Tải bản đầy đủ (.pdf) (274 trang)

Đề tài : Quản lý công mới và việc ứng dụng vào nền hành chính Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.03 MB, 274 trang )

Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh






Báo cáo tổng hợp kết quả nghiên cứu
Đề tài khoa học cấp Bộ năm 2010



Tên đề tài: Quản lý công mới và việc ứng dụng
vào nền hành chính Việt Nam
Mã số: B.10-34

Cơ quan chủ trì: Học viện Hành chính
Chủ nhiệm: ThS. Đoàn Văn Dũng
Th ký: ThS. Phùng Thị Phong Lan






8269


H Nội - 2010
Lực lợng nghiên cứu


TT Họ và tên Đơn vị công tác
1 PGS.TS. Lê Thị Vân Hạnh Học viện Hành chính
2 ThS. Hoàng Vĩnh Giang Học viện Hành chính
3 ThS. Trần Thị Cẩm Hồng Học viện Hành chính
4 CN. Phùng Thanh Liêm Học viện Hành chính
5 ThS. Trần Văn Ngợi Viện Khoa học Tổ chức Nhà nớc, Bộ Nội vụ
6 ThS. Nguyễn Thị Hồng Nhung Học viện Hành chính
7 ThS. Chu Tuấn Tú Viện Khoa học Tổ chức Nhà nớc, Bộ Nội vụ
8 TS. Trần Anh Tuấn Viện Khoa học Tổ chức Nhà nớc, Bộ Nội vụ

MụC LụC
Trang
Phần mở đầu 1
Chơng 1 - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về quản lý công mới 8
1.1. Nhận thức chung về quản lý công mới 8
1.1.1. Quan niệm về quản lý công mới 9
1.1.2. Các đặc trng của quản lý công mới 13
1.1.3. Các nội dung cấu thành quản lý công mới 18
1.1.4. Những u điểm và hạn chế của quản lý công mới 27
1.2. Những thành tựu của quản lý công mới ở các quốc gia trên thế giới và
kinh nghiệm cho Việt Nam
33
1.3. Sự cần thiết phải áp dụng mô hình quản lý công mới vào nền hành chính
Việt Nam
42
Chơng 2 - Các định hớng và giải pháp áp dụng quản lý công mới vào
nền hành chính Việt Nam
56
2.1. Đánh giá kết quả áp dụng một số nội dung quản lý công mới ở Việt Nam 56
2.2. Các quan điểm về việc ứng dụng quản lý công mới vào nền hành chính

Việt Nam
72
2.3. Các định hớng ứng dụng quản lý công mới 75
2.4. Các giải pháp ứng dụng quản lý công mới vào nền hành chính Việt Nam 75
2.4.1. Nâng cao nhận thức của cán bộ lãnh đạo, quản lý và cán bộ, công chức
về vai trò của quản lý công mới trong cải cách hành chính
78
2.4.2. Hoàn thiện hệ thống pháp luật về công vụ ở nớc ta 78
2.4.3. Hoàn thiện chu trình công vụ 90
2.4.4. áp dụng các nguyên tắc xây dựng và cải cách thể chế của quản lý công
mới

91
2.4.5. Xây dựng các tiêu chí đánh giá hiệu quả, kết quả đầu ra của hoạt động
quản lý nhà nớc
93
2.4.6. Chuyển quản lý nhân sự hành chính sang quản lý nguồn nhân lực hành
chính
104
2.4.7. Đẩy mạnh xã hội hóa dịch vụ công 115
2.4.8. Mở rộng việc áp dụng các hình thức hoạt động của khu vực t vào hành
chính công
119
2.4.9. Xây dựng lộ trình phân cấp quản lý phù hợp cho các cấp chính quyền 123
2.4.10. Xây dựng hệ thống thể chế tạo điều kiện cho khu vực ngoài tham gia
vào hoạt động quản lý nhà nớc
124
Kết luận 129
Tài liệu tham khảo 130



1
PHầN Mở ĐầU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thập kỷ 80 và những năm đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX rất nhiều nớc trên
thế giới đặt vấn đề xem xét lại khu vực công về quy mô và khả năng điều hành sự
phát triển của đất nớc, đặc biệt một số nớc nh Anh, Mỹ. Các cuộc cải cách lớn
trong khu vực công đã diễn ra. Tác động của các cuộc cải cách này không chỉ là
những thay đổi lớn đơn thuần mà đó chính là những thay đổi trong nhận thức của
xã hội về vai trò của khu vực công và cách thức điều hành. Cách tiếp cận hớng đến
kết quả đầu ra, hiệu quả quản lý, phân cấp, phân quyền, áp dụng các yếu tố của thị
trờng vào nền hành chính trở thành một xu thế lớn của các nền hành chính ở các
nớc phát triển. Những thay đổi lớn này chính là sự dịch chuyển từ mô hình hành
chính công truyền thống sang mô hình quản lý công.
ở nớc ta, cùng với sự phát triển của đời sống kinh tế - xã hội, yêu cầu hội
nhập kinh tế quốc tế, nền công vụ đã từng bớc đợc đổi mới. Xu hớng hội nhập,
dân chủ hoá mọi mặt đời sống nhà nớc và xã hội, mục tiêu xây dựng nhà nớc
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân đã đặt ra
yêu cầu cần nhìn nhận lại những quan điểm nhận thức về nhà nớc, về bản chất của
hoạt động hành chính. Bộ máy hành chính phải trở thành các cơ quan xã hội, từ bỏ
"địa vị" cai quản, cai trị của mình thành các thiết chế phục vụ xã hội, phục vụ nhân
dân. Có nh vậy mới đúng bản chất nhà nớc của nhân dân, do nhân dân và vì nhân
dân. Điều này đòi hỏi khi đa ra các chính sách, các quy tắc thể chế, các hành động
thực tiễn các cơ quan hành chính nhà nớc đều phải trả lời chính sách, thể chế đó
và các hoạt động đó là vì nhân dân hay vì chính bản thân bộ máy hành chính. Bộ
máy hành chính và cả đội ngũ cán bộ, công chức hành chính nhà nớc không tồn
tại vì những mục đích tự thân của nó, mà phải vì lợi ích nhân dân, lợi ích cộng
đồng. Việc cán bộ, công chức phục vụ cho những lợi ích hợp pháp của nhân dân
cũng là một lẽ đơn giản vì nhân dân là những ng
ời đóng thuế nuôi dỡng bộ máy

đó. Với cách nhìn này thì nhân dân là khách hàng của nền hành chính, họ là ngời
đánh giá khách quan và công tâm nhất về sự phục vụ của nhà nớc, của bộ máy
hành chính.

2
Có thể nói, những đổi mới to lớn trong nền công vụ nớc ta trong những năm
qua đã góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nớc trên các phơng
diện, góp phần vào sự phát triển chung của đất nớc. Tuy nhiên, nền hành chính
của nớc ta nhìn chung vẫn còn nhiều dấu ấn của hành chính công truyền thống,
mô hình quản lý công mới cha đợc thể hiện rõ trong các hoạt động công vụ. Mặt
khác, những yếu tố của mô hình quản lý công mới đợc áp dụng ở Việt Nam cũng
cần đợc nghiên cứu, đánh giá hiệu quả thực sự và đa ra các định hớng điều
chỉnh. Yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi nền hành chính cần có sự chuyển
mình mạnh mẽ, vận động theo mô hình quản lý công mới. Sự chậm trễ trong cải
cách hành chính càng đặt ra yêu cầu bức thiết hơn cho việc tìm các hớng cải cách
hành chính. Công cuộc cải cách đang có dấu hiệu chững lại sau khoảng thời gian
phát triển mạnh. Làm thế nào để thúc đẩy tiến trình cải cách hành chính, nền hành
chính Việt Nam cần định hớng vận động theo mô hình nào rõ ràng là một vấn đề
lớn cần đợc nghiên cứu. Mặt khác, mô hình quản lý công mới đã khẳng định đợc
vai trò của mình song trong điều kiện thực tiễn của Việt Nam, mô hình này cần
đợc vận dụng nh thế nào cũng là câu hỏi cha có câu trả lời thoả đáng.
áp dụng quản lý công mới đã trở thành xu thế chủ đạo trong định hớng đổi
mới hoạt động chính phủ của các quốc gia trên thế giới. Những thay đổi to lớn về
kinh tế - xã hội ở nớc ta trong năm qua, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế càng
đặt ra vấn đề đổi mới hoạt động quản lý nhà nớc, đổi mới hoạt động của chính phủ
và hệ thống hành chính để tiếp tục duy trì và thúc đẩy sự phát triển. Những thành
tựu của việc áp dụng quản lý công mới ở nhiều quốc gia trên thế giới cho thấy việc
áp dụng mô hình này có thể đợc xem là một định hớng cho việc đổi mới nền
hành chính nớc ta.
Tr

ớc những yêu cầu của quá trình hội nhập, yêu cầu phát triển bền vững, việc
nghiên cứu mô hình quản lý công mới một cách hệ thống, toàn diện, lựa chọn, xác
định đợc bớc đi lộ trình áp dụng vào điều kiện thực tiễn của Việt Nam có ý nghĩa
quan trọng và cấp thiết cả trên phơng diện lý luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Quản lý công đã đợc nghiên cứu bắt đầu từ những năm 70 của thế kỷ XX với
tác phẩm The Administrative process in Britain của Brown đã đặt ra hàng loạt vấn

3
đề cải cách công vụ, tổ chức chính quyền trung ơng và địa phơng, vấn đề tổ chức
bộ máy chính phủ và vấn đề quản lý Brown đặt ra vấn đề chế độ công vụ cần
chuyển hớng từ truyền thống do áp lực từ đời sống thực tiễn. Công trình nghiên
cứu Market and Hierarchies của Williamson với quan niệm nền hành chính công
cần đợc áp dụng các yếu tố thị trờng để tạo ra sự cạnh tranh, khắc phục căn bệnh
quan liêu của sự phân tầng hành chính. Nghiên cứu này đã tạo ra làn sóng tranh
luận về hành chính công và dẫn đến sự hình thành học thuyết về quản lý công. Đó
là một mô hình quản lý mới với nội dung cơ bản là mô hình hậu th lại
(postbureaucratic) mang tính chiến lợc nhằm hớng đến kết quả thiết thực, dựa
trên phong cách lãnh đạo hành pháp thiết thực và phân quyền mạnh, hớng theo
khách hàng với tinh thần kinh doanh và làm xúc tác cho khu vực công và t cùng tự
nguyện tham gia hợp tác, giải quyết các nhu cầu của cộng đồng. Quản lý công mới
gắn với quan niệm sáng tạo lại chính phủ để đáp ứng tình hình kinh tế - xã hội
đầy biến động, cạnh tranh, bùng nổ thông tin và ngời dân trở thành khách hàng
có quyền lựa chọn và đòi hỏi dịch vụ công có chất lợng cao (Sáng tạo lại Chính
phủ (Reinventing government) của David Osborn và Ted Gaebler, 1992).
Mô hình quản lý công từng bớc đợc nghiên cứu và áp dụng ở các quốc gia
trên thế giới. Tuy nhiên, những nghiên cứu về mô hình quản lý công mới ở Việt
Nam lại cha đợc nghiên cứu một cách có hệ thống và toàn diện.
Các công trình nghiên cứu của các tác giả nớc ngoài về công vụ, công chức
trong thời gian gần đây nh: "Civil Service Systems in Asia" của Burns, John P,

Bowornwathana, Bidthya, NXB Edward Elgar, 2001, trong đó giới thiệu, so sánh hệ
thống công vụ của một số nớc châu á, và thực tiễn cải cách công vụ ở các nớc
châu á; "Civil Service Reform"
, của Constance Horner, Patricia W. Ingraham,
Ronald P. Sanders, NXB Brookings Inst Pr, 1996, đề cập đến các xu hớng cải cách
công vụ, trong đó chủ yếu là ứng dụng những thành tựu của quản lý khu vực t vào
quản lý khu vực công; "Decentralizing the Civil Service" của A. Massey,
J.McMillian, P. Carmichael, R.A.WRhodes, Nxb McGraw Hill, 2003, đề cập đến
quá trình cải cách công vụ ở Anh; "Civil Service Reform in the States" của J.
Edward Kellough, Lloyd G.Nigro, Nxb, trong đó các tác giả đề cập đến quá trình
cải cách công vụ ở Mỹ những năm 1990 Nhìn chung, các công trình nghiên này

4
tập trung phân tích vào cơ sở lý luận và thực tiễn của quá trình cải cách công vụ,
các xu hớng cải cách công vụ, trong đó nhấn mạnh việc áp dụng các quy tắc của
quản lý khu vực t vào quản lý khu vực công, chuyển từ nền hành chính truyền
thống sang nền hành chính phát triển
Báo cáo Giải phóng tiềm năng con ngời cho hành chính công, (Báo cáo
quốc tế về hành chính công năm 2005) của Liên hợp quốc về khu vực công) đã đa
ra ba mô hình công vụ tơng đối phổ biến trên thế giới hiện nay là hành chính
công (public administration), quản lý công (public management) và chính phủ
đáp ứng (responsive government). Mô hình quản lý công vẫn đợc xem là một
định hớng đổi mới quan trọng cho các nền hành chính. Với các quốc gia đang
phát triển có nền hành chính còn mang những dấu ấn của hành chính công truyền
thống nên áp dụng những chuẩn mực của quản lý công mới để tạo ra sự chuyển
biến mới trong các hoạt động công vụ.
Cuốn sách Phục vụ và duy trì: Cải thiện hành chính công trong một thế giới
cạnh tranh của S. Chiavo-Campo và P.S.A. Sudaram là một công trình nghiên cứu
khá toàn diện các nội dung có liên quan đến quản lý công mới. Các tác giả đã chỉ
rõ bối cảnh hành chính công thế kỷ XXI với sự tác động của toàn cầu hóa, phi tập

trung hóa tạo ra sức ép cho chính quyền trung ơng, quản trị tốt với bốn trụ cột:
trách nhiệm giải trình, tính minh bạch, tính dự đoán đợc và sự tham gia. Nền hành
chính công cần phải chuyển mình theo hớng quản lý công hớng đến hiệu quả và
trách nhiệm. Những quốc gia đang phát triển muốn tạo ra sự đột phá cần về kinh tế
- xã hội cần phải bắt nhịp với hành chính công phát triển, tạo ra cuộc cách mạng
trong quản lý nhà nớc. Trong điều kiện thực tế của Việt Nam, nghiên cứu của các
tác giả là những gợi ý có tính khả thi nh vấn đề đẩy mạnh phân cấp, tăng quyền
cho chính quyền địa phơng.
Những năm gần đây, ở nớc ta đã có các công trình nghiên cứu trong nớc có
liên quan về cải cách hành chính với định hớng đổi mới nền công vụ.
Hội thảo quốc tế về kinh tế và quản lý công do Trờng Đại học Kinh tế Quốc
dân phối hợp với Hiệp hội lý thuyết kinh tế công quốc tế tổ chức từ ngày 31 tháng 7
đến ngày 2 tháng 8 năm 2006 với sự tham gia của các nhà kinh tế nổi tiếng của
Việt Nam và thế giới đã phân tích nhiều khía cạnh của vấn đề quản lý công và kinh

5
tế công. Tuy nhiên, góc độ quản lý công trong hội thảo này đợc nhìn nhận tơng
đối khác so với quan niệm về quản lý công mới khi hội thảo chủ yếu tập trung nhìn
nhận vấn đề quản lý của chủ thể là nhà nớc với các vấn đề nh quản lý công sản,
quản lý đất đai, tài nguyên, môi trờng. Quan niệm này có sự khác biệt cơ bản với
vấn đề quản lý công mới mà chúng ta đề cập ở đây. Bởi lẽ, quản lý công mới trong
khoa học hành chính chính là một giai đoạn phát triển mới của hành chính công.
Đó là sự thay đổi về chất trong cách thức nhà nớc thực hiện các hoạt động quản lý
nhà nớc với các đặc trng cơ bản: Hiệu quả hoạt động quản lý; phi quy chế hoá,
phân quyền; áp dụng các yếu tố của thị trờng, đội ngũ công chức gắn bó với chính
trị, với Chính phủ, Nhà nớc và nền hành chính nhà nớc; t nhân hoá một phần
hoạt động của nhà nớc trên cơ sở thực hiện các mục tiêu và pháp luật nhà nớc
đặc biệt là dịch vụ công. Chính phủ mang tinh thần kinh doanh, sáng tạo lại
chính phủ chính là những định hớng của quản lý công mới. Cách tiếp cận của
hội thảo này chỉ phần nào phản ánh khía cạnh quản lý công mới ở góc độ đa các

yếu tố của thị trờng vào hoạt động quản lý của nhà nớc (quản lý công).
Kỷ yếu Hội thảo quốc tế: Cải cách hành chính ở Việt Nam - Các u tiên giai
đoạn 2006-2010 đợc tổ chức trong hai ngày 24 và 25 tháng 11 năm 2007 tại Hà
Nội. Các tham luận đã phân tích tác động của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế
đến nền hành chính Việt Nam, và định hớng đổi mới là cần phải nâng cao tính
minh bạch, trách nhiệm giải trình, dân chủ hoá và đẩy mạnh quá trình phân cấp
quản lý. Đó cũng chính là những yếu tố quan trọng của quản lý công mới có thể áp
dụng vào Việt Nam.
Có thể nói, những công trình nghiên cứu về quản lý công mới ở Việt Nam cho
đến thời điểm này vẫn còn khá tản mạn, mới phản ánh đợc một hoặc một số khía
cạnh của mô hình quản lý công mới, những yếu tố của quản lý công mới ở Việt
Nam. Việc đánh giá những thành tựu, những hạn chế và chỉ ra những định hớng
đổi mới nền công vụ Việt Nam theo mô hình quản lý công mới vì vậy cần đ
ợc
nghiên cứu một cách đầy đủ và toàn diện hơn, để góp phần thúc đẩy tiến trình cải
cách hành chính ở Việt Nam.

6
3. Mục tiêu của đề tài
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là hệ thống hoá đợc quan niệm quản lý công
mới, đánh giá những tiềm năng, triển vọng áp dụng vào nền hành chính của Việt
Nam, đánh giá thực trạng những yếu tố quản lý công mới xuất hiện trong nền công
vụ của nớc ta, xác định những định hớng, giải pháp để thúc đẩy mô hình quản lý
công mới ở Việt Nam phát triển.
4. Đối tợng và phạm vi nghiên cứu
+ Đối tợng nghiên cứu: Nội dung lý thuyết quản lý công mới và các mô hình
áp dụng quản lý công mới của một số quốc gia trên thế giới;
+ Phạm vi nghiên cứu:
- Các nội dung quản lý công mới từ những 80 trở lại đây;
- Đánh giá cải cách hành chính ở Việt Nam từ giai đoạn thực hiện Chơng

trình Tổng thể cải cách hành chính (2001 - 2010).
5. Nội dung nghiên cứu
Nội dung nghiên cứu của đề tài hớng đến việc thực hiện các mục tiêu nghiên
cứu. Theo đó, nội dung nghiên cứu sẽ tập trung vào các vấn đề cơ bản sau đây:
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về quản lý công mới, chỉ ra những đặc trng
nguyên tắc của mô hình quản lý công mới;
- Nghiên cứu về những thành tựu trong áp dụng mô hình quản lý công mới ở
các quốc gia trên trờng hợp những quốc gia áp dụng mô hình quản lý công mới
thành công trên thế giới nh Hoa Kỳ, Anh, Nhật Bản từ đó cho thấy những u
thế của mô hình này đối với cải cách nền công vụ và triển vọng áp dụng vào nền
hành chính Việt Nam;
- Đánh giá khái quát về nền công vụ Việt Nam trong những năm qua và yêu
cầu đổi mới, hoàn thiện;
- Phân tích những yếu tố quản lý công mới đang đợc áp dụng trong nền công
vụ của Việt Nam, đánh giá những thành công và những hạn chế;
- Tìm ra những giải pháp để ứng dụng quản lý công mới vào nền hành chính
Việt Nam.
Nội dung nghiên cứu đợc thể hiện thành đề cơng chi tiết dới đây:
Chơng 1 - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về quản lý công mới

7
Chơng 2 - Các định hớng và giải pháp ứng dụng quản lý công mới vào
nền hành chính Việt nam trong giai đoạn hiện nay
5. Phơng pháp nghiên cứu
+ Phơng pháp luận: Phơng pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, quan
điểm thực tiễn.
+ Các phơng pháp đợc tác giả sử dụng trong đề tài gồm:
- Phơng pháp lịch sử: Nghiên cứu các mô hình hành chính công qua các giai
đoạn, đánh giá giá trị, vai trò của mỗi mô hình, đặc biệt là mô hình quản lý công
mới; Đánh giá về hiệu quả áp dụng mô hình quản lý công mới ở Việt Nam qua các

giai đoạn, trớc và sau khi áp dụng;
- Phơng pháp phân tích tài liệu: Tìm hiểu các nghiên cứu đã có về mô hình
quản lý công mới ở Việt Nam, đánh giá các quan điểm của các tác giả, những điểm
hợp lý và cha hợp lý từ đó đa ra các kiến giải theo cách tiếp cận của nhóm
nghiên cứu;
- Phơng pháp điều tra xã hội học: Thu thập các dữ liệu về kết quả áp dụng
một số yếu tố mang tính chất quản lý công mới; thu thập quan điểm, đánh giá của
cán bộ, công chức về hiện trạng, triển vọng áp dụng mô hình quản lý công mới ở
Việt Nam.
6. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
Đề tài nghiên cứu nếu đợc triển khai sẽ có ý nghĩa lớn về mặt lý luận và thực
tiễn.
+ Về ý nghĩa lý luận:
- Đề tài sẽ góp phần vào lý luận hành chính công về quản lý công mới qua
thực tiễn của Việt Nam, chỉ ra đợc những nhân tố tác động đến thành công hay
hạn chế của việc áp dụng mô hình quản lý công mới.
+ Về ý nghĩa thực tiễn:
- Đề tài đa ra những giải pháp thúc đẩy tiến trình cải cách hành chính ở Việt
Nam theo mô hình quản lý công mới.

8
Chơng 1
MộT Số VấN Đề Lý LUậN Và THựC TIễN Về QUảN Lý CÔNG MớI
1.1. Nhận thức chung về quản lý công mới
Trong hơn hai thập kỷ vừa qua, cải cách theo Quản lý công mới (New Public
Management), chủ nghĩa quản lý mới (Hood, 1991; Dunleavy và Hood, 1994;
Pollitt, 1993; Ferlie, 1996) đã đợc áp dụng ở các nớc phát triển, các nớc chuyển
đổi và các nớc đang phát triển khi mà vai trò và đặc trng thể chế của nhà nớc và
khu vực công ngày càng chịu áp lực mạnh mẽ hơn từ thị trờng và tác động của
khu vực t. Nhìn lại lịch sử quá trình hình thành và phát triển của quản lý công mới

có thể thấy quản lý công mới ra đời là một nỗ lực cải cách để đáp ứng tốt hơn
những yêu cầu của công dân trong bối cảnh mô hình hành chính công truyền thống
đang đối mặt với không ít những thách thức về bài toán hiệu quả. ở các nớc phát
triển nh Anh, Canada, Australia, sự khủng hoảng của nhà nớc phúc lợi theo lý
thuyết của Keynes càng thúc đẩy nỗ lực tìm kiếm các giải pháp để tổ chức, quản lý
khu vực công và định nghĩa lại vai trò của nhà nớc đối với thị trờng, khu vực t
nhân và xã hội. Cuộc khủng hoảng kinh tế và tài chính vào thập niên 70, thập niên
80 đã đặt ra những câu hỏi lớn về quy mô, chức năng của nhà nớc và tính hợp lý
của hành chính truyền thống theo mô hình bureaucracy của Marx Webber. Các
cuộc cải cách lớn trong khu vực công đã diễn ra. Tác động của các cuộc cải cách
này không chỉ là những thay đổi đơn thuần mà quan trọng hơn là sự thay đổi trong
nhận thức của xã hội về vai trò của khu vực công và cách thức điều hành. Cách tiếp
cận hớng đến quả đầu ra, hiệu quả quản lý, phân cấp, phân quyền, áp dụng các
yếu tố thị trờng vào nền hành chính trở thành xu thế lớn của các nớc phát triển.
Sự dịch chuyển từ mô hình hành chính công truyền thống sang quản lý công mới
từng bớc đợc định hình và đem lại những thành quả tích cực trong quản lý.
Một cuộc khảo sát do tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế OECD đã kết luận
rằng áp dụng quản lý công mới thực sự đem đến những thay đổi lớn trong quản lý
khu vực công, thay đổi về quản trị, môi trờng kinh tế và thể chế (OECD, 2003).
Quản lý công mới hớng đến những giá trị mới thích hợp trong bối cảnh thị trờng
hóa và toàn cầu hóa. Báo cáo nghiên cứu này khẳng định: Quản lý công mới sẽ
dần trở thành lý thuyết của cải cách nhà nớc trong thế kỷ XXI [26, tr.121].

9
1.1.1. Quan niệm về quản lý công mới
Lý thuyết quản lý công mới là sự tập hợp của nhiều học thuyết về hành chính
và điều quan trọng là nó không đợc bổ sung và phát triển theo thời gian. Thực tế,
quản lý công mới bao quát hầu hết các vấn đề về cơ cấu tổ chức, sự thay đổi về
quản lý, quản lý nhân sự, các định hớng giá trị của nền công vụ Chính vì vậy,
các quan niệm về quản lý công mới tiếp cận thuật ngữ này từ những góc độ khác

nhau. Quản lý công mới đợc định nghĩa khái quát nh một tầm nhìn, một học
thuyết, một tập hợp các kỹ thuật quản lý đợc chuyển hóa từ khu vực t nhân vào
khu vực công [17, tr. 3]. Nói cách khác, quản lý công mới đợc xem nh phần cốt
yếu của t tởng quản lý hay học thuyết quản lý dựa trên những ý tởng đợc hình
thành từ khu vực t nhân và đợc đem áp dụng vào khu vực công (Hood, 1991,
1995). Tuy nhiên, lý thuyết quản lý công mới có nội dung cụ thể và toàn diện hơn.
Nh Hood sau này khẳng định, hai định hớng lớn của quản lý công mới là sự kết
hợp của hai dòng t tởng định hớng thị trờng, quản lý theo mô hình hiệu quả
trong khu vực công và sự kế thừa của khoa học quản lý truyền thống. Quản lý
công mới chính là một lý thuyết về hành chính dựa trên ý tởng về chuyên nghiệp
hóa hoạt động quản lý hành chính với sự phân quyền hợp lý hớng đến kết quả đầu
ra thông qua sự phát triển các định hớng giá trị công vụ và các tiêu chuẩn đánh giá
kết quả hoạt động của tổ chức công [18, tr. 104].
Nghiên cứu về quan niệm, định nghĩa về quản lý công mới của các học giả
trên thế giới về lĩnh vực này cho thấy cách tiếp cận về quản lý công mới không
hoàn toàn đồng nhất. Định nghĩa về quản lý công mới của Hood cha khắc họa vấn
đề quyền của khách hàng (công dân) một cách rõ ràng. Hiến chơng về công dân
đã khẳng định tầm quan trọng của công dân - khách hàng trong quan hệ với nhà
nớc và sự chuyển biến từ công dân thành khách hàng của nền hành chính trở thành
điểm đặc trng quan trọng của quản lý công mới. Cách tiếp cận của Osborne và
Gaebler có sự khác biệt quan trọng trong việc nhấn mạnh từ cách tiếp cận khái quát
quản lý công, đặc biệt là từ hệ t tởng chính trị liên quan mật thiết đến các nội
dung của quản lý công mới. Tuy nhiên, bên cạnh những khác biệt này nhng
chúng ta có thể tìm ra những điểm gặp nhau quan trọng trong quan niệm của các

10
học giả. Điều này có đợc thể hiện qua bảng tóm tắt các quan niệm về quản lý
công mới của các tác giả hàng đầu trong lĩnh vực này.
Hood, 1991;
Dunleavy và

Hood, 1994
Pollitt, 1993 và
1994
Ferlie 1995 Borins, 1994;
Khối thịnh
vợng 1996
Osborne và
Gaebler 1992
Quản lý chuyên
nghiệp năng
động, chính phủ
trung ơng và địa
phơng làm tốt
nhiệm vai trò của
mình
Phân quyền
quản lý trong
lĩnh vực dịch vụ
công
Phân quyền;
phân loại tổ
chức hành
chính nhà nớc;
các hình thức tổ
chức quản trị
Mở rộng
quyền tự quản
của địa
phơng, giảm
sự kiểm soát

của các cơ
quan trung
ơng
Phân quyền
quản lý thúc đẩy
sự năng động
trong quản lý,
giảm bớt các
tầng nấc trung
gian
Thay đổi để giảm
bớt sự tập trung
bằng các hình
thức tơng tự hợp
đồng hoặc tơng
tự thị trờng
Giảm sự tập
trung quyền lực
trớc đây mà
thay vào đó là sự
phân công, phân
quyền cho các
cơ quan ở trung
ơng và địa
phơng
Xác định vai trò
quản lý chiến
lợc và các hoạt
động quản lý cụ
thể

Chính phủ thúc
đẩy: định hớng
chứ không phải
trực tiếp thực
hiện (lái thuyền
chứ không chèo
thuyền)
Thúc đẩy cạnh
tranh trong khu
vực công, áp
dụng quan hệ hợp
đồng hành chính,
hợp đồng công vụ
trong khu vực
công; mở rộng
nhà cung cấp để
tăng sự cạnh
tranh
áp dụng cơ chế
thị trờng để
thúc đẩy sự cạnh
tranh
Chi tiết hóa và
áp dụng các yếu
tố của cơ chế
thị trờng để
phân phối các
nguồn lực trong
khu vực công
Tiếp nhận các

phơng thức
thúc đẩy cạnh
tranh vào khu
vực công
Cạnh tranh trong
khu vực công,
cạnh tranh trong
nội bộ và cạnh
tranh với các
chủ thể cung
ứng dịch vụ
công khác
áp dụng các kinh
nghiệm quản lý
trong khu vực t
nhân
Xác định cụ thể
vai trò của ngời
cung ứng và
ngời tiếp nhận
dịch vụ công
Phân biệt rõ
nguồn lực công
và các quy định
về dịch vụ công
Hợp tác công
t trong thực
thi các nhiệm
vụ của khu
vực công

Thực hiện theo
các nhiệm vụ,
trách nhiệm ủy
thác

11
(ngời đợc thụ
hởng)
Nhấn mạnh vào
kết quả đầu ra
Nhấn mạnh vào
chất lợng, đáp
ứng nhu cầu của
công dân (khách
hàng)
Nhấn mạnh vào
khả năng đáp
ứng của nhà
cung ứng dịch
vụ công trong
đó vấn đề cơ
bản là chất
lợng
Cung ứng dịch
vụ công có
chất lợng;
công dân đợc
xem là khách
hàng của nhà
nớc

Định hớng
khách hàng
Các tiêu chuẩn rõ
ràng và đánh giá
hiệu quả
Mục tiêu hiệu
quả thực hiện
Các phơng
pháp minh bạch
hơn để đánh giá
hiệu quả
Các tổ chức và
công dân đánh
giá mức độ đạt
đợc mục tiêu,
kết quả hoạt
động của hệ
thống công vụ
Chính phủ định
hớng kết quả
đầu ra; ngân
sách đầu t theo
kết quả đầu ra
thay vì yếu tố
đầu vào
Nhấn mạnh vào
tính kỹ thuật và
hiệu quả sử dụng
nguồn lực công;
điều chỉnh lại các

tiêu chuẩn định
mức ngân sách
cho minh bạch
Ngân sách bố trí
hợp lý
Nhấn mạnh
hiệu quả sử
dụng nguồn lực
và các kết quả
đạt đợc
Bảo đảm sử
dụng các
nguồn nhân
lực và các
nguồn lực
khác hớng
đến mục tiêu
hiệu quả
Chính phủ mang
tinh thần doanh
nghiệp: tạo ra
nguồn thu chứ
không phải là
chi phí
Thay đổi các
mối quan hệ
trong công vụ
Giảm quy mô
của hệ thống
các cơ quan

hành chính
Chính phủ định
hớng thị
trờng: thay đổi
tác động đòn
bẩy thông qua
thị trờng
Giảm bớt các
quy định, thủ
tục nặng nề
Chính phủ dự
báo, phòng tránh
hơn là đối phó

Để có sự hình dung cụ thể hơn về định hớng cải cách khu vực công theo
quản lý công mới, chúng ta có thể sơ đồ hóa quá trình chuyển hóa từ hành chính
công truyền thống sang quản lý công mới.

12














+ Lý thuyết sự lựa chọn công:
- Là lý thuyết kinh tế mới trong chính trị và hành chính;
- Trong nền kinh tế thị trờng sản xuất hàng hóa do quy luật cung cầu quyết
định. Với hàng hóa công quy luật này bị phá vỡ, các quy luật chính trị chi phối.
Muốn cho việc cung cấp hàng hóa và dịch vụ công tốt hơn, đánh giá lại vai trò của
nhà nớc, cần đa đến sự phát triển trở lại của thị trờng trong khu vực công.
- Cải cách môi trờng hành chính:
Công dân = khách hàng (Nền hành chính không phải là cai trị mà là phục vụ).
Mở rộng cạnh tranh (giữa nhà nớc và t nhân).
Hợp tác với bên ngoài
Tăng khả năng lựa chọn của ngời sử dụng dịch vụ.
Phải đa yếu tố thị trờng vào khu vực công.
- Chủ nghĩa quản lý:
Xét từ giác độ hoạt động Hành chính công (Nhà nớc) và Hành chính t
nhân (Doanh nghiệp) có những tiêu chí giống nhau có thể áp dụng các biện pháp
quản lý giống nhau.
Quản lý trong khu vực t có hiệu quả hơn khu vực công.
Mô hình chính công truyền thống
Mô hình quản lý công mới
Thay đổi về nhận thức về vai trò của nhà
nớc và cách thức sử dụng nguồn lực
Cải cách về môi trờng
hành chính (Bên ngoài)

Cải cách trong nội bộ nền
hành chính (Bên trong)
Chủ nghĩa quản lý
(Managerialism).


Lý thuyết: Sự lựa chọn
công
(Public choice theory)


13
Khu vực công học tập khu vực t. Vận dụng nhiều hơn nữa các công cụ quản
lý của khu vực t vào Hành chính công.
- Cải cách nội bộ nền hành chính:
Cải cách về hệ thống thể chế.
Cải cách về tổ chức hành chính.
Cải cách về nhân sự.
Cải cách về tài chính.
Từ những phân tích trên, theo chúng tôi: Quản lý công mới với ý nghĩa là lý
thuyết về mô hình hành chính công theo các tiêu chí hiện đại, chủ động, năng động,
nhạy bén, thích nghi cao nhằm đáp ứng các yêu cầu quản lý và dịch vụ tối đa trong
các điều kiện kinh tế thị truờng phát triển mạnh mẽ và những quan hệ quốc tế ngày
càng phụ thuộc chặt chẽ lẫn nhau.
1.1.2. Các đặc trng của quản lý công mới
1.1.2.1. Hiệu quả hoạt động quản lý
Trong mô hình mới, vai trò của khoa học quản lý và các nhà quản lý nhất là
các nhà quản lý theo lối quản trị doanh nghiệp đợc đề cao và chính nó là yếu tố
quyết định việc đạt đợc mục tiêu của quản lý. Nếu nh trong nền hành chính
truyền thống, các nhà hành chính chủ yếu là làm nhiệm vụ thi hành mệnh lệnh và
làm theo các quy tắc có sẵn thì ngày nay với t cách là nhà quản lý, họ phải tính
toán, dự đoán, sáng tạo, năng động để đạt đợc mục tiêu. Vì mục tiêu phải đạt là
hiệu quả của hoạt động quản lý, các nhà hành chính bên cạnh việc quan tâm đến
chu trình, phơng pháp mà còn quan tâm đến mục đích có đạt đợc hay không, cụ
thể là hiệu quả đợc lợng hóa, đánh giá bằng các chỉ tiêu đánh giá dựa trên so

sánh kết quả/chi phí.
1.1.2.2. Phi quy chế hóa
Cách tiếp cận quản lý công mới không đòi hỏi những quy định chặt chẽ nh
một mạng lới dày đặc trong nền hành chính công truyền thống yêu cầu công chức
phải tuân thủ một cách cứng nhắc và nghiêm ngặt mà thay vào đó là cơ chế mềm
dẻo, linh hoạt hơn, dễ thích nghi với tình hình kinh tế, chính trị, xã hội mới. Ngời
công chức không nhất thiết phải làm công ăn lơng suốt đời mà họ có thể làm hợp
đồng toàn phần hoặc nửa thời gian, miễn là họ phải đạt đợc mục tiêu của tổ chức

14
đặt ra khi làm việc. Ngời công dân không còn là ngời thụ động cầu xin dịch vụ
của Nhà nớc mà trở thành các khách hàng sử dụng dịch vụ, có quyền đợc đòi hỏi
phục vụ.
Phi quy chế hóa đợc thực hiện bằng cách đơn giản hóa các thể chế, các quy
định, thủ tục của chính phủ vì chúng đã trở nên quá nặng nề, phức tạp đễn nỗi
ngời dân không hiểu nổi và thậm chí cả các cơ quan hành chính nhà nớc cũng
khó áp dụng.Từ đó, đặt ra yêu cầu phải cải cách thể chế theo hớng: Đơn giản hóa
các thủ tục hành chính để giải quyết các vấn đề hành chính nhanh hơn và đỡ tốn
kém hơn; Một hệ thống lập quy ít phức tạp tạo ra một chế độ công vụ đa dạng hơn,
tạo điều kiện cho các cấp địa phơng phát huy sáng kiến và phát triển các dịch vụ
theo yêu cầu cá nhân. Nhng đồng thời nó cũng có mặt trái là dẫn đến những đối
xử khác nhau giữa các công dân, tạo ra nguy cơ phân phối không đồng đều các loại
hình dịch vụ trong dân chúng và giữa các vùng miền khác nhau; Một hệ thống
chính sách bao gồm các quy định đơn giản hơn và với số lợng ít hơn sẽ tăng tự do
cá nhân cho công dân, thúc đẩy sự phát triển kinh tế cho các công ty. Nhất là với
các công ty kinh doanh, việc đơn giản hóa các thủ tục rờm rà là giúp tăng tính
cạnh tranh của họ.
1.1.2.3. Phi tập trung hóa
Vấn đề này đợc thể hiện dới những hình thức khác nhau, ở những mức độ
khác nhau nhng xu hớng chung là chính phủ trung ơng phân giao quyền hạn,

trách nhiệm, thẩm quyền nhiều hơn cho các đơn vị chính quyền địa phơng (phân
quyền lãnh thổ) hay cho các bộ và các đơn vị tổ chức bên dới (phân quyền chức
năng) trong việc chủ động quản lý các nguồn lực đợc phân bổ trong phạm vi thẩm
quyền, đồng thời đề cao mối quan hệ giữa chính phủ với các bộ phận hoạch định
chính sách, giữa cấp hoạch định chính sách với cấp thi hành. Sự độc lập ngày
càng cao giữa chính phủ và các cấp chính quyền địa phơng trở thành pháp nhân
công quyền đi liền với sự củng cố mạnh mẽ vai trò trung tâm của chính phủ và thủ
tớng tạo ra những chính sách và ph
ơng pháp quản lý năng động, thích ứng với
môi trờng luôn luôn biến động.
Phân quyền trong cải cách hành chính nhằm đạt đợc năm mục đích sau:

15
- Tăng cờng hoạch định chính sách ở cấp hành chính trung ơng bằng cách
giảm bớt các hoạt động có tính chất tác nghiệp;
- Phát huy tính chủ động sáng tạo của chính quyền địa phơng làm cho nền
hành chính sát và phù hợp hơn với đặc điểm kinh tế - xã hội địa phơng;
- Phát triển dịch vụ đa dạng hơn theo hớng ngời tiêu dùng là khách quan;
làm cho dịch vụ công có hiệu quả cao;
- Phát triển nền dân chủ, tăng cờng sự tham gia của công dân trong nền hành
chính công;
- Thúc đẩy sự công bằng, trách nhiệm giải trình giúp cho công dân dễ dàng
giám sát hoạt động của các nhà chức trách.
1.1.2.4. áp dụng một số yếu tố của cơ chế thị trờng
áp dụng các yếu tố của cơ chế thị trờng nh cạnh tranh, đấu thầu, tính hiệu
quả, lợng hóa, so sánh kết quả/chi phí, công dân là khách hàng của nền hành
chính, làm cho nền hành chính trở nên năng động, đa dạng, phong phú, thoát khỏi
vỏ ốc quan liêu truyền thống của một bộ máy th lại cũ.
1.1.2.5. Gắn bó với chính trị, với chính phủ, nhà nớc và nền hành chính nhà
nớc

Đội ngũ cán bộ công chức hành chính, đặc biệt là các cán bộ quản lý cao cấp,
không phải là những ngời trung lập về chính trị, không còn hoàn toàn là chính trị
ra đi, hành chính ở lại. Họ tham dự vào quá trình xác lập đờng lối, chính sách.
Bản thân họ là những ngời đợc rèn luyện chính trị, tham gia công tác chính trị và
làm công tác chính trị và hành chính trong bộ máy hành pháp vào nền hành chính
nhà nớc và do đó có thể xem họ là chiếc cầu nối giữa quyền lực chính trị với nền
hành chính quốc gia.
1.1.2.6. T nhân hóa một phần các hoạt động của nhà nớc trên cơ sở thực
hiện đợc các mục tiêu và pháp luật nhà nớc, đặc biệt là các dịch vụ công
Xu hớng này bắt đầu tại Vơng quốc Anh từ khi bà Margaret Thatcher lên
nắm quyền vào năm 1979 và sau đó lan rộng ra nhiều quốc gia trên thế giới. T

nhân hóa không chỉ là con đờng nâng cao hiệu quả mà còn vì bản thân chính phủ
đã có quá nhiều chức năng, nếu không t nhân hóa thì không thể đáp ứng nhanh
chóng đợc các yêu cầu ngày càng tăng của công dân. Theo quan niệm của các nhà

16
nghiên cứu, t nhân hóa không chỉ đơn thuần là bán đi các tài sản của nhà nớc,
chuyển sở hữu công thành sở hữu t mà bao hàm rất nhiều hình thức, trong đó kể
cả các hình thức nh đấu thầu, làm hợp đồng phu, cho thuê hay cổ phần hóa các
doanh nghiệp và tập đoàn hóa các công ty để nâng cao tính cạnh tranh. Ngoài ra,
một ý nghĩa quan trọng khác của t nhân hóa là thu hút đợc đông đảo các thành
phần xã hội, nhất là khu vực t nhân, các công dân và các tổ chức phi chính phủ,
tham gia vào hoạt động của nền hành chính công. Trong một chừng mực nào đó t
nhân hóa có thể coi là một phần của xã hội hóa. Mức độ, phạm vi t nhân hóa và xã
hội hóa ở các nớc khác nhau, tùy thuộc vào hoàn cảnh của mỗi nớc và xu hớng
chính trị của đảng cầm quyền và chính phủ đơng thời.
1.1.2.7. Hành chính công không tách khỏi hành chính t và vận dụng nhiều
phơng pháp quản lý doanh nghiệp vào thực tiễn hoạt động của mình
Tuy phân biệt rõ và không biến hành chính công thành tổ chức quản lý t

nhân theo cơ chế thị trờng, song trong xã hội hiện đại và nền kinh tế thị trờng,
nền hành chính công có thể và đã vận dụng nhiều phơng pháp quản lý của các
doanh nghiệp t nhân (thuộc chức năng hành chính của quản lý mà Henry Fayol đã
nói), nhất là phơng pháp quản lý hiện đại. Đó cũng là đòi hỏi khách quan của hiệu
quả, chất lợng và sự linh hoạt trong đáp ứng các dịch vụ cho yêu cầu ngày càng
tăng của công dân cả về số lợng và chất lợng.
1.1.2.8. Xu hớng quốc tế hóa
Sự quốc tế hóa đời sống kinh tế - xã hội cũng ảnh hởng đến nền hành chính
công. Các nớc phải điều chỉnh nhiều quy định pháp luật theo pháp luật và thông lệ
quốc tế đối với các vấn đề mang tính toàn cầu, đặc biệt là những vấn đề xã hội. Nền
hành chính phát triển là nền hành chính h
ớng đến gánh vác những nghĩa vụ chung
của nhân loại. Nói cách khác, nền hành chính công trong quản lý công mới là nền
hành chính công mở, không chỉ quản lý tốt trong nớc mà còn hớng đến thực hiện
các trách nhiệm của quốc gia.
1.1.2.9. Hiện đại hóa nền hành chính
Quản lý công mới hớng đến việc áp dụng các công nghệ hiện đại vào quản
lý, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động, kịp thời đáp ứng các yêu cầu của công
dân và tổ chức. Các công nghệ áp dụng vào nền hành chính công không chỉ là các

17
phơng tiện khoa học kỹ thuật mà quan trọng hơn là các phơng pháp quản lý hiện
đại.
Để thấy rõ hơn những đặc trng của quản lý công mới so với hành chính công
truyền thống, chúng ta có thể so sánh hai mô hình lý thuyết này trên một số tiêu
chí.

Hành chính công truyền thống Quản lý công mới
Mục tiêu
- Bảo đảm đúng chu trình, đúng

quy tắc, thủ tục hành chính (yếu tố
đầu vào);
- Đánh giá việc quản lý hành
chính thông qua việc xem xét mức
độ thực thi các quy tắc, thủ tục
hành chính
- Bảo đảm kết quả tốt nhất, hiệu
quả cao nhất (đầu ra);
- Dùng các tiêu chí cụ thể để
đánh giá kết quả quản lý hành
chính
Đối với công
chức
- Trách nhiệm của ngời công
chức, nhà quản lý là giám sát việc
thực hiện và giải quyết công việc
theo quy chế, thủ tục;
- Những quy định, điều kiện để
công chức thực thi công vụ theo
một hệ thống thứ bậc rất chặt chẽ,
cứng nhắc theo quy định;
- Thời gian làm việc của công
chức đợc quy định chặt chẽ, có
thời gian công và thời gian t;
- Công chức mang tính trung lập,
không tham gia chính trị, thực
hiện một cách trung lập các chính
sách do các nhà chính trị đề ra
- Trách nhiệm của ngời công
chức, nhà quản lý chủ yếu là

bảo đảm thực hiện mục đích,
đạt kết quả tốt, hiệu quả cao;
- Những quy định, điều kiện để
công chức thực thi nhiệm vụ có
hình thức linh hoạt, mềm dẻo
hơn;
- Thời gian làm việc sẽ linh
hoạt, có thể suốt đời họ làm
việc, trong một thời gian nhất
định, có thể làm chính thức
hoặc hợp đồng;
- Công chức cam kết về mặt
chính trị cao hơn trong các hoạt
động của mình, trong các hoạt
động hành chính mang tính
chính trị nhiều hơn
Đối với Chính
phủ
- Công vụ đợc chính phủ thực
hiện, giải quyết theo quy định của
- Công vụ mang tính chất chính
trị nhiều hơn, ảnh hởng của

18
pháp luật;
- Chức năng của chính phủ nặng
về hành chính xã hội, trực tiếp
cung ứng các công việc công ích
xã hội;
- Chức năng của chính phủ thuần

túy mang tính chất hành chính
không trực tiếp liên hệ đến thị
trờng
chính trị ngày càng lớn trong
hành chính;
- Chức năng tham gia cung ứng
dịch vụ công ngày càng giảm
và thông qua việc xã hội hóa
các dịch vụ đó để quản lý xã
hội, nhng vẫn cần có sự quản
lý của chính quyền;
- Chức năng của Chính phủ đối
mặt với những thách thức của
thị trờng

1.1.3. Các nội dung cấu thành quản lý công mới
Quản lý công mới với ý nghĩa là lý thuyết về mô hình hành chính công theo
các tiêu chí hiện đại, chủ động, năng động, nhạy bén, thích nghi cao nhằm đáp ứng
các yêu cầu quản lý và dịch vụ tối đa trong các điều kiện kinh tế thị truờng phát
triển mạnh mẽ và những quan hệ quốc tế ngày càng phụ thuộc chặt chẽ lẫn nhau.
Quản lý công mới gắn liền với yếu tố quản lý (managerialism) và những yếu tố liên
quan đến thị trờng, sự cạnh tranh và kỹ thuật quản lý của khu vực t. Việc phân
định các yêu tố cấu thành quản lý công mới thực tế không đơn giản và các nhà
nghiên cứu có những hớng tiếp cận riêng và các yếu tố cấu thành quản lý công
mới đợc bổ sung theo tiến trình phát triển của lý thuyết này. Trên cơ sở khái quát
các nghiên cứu về quản lý công mới, chúng ta có thể chỉ ra những yếu tố cơ bản
nhất của quản lý công mới.
1.1.3.1. Tính chuyên nghiệp của các nhà quản lý và của nền hành chính
Yêu cầu về tính chuyên nghiệp của các nhà quản lý và rộng hơn của nền hành
chính là yếu tố quan trọng quan lý thuyết quản lý công mới. Thực ra tính chuyên

nghiệp của công chức đã đợc đề cập đến trong mô hình hành chính truyền thống.
Tuy nhiên, trong quản lý công mới, tính chuyên nghiệp này đợc thể hiện một cách
toàn diện hơn. Tính chuyên nghiệp của các nhà quản lý thể hiện ở năng lực xây
dựng, hoạch định chính sách, năng lực ra quyết định, năng lực tổ chức công việc
khoa học. Một hành chính chuyên nghiệp chính là một nền hành chính có những

19
quyết sách, hành động đúng với yêu cầu thực tiễn. Nền hành chính chuyên nghiệp
là nền hành chính định hớng phục vụ, phục vụ cho lợi ích công và cho quá trình
phát triển. Mặt khác, nền hành chính chuyên nghiệp sẽ tập trung hoàn thành những
nhiệm vụ đúng với vai trò của mình, ngời lái thuyền chứ không phải ngời chèo
thuyền.
1.1.3.2. Quan niệm về các giá trị cần hớng tới của một nền hành chính hiện
đại
Định hớng giá trị chung của nền công vụ có thể xem là một yếu tố quan
trọng trong tổ chức quản lý. Mô hình hành chính truyền thống, hành chính quan
liêu của Marx Webber dựa trên những giá trị cụ thể về hiệu lực, sự tuân thủ về thủ
tục thì quản lý công mới hớng tới những giá trị mới. Các giá trị mà quản lý công
mới hớng tới đợc khái quát ở các giá trị cơ bản: Tính hiệu quả, sự chuyên nghiệp
trong quản lý, kết quả đầu ra, chất lợng, định hớng phục vụ công dân - khách
hàng, quan hệ thị trờng, các cam kết về chất lơng dịch vụ Có thể nói hệ thống
những giá trị chung mà một nền hành chính hiện đại cần hớng tới là cơ sở để t
duy lại, nhận thức lại về tổ chức và hoạt động của các nền hành chính công trên thế
giới. Nỗ lực cải cách hành chính ở các quốc gia trên thế giới hiện nay thực tế cũng
đang hớng tới hiện thực hóa các giá trị mà quản lý công mới đã xác định, để
hớng tới một nền hành chính phục vụ, đáp ứng yêu cầu ngày càng đa dạng của
công dân và quan trọng là thúc đẩy sự phát triển của quốc gia trong bối cảnh toàn
cầu hóa.
1.1.3.3. Mô hình tổ chức quản lý phẳng hơn
Mô hình hành chính quan liêu với quá nhiều thứ bậc đã trở thành gánh nặng

cho quá trình hoạt động của nền hành chính. Bản thân các chính sách khi đợc xây
dựng và ban hành đã có những độ trễ nhất định về nhận thức, về thời gian triển khai
và sự vận động không ngừng của các yếu tố kinh tế - xã hội. Chính vì vậy, tháp
phân tầng quá cao của mô hình hành chính công truyền thống cần đợc thay đổi.
Với mục tiêu xây dựng một mô hình quản lý năng động, thích ứng với sự thay đổi
của nền kinh tế thị trờng và xu hớng quốc tế hóa, khu vực hóa, quản lý công mới
định hớng đến việc xây dựng tổ chức bộ máy hành chính công giảm bớt những
tầng nấc trung gian bằng việc cần phân công lại quyền lực giữa cấp trên và cấp

20
dới, giữa trung ơng và địa phơng. Việc giảm bớt các tầng nấc trung gian đợc
thực hiện bằng quá trình tổ chức lại thẩm quyền quản lý hành chính, xác định rõ
những thẩm quyền nào cần đợc trao cho cơ quan ở trung ơng và thẩm quyền nào
cần trao cho cơ quan ở địa phơng. T duy quản lý công mới chỉ rõ trung ơng chỉ
làm những vấn đề mang tính vĩ mô, chiến lợc liên quan đến những biến số lớn của
quốc gia còn chính quyền địa phơng cần thể hiện rõ năng lực thực hành, đa chính
sách vào thực tiễn.
1.1.3.4. Đánh giá hiệu quả thực thi và tiêu chuẩn thực thi công vụ
Từ góc độ khoa học quản lý, đánh giá là một mắt khâu của quá trình quản lý.
Peter Drucker - cha đẻ của quản lý học hiện đại đã khẳng định: Thiếu công tác
đánh giá hoặc công tác đánh giá không đợc thực hiện khoa học, hiệu quả sẽ khó
tìm ra đợc những giải pháp hiệu quả cho việc nâng cao chất lợng hoạt động;
Nếu bạn không đo đợc kết quả, bạn sẽ không thể chỉ ra thành công từ thất bại;
nếu bạn không thể nhận ra thành công, bạn không khen thởng đợc thành công;
nếu bạn không khen thởng thành công thì có thể bạn lại khuyến khích thất bại;
nếu bạn không nhận ra thành công, bạn không thể học hỏi từ thành công; nếu bạn
chỉ ra đợc kết quả, bạn có đợc sự ủng hộ của công chúng. Kết quả của quá trình
đánh giá là một bức tranh tổng thể giúp cho các cơ quan, tổ chức có thể xác định
đợc mức độ đạt đợc các yêu cầu chất lợng hoạt động và có cơ sở khoa học để
tìm ra các giải pháp nâng cao chất lợng hoạt động. Đánh giá hiệu quả thực thi và

tiêu chuẩn thực thi trong các nghiên cứu quản lý công mới đợc xây dựng vào
những năm 80 của thế kỷ XX.
Đánh giá hiệu quả thực thi và tiêu chuẩn thực thi công vụ là sự thể hiện tập
trung quan điểm về đánh giá kết quả đầu ra của nền công hành chính. Nếu hành
chính công truyền thống tập trung vào yếu tố đầu vào và quá trình thủ tục thì quản
lý công mới hớng tới đánh giá kết quả đầu ra. Việc đánh giá hiệu quả thực tế
không đơn giản nh quan niệm lợng hóa chi phí/kết quả bởi tính đa dạng của hoạt
động hành chính và mức độ ảnh hởng của các quyết định hành chính, hành vi
hành chính không thể dễ dàng tính toán bởi có thể những điều này có thể ảnh
hởng lâu dài. Chính vì vậy, quản lý công mới cho rằng cần phải đánh giá theo các
tiêu chí tĩnh và các tiêu chí động nghĩa là nhìn vấn đề dới góc độ phát triển. Các

21
tiêu chuẩn thực thi của nền công vụ đợc các nhà nghiên cứu xem xét một cách
toàn diện từ nhiều góc độ trong đó đặc biệt chú ý đến khía cạnh hiệu quả, sự hài
lòng của khách hàng (công dân, tổ chức) và tính không ngừng đổi mới, nâng cao
chất lợng của nền công vụ.
Đánh giá hiệu quả thực thi và tiêu chuẩn thực thi công vụ có nhiều ý nghĩa và
thực sự là bớc đột phá trong tổ chức nền hành chính công. Những quan niệm định
tính về chất lợng hoạt động của nền hành chính là cha đủ và không thể là công
cụ để kiểm soát hoạt động của các cơ quan hành chính. Thực tế sự khủng hoảng
của mô hình hành chính công truyền thống chính là ở chỗ do không đánh giá hiệu
quả thực thi và tiêu chuẩn thực thi công vụ nên để kiểm soát ngời ta có xu hớng
lập ra nhiều cơ quan giám sát, kiểm soát dẫn đến sự cồng kềnh và kém hiệu quả.
Việc xây dựng các tiêu chuẩn thực thi công vụ và đánh giá hiệu quả công vụ tạo ra
hiệu ứng tích cực đối với hoạt động của nền hành chính. Các tiêu chuẩn bản thân
nó là một cái đích để các cơ quan hành chính nhà nớc hớng tới ít nhất là đáp ứng
chuẩn hoặc cao hơn. Mặt khác, điều này có ý nghĩa quan trọng đó chính là cơ sở để
cơ quan cấp trên và các chủ thể giám sát, đánh giá về hoạt động của cơ quan hành
chính và nền hành chính. Những tiêu chuẩn này góp phần nâng cao trách nhiệm

giải trình của nền hành chính. Nền hành chính phải thể hiện những chi phí của
mình là hợp lý và đợc thể hiện bằng những kết quả tích cực. Ngời dân từ các tiêu
chuẩn công vụ có thể yêu cầu các cơ quan hành chính nhà nớc bảo đảm thực hiện
đúng chức trách, cam kết về chất lợng của mình.
1.1.3.5. Tiêu chuẩn hóa chất lợng dịch vụ công
Tính u việt của một xã hội đợc phản chiếu một cách rõ ràng qua chất lợng
cung ứng dịch vụ công, bởi vì dịch vụ công là những hoạt động phục vụ các lợi ích
tối cần thiết của xã hội, đảm bảo cho xã hội phát triển bền vững và có kỷ cơng,
trật tự. Mọi xã hội đều có những vấn đề chung, liên quan đến cuộc sống của tất cả
mọi ngời. Đó là các vấn đề nh trật tự trị an, phân hóa giàu nghèo, giáo dục, y tế,
dân số, môi trờng, tài nguyên, Để giải quyết thành công các vấn đề này, cần có
sự góp sức của cả nhà nớc, cộng đồng và các tổ chức xã hội thông qua việc cung
ứng các dịch vụ công. Nếu các dịch vụ công bị ngừng cung cấp hoặc cung cấp
không đầy đủ, chất lợng thấp thì sẽ dẫn đến những rối loạn trong xã hội, ảnh

22
hởng nghiêm trọng đến đời sống của mỗi ngời dân, đồng thời tác động tiêu cực
đến sự phát triển của mỗi quốc gia.
Nhìn chung, dịch vụ công trong quan niệm của quản lý công mới đáp ứng
những nhu cầu chung của xã hội về các lĩnh vực sau đây:
- Duy trì trật tự công cộng và an toàn xã hội nh quốc phòng, an ninh, ngoại
giao;
- Bảo vệ trật tự kinh tế, trật tự mua bán trên thị trờng thông qua việc xây
dựng và thực thi thể chế kinh tế thị trờng;
- Cung cấp các tiện ích công cộng cho toàn thể thành viên trong xã hội nh
bảo vệ sức khỏe, giáo dục đào tạo, giao thông công cộng, thông tin, th viện công
cộng ;
- Quản lý tài nguyên và tài sản công cộng nh: Quản lý tài sản nhà nớc, bảo
vệ môi trờng, tài nguyên thiên nhiên.
- Bảo vệ quyền công dân, quyền con ngời.

Đề cập sâu hơn tới tác dụng của việc cung ứng dịch vụ công, chúng ta có thể
lấy thí dụ trong lĩnh vực hành chính công. Hành chính công có liên quan đến mức
độ thoả mãn các nhu cầu công cộng của xã hội, liên quan đến tiến bộ kinh tế, xã
hội của một quốc gia. Tác dụng của hành chính công chủ yếu là tác dụng dẫn
đờng, tác dụng quản chế, tác dụng phục vụ và tác dụng giúp đỡ. Nói về tác dụng
quản chế, tức là nhà nớc phát huy năng lực quản lý công cộng mang tính quyền
uy, cỡng chế để xử lý, điều hòa các quan hệ xã hội và lợi ích xã hội, đảm bảo cho
xã hội vận hành tốt; còn về tác dụng giúp đỡ, đó chính là sự giúp đỡ của nhà nớc
đối với các địa phơng nghèo, những ngời có hoàn cảnh khó khăn, nh giúp đỡ
ngời nghèo, cứu tế xã hội, phúc lợi xã hội, bảo hiểm xã hội, y tế, Việc cung ứng
dịch vụ hành chính công còn có tác dụng trực tiếp đến sự phát triển kinh tế - xã hội
của đất nớc. Khi cung cấp các dịch vụ này, nhà nớc sử dụng quyền lực công để
tạo ra dịch vụ nh cấp các loại giấy phép, đăng ký, chứng thực, thị thực Tuy xét
về mặt hình thức, sản phẩm của các dịch vụ này có thể chỉ là các loại văn bản giấy
tờ, nh
ng chúng lại có tác dụng chi phối quan trọng đến các hoạt động kinh tế - xã
hội của đất nớc. Chẳng hạn, giấy đăng ký kinh doanh của doanh nghiệp thể hiện
việc nhà nớc công nhận doanh nghiệp đó ra đời và đi vào hoạt động, điều này dẫn

×