợi ích của các bên
trong quan hệ lao động, do đó yêu cầu phải xây dựng quan hệ lao động hài hòa và
đồng thuận v
ề tiền lương và thu nhập, giảm thiểu tranh chấp và đình công trên cơ
sở hình thành cơ chế đối thoại, thương lượng, thỏa thuận và tự định đoạt về tiền
lương, nhất là tiền lương tối thiểu ở doanh nghiệp và ngành.
Thứ năm, phải đảm bảo tăng cường quản lý Nhà nước về tiền lương đối với
doanh nghiệp trong kinh tế thị
trường. Trong đó phải làm rõ vai trò của Nhà nước
và vai trò của thị trường; Nhà nước quản lý tiền lương bằng pháp luật, hướng dẫn
tiêu chuẩn lao động, kiểm tra, thanh tra và xử lý những khiếm khuyết của thị
trường, không can thiệp trực tiếp và quá sâu vào sản xuất kinh doanh, vào tổ chức

trả lương của doanh nghiệp. Doanh nghiệp có quyền tự chủ đầy đủ trong việc tổ
chức trả l
ương gắn với năng suất và hiệu quả sản xuất kinh doanh, thông qua cơ
chế thương lượng, thỏa thuận giữa các bên trong quan hệ lao động (đại diện người
lao động, người sử dụng lao động).
2. Công bằng xã hội trong phân phối tiền lương và thu nhập trong kinh tế thị
trường
2.1 Khái niệm về công bằng xã hội trong phân phối tiền lương và thu nhập
trong kinh tế thị trường
Để hiể
u bản chất công bằng xã hội trong phân phối tiền lương và thu nhập
trong kinh tế thị trường, trước hết phải bắt đầu từ khái niệm bình đẳng xã hội và
công bằng xã hội.
Bình đẳng xã hội, với quan niệm chung nhất, là sự ngang bằng nhau giữa
người và người về một hoặc một vài phương diện nào đó hoặc về mọi phương diện
xã hội.
Giữa công bằng xã h
ội và bình đẳng xã hội có những điểm thống nhất,
nhưng cũng có những khác biệt. Công bằng xã hội không đồng nhất với bình đẳng
xã hội ở chỗ, công bằng xã hội là sự ngang nhau giữa người với người không phải
về một phương diện bất kỳ, mà chỉ về một phương diện hoàn toàn xác định là:

9
quan hệ giữa nghĩa vụ và quyền lợi, giữa cống hiến và hưởng thụ theo nguyên tắc
thực hiện nghĩa vụ (cống hiến) ngang nhau thì có quyền lợi (được hưởng thụ)
ngang nhau. Như vậy, công bằng xã hội liên quan đến mối quan hệ ứng xử giữa
“nghĩa vụ” và “quyền lợi”, giữa “cống hiến” và “hưởng thụ”. Công bằng xã hội là
một dạng, một bi
ểu hiện cụ thể của bình đẳng xã hội và thực hiện công bằng xã
hội chính là thực hiện một phần của bình đẳng xã hội, là một bước tiến trên con

đường lâu dài nhằm đạt tới bình đẳng xã hội hoàn toàn chứ chưa phải là đã đạt tới
bình đẳng xã hội hoàn toàn. Và do đó, ngày nay trong một xã hội phát triển, chưa
thể đạt được bình đẳng xã hội hoàn toàn, hơn thế nữa, sự t
ồn tại bất bình đẳng ở
một vài phương diện nào đó, trong một số lĩnh vực nào đó, vẫn là một tất yếu,
không tránh khỏi. Theo các nhà xã hội học, công bằng xã hội còn liên quan đến
cấu trúc xã hội và phân tầng xã hội. Trong xã hội luôn có cấu trúc bất bình đẳng và
phân tầng xã hội là một cấu trúc bất bình đẳng xã hội. Mỗi người ở các tầng xã hội
khác nhau có cơ hội khác nhau. Có hai loại phân tầng xã h
ội: Loại phân tầng xã
hội hợp thức (chính đáng) và loại bất hợp thức (không chính đáng). Nguyên nhân
có sự phân tầng xã hội khác nhau là do khác nhau về năng lực (trí tuệ, thể chất),
điều kiện không chia đều cho mọi người và do sự phân công lao động xã hội. Thúc
đẩy sự phân tầng xã hội hợp thức chính là sự công bằng xã hội. Cái mà xã hội đạt
được mới chỉ là công bằng xã hội – một phần của bình đẳ
ng xã hội được thực hiện
những bình đẳng xã hội vẫn tồn tại như một tất yếu không thể tránh khỏi.
Theo Friedrum Quaas, một học giả theo chủ thuyết kinh tế thị trường xã
hội, cho rằng công bằng xã hội là một trong những giá trị xã hội cao nhất trong hệ
thống xã hội dân chủ và có trách nhiệm xã hội cao, thậm chí là mục tiêu hàng đầu
trong kinh tế thị trường xã hội. Công bằng xã hộ
i là giá trị xã hội phù hợp với
những nguyên tắc nhân đạo và phồn vinh cộng đồng. Theo những nguyên tắc này,
tất cả các thành viên của xã hội được hưởng lợi từ phồn vinh chung của toàn xã
hội và cần phải có trách nhiệm đóng góp phần mình vào quá trình hình thành, phát
triển và duy trì sự phồn vinh đó. Tuy nhiên, theo Liên Hợp Quốc, mâu thuẫn giữa
tăng trưởng, phát triển phồn vinh và sự gia tăng nghèo khổ trên thế giới là mâu
thuẫn gay gắ
t, không thể chấp nhận được, là bất công lớn nhất của bất công xã hội.
Bởi vì, theo Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB), đói nghèo làm cho con người

mất đi những tài sản cơ bản nhất và cơ hội mà mỗi người có quyền lợi được
hưởng. Đói nghèo là một trong những sự sỉ nhục đối với giá trị chung của xã hội.

10
Do vậy, tấn công vào nghèo đói chính là tấn công vào xóa bỏ bất công xã hội, thực
hiện công bằng xã hội.
Trong thế giới hiện đại, nhận thức về công bằng xã hội của nhân loại đã có
sự phát triển rất mới; nội hàm về công bằng xã hội được bổ sung, mở rộng và phát
triển. Nội dung quan trọng nhất của công bằng xã hội không chỉ giới hạn trong
công bằng về quan hệ
phân phối, công bằng về thu nhập, mà quan trọng hơn là
công bằng về cơ hội phát triển. Theo chương trình phát triển Liên hiệp quốc
(UNDP), công bằng về cơ hội phát triển là nội dung bao trùm của công bằng xã
hội trong thế giới hiện đại. Đó là quá trình mở rộng cơ hội lựa chọn cho mọi
người để trên cơ sở đó, mỗi người được hưởng thụ đầy đủ
hơn các thành quả của
tăng trưởng kinh tế và phát triển. Nhận thức này dựa trên định nghĩa của UNDP
về phát triển con người. Định nghĩa này đang được hầu hết các nước trên thế giới
sử dụng để đánh giá sự tiến bộ, công bằng xã hội và phát triển con người.
Từ quan niệm trên về công bằng xã hội, có thể hiểu được bản chất công
bằng xã h
ội trong phân phối tiền lương và thu nhập trong kinh tế thị trường.
Khi nền sản xuất hàng hóa xuất hiện và phát triển đến đỉnh cao là nền kinh
tế thị trường, thì công bằng xã hội được hiểu ở phạm vi rộng hơn, song quan trọng
nhất là công bằng về quan hệ phân phối nói chung, phân phối tiền lương và thu
nhập nói riêng. Ở đó, về mặt kinh tế, mọi quan hệ trao đổi được coi là công bằng
khi chúng
được thực hiện theo nguyên tắc ngang giá và quan hệ phân phối tiền
lương và tiền thu nhập dựa trên nguyên tắc trả đúng giá trị lao động.
Trong kinh tế thị trường, mối quan hệ giữa cung và cầu hàng hoá và dịch

vụ quyết định giá thành sản xuất và việc sử dụng vốn và lao động, đồng thời cũng
quyết định phân phối kết quả sản xuất theo vốn và lao động của các chủ th
ể kinh
tế. Ở đây, người lao động đóng góp sức lao động của mình vào quá trình tạo ra giá
trị sản phẩm hàng hoá và dịch vụ thì được nhận một phần dưới hình thức tiền
lương, tiền công và thu nhập trong phân phối lần đầu (phân phối sơ cấp), phụ
thuộc vào mức độ đóng góp của lao động vào kết quả đầu ra của sản xuất. Do đó,
tiền lương, ti
ền công và thu nhập trả cho người lao động, như là một yếu tố quyết
định của sản xuất, phải tương xứng với sự đóng góp của lao động (hay trả đúng
giá trị của lao động) tuỳ theo (hay phụ thuộc vào) năng suất lao động của từng cá
nhân (hay thành tích của từng cá nhân). Đây là vấn đề có tính chất nguyên tắc, là

11
chuẩn mực cao nhất của phân phối tiền lương và thu nhập trong kinh tế thị
trường, cũng chính là sự công bằng trong phân phối tiền lương và thu nhập.
Tuy nhiên, để bảo đảm thoả mãn nhu cầu của người lao động như là thành
viên của xã hội, họ không chỉ được nhận phân phối lần đầu dưới hình thức tiền
lương, tiền công và thu nhập mà còn được nhận một phần từ kế
t quả sản xuất
chung của xã hội và của doanh nghiệp dưới hình thức phúc lợi xã hội bằng chính
sách phân phối lại (phân phối thứ cấp) của Nhà nước và của doanh nghiệp thông
qua trao đổi. Xã hội càng phồn vinh thì phúc lợi xã hội càng đa dạng, phong phú
và dồi dào, chất lượng đời sống của mọi người, kể cả người lao động, càng được
nâng cao. Song, để đảm bảo công bằng xã hội khi đưa ra chính sách phân phố
i lại
trong kinh tế thị trường nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống và sự phồn vinh lâu
dài thì nguyên tắc trả đúng giá trị lao động theo năng suất lao động (hay thành
tích) cá nhân vẫn phải đứng ở vị trí số một.
Trong kinh tế thị trường tự do cũ, thị trường giữ vai trò tối thượng, là chính

thống. Thị trường không chỉ điều tiết các hoạt động kinh tế mà còn điề
u tiết thu
nhập, tiền lương, tiền công. Các chủ thể kinh tế được tự do hành động, tự do kinh
doanh trên cơ sở sở hữu tư nhân, cạnh tranh trong khuôn khổ pháp luật; vai trò
quản lý kinh tế của Nhà nước chỉ là thứ yếu. Trong kinh tế thị trường tự do mới
tuy có điều chỉnh tăng vai trò của Nhà nước can thiệp vào thị trường, vào tiền
lương, tiền công và thu nhập, nhưng vẫn bị
coi nhẹ, thậm chí nếu có can thiệp, thì
cũng theo hướng điều chỉnh việc phân phối thu nhập có lợi cho chủ doanh nghiệp,
còn vị trí, vai trò của khu vực tư nhân vẫn được nâng cao. Đối với nền kinh tế thị
trường xã hội, vấn đề cốt lõi nhất vẫn là nền kinh tế cạnh tranh phát huy tối đa tự
do sáng tạo, song vai trò điều tiết, kiểm soát của Nhà nước được đề cao.
Trong lĩnh vực tiền lương, Nhà nước không can thiệp trực tiếp vào thị
trường. Tiền lương trả cho người lao động do thị trường quyết định trên cơ sở các
nguyên tắc của thị trường (tự do cạnh tranh, trả đúng giá trị lao động, phụ thuộc
vào quan hệ cung – cầu lao động…) và cơ chế đối thoại, thương lượng, thỏa thuận
giữa các bên trong quan hệ lao động. Sự can thi
ệp của Nhà nước được thực hiện
một cách gián tiếp thông qua hệ thống cơ chế, chính sách và luật pháp, tạo hành
lang pháp lý để các bên thỏa thuận về tiền lương.
Khi nói đến vai trò can thiệp, điều tiết gián tiếp của Nhà nước về tiền lương

12
khu vực thị trường là chủ yếu, không có nghĩa là tuyệt đối. Trong nhiều trường
hợp Nhà nước cũng có vai trò can thiệp trực tiếp, nhất là khi phải xử lý những
khiếm khuyết, trục trặc của thị trường lao động.
2.2. Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bảo đảm công bằng xã hội trong
phân phối tiền lương và thu nhập trong kinh tế thị trường
2.2.1. Bản chất mố
i quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội về tiền

lương và thu nhập trong kinh tế thị trường
Trong lịch sử phát triển xã hội có nhiều lý thuyết khác nhau về mối quan hệ
giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội. S. Kuznets khi phân tích các mô
hình tăng trưởng trong quá khứ của các nước phát triển đã phát hiện ra xu hướng
có tính quy luật của mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hộ
i,
thông qua mối quan hệ giữa tăng trưởng tổng sản phẩm quốc dân bình quân đầu
người và bất bình đẳng trong phân phối thu nhập có dạng hình chữ U ngược.
Trong giai đoạn đầu của tăng trưởng, phân phối thu nhập rất bất bình đẳng và có
xu hướng xấu đi, nhưng đến giai đoạn sau sẽ bình đẳng hơn và có xu hướng tốt
lên. Trên cơ sở số liệu thu thập được từ
các nước có mức thu nhập giàu, nghèo
khác nhau trong một thời gian dài, S. Kuznets thấy rằng ở một số nước nghèo,
mức độ bất bình đẳng trong phân phối thu nhập khá thấp, thể hiện ở hệ số GINI
khá nhỏ (khoảng 0,2 - 0,3). Nhưng ở những nước giàu hơn, có nền kinh tế tăng
trưởng khá hơn, thu nhập quốc dân bình quân đầu người tăng lên thì hệ số GINI
cũng tăng lên, chứng tỏ sự bấ
t bình đẳng trong phân phối thu nhập tăng lên và đạt
cực đại khi thu nhập đạt ở mức trung bình. Sau đó, khi nền kinh tế đạt tới mức
tăng trưởng và thu nhập cao, đặc trưng cho các nước công nghiệp phát triển, thì hệ
số GINI có xu hướng giảm xuống, tức là sự bất bình đẳng cũng giảm đi.
Còn theo A. Lewis, nhà kinh tế học Mỹ lại cho rằng, tăng trưởng kinh tế phải
đi trước, công b
ằng sẽ theo sau, tăng trưởng kinh tế cao sẽ tạo tiền đề để thực hiện
công bằng, làm giảm bớt bất bình đẳng xã hội. Sự bất bình đẳng xã hội không chỉ là
kết quả của tăng trưởng mà còn là điều kiện cần thiết của tăng trưởng. Nếu đề cao
công bằng xã hội thì không tăng trưởng nhanh được. Trong sự ưu tiên cho tăng
trưởng và chấp nhậ
n sự bất bình đẳng đó, những người có thu nhập cao bao giờ
cũng có tích lũy và giành để tăng đầu tư thúc đẩy tăng trưởng để tự nó kéo theo thực

hiện công bằng xã hội.

13
Harry Oshima, nhà kinh tế Nhật Bản thì cho rằng, tăng trưởng sẽ kéo theo
vấn đề công bằng xã hội. Và ngược lại, khi công bằng xã hội đạt được ở mức nào
đó lại là tiền đề để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cao hơn nữa. Đây là mối quan hệ
nhân quả.
Tuy nhiên, các nhà tư tưởng của thế giới đương đại lại cho rằng, tăng
trưởng kinh tế và công bằng xã hội có m
ối quan hệ với nhau, nhưng không phải là
mối quan hệ nhân quả. Tăng trưởng kinh tế không tự nó giải quyết được tất cả các
vấn đề xã hội và không tự nó dẫn đến công bằng và tiến bộ xã hội. Ngược lại, thực
hiện công bằng xã hội không tự nó làm tăng trưởng kinh tế. Muốn cho mối quan
hệ này tương tác tích cực lẫn nhau phải có sự can thiệp, điều tiế
t của Nhà nước
thông qua hệ thống cơ chế, chính sách, luật pháp để điều chỉnh mối quan hệ này.
Một chính sách kinh tế tốt là một chính sách thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong
công bằng, không làm gia tăng quá đáng mức độ chênh lệch về thu nhập giữa các
nhóm dân cư, tăng trưởng phải vì người nghèo, mọi người, nhất là người nghèo,
đều được hưởng lợi từ thành quả tăng trưởng kinh tế. Ng
ược lại, một chính sách
xã hội tích cực là một chính sách phù hợp dựa trên cơ sở của tăng trưởng kinh tế,
tạo ra cái nền ổn định và động lực cho tăng trưởng kinh tế. Và như vậy, tăng
trưởng kinh tế sẽ là điều kiện và tiền đề để thực hiện tốt chính sách xã hội theo
nguyên tắc công bằng và tiến bộ xã hội; đồng thời một chính sách xã hội đượ
c
thực hiện theo nguyên tắc công bằng sẽ là yếu tố quan trọng của tăng trưởng kinh
tế, đầu tư cho chính sách xã hội ở đây cũng chính là đầu tư cho tăng trưởng kinh tế
và phát triển bền vững.
Để hiểu bản chất mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội

về tiền lương và thu nhập trong kinh tế thị trường, cần thiết phải làm rõ m
ối quan
hệ giữa phân phối, tăng trưởng và công bằng xã hội.
Phân phối, tăng trưởng và công bằng xã hội là những phạm trù khác
nhau, nhưng có mối quan hệ tác động qua lại với nhau trong phát triển kinh tế-
xã hội của một quốc gia. Điểm chung nhất của các phạm trù này là đều hướng
vào mục tiêu phát triển bền vững trên cơ sở bảo đảm tăng trưởng trong công
bằng, trước hết là công bằ
ng trong phân phối. Mối quan hệ giữa phân phối, tăng
trưởng và công bằng xã hội được biểu hiện trên các mặt sau đây:
- Tăng trưởng kinh tế cao và bền vững là một trong những mục tiêu cơ bản và

14
quan trọng nhất của chính sách vĩ mô. Tăng trưởng kinh tế là cơ sở, điều kiện và
tiền đề để phân phối và thực hiện công bằng. Tăng trưởng kinh tế không chỉ thể hiện
ở phần đóng góp của nó đối với sự thịnh vượng chung của đất nước; cung cấp số
lượng lớn hơn hàng hoá và dịch vụ xã hội (y tế, giáo dục…) mà còn làm cho nền
m
ức sống chung của toàn xã hội được nâng lên. Tăng trưởng kinh tế còn liên quan
đến tăng tỷ lệ tiết kiệm trong dân cư và vốn đầu tư toàn xã hội để tăng trưởng, giải
quyết các vấn đề xã hội…
- Phân phối trong quá trình tái sản xuất xã hội (sản xuất, phân phối, trao đổi,
tiêu dùng) ngày càng có vị trí quan trọng. Phân phối không chỉ thụ động là do sản
xuất quyết định, mà phân phối còn tác động tích c
ực hoặc tiêu cực đến sản xuất
hàng hoá. Điều này phụ thuộc vào phân phối có tạo ra động lực thúc đẩy tăng
trưởng không và động lực đó mạnh đến đâu, cụ thể là:
+ Trong nền kinh tế phi thị trường, phân phối theo chủ nghĩa bình quân, cào
bằng làm triệt tiêu động lực thúc đẩy tăng trưởng, làm cho nền kinh tế trở nên trì
trệ và rơi vào tình trạng khủng hoảng. Đ

ó là tác động tiêu cực của phân phối, xét
từ khía cạnh này nhiều khi phân phối tác động tiêu cực có tính chất quyết định đến
hiệu quả của sản xuất.
+ Trong nền kinh tế thị trường động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đã
trở nên rất rõ ràng một khi chúng ta thực hiện phân phối công bằng với nhiều
hình thức khác nhau (phân phối theo lao động, phân phối theo các yếu tố đầu vào
như v
ốn, tài năng, cống hiến và theo yêu cầu của chính sách xã hội, nhưng phân
phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu). Trong phát triển kinh
tế thị trường, một khi chúng ta xác định đúng quan hệ phân phối và trả đúng giá
trị trong từng quan hệ phân phối thì chúng ta phải chấp nhận có sự chênh lệch, sự
khác biệt nhất định trên cơ sở bảo đảm sự hài hoà giữa quyền, trách nhiệ
m và lợi
ích, sự đồng thuận xã hội vì mục tiêu phát triển chung. Đó chính là động lực sâu
xa của tăng trưởng kinh tế. Từ khía cạnh này phân phối trở thành yếu tố quyết
định tăng trưởng.
+ Để thực hiện phân phối công bằng và tạo động lực mới cho tăng trưởng,
vai trò điều tiết của Nhà nước là rất quan trọng. Nhà nước thông qua cơ chế, chính
sách và luật pháp tạo sân chơ
i bình đẳng đối với tất cả các thành phần kinh tế, các
loại hình sở hữu và sản xuất kinh doanh trên cơ sở giải phóng sức sản xuất và sức

15
lao động; tạo môi trường và điều kiện để mọi người có cơ hội phát triển và phát
huy cao nhất năng lực của mình. Sự điều tiết của Nhà nước vào khâu phân phối
theo hướng này cũng là nhằm tạo ra động lực tăng trưởng.
- Công bằng xã hội tác động tích cực trở lại tăng trưởng kinh tế và phát triển
bền vững thể hiện trên các mặt sau:
+ Công b
ằng xã hội là một nhân tố của tăng trưởng kinh tế và phát triển bền

vững. Bởi vì, thực hiện công bằng xã hội thực chất là hướng vào phát triển con
người toàn diện, tạo cơ hội như nhau cho mọi người trong phát triển. Đặc biệt
trong đó phát triển nguồn nhân lực được coi là nhân tố hàng đầu của sự tăng
trưởng và phát triển.
+ Thực hiện công bằng xã hội sẽ t
ạo ra bầu không khí đầu tư lành mạnh của
toàn xã hội, trong đó có đầu tư cho tăng trưởng và đầu tư vào vốn con người, trên
cơ sở quan hệ xã hội, quan hệ lao động hợp tác, bình đẳng, đồng thuận vì mục tiêu
phát triển chung, sẽ tạo ra cái "nền ổn định" của sự tăng trưởng và phát triển bền
vững.
+ Thực hiện công bằng xã hội còn thể hiện rất rõ ở vai trò c
ủa Nhà nước
ngày càng tăng trong việc thực hiện các chính sách xã hội và chương trình mục
tiêu quốc gia hướng vào hỗ trợ, tạo điều kiện cho nhóm yếu thế, dễ bị tổn thương
do "rủi ro" trong kinh tế thị trường và rủi ro xã hội khác, nhất là người nghèo,
người thất nghiệp và các nhóm xã hội đặc biệt khó khăn khác tự vươn lên phát
triển kinh tế, tạo việc làm, tăng thu nhập và cải thiện
đời sống. Các chính sách và
chương trình xã hội này tham gia đáng kể vào tăng trưởng kinh tế.
- Phân phối, tăng trưởng kinh tế và thực hiện công bằng xã hội trong điều
kiện kinh tế thị trường một mặt tác động tích cực rất cơ bản đến phát triển chung
bền vững của đất nước và theo hướng ngày càng tiến bộ, nâng cao chất lượng cuộc
sống của nhân dân, song cũng dẫn
đến những hiện tượng xã hội đáng quan tâm
như phân hoá giàu nghèo, phân tầng xã hội và các vấn đề xã hội bức xúc (về giáo
dục, y tế, lao động - việc làm và thất nghiệp, đạo đức và lối sống, tệ nạn xã hội…).
Từ những nguyên lý trên, có thể phân tích sâu hơn về mối quan hệ này.
2.2.2. Tăng trưởng kinh tế hướng vào bảo đảm công bằng xã hội về tiền lương và
thu nhập


16
Tăng trưởng kinh tế công bằng là xu hướng khá tiến bộ hiện nay trên thế
giới. Đó là một sự tăng trưởng bảo đảm đem lại lợi ích cho mọi người, tăng trưởng
có lợi cho người nghèo, vì người nghèo (pro-poor growth). Tức là phải bảo đảm
phân phối thu nhập hợp lý, tốc độ tăng thu nhập của nhóm người nghèo phải
nhanh hơn tốc độ tăng thu nhập bình quân của xã hội và góp ph
ần giảm nhanh tỷ
lệ người nghèo. Tuy nhiên, tăng trưởng kinh tế hướng vào bảo đảm công bằng xã
hội về tiền lương và thu nhập, ở đây, chủ yếu đề cập đến khu vực thị trường
(doanh nghiệp) liên quan đến vấn đề việc làm, giảm thất nghiệp và hạn chế chênh
lệch quá đáng về tiền lương và thu nhập giữa các loại lao động, các vùng và
ngành.
a. Tăng tr
ưởng kinh tế gắn với sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực
Trong kinh tế thị trường, nhất là khi đi vào kinh tế tri thức, yếu tố lao động,
đặc biệt là lao động chất xám, tham gia vào tăng trưởng rất lớn và trong mối quan
hệ rất chặt chẽ với các yếu tố khác của sản xuất như vốn, công nghệ, đất đai…
Tăng trưởng do yếu tố nhân lực bi
ểu hiện trên 2 góc độ:
Thứ nhất, quy mô nhân lực sử dụng. Tức là quy mô tăng trưởng phụ thuộc
vào quy mô nhân lực tham gia vào sản xuất.
Thứ hai, năng suất lao động. Tức là tăng trưởng theo chiều sâu, phụ thuộc
vào chất lượng nhân lực, nhất là nhân lực trình độ cao.
Như vậy, tăng trưởng luôn gắn với sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực và đặt
ra yêu cầu m
ới về nguồn nhân lực, đó là:
- Phải cung cấp đủ nhân lực cho sản xuất. Cung cấp nhân lực về mặt số
lượng thể hiện ở quy mô và sức trẻ, mức độ sẵn sàng của nguồn nhân lực. Biểu
hiện rõ nhất là ở hệ số co giăn giữa tăng trưởng kinh tế và nhu cầu về nhân lực.
Tức là cứ 1% tăng trưởng kinh tế thì cầ

n bao nhiêu % nhân lực.
- Yêu cầu quan trọng nhất về nguồn nhân lực đối với tăng trưởng là bảo đảm
nhân lực về mặt chất lượng. Đó là tổng thể năng lực về thể lực, trí lực (trình độ
dân trí, chuyên môn, kỹ năng, tay nghề) và tâm lực (thái độ, khả năng thích nghi,
khả năng làm việc theo nhóm…). Chất lượng nhân lực chủ yếu thông qua giáo
dục, đào tạo, dạ
y nghề và tích lũy kinh nghiệm trong quá trình làm việc.

17
- Bảo đảm cung nhân lực phải phù hợp với cơ cấu ngành, nghề, cấp trình độ
của sản xuất và yêu cầu của thị trường lao động (liên quan đến phân bổ nguồn
nhân lực).
Xét về mặt tiền lương và thu nhập, tăng trưởng kinh tế gắn với sử dụng hiệu
quả nguồn nhân lực, dựa trên cơ sở đầu tư ứng trước vào vốn con ng
ười, vốn nhân
lực, trong đó đầu tư vào giáo dục, đào tạo là đâu tư có hiệu quả nhất. Lúc này tiền
lương như là khoản ứng trước và được hoàn trả trong quá trình làm việc. Tức là
hiệu quả đầu tư vào con người chủ yếu thông qua giáo dục, đào tạo nhân lực sẽ
được đo bằng mức thu nhập do trình độ tay nghề của họ mang lại trong tương lai.
Hay nói một cách khác, vố
n nhân lực là kết quả đầu tư trong quá khứ với mục đích
tạo ra thu nhập trong tương lai. Mincer đã đưa ra công thức xác định tỷ lệ hoàn trả
trong đào tạo dựa trên lý thuyết về vốn nhân lực (vốn con người). Lợi ích của đào
tạo thể hiện thông qua năng suất lao động và tăng tiền lương tương ứng với phần
tăng năng suất lao động. T
ỷ lệ hoàn trả dựa vào phần thu nhập của vốn nhân lực
theo công thức sau:
Log(W
i
) = β

0
+ β
1
X
1i
+ …+ β
k
X
ki

Trong đó: - W
i
là tiền lương đạt được của cá nhân thứ i;
- X
1i
, …, X
ki
là các yếu tố tác động đến tiền lương của cá nhân i (ví dụ:
trình độ đào tạo, kinh nghiệm làm việc, …);
- β
0
, β
1
, …, β
k
là hệ số tương quan của các yếu tố;
- log là logarit cơ số 10.
Tuy nhiên, cần lưu ý rằng, cũng giống như đầu tư khác, khả năng hoàn trả
của đầu tư tăng với tốc độ giảm dần. Và tiền lương chính là khoản tiền tương
đương với thu nhập tăng thêm cận biên do đầu tư vào vốn nhân lực được thực hiện

trong thời kỳ tr
ước. Do vậy, học tập suốt đời là một xu hướng để duy trì tăng thu
nhập.
b. Tăng trưởng kinh tế tạo nhiều việc làm với chất lượng việc làm và tiền
lương, thu nhập cao
Trong kinh tế thị trường, tiền lương, tiền công được đặt trong tổng thể
chính sách việc làm và là một bộ phận quan trọng của chính sách việc làm. Chính

18
sách việc làm có nhiệm vụ giảm thiểu sự mất cân bằng giữa cung và cầu lao động
trên thị trường lao động và giảm thất nghiệp. Về nguyên tắc nó tác động đến cả
cung và cầu lao động, nhưng trên thực tế chính sách việc làm nghiêng về các biện
pháp tăng cầu lao động và phụ thuộc cơ bản vào tăng trưởng kinh tế.
Cầu lao động phản ánh số lượng lao động phù hợp với ch
ất lượng và cơ cấu
nhất định mà người sử dụng lao động có khả năng thuê (có nhu cầu để sản xuất ra
hàng hóa và dịch vụ với mức tiền công, tiền lương nhất định).
Cầu lao động phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố liên quan đến tạo việc làm,
tăng trưởng việc làm như:
- Tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP);
- Sự
phát triển của các ngành, các vùng, các khu vực;
- Sự lựa chọn kỹ thuật và công nghệ áp dụng vào sản xuất của doanh nghiệp;
- Khả năng huy động vốn đầu tư;
- Năng suất lao động;
- Khả năng mở rộng không gian kinh tế (nhất là mở rộng thị trường trong
nước và quốc tế).
Trong kinh tế thị trường, cầu lao động cầu là dẫn su
ất. Lao động là yếu tố đầu
vào cần thiết để sản xuất ra một khối lượng hàng hóa, dịch vụ nhất đinh, do vậy,

nhu cầu về lao động là hàm số của các kết quả đầu ra. Một khối lượng sản phẩm,
dịch vụ đầu ra có thể được sản xuất với các cơ cấu về lao động, vốn và đất đai
khác nhau, có thể biểu diễ
n bằng công thức:
Q = f(K, L, …)
Trong đó: Q là sản phẩm đầu ra; K là vốn; L là lao động.
Theo quy luật tối đa hóa lợi nhuận của người sản xuất, khối lượng sản
phẩm, dịch vụ được sản xuất ra (Q) sẽ là khối lượng mà tại thời điểm đó, chi phí
cận biên tương đương doanh thu cận biên của doanh nghiệp và doanh nghiệp sẽ sử
dụng một lượng lao động t
ương đương với phần doanh thu cận biên của lao động
đó tạo ra. Điều này có nghĩa là với một trình độ nhất định, tổng cầu lao động phụ
thuộc độ co giãn của lao động đối với đầu ra và tương quan giữa chi phí tiền

19
lương với chi phí đầu vào khác (bao gồm cả yếu tố vốn).
Cầu lao động trong kinh tế thị trường liên quan chặt chẽ với tăng trưởng
kinh tế. Nói chung tăng trưởng sẽ tạo cơ hội cho tăng cầu lao động, song tăng
trưởng lại là hàm của các yếu tố vốn, lao động, đất đai, công nghệ và các yếu tố
đầu vào khác. Mức độ tăng trưởng còn phụ thuộc vào ph
ương thức tăng trưởng, do
đó để tăng cầu lao động (tăng việc làm), vấn đề quan trọng là lựa chọn mô hình
tăng trưởng gắn với tăng cầu lao động.
Theo công thức Q = f(K, L,…), nếu như tăng trưởng kinh tế từ Q1 đến Q2,
trong điều kiện tương quan giá cả của lao động (L) và vốn không thay đổi, sẽ dẫn
đến việc tăng lao động từ L1 đến L2 và chi phí khác (bao gồm c
ả vốn) từ K1 đến
K2 (Hình 1).

Hình 1: Tăng trưởng kinh tế gắn và không gắn với tăng trưởng việc làm








Tuy nhiên, tăng trưởng kinh tế thông thường sẽ kéo theo việc tăng nhu cầu
đối với lao động có trình độ tay nghề cao hơn do áp dụng công nghệ sử dụng ít lao
động, tạo năng suất lao động cao, tiền lương cũng cao và giảm tỷ lệ lao động
không có trình độ tay nghề với tiề
n lương thấp, do đó sẽ dẫn đến điều chỉnh mức
giá tương đối giữa lao động và các yếu tố đầu vào khác (vốn và đất đai), từ K
2

K
3
, và do đó sẽ làm chậm tốc độ tăng việc làm. Như vậy, nếu tăng trưởng kinh tế
dựa trên cơ sở đầu tư theo chiều sâu, áp dụng công nghệ cao, năng suất cao thì
mức độ cầu lao động sẽ giảm đi nhưng chi phí tiền lương trả cho lao động cao
hơn, tạo việc làm sẽ ít hơn và ngược lại. Trong điều kiện của Việt Nam phải kế
t
L
L2
L1
k1
k2
k3
k



Q
1
Q
2

20
hợp tăng trưởng theo chiều rộng để nhiều người có việc làm.
Vấn đề đặt ra ở đây là giải quyết tối ưu mối quan hệ giữa các yếu tố đầu
vào để bảo đảm vừa tăng tổng đầu ra (tăng trưởng kinh tế), vừa tạo nhiều việc làm
cho người lao động với tiền lương có thể chấp nhận được.
Mối quan h
ệ giữa các yếu tố đầu vào (vốn, lao động, …) thể hiện trong
công thức tổng quát nêu trên (Q = f(K, L, …)). Tuy nhiên, để xem xét sâu hơn mối
quan hệ này, có thể dựa trên cơ sở hàm sản xuất của Cobb-Douglass như sau:
Y = A

K
α
L
β

Trong đó, Y là đầu ra, tính bằng GDP hoặc giá trị tổng sản lượng; L là lao động,
tính bằng thời gian làm việc hoặc người; K là vốn đầu tư; α, β là độ co giăn của
đầu ra tương ứng với vốn, lao động; A là năng suất yếu tố tổng hợp.
Tốc độ tăng đầu ra, do vậy sẽ bằng tốc độ tăng các yếu tố đầu vào, cụ thể

như sau:
L
L

K
K
A
A
Y
y

+

+

=

βα

Nói một cách khác, mức tăng đầu ra phụ thuộc vào mức tăng trưởng của
các yếu tố thành phần và tỷ phần đóng góp của các yếu tố trong tổng đầu ra. Tỷ
phần của các yếu tố được coi là các yếu tố trong tổng đầu ra. Tỷ phần của các yếu
tố chính là độ co giãn. Hệ số co giãn việc làm thể hiện ở tỷ lệ phần trăm thay đổi
của việc làm khi đầu ra thay đổi (tăng hay giảm) 1%. Tương tự, hệ số co giãn vốn
so với đầu ra thể hiện ở tỷ lệ phần trăm thay đổi của vốn khi đầu ra thay đổi (tăng
hay giảm) 1%. Nếu vốn được tính trên cơ sở % so với GDP thì hệ số co giãn được
biết đến là hệ số ICOR.
Mối quan hệ giữa mức độ tăng cầu lao động và t
ăng đầu ra (GDP) thể hiện
bằng công thức sau đây:
Ln L(t) = a + α ln GDP(t)
Vấn đề cơ bản ở đây là, trong điều kiện giả định β không đổi, nếu α càng
lớn trong mối tương quan với GDP thì cầu lao động càng lớn. Tuy nhiên, α càng
lớn thì có nghĩa là GDP tăng nhờ yếu tố lao động càng lớn (tăng theo chiều rộng),

và khi đó, công nghệ áp dụng chủ yếu là công nghệ
sử dụng nhiều lao động (công

21
nghệ vừa phải), năng suất lao động phải chấp nhận ở mức không cao, mức tiền
lương cũng vừa phải, nhiều khi phải chấp nhận mức tiền lương thấp để có việc
làm. Đây là bài toán tổng thể vĩ mô về tăng trưởng, đầu tư, năng suất lao động và
việc làm (cầu lao động) trong kinh tế thị trường mà các nhà quản lý hoạch định
chính sách ph
ải tính đến.
c. Tăng trưởng kinh tế gắn với giảm chênh lệch về tiền lương và thu nhập
giữa các loại lao động, giữa các vùng và ngành
Trong kinh tế thị trường, tiền lương và thu nhập được phân phối theo mức
độ đóng góp của lao động phụ thuộc vào năng suất lao động cá nhân và hiệu quả
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp (phân phối theo kết quả đầu ra). Sự phân
phối này bảo
đảm được nguyên tắc công bằng giữa cống hiến (đóng góp) và
hưởng thụ, không bình quân, cào bằng. Do đó, tất yếu sẽ có sự khác biệt về tiền
lương và thu nhập giữa các loại lao động có trình độ chuyên môn, kỹ thuật, kỹ
năng, tay nghề khác nhau, giữa các vùng và các ngành nghề. Tuy nhiên, kết quả
tăng trưởng cũng cần phải được phân phối bảo đảm công bằng xã hội và không
làm tăng chênh lệch về ti
ền lương và thu nhập quá đáng giữa các loại lao động,
giữa các vùng và các ngành, dẫn đến cạnh tranh, tranh chấp, biến động, dịch
chuyển lao động không lành mạnh trên thị trường lao động, gây bức xúc về quan
hệ lao động trong các doanh nghiệp. Thông thường giải quyết mối quan hệ này
không để thị trường điều tiết một cách tự do, mà cần sự can thiệp, điều tiết của
Nhà nước thông qua cơ ch
ế, chính sách lao động – tiền lương, chính sách thị
trường lao động. Hướng can thiệp, điều tiết của Nhà nước là bảo đảm điều chỉnh

quan hệ phân phối tiền lương ở doanh nghiệp vừa tôn trọng nguyên tắc của thị
trường, vừa giải quyết hài hòa lợi ích giữa các bên và thực hiện chính sách xã hội
trong tiền lương, thu nhập, thúc đẩy phát triển quan hệ phân phối hài hòa, đồng
thuận.
2.2.3. Thực hiện công bằng xã hội về tiền lương và thu nhập tạo động lực thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế
a. Thực hiện công bằng xã hội về tiền lương và thu nhập tạo nền ổn định xã
hội cho tăng trưởng kinh tế bền vững
Công bằng xã hội về tiền lương và thu nhập, xét về mặt tạo nền ổn định xã
hội cho tăng trưở
ng kinh tế bền vững diễn ra cả ở cấp vĩ mô (quốc gia) và cấp vi mô

22
(doanh nghiệp) và biểu hiện ở những mặt sau:
- Tiền lương trả đúng giá trị lao động, có tính đến quan hệ cung – cầu lao động
sẽ bảo đảm an toàn về việc làm cho người lao động. Đó là yếu tố cơ bản nhất để ổn
định xã hội, bảo đảm tăng trưởng bền vững. Do đó chính sách phân phối tiền lương
phải gắn với chính sách việc làm, đặ
t trong tổng thể chính sách việc làm và là công
cụ quan trọng để điều tiết quan hệ cung – cầu lao động theo hướng nhiều người có
cơ hội việc làm trên thị trường lao động. Thông thường có sự phân biệt về việc làm
giữa các lĩnh vực, ngành nghề, khu vực (vùng), trình độ nghề nghiệp. Nếu tiền
lương không phù hợp với điều kiện cung – cầu lao động có tính đặc thù này, sẽ đưa
đến s
ự điều khiển sai lầm trong cơ cấu sản xuất, cơ cấu lao động, và do đó sẽ làm
giảm tổng mức việc làm có thể có. Trong thị trường lao động tự do, quan hệ cung –
cầu lao động, tiền lương, việc làm được điều tiết bởi các quy luật của thị trường và
do cá nhân các chủ thể trên thị trường tự chịu trách nhiệm. Tiền lương, tiền công và
thu nhậ
p sẽ dao động (lên, xuống) xung quanh giá trị lao động. Trong thị trường

này, hiệu quả kinh tế được bảo đảm thông qua phân bổ và sử dụng hợp lý nguồn
lực, nhất là nguồn nhân lực, song chưa chú ý đúng mức đến hiệu quả xã hội, đặc
biệt là trong trường hợp tiền lương trả thấp hơn giá trị lao động, thậm chí rất thấp
dẫn đến bần cùng hóa, bóc lột quá mức lao
động và tình trạng sa thải, lao động mất
việc làm, thất nghiệp tăng. Còn trong thị trường lao động có sự can thiệp, điều tiết
của Nhà nước, thì Nhà nước can thiệp, điều tiết thị trường lao động thông qua chính
sách tiền lương (nhất là tiền lương tối thiểu) và các chính sách kinh tế khác để vừa
bảo đảm nhiều người có việc làm, vừa chống hạ mức lương quá thấp không bả
o
đảm tái sản xuất sức lao động.
- Trong kinh tế thị trường, sức lao động là hàng hóa (loại hàng hóa đặc biệt),
nên có giá trị. Người lao động khi bán sức lao động của mình cho người sử dụng lao
động, thì trong quá trình sử dụng sức lao động đó nó có khả năng tạo ra giá trị mới
của hàng hóa và dịch vụ lớn hơn giá trị của bản thân nó. Người sử dụng lao động
sau khi bán hàng hóa và dịch vụ, dùng m
ột phần để trả lương, trả công cho người
lao động tương ứng với giá trị của lao động theo nguyên tắc trao đổi ngang giá được
tính trên cơ sở giá trị cận biên, tức là phụ thuộc vào tổng sản phẩm tiêu thụ và mức
giá cả trên thị trường (giá trị sản phẩm cận biên bằng sản phẩm cận biên nhân với
giá của sản phẩm cuối cùng). Từ đó, tổng mứ
c tiền lương quyết định tổng cầu về

23
hàng hóa và dịch vụ cần thiết phải sản xuất ra cũng như giá cả của nó. Song, tiền
lương, tiền công, đối với người lao động, là bộ phận thu nhập chính của họ nhằm
thỏa mãn các nhu cầu vật chất và tinh thần của bản thân họ và gia đình. Họ phải tiêu
dùng một khối lượng hàng hóa và dịch vụ trên thị trường bằng tiền lương, thu nhập
của mình. Xét về m
ặt này, tiền lương, tiền công được coi là một trong các giải pháp

kích cầu để giải bài toán về tăng trưởng, tạo việc làm, giảm thất nghiệp. Ở đây, tiền
lương, tiền công thực hiện đồng thời (đúp) hai quá trình vừa thúc đẩy tăng trưởng,
vừa tham gia giải quyết bài toán về xã hội.
- Tiền lương tham gia vào hình thành chi phí sản xuất (yếu tố đầu vào của sản
xu
ất), nhưng trả lương cho người lao động lại theo kết quả đầu ra (phụ thuộc vào
năng suất lao động cá nhân và hiệu quả sản xuất kinh doanh) của doanh nghiệp. Do
đó, trong kinh tế thị trường chính sách tiền lương đúng đắn, bảo đảm công bằng xã
hội, nhất là tiền lương được coi là sự đầu tư vào vốn con người, vốn nhân lực, đặc
biệt thông qua giáo dục, đào tạo, d
ạy nghề và tích lũy kinh nghiệm trong cả cuộc
đời làm việc, sẽ phát huy được động lực bên trong của người lao động, thúc đẩy
tăng năng suất lao động, tăng trưởng kinh tế. Thông thường, trình độ lao động cao
hơn sẽ tạo ra mức năng suất lao động cao hơn và theo lý thuyết cạnh tranh trong
kinh tế thị trường, năng suất lao động cá nhân sẽ quyết định mức tiền lương trên
thự
c tế của họ. Bởi vậy, chính sách tiền lương được coi là sự đầu tư vào vốn con
người, vốn nhân lực, đầu tư cho phát triển, là yếu tố quyết định nâng cao khả năng
cạnh tranh của lao động, của sản phẩm, của doanh nghiệp và toàn bộ nền kinh tế,
thúc đẩy tăng trưởng, đặc biệt là trong điều kiện áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuậ
t
và công nghệ mới, đi vào kinh tế tri thức và hội nhập.
- Trong kinh tế thị trường, thực hiện công bằng xã hội về tiền lương và thu
nhập còn thể hiện ở việc thực hiện chính sách xã hội của tiền lương. Đó là chính
sách đối với nhóm lao động mà địa vị kinh tế của họ được coi là yếu kém hơn hoàn
toàn hoặc tương đối so với nhóm lao động khác trong xã hội; họ
không có khả năng
làm ra thu nhập đủ để bảo đảm cuộc sống đúng nghĩa với nhân phẩm con người,
như lao động dôi dư do cải cách, sắp xếp, cổ phần hóa DNNN; doanh nghiệp làm ăn
thua lỗ dẫn đến phá sản, người lao động có nguy cơ bị sa thải, mất việc làm; lao

động là người tàn tật; lao động nữ… Bởi vậy, Nhà nước có chính sách tiền lương và
thu nhập để hỗ tr
ợ họ hoặc chính sách điều tiết thu nhập hợp lý (thông qua thuế thu

24
nhập cá nhân và thuế thu nhập doanh nghiệp) để tạo nguồn chia sẻ xã hội cho các
đối tượng này thông qua chính sách an sinh xã hội và phúc lợi xã hội. Đây chính là
sự kết hợp giữa nguyên tắc tự do của thị trường (phi điều tiết) và nguyên tắc công
bằng xã hội trong tiền lương (điều tiết hợp lý). Thực hiện chính sách xã hội trong
tiền lương sẽ tác động tích cực đến ổn định xã hội, không m
ột người lao động nào bị
gạt ra bên lề xã hội, là yếu tố quan trọng thúc đẩy tăng trưởng bền vững. Tuy nhiên,
cần lưu ý rằng, trong vai trò là giá cả của lao động, tiền lương tạo ra sự kích thích
(động lực) tăng năng suất cá nhân. Song nếu thực hiện chính sách điều tiết thu nhập
không hợp lý sẽ làm giảm động lực kích thích tăng năng suất lao động cá nhân, gây
bất mãn đối v
ới các chủ doanh nghiệp, dẫn đến xu hướng giảm đầu tư mở rộng sản
xuất hoặc chuyển nguồn vốn đầu tư ra nước ngoài, sẽ tác động tiêu cực đến tăng
trưởng, tạo việc làm, thậm chí làm trì trệ nền kinh tế.
b. Thực hiện công bằng xã hội về tiền lương và thu nhập, góp phần phát
triển con người, nguồn nhân lực, là yếu tố quyết đị
nh thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
Trong xã hội hiện đại, con người và nguồn nhân lực (NNL) là nhân tố quyết
định sự tăng trưởng và phát triển bền vững. Phát triển con người có nội hàm rất
rộng, nhưng quan trọng nhất là phát triển nguồn lực con người (nguồn nhân lực)
đáp ứng yêu cầu của phát triển kinh tế - xã hội đất nước. Đó là sự phát triển con
người để đạt tớ
i con người trưởng thành, có năng lực hoạt động kinh tế, chính trị,
văn hòa, xã hội và sử dụng năng lực đó một cách hiệu quả. Tức là phải phát triển
năng lực nghề nghiệp của nguồn nhân lực và khai thác, huy động, phát huy có hiệu

quả nhất tiềm năng nguồn nhân lực vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội,
chuyển hóa nguồn nhân lực dưới dạng tiềm năng thành nguồn vốn – “v
ốn nhân
lực”, hay rộng hơn là “vốn con người”. Muốn vậy phải đầu tư vào con người, đầu
tư vào phát triển nguồn nhân lực chủ yếu thông qua giáo dục, đào tạo, dạy nghề.
Theo Garry Becker, nhà kinh tế người Mỹ (được giải thưởng Nobel năm 1992),
không có đầu tư nào mang lại nguồn lợi lớn như đâu tư vào nguồn nhân lực, đặc
biệt là đầu tư cho giáo dục (nghĩa r
ộng, bao gồm cả đào tạo, dạy nghề) nhằm phát
triển con người (nguồn nhân lực) có kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp, có nhân
cách, năng lực tạo việc làm và tìm việc làm, khả năng thích ứng với sự biến đổi
nhanh trong cả công nghệ và thực tiễn sản xuất kinh doanh, lao động có năng suất,
chất lượng và hiệu quả cao.

25
Thực hiện công bằng xã hội về tiền lương và thu nhập góp phần phát triển
con người, nguồn nhân lực chính là thực hiện một chính sách tiền lương, thu nhập
dựa trên quan điểm xuyên suốt: Coi tiền lương là sự đầu tư vào vốn con người,
vốn nhân lực, đầu tư cho phát triển.
Trong kinh tế thị trường, tiền lương, tiền công được coi là sự đầu tư ứng
trướ
c, đầu tư vào vốn con người, vốn nhân lực và sự hoàn trả giá rị lao động được
phản ánh thông qua giá trị việc làm đã được thực hiện. Giá trị việc làm lại phụ
thuộc vào tính chất kỹ thuật và công nghệ áp dụng cao hay thấp, vị thế kinh tế của
việc làm như thế nào, ví dụ vị trí việc làm trong quan hệ lao động, trong hệ thống
phân công lao động xã hội: quản lý (việc làm bậc cao), lao
động kỹ thuật (việc làm
bậc trung), nhân viên (việc làm bậc thấp). Tương ứng với nó là các yêu cầu về tri
thức, năng lực nghề nghiệp (nhất là kỹ năng nghề) và phẩm chất của người lao
động. Giá trị việc làm càng cao thì các mức trả lương, trả công càng cao. Sự khác

biệt trong các mức tiền lương, tiền công cá nhân là do sự khác biệt về trình độ tay
nghề và đào tạo, chính là sự hoàn trả cho sự
khác biệt về chi phí để đạt được các
mức độ đào tạo và kỹ năng tương ứng. Giống như các đầu tư khác, sự đầu tư hôm
nay cho phát triển nguồn nhân lực, sẽ được hoàn trả bằng tiền lương, tiền công cao
trong tương lai.
Trình độ phát triển của sản xuất càng cao, nhất là khi áp dụng kỹ thuật và
công nghệ mới, đi vào nền kinh tế tri thức đòi hỏ
i phải có một đội ngũ nhân lực
chất lượng và trình độ cao nhằm làm tăng hàm lượng lao động chất xám (hàm
lượng trí tuệ) trong sản phẩm để đủ sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và
quốc tế. Đối với lao động trí tuệ, xu hướng chung của thế giới là được trả lưởng,
trả công rất cao, tương xứng với sự đóng góp lao động của họ, vì lực l
ượng lao
động này quyết định tăng trưởng kinh tế cao và ổn định.
c. Thực hiện công bằng xã hội về tiền lương và thu nhập góp phần thúc đẩy
quan hệ lao động hài hòa, ổn định và tiến bộ trong doanh nghiệp, thu hút đầu tư
xã hội cho phát triển sản xuất kinh doanh và tăng trưởng kinh tế
Trong kinh tế thị trường hình thành và phát triển quan hệ lao động mới,
khác căn bản với nền kinh tế phi thị tr
ường và luôn gắn chặt với thị trường lao
động, nơi cung và cầu lao động tác động qua lại với nhau thông qua sự trao đổi
giữa một bên là người sử dụng lao động và một bên là người lao động làm công ăn

×