TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
KHOA LUẬT TÀI CHÍNH
BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ
BỘ MƠN: LUẬT TÀI CHÍNH
ĐỀ BÀI TẬP SỐ 9:
Vai trò của pháp luật thuế của nước ta hiện nay – các giải pháp chủ yếu
để phát huy vai trị đó trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường và
hội nhập quốc tế.
Họ và tên: Nguyễn Quang Huy
Lớp: N04.TL1
MSSV: 340225
1
A. Đặt vấn đề
Hơn 20 năm qua, Việt Nam thực hiện chính sách đổi mới kinh tế, mở cửa và
hội nhập, hệ thống chính sách thuế đã được cải cách và hồn thiện khơng ngừng để
đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước. Việc nghiên cứu vai trò của pháp
luật thuế và tìm ra các giải pháp để nâng cao những vai trị đó đó mang ý nghĩa rất
lớn trong việc nâng cấp hiệu lực của hệ thống pháp luật thuế. Từ đó, phục vụ cho
cơng cuộc cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế
trong giai đoạn tới.
B. Nội dung chính
I. Khái quát chung về pháp luật thuế
1. Định nghĩa
Quan niệm thu, nộp thuế giữa nhà nước và dân cư phải được thực hiện dựa
trên những căn cứ pháp lý nhất định, đó chính là pháp luật thuế. Việc đưa ra pháp
luật thuế nhằm phân định ranh giới giữa các nhóm quan hệ, qua đó lựa chọn áp
dụng các quy phạm pháp luật phù hợp, đạt được hiệu quả điều chỉnh cao. Do đó, ta
có định nghĩa về pháp luật thuế như sau: Pháp luật thuế là tổng hợp các quy phạm
pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình thu, nộp thuế giữa
cơ quan nhà nước có thẩm quyền và người nộp thuế nhằm hình thành nguồn thu
ngân sách nhà nước để thực hiện các mục tiêu xác định trước.
2. Đối tượng điều chỉnh
Việc đưa ra đối tượng điều chỉnh của luật thuế chỉ có ý nghĩa xác định rõ
những loại chủ thể với những đặc tính nhất định sẽ là đối tượng hướng tới hoặc cần
được bảo vệ bởi các văn bản pháp luật trong nước cũng như văn bản pháp luật
quốc tế về thuế. Căn cứ vào lĩnh vực hoạt động và nội dung hoạt động của các chủ
thể, đối tượng điều chỉnh của pháp luật thuế bao gồm: nhóm các quan hệ phát sinh
trong q trình quản lý thuế, nhóm các quan hệ phát sinh trong quá trình xử lý vi
phạm và khiếu nại về thuế. Trong đó, Nhà nước với tư cách là chủ thể quyền lực,
luôn là một bên tham gia quan hệ thuế và trực tiếp chi phối quan hệ đó. Các quan
2
hệ đều nhằm hướng tới việc chuyển giao bắt buộc một nguồn tài chính vào cho nhà
nước. Nguồn tài chính đó nhằm phục vụ lợi ích cơng cộng, điều chỉnh xã hội ở tầm
vĩ mơ.
II. Vai trị của pháp luật thuế
Thuế và nhà nước là hai phạm trù lịch sử ln đi cùng nhau, chi phối và phụ
thuộc nhau. Vì vậy, thuế vừa được hiểu là công cụ kinh tế hỗ trợ cho sự tồn tại của
nhà nước và bộ máy nhà nước; mặt khác, thuế lại được nhà nước sử dụng như là
công cụ để thực hiện nhiệm vụ mục tiêu nhất định. Mặc dù bất kỳ nhà nước có chủ
quyền nào cũng được quyền đánh thuế nhưng để nguồn thu từ thuế trở thành hiện
thực, nhà nước phải sử dụng pháp luật như là công cụ hữu hiệu và đặc thù nhất của
mình để giải quyết các mục tiêu định trước. Có thể chỉ ra các vai trị cơ bản của
pháp luật thuế như sau:
1. Pháp luật thuế tạo cơ sở pháp lý quan trọng và ổn định cho nguồn
thu, đáp ứng yêu cầu chi tiêu của nhà nước
Pháp luật thuế bao gồm các quy phạm pháp luật xác định quyền thu thuế của
nhà nước, nghĩa vụ nộp thuế của các chủ thể có điều kiện. Điều này có nghĩa
nguồn thu từ thuế chỉ có thể có được khi các bên thực hiện đúng quy định pháp luật
thuế. Trước hết, cần khẳng định nguồn thu từ thuế có vụ trí quyết định đến cơ cấu
nguồn thu ngân sách nhà nước. Khoản thu từ thuế chiếm khoảng 90% tổng thu
ngân sách nhà nước, phải đảm nhiệm cho hàng loạt các yêu cầu chi tiêu cho bộ
máy nhà nước, cho cộng đồng xã hội. Điều này lý giải cơ cấu cân đối ngân sách
nhà nước được pháp luật, thông qua điều 8 Luật ngân sách nhà nước: “Ngân sách
nhà nước được cân đối theo nguyên tắc tổng thu từ thuế, phí, lệ phí phải lớn hơn
tổng số chi thường xuyên và góp phần tích lũy ngày càng cao vào đầu tư phát
triển”. Do đó, mọi thay đổi về cơ cấu hệ thống luật thuế, nội dung từng luật thuế
đều ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả thu ngân sách nhà nước từ thuế. Vì vậy có thể
khẳng định vai trị pháp luật thuế trong việc tạo căn cứ pháp luật hình thành nguồn
thu ổn định cho ngân sách nhà nước.
3
2. Pháp luật thuế được sử dụng như một công cụ điều tiết kinh tế, thực
hiện đường lối trong một thời kì nhất định của nhà nước
Bằng hệ thống pháp luật thuế, nhà nước thể hiện ý chí của mình đối với
đường lối phát triển kinh tế một cách gián tiếp, thơng qua đó thực hiện cơng bằng
xã hội. Ngồi việc huy động nguồn thu cho ngân sách nhà nước. pháp luật thuế cịn
có vai trị quan trọng trong việc điều tiết vĩ mô đối với nền kinh tế, điều này được
ghi nhận thông qua điều 26 Hiến pháp: “Nhà nước thống nhất quản lý nền kinh tế
quốc dân bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách”. Là một bộ phận của pháp luật Việt
Nam, pháp luật thuế đóng vai trị là công cụ điều tiết vĩ mô của nhà nước. Điều tiết
đối với nền kinh tế là yêu cầu khách quan, thường xuyên của nhà nước trong nền
kinh tế thị trường. Thông qua quy định pháp luật thuế, nhà nước chủ động phát huy
vai trò điều tiết nền kinh tế. Điều này thể hiện ở chỗ pháp luật thuế là công cụ tác
động đến tư duy đầu tư, hành vi đầu tư của các chủ thể kinh doanh, hành vi tiêu
dùng của các thành viên trong xã hội. Dựa vào cơng cụ thuế, Nhà nước có thể thúc
đẩy hoặc hạn chế việc đầu tư, tiêu dùng bằng cách tăng thuế suất giá trị gia tăng,
thuế nhập khẩu… và ngược lại. Trong điều kiện cạnh tranh của nền kinh tế vận
hành theo cơ chế thị trường tất yếu dẫn đến tình trạng suy thối tài chính ở một số
doanh nghiệp. Đối với những ngành nghề, lĩnh vực sản xuất, kinh doanh cần
khuyến khích, ngồi các quy định chung, pháp luật thuế cịn có quy định ưu đãi
miễn giảm thuế nhằm khác phục suy thối về tài chính, tạo sự ổn định và phát triển
của các doanh nghiệp.
Hệ thống pháp luật thuế mới được áp dụng thống nhất chung cho mọi ngành
nghề nhằm đảm bảo bình đẳng và cơng bằng xã hội về quyền và nghĩa vụ đối với
mọi thể nhân và pháp nhân. Vai trò điều tiết thu nhập của pháp luật thuế thể hiện ở
sự tác động của pháp luật thuế đối với các quan hệ phân phối và sử dụng thu nhập
trong xã hội. Nhà nước sử dụng công cụ thuế để điều hịa vĩ mơ thu nhập trong xã
hội. Thông qua quy định của pháp luật thuế, Nhà nước điều tiết thu nhập các đối
4
tượng nộp thuế và các thành viên trong xã hội. Sự thay đổi của pháp luật thuế về
cơ cấu các loại thuế đều tác động đến thu nhập và sử dụng thu nhập trong xã hội.
3. Nhà nước có thể sử dụng công cụ pháp luật thuế để kiểm tra gián tiếp
hoạt động sản xuất kinh doanh
Các cơ quan quản lý thuế cùng với đối tượng nộp thuế buộc phải tuân thủ
những quy định ắn với chế độ chứng từ hóa đơn, nội dung kinh doanh, quy mơ
kinh doanh, hình thức kinh doanh… nhằm thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ thuế.
Điều đó cũng có nghĩa bằng việc quy định những vấn đề liên quan đến nghĩa vụ
thuế, nhà nước gián tiếp quản lí nền kinh tế, trên cơ sở đó có hệ thống pháp luật
ban hành, sửa đổi, bổ sung phù hợp định hướng trong từng giai đoạn phát triển của
đất nước. Mặt khác, thông qua việc kiểm tra việc tuân thủ pháp luật thuế, các cơ
quan nhà nước có thẩm quyền cũng có khả năng phát hiện và xử lí kịp thời những
hành vi vi phạm pháp luật thuế nói riêng và vi phạm trong q trình hoạt động gắn
với tư cách của đối tượng nộp thuế nói chung.
IV. Thực trạng pháp luật thuế ở nước ta hiện nay
Một vấn đề được đặt ra là, hiện nay đang xảy ra tình trạng thất thu thuế hàng
chục tỷ đồng mỗi ngày, nguyên nhân là do đâu: Luật đã lỗi thời hay chế tài chưa
nghiêm?
Luật thuế giá trị gia tăng (VAT) được ban hành từ năm 1997, quy định tất cả
các cá nhân, doanh nghiệp khi bán hàng phải xuất hóa đơn VAT cho khách mua
hàng. Thế nhưng, sau gần 13 năm có hiệu lực, nhiều cửa hàng bán lẻ, nhất là các
cửa hàng điện máy, nhà hàng có doanh số bán mỗi ngày lên đến hàng tỷ đồng vẫn
không thực hiện xuất hóa đơn cho khách hàng. Tháng 8-2009, qua phản ánh của
báo chí, Cục Thuế TP. Hồ Chí Minh đã thành lập đoàn kiểm tra thực hiện rà sốt
trên 2000 các doanh nghiệp có dấu hiệu vi phạm. Kết quả, Cục Thuế đã xử lý trên
600 doanh nghiệp, truy thu về cho nhà nước trên 22 tỷ đồng. Trong đó, có khơng ít
các doanh nghiệp “đại gia” có danh tiếng trong nước như công ty TMDV Phong
Vũ, Công ty CP Thương mại Nguyễn Kim... Có những doanh nghiệp cũng giao
5
“hóa đơn” cho khách hàng nhưng thực chất chỉ là “giấy chứng nhận giao nhận”,
cịn hóa đơn thuế VAT thì khơng có. Qua phản ánh của người tiêu dùng và người
dân trên địa bàn thì hiện nay số doanh nghiệp vi phạm kiểu như thế này là không
đếm xuể, việc chỉ xử phạt 4,5 triệu đồng đối với doanh nghiệp vi phạm là quá nhẹ.
Mặt khác, việc các doanh nghiệp vi phạm được là do người tiêu dùng chẳng quan
tâm lấy hóa đơn vì luật vẫn chưa bổ sung quyền lợi cho họ. Do đó nên chăng Bộ
Tài chính giao quyền cho doanh nghiệp tự in hóa đơn GTGT, khi đó doanh nghiệp
sẽ có trách nhiệm hơn với việc giao hóa đơn cho khách hàng, thay vì lịng vịng
qua nhiều khâu, dễ nảy sinh tiêu cực.
Theo khảo sát của Cục thuế TP. Hồ Chí Minh, hiện nay sau các đợt kiểm tra,
đã có một số doanh nghiệp chấn chỉnh, đã chịu xuất hóa đơn VAT khi bán hàng.
Tuy nhiên, trên thực tế vẫn còn nhiều trung tâm, siêu thị, cửa hàng, nhà hàng vẫn
thực hiện đối phó để qua mặt các cơ quan chức năng. Hiện nay theo quy định,
ngành thuế chỉ có chức năng kiểm tra, khơng có chức năng thanh tra. Trong khi
theo luật, trước khi đi kiểm tra, ngành thuế phải báo trước 3 ngày cho doanh
nghiệp, thời gian này đủ để doanh nghiệp sắp xếp, do đó rất khó phát hiện sai
phạm. Tuy nhiên, cơng tác kiểm tra, phát hiện gian lận, hàng giả, hàng nhái là hết
sức khó khăn. Muốn xử lý tận gốc những sai phạm về thuế VAT, Nhà nước cần
điều chỉnh hàng loạt các nghị định liên quan khơng cịn phù hợp với ngành thuế.
Theo luật pháp quy định hiện nay thì người tiêu dùng dù có cầm tờ hóa đơn VAT
trong tay cũng chẳng có giá trị. Nghĩa là họ cũng thờ ơ với việc nhận hóa đơn từ
doanh nghiệp. Do đó luật cũng phải bổ sung thêm vấn đề này để làm sao người tiêu
dùng được lợi từ việc yêu cầu doanh nghiệp thực hiện xuất hóa đơn GTGT.
Đối với luật thuế thu nhập cá nhân cũng có nhiều vấn đề cần quan tâm.
Trong những năm qua, việc thực thi pháp luật thuế thu nhập đối với người có thu
nhập cao đã đem lại những kết quả nhất định.
Một là, thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao góp phần tạo nguồn thu
ngày càng đáng kể cho ngân sách nhà nước. Theo số liệu dự toán ngân sách năm
6
2007, số thu từ thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao nhiều gấp 3 lần tổng
số thu các loại thuế về đất.
Hai là, thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao góp phần đảm bảo công
bằng xã hội. Quy định về ngưỡng chịu thuế suất dương (tức là mức thu nhập bắt
đầu phải đóng thuế với mức thuế suất lớn hơn 0%) được đánh giá là phù hợp với
sự gia tăng mức thu nhập bình quân, nên thuế thu nhập đối với người có thu nhập
cao đã góp phần làm giảm khoảng cách giàu nghèo đang có xu hướng gia tăng,
nhất là ở khu vực thành thị. Bên cạnh đó, những khoản thu từ thuế, trong đó có
thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao, sẽ đảm bảo cho Nhà nước có khả
năng cung cấp ngày càng tốt hơn các khoản chi phúc lợi xã hội, giúp cho những
người nghèo cơ hội có được mức sống cải thiện hơn.
Ba là, thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao là sự chuẩn bị cần thiết
trước khi triển khai thuế TNCN một cách toàn diện. Việc áp dụng thuế thu nhập
đối với người có thu nhập cao trong nhiều năm qua đã làm cho người dân “quen”
dần với loại thuế này. Tâm lí quen thuộc cùng với những hiểu biết ngày càng nhiều
hơn về thuế TNCN cũng như trách nhiệm công dân trong việc thực thi nghĩa vụ
thuế sẽ góp phần đáng kể cho quá trình triển khai hiệu quả Luật thuế TNCN trong
tương lai khơng xa. Bên cạnh đó, những kinh nghiệm quý trong việc thực thi thuế
thu nhập đối với người có thu nhập cao sẽ giúp cho các cơ quan quản lí nhà nước
trong việc quản lí thu nhập và quản lý quy trình thu nộp thuế, đảm bảo hạn chế
phát sinh tiêu cực khi Luật thuế TNCN được triển khai thực hiện (khi đó, sẽ có số
lượng chủ thể nộp thuế đông đảo hơn hiện nay, do vậy việc quản lý thuế sẽ phức
tạp hơn).
Bên cạnh những thành tựu đạt được, trong thời gian qua việc thực hiện pháp
luật thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao còn bộc lộ nhiều bất cập. Trong
nội dung bài viết này, xin được đề cập những hạn chế chủ yếu sau đây:
- Thứ nhất, những quy định pháp luật hiện hành về thuế TNCN còn nhiều bất
cập. Những bất cập này sẽ được đề cập trong phần sau của bài viết này.
7
- Thứ hai, việc quản lí thu nhập của cá nhân hiện nay cịn nhiều hạn chế, do đó
cơ quan thuế khơng có khả năng kiểm sốt tốt TNCN, dẫn đến có nhiều trường hợp
trốn, lậu thuế.
Một trong những nguyên nhân cơ bản là hiện nay nước ta chưa có hệ thống
các quy định pháp lí cần thiết để minh bạch thu nhập. Với những cố gắng rất lớn
của cơ quan lập pháp, Luật phòng, chống tham nhũng ngày 9/12/2005 đã ra đời và
có hiệu lực ngày 01/6/2006, gần đây được cụ thể hoá bằng Nghị định số
37/2007/NĐ-CP ngày 9/3/2007. Những văn bản này đã tạo cơ sở pháp lí để một số
chủ thể phải có nghĩa vụ kê khai tài sản, góp phần kiểm sốt thu nhập. Tuy nhiên,
cần nhấn mạnh rằng, các văn bản này nhằm kiểm soát và ngăn chặn những thu
nhập không hợp pháp chứ không phải nhằm quản lí nguồn thu nhập hợp pháp để
xác định nghĩa vụ nộp thuế. Do đó, những chủ thể có nghĩa vụ kê khai thu nhập rất
hẹp, chỉ bao gồm những chức danh quan trọng trong bộ máy nhà nước. Từ đó có
thể khẳng định, hệ thống những quy định nhằm quản lí thu nhập chịu thuế thu nhập
hiện còn rất sơ sài.
- Thứ ba, ý thức của nhân dân về thuế TNCN vẫn còn thấp. Ở những quốc gia
phát triển, thuế TNCN đã có lịch sử hàng trăm năm và do đó người dân cảm thấy
quen với nghĩa vụ đóng thuế. Ở Việt Nam, mặc dù thuế lợi tức cá nhân đã từng
được chính quyền Bảo Đại và sau đó là chính quyền Việt Nam cộng hồ áp dụng
(đối với khu vực phía nam) nhưng sau đó bị bãi bỏ nên hiện nay người dân chưa
quen với tâm lí là người nộp thuế. Chính vì vậy, trừ những trường hợp khấu trừ
thuế tại nguồn được các tổ chức chi trả thu nhập thực hiện đối với thu nhập của
những người làm công ăn lương hoặc người cung cấp dịch vụ, còn lại những cá
nhân hành nghề tự do thường không thực hiện nghĩa vụ kê khai và nộp thuế. Bên
cạnh đó, thói quen sử dụng tiền mặt trong thanh toán của người Việt Nam được coi
là một trở ngại đáng kể cho cơng tác hành thu thuế nói chung và đối với thuế
TNCN nói riêng. Việc sử dụng tiền mặt phổ biến làm cho công tác giám sát thu
nhập của cơ quan chức năng bị hạn chế, đồng thời tạo cơ hội cho các chủ thể che
8
giấu nguồn thu nhập hoặc dịch chuyển tài sản, từ đó khơng khai báo để nộp thuế
theo quy định
IV. Giải pháp chủ yếu để phát huy vai trò của pháp luật thuế trong điều kiện
phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế
1. Về tên gọi của sắc thuế
Với luật thuế thu nhập doanh nghiệp, nếu chiếu theo tên gọi là thuế thu nhập
doanh nghiệp, thì thuế này chỉ đánh vào thu nhập của những chủ thể là: “doanh
nghiệp”; trong khi thực chất phạm vi điều chỉnh của sắc thuế này lại rộng hơn: đó
là điều chỉnh đối với tất cả các chủ thể kinh doanh. Nói cách khác yếu tố kinh
doanh quyết định và chi phối nghĩa vụ thuế thu nhập của một chủ thể. Mặc dù đây
khơng phải là vấn đề mang tính bản chất, nhưng thiết nghĩ để hoàn thiện một cách
đồng bộ pháp luật thuế TNDN, nên chăng định danh sắc thuế này là: thuế thu nhập
kinh doanh nếu như chúng ta vẫn giữ nguyên phạm vi điều chỉnh của thuế TNDN
như hiện nay. Do đó, vấn đề đặt tên cho luật cũng là một điều hết sức quan trọng,
nó phản ánh được phần nào đối tượng điều chỉnh của luật, nên cần cân nhắc để lựa
chọn tên gọi phù hợp cho sắc thuế.
2. Về phạm vi điều chỉnh của thuế
2.1. Xác định đối tượng nộp thuế
Một chủ thể tham gia vào quan hệ thuế với tư cách là đối tượng nộp thuế khi
họ tiến hành một hoặc nhiều hoạt động kinh doanh. Vì thế việc quy định đối tượng
nộp thuế theo cách liệt kê như hiện nay là khơng cần thiết vì làm mất đi tính linh
hoạt của một sắc thuế, đặc biệt là trong trường hợp xuất hiện những loại hình kinh
doanh mới. Khi có sự thay đổi về loại hình kinh doanh có thể dẫn đến bất cập trong
quy định pháp luật thuế, đặc biệt là thuế thu nhập doanh nghiệp. Điều quan trọng là
pháp luật thuế phải ghi nhận và chỉ rõ thế nào là hoạt động sản xuất, kinh doanh để
làm tiêu chí xác định đối tượng nộp thuế. Chúng ta có thể tham khảo Luật thuế
cơng ty của Anh quy định “thuế thu nhập công ty áp dụng đối với các chủ thể có
hoạt động sản xuất, kinh doanh và loại trừ những đối tượng không nộp thuế này bao
9
gồm công ty và thành viên công ty hợp danh (partnership), các tổ chức chính quyền
điạ phương”. Với cách quy định như vậy sẽ tạo điều kiện mở rộng đối tượng thu, là
xu hướng đổi mới hệ thống thuế hiện nay.
2.2. Quản lí các khoản chi
Hiện nay nhà nước quản lý các khoản chi bằng hình thức khống chế mức
chi. Điều này dễ trở nên chủ quan và mang tính áp đặt, không thể áp dụng linh hoạt
giữa các ngành nghề khác nhau (như chi phí tiếp thị, quảng cáo). Nếu quy định chi
tiết thì gây phức tạp, khơng tránh khỏi bất hợp lý. Thiết nghĩ, thay vì đưa ra mức
khống chế chúng ta nên đưa ra nguyên tắc nhất định phù hợp với mỗi loại chi phí.
Bất kỳ chủ thể kinh doanh nào cũng muốn tìm lợi nhuận, muốn đánh giá được hiệu
quả kinh doanh thì phải phản ánh trung thực trên báo cáo tài chính. Như vậy muốn
biết khoản chi của doanh nghiệp có là hiện thực hay khơng có thể căn cứ vào sổ
sách, chứng từ kế toán. Để làm được điều này trong thời điểm hiện nay, nên:
+) Tăng mức độ xử phạt để đủ sức răn đe đối với hành vi vi phạm về thuế.
+) Tăng cường quản lý số tiền mua bán được thanh tốn thơng qua hệ thống
ngân hàng. Muốn vậy phải có cơ chế khuyến khích, ràng buộc các chủ thể mở và
thanh toán qua ngân hàng (mới được quyết toán thuế, hoàn thuế, nhận tiền…).
+) Áp dụng thống nhất phương pháp tính thuế, tiến tới khơng cịn hình thức
khốn thuế để tránh trường hợp một số hóa đơn chứng từ của chủ thể kinh doanh
áp dụng hình thức khốn thuế khơng cần sử dụng và sẽ chuyển cho đối tượng nộp
thuế theo phương pháp thông thường dùng để kê khai chi phí.
+) Cần có cơ chế khuyến khích người mua hàng là người tiêu dùng nhận hóa
đơn mua hàng. Các quy định nghĩa vụ thuế phải có cơ chế tác động tiêu cực đến lợi
ích vật chất của người tiêu dùng nếu họ khơng lấy hóa dơn mua hàng. Có như thế
người tiêu dùng mới nhận thức được sự cần thiết của việc tập hợp hóa đơn mua
hàng hóa, dịch vụ. Ở các nước phát triển, hóa đơn chứng từ là cơ sở tính chi phí
sinh hoạt, tiêu dùng được chước giảm khi tính thuế thu nhập cá nhân.
10
+) Cần nghiên cứu đưa thêm một số khoản lỗ và chi phí vào danh mục chi
phí được khấu trừ để bảo vệ quyền lợi của các chủ thể nộp thuế: như chi phí thu
tiền phạt, chi phí mua bán chứng khốn, chi phí cho hoạt động liên doanh, chi phí
mua bán ngoại tệ, lỗ do chuyển nhượng tài sản cố định.…
3. Vấn đề thuế suất
Nhiều ý kiến cho là mức thuế suất thông thường ta đang áp dụng là khá cao,
làm giảm khả năng tích lũy để đầu tư đổi mới cơng nghệ, bắt kịp trình độ sản xuất
của các nước trong khu vực, đặc biệt là đối với doanh nghiệp trước đây áp dụng
thuế suất thuế lợi tức thấp hơn. Ngồi ra, thuế suất cao cịn làm giảm lợi thế cạnh
tranh giữa các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài. Mặt khác so với các nước
trong khu vực thuế suất thuế của họ thấp hơn so với Việt Nam, một số còn bãi bỏ
thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài. Các doanh nghiệp trong nước lại phải đối
diện với cuộc cạnh tranh gay gắt. Trong khi đó khơng ít các chi phí đầu vào hiện
nay tăng giá.
Việc quy định khác nhau về thuế suất giữa doanh nghiệp trong nước và
doanh nghiệp có vốn nước ngồi là sự bất bình đẳng. Thực tế cho thấy số thu thuế
TNDN từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi là rất thấp, trong khi đó các
thành phần kinh tế khác giữ vai trị chủ yếu trong đóng góp ngân sách nhà nước lại
không được quan tâm. Vậy việc thuế TNDN khuyến khích đầu tư nước ngồi cũng
cần phải xem xét lại và khơng nhất thiết phải quy định q thống như hiện nay.
Theo nhiều nhà đầu tư nước ngoài, điều họ quan tâm hơn mức thuế suất thuế
TNDN là môi trường đầu tư thuận lợi (cơ sở hạ tầng, điều kiện làm việc, cơ chế
pháp lý, bộ máy chính quyền…). Có cạnh tranh bình đẳng thì mơi trường đầu tư
mới thơng thống và khơng có tình trạng sách nhiễu, lợi dụng để gây khó dễ cho
nhà đầu tư. Thiết nghĩ áp dụng thuế suất bổ sung như hiện nay nếu chỉ dựa vào tỉ
suất lợi nhuận so với vốn thì khơng phản ánh đúng mục đích điều tiết thêm của
thuế suất bổ sung là điều tiết đối với doanh nghiệp do có lợi thế khách quan (ngành
hàng ít bị cạnh tranh, địa điểm kinh doanh thuận lợi) nhưng tiêu chí xác định lợi
11
thế khách quan khơng rõ ràng, khó xác định, trừu tượng vì vậy mục tiêu của thuế
suất bổ sung hiện nay là không đạt được, làm triệt tiêu ý muốn sản xuất, kinh
doanh tạo nhiều thu nhập. Vì thế, có thể bỏ thuế TNDN bổ sung hoặc nếu vẫn duy
trì thì nên tiến đến áp dụng thuế suất bổ sung đối với tất cả các đối tượng nộp thuế,
khơng có sự phân biệt về loại hình kinh doanh. Khi vận dụng thì cần có quy định
về căn cứ đánh giá lợi thế khách quan mang lại lợi nhuận cao làm cơ sở điều tiết
thuế TNDN bổ sung và quy định về thẩm quyền xác định căn cứ này. Điều này góp
phần tạo mơi trường pháp lý đảm bảo cạnh tranh bình đẳng và chống độc quyền.
Vấn đề đặt ra là, nếu như lấy nguồn lực trong nước làm tiền đề phát triển,
vậy tại sao chúng ta khơng dành chính sách ưu đãi cho đơn vị ngoài quốc doanh
với tiềm năng phát triển của mình sẽ trở thành trụ cột trong việc phát triển kinh tế.
Nghị quyết Hội nghị TW 5 khóa IX cũng nhấn mạnh “phát triển mạnh kinh tế tư
nhân là vấn đề chiến lược lâu dài trong phát triển nền kinh tế nhiều thành phần
định hướng XHCN, góp phần quan trọng trong việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ
trung tâm là phát triển kinh tế, cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, nâng cao nội lực của
đất nước trong hội nhập kinh tế quốc tế”. Do đó, ta khơng nên có sự phân biệt đối
xử về mức thuế suất giữa 2 nhóm chủ thể như hiện nay. Thuế suất chung thống
nhất là tiền đề cho việc không phân biệt đối xử giữa các loại hình kinh doanh như
hiện nay. Tiếp theo là hạ mức thuế suất để thu được nhiều hơn, phù hợp với xu thế
thế giới và tương tự như các nước trong khu vực. Mức thuế suất chung 28% hiện
nay đang được quan tâm xem xét. Nếu mức thuế suất này được áp dụng chung phổ
biến thì sẽ làm giảm thu NSNN 2.700 tỷ đồng/năm, nhưng nó lại có khả năng thu
hút đầu tư nước ngồi mà vẫn bảo đảm bình đẳng đối với doanh nghiệp trong
nước. Nếu như kết hợp đồng thời với việc bỏ thuế suất ưu đãi và giới hạn chế độ
miễn giảm thì việc giải quyết vấn đề giảm thu NSNN là có thể thực hiện được. Tuy
nhiên ở đây chúng tôi không đề nghị một mức thuế suất cụ thể vì thiết nghĩ điều đó
cần có sự nghiên cứu kỹ về mức độ tác động của thuế suất lên toàn diện đời sống
kinh tế – xã hội.
12
Như thế, chúng ta cũng chỉ nên giữ một mức thuế suất cơ bản, chuyển các
mức thuế suất ưu đãi thành chế độ miễn giảm thuế. Bản chất của thuế suất ưu đãi là
giảm thuế suất. Giảm thuế suất là giảm mức độ điều tiết của nhà nước đối với đối
tượng chịu thuế. Mức độ ưu đãi đã xác định nên không đồng nghĩa với giảm thu
NSNN. Thuế TNDN của chúng ta hiện nay khơng có sự khác biệt giữa chế độ
miễn giảm và giảm thuế suất: đều có mục đích khuyến khích, động viên, hỗ trợ.
Cho nên, nếu chỉ là khuyến khích, hỗ trợ thì nên chăng chỉ cần dùng chế độ miễn
giảm với tỉ lệ miễn giảm, thời gian miễn giảm, và điều kiện miễn giảm hợp lý.
4. Về việc thực hiện chế độ miễn giảm thuế
Vấn đề quy định miễn giảm đối với đơn vị mới thành lập đã bị một số chủ
thể kinh doanh lợi dụng. Khi thời hạn hưởng chế độ miễn giảm thuế kết thúc họ
chuyển sang kê khai khơng có lãi hoặc thành lập doanh nghiệp mới. Các văn bản
hướng dẫn mặc dù có quy định khơng áp dụng miễn giảm thuế đối với các cơ sở
sát nhập, chia tách chuyển đổi hình thức hoạt động nhưng vẫn bị lách bằng hình
thức thành lập mới .
Nên chăng thống nhất chế độ miễn giảm thuế bằng cách chỉ quy định chế độ
miễn giảm trong luật thuế. Ở các luật chuyên ngành khác như luật đầu tư nước
ngồi, luật khuyến khích đầu tư trong nước chỉ nên ghi nguyên tắc ưu đãi, hoặc chỉ
đơn giản là danh mục các ngành nghề cần ưu đãi khuyến khích. Bỏ quan điểm như
lâu nay là nếu đầu tư bị giảm sút, hoặc khi ban hành luật chuyên ngành lại có quy
định ưu đãi riêng. Điều đó làm mất đi ý nghĩa của chế độ miễn giảm, mục đích
điều tiết của thuế và cào bằng ưu đãi. Do vậy cần rà soát lại văn bản luật thuế hoặc
những luật chuyên ngành liên quan để loại bỏ những nội dung trùng lắp này, đảm
bảo sự thống nhất về mặt hình thức và lơ gích hơn về mặt nội dung.
Mặt khác, chúng ta cần cân nhắc và chọn lựa nội dung miễn giảm thuế. Các
nước Đông Nam Á (Indonesia, Malaysia, Thái Lan) đã chứng minh rằng việc điều
tiết hoạt động đầu tư thơng qua chế độ miễn giảm là rất khó khăn và hạn chế, vì
thực tế miễn giảm chỉ có ý nghĩa khi có thu nhập. Do đó, miễn giảm là yếu tố hấp
13
dẫn nhưng không phải là yếu tố quyết định đầu tư. Như vậy, thay vì hỗ trợ các
doanh nghiệp mới thành lập bằng biện pháp miễn giảm thuế ta nên chuyển sang
biện pháp hỗ trợ tài chính khác.
Ngồi ra ta cần có sự phối hợp giữa cơ quan chức năng đặc biệt là cơ quan
đăng ký kinh doanh và cơ quan thuế trong việc kiểm soát các doanh nghiệp mới
thành lập, tránh tình trạng lợi dụng quy định miễn thuế cho doanh nghiệp mới
thành lập, hoặc thành lập ở những vùng kinh tế ưu đãi nhưng thực tế mọi hoạt động
lại diễn ra trên địa bàn các địa phương khác để trốn tránh thuế .
5. Vấn đề chuyển giá
Tình trạng thất thu thuế do chuyển giá ở các doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngồi bằng cách nâng giá đầu vào đối với vật tư nguyên liệu và hạ giá mua
sản phẩm xuất khẩu, phân bổ chi phí của cơng ty mẹ ở Việt Nam. Theo tổng kết 10
năm thực hiện Luật đầu tư nước ngồi tại Việt Nam thì tại TP.HCM số thuế lợi tức
thu từ khu vực đầu tư nước ngoài chiếm tỷ lệ thấp là 12,15% so với thành phần
kinh tế khác. Đến năm nay tỷ lệ này vẫn khơng khả quan hơn. Tỷ lệ doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngồi khai khơng có lãi năm 1999 chiếm 73,82% (251/340) và
năm 2000 chỉ có 180/426 doanh nghiệp kê khai có lãi (Nguồn: Cục thuế TPHCM).
Quy định về chuyển giá hiện nay mang nặng tính nghiệp vụ với mục đích xác định
lại giá mà chưa có quy định cụ thể về điều kiện và trách nhiệm trong việc thực hiện
biện pháp này. Khơng có quy định nào buộc doanh nghiệp thực hiện chuyển giá
phải chịu trách nhiệm pháp lý cho hành vi của mình. Biện pháp chuyển giá hiện chỉ
áp dụng đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi có các đơn vị liên kết.
Trong khi đó, doanh nghiệp trong nước cũng thực hiện chuyển giá từ doanh nghiệp
đang hoạt động sang doanh nghiệp mới thành lập hoặc đang được hưởng ưu đãi
thuế hay ngược lại. Doanh nghiệp đang hoạt động sẽ chấp nhận bán lỗ để chuyển
thu nhập sang doanh nghiệp đang hưởng ưu đãi. Như vậy ở những doanh nghiệp
này mặc dù có thu nhập nhưng được miễn hay giảm thuế nên tránh được thuế một
cách hợp pháp. Chính vì chưa có quy chế xử phạt, xác định trách nhiệm rõ ràng
14
nên việc chuyển giá hiện nay chưa được kiểm soát một cách có hiệu quả. Các biện
pháp chống chuyển giá hiện mới chỉ được ghi nhận tại thông tư 13/BTC-8/3/2001.
Trong khi đó thực tế chuyển giá cịn xảy ra rất đa dạng ở các loại hình kinh doanh
khác. Do đó, để thực hiện biện pháp chống chuyển giá có hiệu quả chúng ta cần
lưu tâm các vấn đề sau:
- Cần có quy định căn cứ bắt buộc áp dụng biện pháp chống chuyển giá.
- Mở rộng phạm vi áp dụng biện pháp chuyển giá đối với các đơn vị liên kết
trong nước mà thực tế hiện nay xảy ra rất nhiều hiện tượng chuyển giá.
- Cần quy định biện pháp xử lý đối với cán bộ thuế chuyên quản nếu bỏ qua
hành vi chuyển giá ở các đơn vị mình quản lý và đối với các đơn vị có hành vi
chuyển giá. Theo kinh nghiệm của các nước OEDC thì các doanh nghiệp sẽ bị phạt
tỷ lệ rất cao trên khoản chênh lệch chuyển giá (khoảng 25%-40%).
6. Về vấn đề quản lý thuế
Từ khi ban hành đến nay, Luật Quản lý Thuế đã phát huy tác dụng tốt đến
công tác quản lý thuế của cơ quan thuế cũng như ý thức chấp hành của người nộp
thuế trong việc thực thi chính sách, pháp luật thuế; thể hiện rõ qua chất lượng, hiệu
quả công tác quản lý. Việc cấp đăng ký thuế tăng liên tục qua các năm; việc khai
thuế, tính thuế của các doanh nghiệp đã có nhiều tiến bộ; tỷ lệ hồ sơ khai thuế đúng
hạn đạt 98%... Công tác kiểm tra thuế ngày càng bảo đảm công bằng, công khai,
minh bạch. Từ khi thực hiện Luật Quản lý Thuế đến cuối năm 2010, ngành Thuế
thành phố Hà Nội đã thực hiện thanh tra thuế tại 344 doanh nghiệp; số truy thu đạt
trên 125 tỷ đồng…
Qua thực hiện Luật, báo cáo đánh giá cho rằng, vẫn còn những tồn tại,
vướng mắc trong chấp hành các quy định pháp luật về thuế như hệ thống văn bản
pháp luật về thuế cịn q nhiều; tính hiệu lực ở một số điểm của quy định pháp
luật không cao; một số doanh nghiệp lợi dụng nhằm chây ỳ, trốn tránh nghĩa vụ
thuế; một số cơ chế, chính sách liên quan khơng đồng bộ… Từ đó, cần hồn thiện
chính sách pháp luật về quản lý thuế; trong đó cần hồn thiện nội dung quản lý
15
thuế đối với Thuế Thu nhập cá nhân và các sắc thuế khác để hệ thống chung vào
một văn bản hướng dẫn thực hiện; cần ban hành những quy định mang tính pháp
quy trong việc phối hợp đơn đốc nợ thuế; có văn bản hướng dẫn riêng về quản lý
thuế đối với hoạt động kinh doanh bất động sản…
Về tổ chức thực hiện, cần sửa đổi Luật Quản lý Thuế theo hướng rõ ràng
trong thực hiện; đổi mới nội dung và hình thức về thanh tra, kiểm tra thuế; hồn
thiện bộ máy, nâng cao năng lực, phẩm chất đạo đức đội ngũ cán bộ quản lý thuế;
xử lý nghiêm khắc các tổ chức, cá nhân chây ỳ, trốn tránh nghĩa vụ thuế.
C. Kết luận
Nhận thức được tầm quan trọng của pháp luật thuế đối với nền kinh tế hiện
nay, Nhà nước ta cần có những biện pháp khắc phục những lỗ hổng của pháp luật
thuế hiện nay, khơng ngừng hồn thiện pháp luật thuế, tránh trình trạng lách luật,
trốn thuế, dẫn đến thất thu nguồn thu của ngân sách nhà nước, gây ảnh hưởng
không nhỏ cho sự phát triển kinh tế của đất nước ta trong thời kì cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước hiện nay. Chiến lược phát triển kinh tế năm 2001-2010 được
nêu trong Văn kiện Đại hội Đảng: “Tạo mơi trường pháp lý bình đẳng, thuận lợi
cho các doanh nghiệp cạnh tranh, hợp tác để phát triển; tiếp tục cải cách hệ thống
thuế phù hợp theo hướng đơn giản, thống nhất, không phân biệt đầu tư trong nước,
đầu tư nước ngồi, ni dưỡng nguồn thu, hiện đại hóa cơng tác thu thuế của nhà
nước”. Điều đó cho thấy pháp luật thuế không thể tách riêng khỏi hệ thống pháp
luật và địi hỏi chủ trương hồn thiện của Đảng và nhà nước. Vì thế những thay đổi
căn bản này sẽ góp phần đưa cơng cụ thuế nói trở thành công cụ hữu hiệu điều tiết
nền kinh tế phù hợp với chiến lược phát triển lâu dài trong thời gian tới ở VN.
16
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Giáo trình Luật thuế Việt Nam – Trường ĐH Luật – Nxb. Tư Pháp
2. Luật Ngân sách nhà nước 2002
3. Hiến pháp 1992
4. Luật quản lý Thuế 2006
5. Luật thuế GTGT 2008 (bổ sung, sửa đổi)
6. Luật thuế thu nhập doanh nghiệp 2008 (bổ sung, sửa đổi).
7. TẠP CHÍ KHOA HỌC PHÁP LÝ SỐ 2/2003
8. TẠP CHÍ LUẬT HỌC SỐ 10/2007
9. Một số tài liệu mạng có liên quan.
17